 |
06 tháng 9, 2009
|
Dẫn:
► Thư thắc mắc của Lê Minh Phương:
https://sachhiem.net/EMAILS/LeMinhPhuong.php
LTS: Sau đây là hồi đáp của độc giả gửi đền sachhiem.net. (SH)
I. Hồi đáp của bạn Ngô Bồng Lai:
Nhờ Sách Hiếm gửi thông tin cho bạn Lê Minh Phương về vụ Đầu độc Hà thành
1908
py Liên kết sau ở
wikepedia:
py Đặc biệt là loạt phóng sự của báo Tuổi trẻ:
II. Hồi đáp của bạn Hoàng Hoa Nhân Kiệt:
LTS: Tòa soạn xin phép bạn đọc về việc để
nguyên những từ ngữ nhiều xúc cảm trong thư dưới
đây. Một số tác giả có thể dùng những từ ngữ "nhẹ
nhàng" như "những người cộng tác với giặc ngoại
xâm", một số tác giả khác gọi những người đó là
"Việt gian" và đôi khi kèm theo loại từ "thằng Việt
gian" đều nói lên thái độ của xã hội quần chúng, lên án hay không lên án đối với những nhân vật trong quá khứ mà lịch sử đã chứng minh rõ ràng mà thôi. Trong xúc cảm dân tộc tính, thái độ kết án là "Việt gian," hay "thằng dắt Tây",... thật ra cũng rất thích hợp đối với những người (quan hay dân) giúp ngoại xâm để giết hại những nghĩa quân của ta. (SH)
Em Lê Minh Phương thân mến,
Tôi rất lấy làm xúc động khi đọc thư em gửi cho
ban biên tập Web SachHiem.net.
Tôi chỉ là một công nhân chỉ biết đọc biết viết đã
hơn 30 năm song lưu vong trên đất Hoa Kỳ. Tuy không phải là sử gia chuyên nghiệp
nhưng tôi nghĩ mình đã đang qua Lục thập nhi thuận nhĩ: sáu mươi tuổi nghe
hiểu rõ những điều của thế gian, nên cố gắng đem những điều mình biết được, và sưu tầm các tài liệu
để giúp các thế hệ sau thấy những sự thật của lịch sử bị nhiều thế lực chính trị che đậy bằng mọi cách.
Nói đến những giai đoạn "Hà Thành Đầu Độc", tôi sôi gan nóng mật nghĩ đến những sự thật
về bọn Việt gian dưới danh hiệu tôn giáo. Chúng ta cần phải đem ra ánh sáng những sự thật trong đó họ đã đánh phá dân tộc, giết hại đồng bào dã man như thế nào, điển hình rõ
ràng như những tên Trần bá Lộc, Trần Lục…thằng dắt Tây giết hại đồng bào, thằng
dẫn con chiên theo Tây phá chiến luỹ Ba Đình của cụ Đinh Công Tráng….Ngoài ra
còn những tên cũng dẫn Tây vào xâm chiếm đất nước đang được bọn đồ tử, đồ tôn của
chúng tôn vinh là những danh nhân văn hoá, người tiến bộ như đám Petrus Trương
vĩnh Ký, Nguyễn trường Tộ… Bây giờ lại còn có những người định chen tên gián điệp vô văn hoá Alexandre de Rhodes vào cảnh sinh hoạt ăn mừng Ngàn Năm Thăng Long bên cạnh các vị anh hùng dân tộc. Họ âm mưu tặng bức tượng ông này cho đại lễ, làm bẩn hình ảnh đẹp đẽ của Hà Nội. Họ là ai?
Riêng trong phạm vi vụ Hà Thành đầu độc, qua
những tài liệu tôi trích dẫn, em sẽ thấy tên Việt gian Cai Trương tiêu biểu cho
nnhững con chiên bán nước trong vụ Hà Thành đầu độc, đối nghịch với những
hình ảnh oai hùng của những người yêu nước như các ông ĐỘI BÌNH, ĐỘI CỐC, ĐỘI
NHÂN, HAI HIÊN, “thày tướng” NGUYỄN VĂN PHÚC tức Lang Sẹo, CAI TỐN, ĐỖ ĐẢM
v.v…đã VỊ QUỐC VONG THÂN vẫn sống mãi trong lòng dân tộc Việt, đặc biệt là nhân
dân Hà Nội.
