 |
12 tháng 1, 2011 |
Phần một : mở màn
●
trở lại đông dương
Tháng 10 năm 1972, lúc tôi trở lại Sài Gòn sau một năm
vắng mặt, cuộc tiến công của Bắc Việt Nam lắng xuống. Lời bàn tán sắp có
hòa bình loan truyền khắp nước này. Từ nhiều thập kỷ nay, lần đầu tiên,
người Việt Nam mới lại có dịp mong ước chiến tranh sớm chấm dứt.
Lúc chiếc máy bay khổng lồ của hãng hàng không Cathay Pacific xin hạ cánh
xuống sân bay Tân Sơn Nhất, tôi nhìn rõ con đường dài chúng tôi và các đồng
minh phải vượt qua, kể từ ngày đầu tiên, hồi tháng 6 năm 1969, tôi đến đất
Việt Nam. Ngày ấy trời mùa hè nóng bức, máy bay phải lượn theo vòng tròn
xoáy trôn ốc mới hạ được cánh để tránh những khâu pháo phòng không của cộng
sản ở chung quanh sân bay.
Ba năm sau, máy bay từ từ hạ xuống dọc theo nhưng nhà tạm lợp mái tôn lượn
sóng, được xây dựng chung quanh thành phố theo nhịp độ dân tị nạn kẻo đến.
Đằng xa, những mảnh ruộng xanh và vẫn bình yên như cảnh nông thôn miền
Louisiana.
Lúc tôi rảo bước đi qua đường bay đến phòng nhập cảnh trước làn sóng hành
khách, tôi nhớ lại người bạn đồng hành, ngồi cạnh tôi trong chuyến bay sang
đây lần đầu năm 1969. Đó là vợ một viên đại tá mới biết tin chồng sống lang
chạ với một phụ nữ Việt Nam làm chiêu đãi viên bán ba. Cho đến lúc máy bay
chạm đất, bà ta đã thố lộ với tôi đến mười lần nỗi lo sợ của bà. Mỗi lần tỏ
nỗi lòng, bà đều uống một ly Máctini. Khi bà xuống sân bay,dưới trời nắng
chói chang, bà say quá, ngã lăn ra làm cho bọn lính mỹ gác ở cổng chính cười
rũ rượi.
Lần này, trong số khách đi máy bay, không có ai là vợ quân nhân cả. Trừ tôi
ra, người phương Tây duy nhất là một thợ nề Úc, bụng to, có một phụ nữ Trung
Quốc thiếu gọn gàng đi theo. Có quân cảnh Mỹ giữ trật tự cùng lính Việt Nam
nhưng họ tôn trọng cuộc sống Việt Nam hóa nên giấu mặt.
|

Ảnh ĐSQ Mỹ tại Sài Gòn trước 1975
|

Nhân vật của chúng ta-Frank Snepp - tác giả "Decent
Interval", cựu nhân viên CIA chi nhánh Sài Gòn năm 1975 |
Người lái xe do đại sứ quán cử ra đón tôi nói rằng đã
gặp tôi lần trước. Anh ta dẫn tôi nhanh nhẹn lách qua đám lái xe tắc xi và
xích lô đến chiếc Chevrolet có máy đều hòa không khí. Lúc đi qua cổng chính
sân bay, tôi trông thấy bức tượng nhỏ do người Việt Nam mới dựng để tưởng
nhớ người Mỹ chết trong chiến tranh. Người ta đọc thấy hàng chữ: “Sự hy sinh
cao cả của người lính đồng minh không bao giờ bị lãng quên". Ba năm sau, sau
khi Sài Gòn thất thủ, những người cộng sản quét lên đó một lớp sơn vàng và
thay bằng một câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cũng như mọi người mới đến, tôi ở khách sạn Duc, trụ sở trá hình của Cục
tình báo trung ương Mỹ CIA xây khuất vào trong, cách dinh Tổng thống Việt
Nam và sứ quán Mỹ vài trăm mét. Cho đến cuối thập kỷ 60, trong nhiệm kỳ thứ
nhất của tôi ở SàiGòn, khách sạn này chỉ hơn cái trại lính một chút, dùng để
đón "tân khách”. Ở đây, luôn luôn có không khí ồn ào của vũ hội.