Hy vọng chính quyền Hà Nội sẽ cải táng các vị anh hùng này và
lập đài tưởng niệm để ghi nhớ công lao của các vị. Nếu đã có đài tưởng niệm này
xin em giúp tôi thắp nén hương tới các cụ để tỏ lòng tri ân của một người con
sống xa đất nước đối với công lao của các cụ với dân tộc.
Tôi hy vọng những
trích dẫn của tôi cùng với những hình ảnh liên hệ từ những nguồn tài liệu sau đây sẽ giúp ta biết nhiều hơn về các vị tiền bối anh hùng trong vụ Hà Thành đầu độc.
- Cuốn Quân Sử III với tựa đề
Quân Dân Việt Nam chống Tây Xâm do phòng 5 Bộ tổng tham mưu Quân Lực Việt Nam
Cộng Hoà ấn hành năm 1971,
- Bách khoa toàn thư mở Wikipedia phần tiếng Việt,
- Báo
Hà Nội Mới online, và
- Báo Tuổi Trẻ online
Hoàng Hoa Nhân Kiệt
A. Phần trích dẫn từ Quyển Quân Sử III:
"Quân Dân Việt Nam chống Tây Xâm"
(do phòng 5 Bộ tổng tham mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà ấn hành năm 1971, từ trang 346 đến trang 349, và được cơ sở xuất bản Đại Nam số 551 West Arden Avenue, Glendale, California, USA in lại ngày 16 tháng 10 năm 1983)
4.- Vụ Hà – Thành đầu độc
Như chúng ta đã biết, sang đầu thế kỷ 20, sĩ
phu Việt-Nam đã chuyển hướng đấu tranhsang nhiều hình thức khác nhau và
mặc dâu phong trào Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục tan rã, nhưng các “hạt
nhân” của nó đã ăn sâu vào long nhân dân Vịêt-Nam….Cho nên sĩ phu
Việt-Nam đã “thua keo này bày keo khác”…và lần này nắm vào số binh lính
Việt-Nam trong hang ngũ Pháp.
Công tác tuyên truyền và vận động binh lính Việt-Nam trong hàng ngũ
Pháp
Mặc dầu đang “hợp tác”với Pháp (lần thứ hai 12-1897 – 1909) nhưng
lãnh tụ nghĩa quân Yên Thế Hoàng-Hoa-Thám vẫn bị mất liên lạc với một số
sĩ phu chủ trương bạo động, để trù tính một cuộc vùng dậy khác và đối
tượng là binh lính Việt-Nam trong hang ngũ Pháp.
Các sĩ phu một mặt viết sách, viết báo, làm thi ca, dạy học, diễn
thuyết một cách công khai hợp pháp, để hô hào bỏ cũ theo mới, kêu gọi
lòng yêu nước của nhân dân; mặt khác đội lốt các thầy bói, thầy tướng số
đến những nơi đông đảo như đền Kiếp Bạc, là nơi thờ Đức Trần Hưng Đạo,
đền Thành Gióng là nơi thờ Đức Phù Đổng Thiên Vương, đền Phủ Giầy là nơi
thờ Công Chúa Liễu Hạnh…để bói toán, cầu cơ v.v…., nhưng xen lồng việc
tuyên truyền, khêu gợi lòng ái quốc, thúc đẩy khởi nghĩa v.v…Tất nhiên
binh lính Việt Nam cũng bị phương sách này thu hút đông đảo.
Hà Nội là nơi mà các sĩ phu nhắm trước nhất….Tại Phố Cửa Nam có một
cửa hàng vừa bán cơm vừa cho trọ, khách hang ra vào tấp nập, đa số là
binh lính, cai, đội, bồi bếp….Ngoài ra còn có một số khách ở các nơi
lại…. Tất nhiên các “thầy tướng số” không thể không chiếu cố đến nơi này
và trải qua những cuộc “bói toán”, “đi lại”, các “thầy tướng số” đã trở
nên than mật với một số binh lính thuộc pháo đội công vụ, trung đoàn 4
pháo binh, như Đội Bình, Đội Nhân, Đội Cốc, Cai Ngà, Bếp Xuân, Bếp Nhiếp
v.v….Rồi từ chỗ thân mật, các “thầy tướng số” lại còn làm cho họ thấy sự
đối xử tàn tệ của bọn sĩ quan Pháp đối với họ, và sự chênh lệch quá đáng
về quyền lợi giữa một binh lính Pháp đồng cấp với binh lính Việt Nam…Vì
các uất hận chồng chất từ lâu, nay có người nhắc tới, nên nó có những
hiệu quả lạ lung và việc “nhập đảng” không còn bao xa nữa…
Sauk hi đã tổ chức xong các nhân vật nội ứng, nhiều cuộc họp bàn bí
mật được tổ chức tại nhà “thầy tướng” Nguyễn Văn Phúc tức Lang Sẹo ở phố
hang Buồm và một kế hoạch tổng quát sau đây được vạch ra:
“sẽ lợi dụng một dịp nào đó, có tiệc chiêu đãi của các sĩ quan và
binh lính Pháp, bỏ thuốc độc vào đồ ăn của chúng; sau khi chúng trúng
thuốc độc mê say rồi, thì sẽ khởi sự phân nhiệm như sau: cánh thứ nhất
khoảng 200 người tập trung tại khu Lò Lợn, để đánh vào khu Đồn Thuỷ(khu
nhượng điạ); cánh thứ hai ẩn náu dưới các thuyền gần nhà máy thuốc lá,
đánh vào cửa Bắc (thành); trong khi cánh thứ ba tập trung ở khu cột cờ
và được Nghĩa quân (rất nhiều) từ Sơn Tây về yểm trợ , đánh vào cửa Tây
– Các chi tiết có thể thay đổi theo tình hình”.
Cuộc binh biến đáng lẽ đã nổ ra ngày 15-11-1907, nhưng vì các nội
ứng, vào giờ chót đã xin hoãn, nại cớ chưa có đủ đạn, mặc dầu Nghĩa quân
đã đến địa điểm chỉ định và ẩn núp trong các nhà dân để chờ súng hiệu là
tiền quân….Đến 21 giờ, là giờ ấn định, không thấy gì lại phân tán….
Lần thứ hai định vào ngày 16-5-1908 nhưng một trong các nội ứng thuộc
pháo đội công vụ xin hoãn vì “điềm không thuận lợi”…..
Lần thứ ba : Vào hạ tuần tháng 6 năm 1908 vụ rối loạn ở Trung Kỳ chưa
dứt hẳn thì Pháp lại điên đầu về vụ binh biến ở Hà Nội…
Ngày 24-6-1908, Thiếu Tướng DE NAYS-CANDAU, chỉ huy trưởng pháo binh
Đông Dương, nhận được một thơ nặc danh của một tên Việt gian nói rằng
đang có âm mưu binh biến ở Hà Nội, có cả thường dân lẫn quân nhân Việt
Nam của nhiều đơn vị khác nhau tham dự, mà những kẻ cầm đầu phần nhiều
thuộc pháo đội công vụ và một viên Cai thuộc trung đoàn 4 Pháo binh….
Cũng thời gian trên, trung uý DELMONT-BEBET, pháo đội trưởng công vụ,
được báo cáo về một thái độ khả nghi của một viên đội thuộc pháo đội
nàyvà một viên cai thuộc trung đoàn 4 Pháo binh cả hai cũng được đề cập
đến trong thơ nặc danh gửi Thiếu Tướng DE NAYS-CANDAU.
Trước các tin này, Thống Sứ Bắc Kỳ là MOREL ra lệnh mở cuộc điều tra
công khai…Thấy bị động nên tất cả đồng ý là phải gấp rút hành động, nếu
không thì sẽ bị bắt cả….
Ngày 27-6-1908, vào lúc 20 giờ, những người phụ trách nhà bếp có chân
trong tổ chức binh biến, đã thả thuốc độc vào súp như kế hoạch đã
định….Ngay sau đó có tới 125 tên Pháp thuộc trung đoàn 4 pháo binh và 80
tên khác thuộc trung đoàn 9 bộ binh thuộc địa bị trúng độc năm bất tỉnh.