Nhưng một năm trước khi tôi trở về trụ sở CIA ở Langley, miền Virginia; có
một người nào đó quyết định rằng chúng tôi đáng được sống tốt hơn, nhất là
vợ con nhân viên sứ quán cũng được phép sang ở với chồng, với cha. Do đó
khách sạn được sửa chữa lại theo kiểu Mỹ. Phòng ăn, đặt ở tầng thượng, được
sắp xếp theo tiêu chuẩn hiện đại của công ty Howard Johnson. Gần đó, có bar
có bể bơi, sân phơi nắng để người ta có thể vừa tắm, vừa uống Bloody Mary.
Thức ăn đặc biệt Mỹ và gồm toàn món ướp lạnh. Nữ chiêu đãi viên Viết Nam đều
do cơ quan an ninh của CIA tuyển lựa để bảo đảm không một ai có quan hệ với
cộng sản. Những chiếc áo dài cổ truyền trước kia làm cho các cô uyển chuyển
và quyến rũ nay được thay bằng những bộ đồ ngắn cùn cỡn theo mốt quần áo trẻ
con Mỹ lúc các em bắt đầu đến trường mẫu giáo.
Tám giờ tối, có thể xem phim mới chưa hề chiếu ở đâu, trong phòng chiếu
phim ở dưới nhà, cạnh cửa ra vào. Ngoài ra, còn có một phòng rửa ảnh, trang
bị đầy đủ máy móc hiện đại, một phòng thu thanh và một thư viện mở cửa suốt
ngày. Sáng sáng, từ sứ quán đến khách sạn, khách đi, về bằng xe của CIA để
giảm bớt số xe chạy trong những giờ cao điểm. Lúc nào cũng có xe riêng chở
đi PX, đến phòng cung cấp hoặc bệnh xá cực kỳ hiện đại của CIA, đặt ở một
phố gần đấy. Ở đó, hai thầy thuốc lành nghề, thay nhau thường trực suốt ngày
và đêm để chạy chữa cho những người say rượu hoặc mắc những bệnh khác. Hầu
hết các nhân viên CIA đều có xe riêng đặc biệt, lúc nào cũng đầy xăng được
phát không, một biệt thự hoặc một ngôi nhà, tùy theo cấp bậc, ở trong thành
phố.
Điều ngạc nhiên ở CIA Sài Gòn là người ta thích lái xe Ford Pinto và những
người lái xe có thể đeo một huy hiệu ghi rõ: "Tôi làm việc cho CIA". Thật
vậy, họ là quan chức Mỹ ở Việt Nam duy nhất dùng loại xe này.
Mọi chi tiết đều được thực hiện để bảo đảm đầy đủ tiện nghi cho cuộc sống
của ba trăm nam, nữ nhân viên CIA cho đến lúc họ trở về Mỹ, nghỉ hè hàng
năm, giải trí. Trên trái đất này, chưa thấy ở đâu, chưa thấy ở nơi nóng bỏng
nào, nhân viên CIA lại được sống sang trọng như thế. Tất cả tiền chi phí đều
đo người đóng thuế Mỹ chịu.
Một, hai ngày sau khi tôi đã yên vị ở khách sạn Duc, tôi quyết định vào
trung tâm thành phố, cách khách sạn khoáng vài trăm mét. Tôi ra đi đúng Ngọ.
Kim đồng hồ bưu điện chỉ 12 giờ lúc tôi cho khởi động chiếc xe Pinto mượn
của người khác, giữa tiếng ồn ào của người Viết Nam. Phần đông đang trở về
nhà hoặc đi qua đường đến ngủ trưa dưới bóng mát của nhà thờ Thiên Chúa
Giáo. Trong khi luôn luôn lái hãm phanh để tránh chẹt phải người đi bộ đãng
trí, tôi nhớ lại một ngày hè năm 1969, cũng nóng bức như hôm nay. Việt cộng
đã đặt một trái mìn có kim đồng hồ và làm nổ ở cửa nhà bưu điện.