Nhưng chưa đến giờ (21 giờ) nên tất cả các toán kể cả Nghĩa quân bên
ngoài chưa tiến hành thì tên cai Trương, một người theo công giáo (tên
gọi tôn giáo Ca-tô La-mã thời thực dân và Bảo Đại cùng Diệm, Thiệu) đến
nhà thờ Hà Nội báo cho cố Ân, một cố đạo ngưới Pháp, biết là có âm mưu
đánh úp Hà Nội trong đêm. Lập tức cố đạo Ân gọi điện thoại báo cho các ấp
liên hệ Pháp biết. Cùng lúc ấy Trung Tướng PIEL, Tổng tư lệnh quân đội
Pháp, được tin báo là các quân sĩ Âu châu thuộc trung đoàn 4 pháo binh
và trung đoàn 9 bộ binh thuộc địa ở trong thành đã bị đầu độc, hiện một
số lớn đã nằm bất tỉnh….Rồi Thống Sứ MOREL, vài phút sau đó, báo tin cho
Tướng PIEL biết có những cuộc tập hợp nghi ngờ ở chung quanh thành….
Lập tức lệnh đàn áp cuộc binh biến được ban hành và nhờ những biện
pháp này mà quân Pháp thoát hiểm….; mặt khác, những kẻ bị đầu độc được
giải độc ngay, không một tên nào bị vong mạng- Vì chất độc là thứ cà độc
dược , không nặng lắm; đồng thời những quân sĩ bị tố cáo trong thơ ngày
24-6-1908, các người phụ trách nhà bếp và những kẻ bị nghi ngờ dính líu
đến vụ đầu độc đều bị bắt giam đồng loạt. Còn các quân sĩ khác bị tước
khí giới, giữ tại trại để điều tra. Ngoài ra, tại thành phố, thực dân
Pháp cũng cho lệnh giới nghiêm, cử các toán tuần tra tung ra các cửa ô,
vây từng khu phố, bắt các giới chức dân sự liên hệ tới vụ đầu độc, kể cả
những người tình nghi….
Về phía Nghĩa quân ở bên ngoài không thấy súng hiệu nổ, biết là có
trở ngại hay có chuyện chẳng lành nên đã phân tán hết….
Sau một cuộc điều tra Pháp được biết:
1. Các ông ĐỘI
BÌNH, ĐỘI CỐC, ĐỘI NHÂN …chủ mưu nội ứng…
2. Âm mưu này đã
có từ cuối năm 1907 và đã bị “hoãn” tới 2 lần, do lãnh tụ Nghĩa quân Yên
Thế (hiện lúc này đang “hợp tác” vớI Pháp) thực thi và Kỳ ngoại Hầu
Cường Để, cụ Phan Bội Châu v.v….đang ở Nhật chủ mưu…..
Rồi một mặt Pháp truy tố ra toà đại hình
những người đóng vai chánh và những người đồng loã trong vụ binh biến….
Kết quả 13 người bị tử hình, 6 người bị xử
tử hình khiếm diện, 4 bị tù chung than và tên 70 người bị tù hữu hạn.
Ngày 8-7-1908, tại đường Cột Cờ Hà Nội, các
ông ĐỘI BÌNH, ĐỘI CỐC, ĐỘI NHÂN bị chem. đầu trước và đem đi bêu ở Ô Cầu
Rền, Ô Cầu Giấy và chợ Mơ (Bạch Mai).
Vài hôm sau, 10 người còn lại là các ông
HAI HIÊN, “thày tướng” NGUYỄN VĂN PHÚC tức Lang Sẹo, CAI TỐN, ĐỖ ĐẢM
v.v….đền nợ nước.
Các người khác bị đầy đi Côn đảo….
Mặt khác, theo lệnh toàn quyền KLOBUKOWSKI,
quân Pháp sửa soạn tiến quân “trừng phạt’ lãnh tụ HOÀNG HOA THÁM.