Khả năng một bạo động như thế khó có thể xảy ra ngày nay. Vẫn biết chiến
tranh hãy còn. Ban đêm, trên nóc khách sạn Caravelle, người ta vẫn còn trông
thấy máy bay lên thẳng Việt Nam bắn pháo sáng vào bầu trời, tạo thành những
viên hỏa châu trên nền nhung đen. Vẫn còn nghe tiếng gầm rít của đại bác,
tiếng bom rền của máy bay B.52 ở đằng xa làm rung chuyển giường ngủ. Nhưng
hàng tháng nay, không có một vụ phá hoại nào đáng kể. Người bản xứ gần đây
nhất tự thiêu theo kiểu nhà sư hồi đầu những năm 60, là một cựu binh cụt
tay, ba tuần trước, trong lúc anh ta nằm mơ màng ở một quán bán hoa trên
đường Nguyễn Huệ, đã đánh rơi điếu thuốc lá Bastos vào người.
Tôi trở về khách sạn Duc lúc tối. Ở bar có một ông già ngồi. Ông ta kể
chuyện Sài Gòn đầu những năm 60. Đó là Paris của phương Đông với những đường
phố rộng trồng cây. Có những tiệm ăn Tàu nổi tiếng ở Đông Nam Á, những nhà
thổ sang trọng, bốn bề là kiếng chiếu kiểu Hồng Kông. Nơi đó, có nhiều trò
giải trí như tấm biển của nó chỉ rõ.
Nghe ông ta nói thì thời phồn vinh xa xưa ấy chấm dứt năm 1965, lúc trận lũ
lụt đô la đổ xuống cùng với làn sóng lính Mỹ xô vào, tiêu diệt mọi thứ ưu ái
ở thành phố này. Sau cuộc tổng tiến công năm 1968 của cộng sản, Sài Gòn trở
thành một bản sao tồi của Dodge City, thời những người mới đến khai khẩn.
Lính Mỹ, đạn trên vai, một tháng lương trong túi, trở thành người chủ thành
phố. Lối sống Mỹ tràn ngập phố phường. Một phần nhân dân địa phương sống yên
tĩnh ở nhà, chờ ngày giông tố qua đi. Phần còn lại lao vào việc kiếm tiền
bằng nhiều mánh khóe. Chất lượng các nhà chứa giảm sút. Thật vậy, hàng dàn
phụ nữ nông thôn Việt Nam thiếu kinh nghiệm, bỏ quê hương, sẵn sàng hành
nghề. Những người khỏe nhất, xinh nhất đều ở câu lạc bộ 147, đường Võ Tánh,
ở bar Con Rồng, gần đường Lê Lợi hay ở Mini's Flamboyant, một ngôi nhà tồi
tàn trên đường Nguyễn Huệ. Ở những nơi ấy, cả một thế hệ lính Mỹ đã mất cả
áo sơ mi lẫn sự ngây thơ của mình.
Tháng 10 năm 1972, lúc tôi trở lại Sài Gòn, những cảnh
ấy chưa mất hẳn. Sự khổ cực vẫn còn bám lấy thành phố như cái vẩy trên vết
thương. Bề mặt xám những ngôi nhà của người dân và những khách sạn ở trung
tâm thành phố, gần quảng trường Lam Sơn, vẫn như cũ. Từ các cống rãnh - kể
cả ở những đường phố chính - bốc lên mùi nước tiểu và rác mặc dù thường có
những xe do các chương trình viện trợ Mỹ cung cấp cho chính quyền SàiGòn, đi
phun nước và hốt rác. Giao thông hỗn độn và dễ làm chết người. Vào những giờ
cao điểm, không khí trở nên xám xịt và lầy nhầy vì khói, hơi dầu do các xe
Hon da và các loại xe Nhật Bản khác của những người Việt Nam đi, thải ra mặc
dù giá xăng dầu cao. Những cây me cuối cùng ở đường Tự Do đang chết dần giữa
làn khói ấy. Và những nhà thông thái trong xã hội thực dân Pháp cho rằng
quân đội Mỹ phải chịu trách nhiệm về cái chết của những cây me này vì họ đã
sử dụng hóa chất làm trụi lá cây.