Cuộc binh biến nói trên, mà người ta quen
gọi là vụ “vụ Hà Thành đầu độc”, cho ta thấy mấy điểm sau đây:
1. Cuộc đầu độc
này đã đánh dấu một “bước ngoặc” trong lịch sử kháng Pháp của dân tộc
ta: Binh lính Việt Nam trong hang ngũ Pháp chống Pháp.
2. Công tác
điều tra, tuyên truyền và tổ chức còn vụng về, nhiều sơ hở, nên không
bảo mật được
3. Cuộc binh
biến có tính cách cục bộ này, nếu không bị đập tan từ đầu, thì rồi ra nó
cũng sẽ bị bóp chết, vì nó chưa đủ điều kiện để thành công….
4. Mặc dầu cuộc
binh biến đã bị đập tan, nhưng nó mở đầu cho nhiều cuộc binh biến khác,
mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong những trang kế tiếp…..
B. Phần trích dẫn từ Wikipedia tiếng Việt:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hà_Thành_đầu_độc
¨ Diễn biễn trong thành Hà Nội
Lực lượng làm binh biến là các bồi bếp và binh lính
người Việt (
lính
khố đỏ) thuộc trung đội công nhân pháo thủ Hà Nội nằm
trong trung đoàn pháo binh bảo vệ thành Hà Nội của Pháp.
Đứng đầu nhóm này là bếp Hiên, còn gọi là Hai Hiên, cùng với
bếp Xuân, bếp Nhiếp,
Đặng Đình Nhân tức "đội Nhân" (chức cai đội), Nguyễn Trí
Bình, Dương Bé,... tất cả có trên 10 người. Nhóm có nhiệm vụ
nội ứng bên trong: đầu độc 2000 binh lính Pháp thuộc hai
trung đoàn pháo binh và bộ binh Pháp đóng trong thành Hà
Nội, rồi bắn pháo hiệu làm hiệu lệnh tiến công cho các cánh
quân của nghĩa quân chống Pháp đánh vào thành Hà Nội. Tuy
vậy mật vụ Pháp đã biết trước một phần kế hoạch do nghi ngờ
các hoạt động của bếp Hiên. Trong bữa tối ngày 27 tháng 6
năm 1908, toàn bộ 200 lính Pháp được cho ăn
cà độc dược và trúng độc, nhưng ngay sau đó quân Pháp
báo động toàn thành và toàn bộ lính người Việt trong thành
tham gia khởi nghĩa, chưa kịp bắn ba phát đại bác như đã
định, thì đã bị tước vũ khí và bị bắt giam. Ngày hôm sau
Pháp đem ra xử và khép tội
tử hình đối với 13 binh lính và bồi bếp người Việt. Số
lính Pháp thì không có ai thiệt mạng vì độc dược.
[1]
¨ Các cánh quân tiếp ứng bên
ngoài
Lực lượng tiếp ứng bên ngoài gồm 3 cánh quân:
- Một đội nghĩa quân chống Pháp được lệnh đánh thẳng vào Đồn thủy phía
bờ sông (nằm ở vị trí
bệnh viện Quân đội 108 ngày nay);
- Một mũi chờ sẵn trên các thuyền đậu gần một xưởng thuốc lá (có lẽ là
trên bờ hồ Trúc Bạch hay hồ Tây) tiến đánh thẳng vào cửa Bắc.
- Cánh quân thứ ba, trong đó 20 người là người của
Hoàng Hoa Thám, được trang bị súng lục, chờ sẵn trước vọng lâu của
phủ Toàn quyền, chuẩn bị đánh trại
lính khố đỏ ở phía Tây (của nơi tập kết).
Cả ba cánh quân sẵn sàng chờ hiệu lệnh tiến công từ trong thành phát ra.
Chờ đợi mãi không thấy hiệu lệnh tiến công như đã hẹn từ trong thành vọng
ra, các cánh quân biết là bị lộ. Theo lệnh của Hoàng Hoa Thám, nghĩa quân ở
các hướng khẩn trương rút ra ngoài để khỏi bị quân Pháp bắt.
¨ Phản ứng của nhà cầm quyền Đông Pháp
Xử tử
Thủ cấp của Dương Bé, Tư
Bình và Đội Nhân bị xử trảm ngày 8 tháng Bảy
năm 1908 trong vụ "Hà Thành đầu độc"
|
Hội đồng đề hình (Commission criminelle) thành lập ngày 28
Tháng Sáu năm 1908 có De Mirabel làm chánh thẩm, Duvillier (sau
bị thay thế bởi Bosc) và Villain làm bồi thẩm. Công tố viên là
Grillaud des Fontaines kết tội lính Việt "xâm phạm nền an ninh
của chính phủ Bảo hộ".[2]
Ngày 8 tháng 7 năm 1908, quân Pháp đưa 3 người đầu tiên:
Đặng Đình Nhân, Nguyễn Trị Bình (Tư Bình), và Nguyễn văn Cốc
(Dương Bé) ra xử chém ở phía trước cột cờ Hà Nội (tại vườn hoa
Chi Lăng ngày nay). Sau đó quân Pháp bêu đầu của các nghĩa quân
bị chém, nhằm ra oai và khủng bố tinh thần dân Việt, để làm thui
chột sự phản kháng của người Việt yêu nước.
Ngày 3 tháng Tám năm 1908 xử tử thêm ba người: Nguyễn Văn
Hiên (Bếp Hiên), Cai Ngà, và Bếp Xuân. Ngày 29 thì hành quyết ba
người nữa: Lang Sẹo, Cai Xe và Cai Tôn. Cuối cùng ngày 27 Tháng
Mười Một năm 1908 thì bốn người cuối cùng bị chém: Đỗ Văn Đàm
(Đồ Đàm), Đội Hổ, Lý Chánh, và Vinh. Ngoài 13 người phải tội
chém, Hội đồng đề hình tuyên án sáu người khác tử hình khiếm
diện, tổng cộng là 19 bị tội phải chết.[3]
Địa điểm chém là Vườn Bàng ở gần chợ Bưởi. Mộ tập thể không đầu
của 9 người này lúc đầu chôn ngay tại pháp trường. Về sau khi
người Pháp lấy Vườn Bàng làm xưởng nhuộm thảm thì mộ bị chuyển
tới một khu đất thuộc Nghĩa Đô Từ Liêm. Năm 1988, ngôi mộ này đã
được xác định chính xác là nằm tại vườn nhà ông Nguyễn Đức Hỷ,
xóm 2 phường Nghĩa Đô,
quận Cầu Giấy
Hà
Nội.
Án tù
Ngoài những án tử hình, Hội đồng đề hình
xét bốn người bị tù khổ sai chung thân,
26 bị khổ sai hữu hạn (5-20 năm tù), và
10 bị án 1-5 năm tù. Tổng cộng hình án
là 59 người.[4]
Tham khảo
- Hoàng Cơ Thụy. Việt sử khảo luận.
Paris: Nam Á, 2002.
Chú thích
- ^
Hoàng Cơ Thụy. Trang 1468.
- ^
Hoàng Cơ Thụy. Trang 1469.
- ^
Hoàng Cơ Thụy. Trang 1469.
- ^Hoàng Cơ Thụy. Trang 1469.
C. Phần trích dẫn từ báo Hà Nội mới online :
► "Lật lại hồ sơ vụ "Hà thành đầu độc"
https://www.hanoimoi.com.vn/vn/print/24888/
HNM -20/09/2004 14:39
Cách đây 94 năm, dưới sự chỉ đạo của cụ Hoàng Hoa
Thám và cụ Phan Bội Châu, một kế hoạch táo bạo được
vạch ra: Nghĩa quân cụ Đề Thám sẽ đầu độc, làm tê
liệt 2000 lính Pháp đóng tại Hà Thành, tạo thời cơ
thuận lợi cho số nguỵ quân nổi dậy, phối hợp với
nghĩa quân từ nhiều hướng đánh vào giải phóng Hà
Nội. Vụ việc bất thành, song nó thể hiện tinh thần
quật khởi, ý chí quyết tâm không chịu làm nô lệ của
nhân dân ta.