Theo sự khám phá của tôi, đời sống ban đêm ở Sài Gòn không hề được cải thiện
chút nào, về mặt thẩm mỹ hay mặt vệ sinh cũng vậy. Mấy tuần trước, trong một
lúc bốc đồng, chính quyền ra lệnh đóng cửa các bar và phòng xoa bóp đáng
nghi ở đường Tự Do và đường Nguyễn Huệ, để tỏ rõ rằng sự có mặt của người Mỹ
đã giảm sút và để giảm bớt sự lạm phát. Nhưng, cũng như mọi cải cách ở thành
phố này, việc cấm đoán đó cũng là một trò hề. Cách lam tiền mạnh bạo nhất là
ra kiếm khách ở hè khách sạn Continental. Trong quán ăn - thay các bar - vẫn
những trò giải trí như trước. Nhưng các cô gái lại mặc do blu trắng của
chiêu đãi viên và đề nghị khách dùng trước hết, rau xà lát và thịt trâu,
khác với lệ thường.
Mặc dù có những cảnh xấu xa ấy, thành phố vẫn có vẻ đang thay đổi, điều mà
có thể chỉ những người Việt Nam mới đánh giá đúng. Nhưng kẻ ăn xin và bọn
nhóc lưu manh trên đường Nguyễn Huệ hình như lễ phép hơn, vị nể hơn. Có vẻ
như chúng hiểu rằng người mỹ sắp ra đi hết và phải tỏ ra ít nhiều ngoại giao
để tranh thủ những ơn huệ của những kẻ trọc phú cuối cùng! Còn lính Nam Việt
Nam thì họ tiếp tục tràn vào các cửa hàng và tiệm cà phê chiều thứ bảy. Họ
lại cầm tay nhau, cử chỉ mà họ phải bỏ từ ngày lính Mỹ tới. Những người Mỹ,
không hiểu tập quán ấy, cho rằng Việt Nam là một nước của những kẻ gian.
Một nhà buôn già, người Tàu, đã mua một phòng xoa bóp tốt nhất ở đường Tự Do
để mớ một cửa hàng bánh mì, hăng hái giải thích cho tôi: người Mỹ ra đi đã
thay đổi mọi cái cũng như người Mỹ tới, phải chịu trách nhiệm về cuộc chiến
tranh. ông ta nói: "Sự giàu có mà các anh đem đến buộc chúng tôi phải nghĩ
đến sự nghèo túng của mình và giao thiệp với các anh để trở thành những
người mà các anh mong muốn. Nay, người Mỹ trở về nước họ, chúng tôi lại cảm
thấy yên ổn hơn, tránh khỏi những ảo tưởng!".
Trừ những người Mỹ ngày càng ít đi, những nhân vật chính của Sài Gòn vẫn thế
như tôi đã biết họ lúc trước: một bọn người ngây thơ và ăn cắp xứng đáng với
tưởng tượng của Hieronymus Bosch. Dằng kia, Ở ngã tư đường Lê Lợi và Nguyễn
Huệ, một người đạp xích lô già, ngồi trên xe như con chim kền kền, đầu đội
mũ côlônhân, mắt đeo kính đen, mũi tẹt, đang theo dõi xem có khách gọi
không. Đằng này, trên đường Tự Do, một cô bé khoảng 17, 18 tuổi, vẻ đãng
trí, bộ đùi lộ rõ trên đôi dép giả da, vú độn cao cho hợp với mốt thời đại.
Cô ta uống cô ca và nói đùa tục tĩu bằng mót thứ tiếng Mỹ giả cầy học ở các
bar mà cô chưa hiếu hết, với bọn lái xe xích lô không quen biết.
Xa xa cô một cô gái nông thôn, bé nhỏ thẹn thò, nón ngang vai, quần lụa đen
phấp phới, dép râu đi kêu lách cách từ gian hàng này đến gian hàng khác ở
chợ Bến Thành. Theo sau là anh chồng: một binh sĩ Việt Nam, đôi mắt buồn
dưới chiếc mũ sắt, khẩu súng M.16 cao bằng người, lương tháng bằng 12 đô-la,
nhưng phải nuôi sống một gia đình mỗi ngày một đồng, không có tương lai nào
khác ngoài việc nằm trên cáng hoặc đến tuổi giải ngũ là 37 tuổi. Lúc đó, anh
ta đã quá già để có thể làm bất cứ việc gì.