 Ông Hỷ bên mộ cụ Hai Hiên |
Đầu
thế kỷ XX, tại Hà Nội xuất hiện những tổ chức và
những vụ bạo động chống lại thực dân Pháp. Trong đó,
có phong trào Đông Du và Duy Tân hội là hai phong
trào có uy tín. Ngoài ra, còn có tổ chức Đông Kinh
Nghĩa Thục - một tổ chức tiêu biểu cho tinh thần yêu
nước thời kỳ này. Ảnh hưởng lan rộng của Đông Kinh
Nghĩa Thục làm bọn thực dân hoảng sợ, nhất là khi,
các nhà hoạt động cách mạng biết xoáy vào số binh
lính người Việt có tư tưởng bất mãn vì thái độ đối
xử của chính quyền thực dân. Nhiều binh lính ở Hà
Nội, Nam Định, Bắc Ninh tự nguyện đứng sang hàng ngũ
những người yêu nước.
Một
kế hoạch tỉ mỉ đã được vạch ra. Toàn bộ lực lượng
được chia làm ba mũi: Một đội quân đánh thắng vào
Đồn Thuỷ phía bờ sông. Một đội khác chờ sẵn trong
các thuyền gần xưởng thuốc lá, từ Cửa Bắc đánh thốc
vào thành. Đội thứ ba, trong đó có 20 người của Đề
Thám được trang bị súng lục chờ sẵn ở đám đất trước
cửa Vọng Lâu phủ Toàn quyền để đánh ngay vào trại
lính khố đỏ ở phía Tây. Hiệu lệnh là 3 phát súng đại
bác.
Theo
mệnh lệnh: Đêm 27-6-1908, nhân lúc quân đội Pháp mở
tiệc chiêu đãi các sĩ quan, quân ta sẽ thực hiện
cuộc khởi nghĩa. Nhiệm vụ quan trọng nhất trong
toàn bộ kế hoạch là phải đầu độc nhằm làm tê liệt
hơn 2000 lính Pháp tại Hà Nội. Người trực tiếp chỉ
đạo việc đầu độc là cụ Bếp Hiên tức Hai Hiên cùng
một số đầu bếp khác như Bếp Xuân, Bếp Nhiếp... đều
là người của cụ Hoàng Hoa Thám đang làm việc tại các
đơn vị lính Pháp ở Hà Nội.
Ngau
sau khi hơn 200 tên lính bị trúng độc, lệnh báo động
khẩn cấp được loan ra. Số lính người Việt - lực
lượng nội ứng chủ yếu của kế hoạch khởi nghĩa - lập
tức bị tước hết vũ khí và bị cấm trại không cho ra
ngoài...
Đã
quá giờ "G", các toán nghĩa quân cùng lực lượng phối
hợp ém sẵn ở các vị trí, chỉ chờ hiệu lệnh bằng
tiếng súng nổ là hành động, nhưng càng đợi càng vô
vọng... Biết vụ việc đã bại lộ, theo mệnh lệnh của
Đề Thám, số binh lính khẩn trương rút lui theo các
ngả, tránh rơi vào vòng vây của giặc.
Thì
ra, toàn bộ kế hoạch khởi nghĩa đã được mật thám
Pháp đánh hơi từ trước, nên đã có kế hoạch đề phòng.
Hành tung của cụ Hai Hiên - người chỉ đạo cuộc đầu
độc - đã bị mật thám Pháp để ý từ lâu, chúng lường
trước âm mưu binh biến của số binh lính người Việt,
nên khi xảy ra cuộc khởi nghĩa đã kịp thời hành
động.
Sau
khi vụ khởi nghĩa thất bại, ngày 28-6-1908, Hội đồng
Đề hình được thành lập. Có 13 người bị xử tử hình.
Trong danh sách bị hành quyết có cụ Hai Hiên và một
số bính lính người Việt như cụ Nguyễn Trí Bình, cụ
Dương Bé, cụ Đặng Đình Nhân. Ngày 17-7-1908, 3 cụ
Bình, Bé và Nhân bị đem ra xử chém.
Một
tác giả người Pháp, có tên là Ajalbert, miêu tả giờ
phút lâm chung của các cụ: "... Tóc búi ngược trên
trán, những người tù bị cột chặt trước bọn đao phủ
mặc đồ đen, lưỡi lê tuốt trần... Những người sắp
chết muốn nói. Dương Bé cất tiếng bảo kẻ hành hình
mình: - Anh hãy bảo cho vợ tôi, có lẽ đang đứng ở
trong đám đông kia rằng, nếu đầu tôi được lìa ngọt
lưỡi khỏi cổ, thì tôi thưởng cho anh 5 đồng bạc.
Đặng Đình Nhân thì nhắn vợ ghi 3 chữ "Phó Đề đốc"
lên linh bài thờ mình. Nguyễn Trí Bình, với một
giọng quyết liệt đã nói: - Tôi cảm ơn những người Âu
đã đến đây đông để nhìn tôi chết... Chết như thế này
là một cái chết nhẹ nhàng... "
Hành
quyết xong 3 người lính dũng cảm, bọn thực dân đem
đầu của họ đi bêu nhằm thui chột tinh thần yêu
nước của nhân dân ta.
Ba
tháng sau, ngày 7-10-1908, bọn chúng tiếp tục hành
quyết 9 người còn lại tại Vườn Bàng gần chợ Bưởi.
Cũng như 3 người lính đã bị hành hình trước đó, 9
chiến sĩ yêu nước đã bị bọn đao phủ chặt đầu mang đi
nơi khác, còn xác thì chôn chung vào một hố. Sau khi
Tổng đốc Hà Đông cùng giặc Pháp lấy vườn Bàng làm
nơi nhuộm thảm, ngôi mộ các nghĩa quân được chuyển
tới một khu đất khác.
Mãi
tới năm 1988 - tức là 80 năm sau vụ "Hà Thành đầu
độc" xảy ra, ngành Văn hoá thông tin mới xác định
được 9 ngôi mộ này đang nằm trong vườn nhà ông
Nguyễn Đức Hỷ, tại xóm 2, phường Nghĩa Đô, quận Cầu
Giấy.
Vụ
"Hà Thành đầu độc" tuy thất bại, song ý nghĩa của nó
đối với phong trào yêu nước đầu thế kỷ 20 ở Việt Nam
đã được các nhà sử học ghi nhận. Đây là minh chứng
lịch sử rất có giá trị của cuộc khởi nghĩa này. Năm
2000, khu mộ đã được ngành Văn hoá thông tin công
nhận là di tích lịch sử và giao cho UBND quận Cầu
Giấy trực tiếp quản lý. Nhưng hiện tại, nó vẫn chưa
được xây dựng tương xứng với tầm vóc một di tích
lịch sử cách mạng của Thủ đô, nhất là khi Hà Nội
đang tiến tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Thiết nghĩ, cấn sớm có phương án xây phần mộ của 9
cụ; nghiên cứu, xác định danh tính của từng cụ trong
khu mộ để nhân dân có điều kiện hương khói, góp phần
giáo dục truyền thống yêu nước và tự hào dân tộc cho
các thế hệ mai sau.
Bài, ảnh Trần Minh
(xem thêm trong web Hà Nội Mới:)
► "100 năm vụ “Hà Thành đầu độc”
Bài tham gia cuộc thi viết “Cả nước cùng Thủ đô hướng tới 1000 năm Thăng Long - Hà Nội”:
https://www.hanoimoi.com.vn/vn/print/24888/
D. Phần trích dẫn từ báo Tuổi Trẻ online :
"100 năm vụ "Hà Thành đầu độc"
LTS: Trong những nỗ lực truy tầm thông tin về giai
đoạn lịch sử này, báo Tuổi Trẻ online đã có một công
trình khá công phu và tỉ mỉ. Những bài viết và hình
ảnh của tác giả Quốc Việt rất hữu ích cho học sinh
tìm hiểu, xúc cảm, và ghi nhớ các vị anh hùng tiền
nhân đã ngả xuống để xây dựng sự độc lập cho nước ta ngày
nay. Sachhiem.net để nguyên đường nối kết đến web
Tuổi Trẻ. Nếu bạn đọc thấy khó khăn trong việc truy
cập những nối kết sau đây, xin cho BBT sachhiem.net
biết để thay đổi. (SH)
► Các thư liên hệ khác:
- Quê quán ông Đội Cốc ở đâu?