Có cả tầng lớp thượng lưu, những diễn viên chính. Buổi trưa, thường họ ở câu
lạc bộ thể thao, vết tích của thời thuộc địa Pháp. Họ vừa ăn sáng vừa tắm ở
bể bơi trong hai giờ. Đây là nhóm sán phẩm của xã hội Pháp cũ, những tên
thực dân già và những tên thanh niên lai, mạnh khỏe, da nâu. Kia một nhóm
người riêng biệt, yên lặng, nằm phơi bụng trên ghế dài, dấu hiệu sung túc
của đất nước kỳ lạ này. Đó là những người Việt Nam hay Trung Quốc quan
trọng, nói thì thầm với nhau về việc làm ăn buôn bán, về chính trị chung
quanh cốc nước chanh vắt, đủ giàu để có thể thoát khỏi mọi biến cố sẽ xảy
ra.
Quá trưa, khoảng từ ba đến bốn giờ, phải đi xe tới hiệu cà phê Givral đường
Tự Do mới uống được ly cà phê Pháp, đen như mực. Ở đây, giới thượng lưu cũng
họp mặt. Nhưng đó là những người trẻ, tóc đen, dài, rất khó phân biệt giữa
nam với nữ vì thường họ đều mặc áo sơ mi thêu cành lá và quần chèn. Những
sinh viên ở Sài Gòn ghét Mỹ nhưng dành thì giờ để bắt chước Mỹ.
Cũng có thể lượn phố, dính mũi vào tủ kính những cửa hàng sang trọng ở vòng
cung E den. Ơ đây, có thể gặp những phụ nữ nữa lịch thiệp của thành phố. Họ
đi, đầu thẳng, nhìn xa, đúng mốt trên tranh, mũi và mắt được các mỹ viện
trang điểm theo kiểu phương Tây. Chiếc áo dải lụa, những chiếc bùa Campuchia
tỏ rõ họ giàu sang. Có thể bí mật mời họ đi chơi một chuyến. Nhất là đối với
những vị có nhiều tiền. Đó thường là vợ hai hoặc tình nhân của một vị tướng
quan trọng hay một nhà chính trị Nam Việt Nam. Họ nói tiếng Pháp và giao
thiệp với người Pháp. Tuy nhiên, họ bằng lòng ve vãn người Mỹ nếu việc đó có
lợi cho họ.
Giờ uống cốc tai đến . Người ta vội vàng đến hiệu Mini cầm một cốc bia. Chắc
chắn, những kẻ nịnh hót, đứa nào cũng hay nói. Nhưng đừng vội nghĩ lầm.
Người ngồi đó đang ở thời kỳ cực thịnh, là một người Mỹ quan trọng. Mặt anh
ta đỏ gay, cổ bò rừng, sơ mi kẻ ô che cái bụng phệ. Nguyên là lái xe vận tải
hoặc làm cai trong một xưởng máy, anh ta bám lấy Việt Nam, từ năm này qua
năm khác, làm tổ trướng trong một nhà hàng Mỹ. Sau mỗi trận đánh, anh ta lại
được ký hợp đồng làm đường, xây nhà. Anh ta có một vợ và một nhân tình người
Việt Nam dễ bảo. Anh ta là người báo vệ lòng tự tôn mặc cảm Mỹ. Là người sau
cùng rời đất nước này sau khi mọi người Mỹ khác đã hồi hương.
Sứ quán Mỹ nằm trên đường Thống Nhất, không có gì thay đổi trong lúc tôi
vắng mặt ở Sài Gòn. Họa chăng là trồng một ít cây hoa ở ngoài sân vào những
chỗ Việt cộng đào để đặt súng trong những ngày đầu cuộc tổng tiến công mùa
Xuân 1968. Nhưng những bức tường bê tông bảo vệ mặt trước sứ quán chẳng đẹp
đẽ gì hơn một cái cối có hình tổ ong. Về mặt kiến trúc, nơi đây giống như
một phác họa ý đồ Mỹ ở nước này, tạo cho trụ sở một cơ quan ngoại giao hình
ảnh một pháo đài, việc đó tỏ rõ hiệu quả của nền ngoại giao! Quả thật đó là
một pháo đài: 60 lính gác, một hầm tránh bom, một mái nhà làm nơi hạ cánh
cho máy bay lên thẳng, và một bức tường cao ba mét để dân Sài Gòn và khách
du lịch không thể dòm ngó được.
Đại sứ E. Bunker và ê kíp ngoại giao của ông vẫn ở ba tầng dưới sứ quán. Ba
tầng trên dành cho CIA. Bên cạnh ngôi nhà chính, là một dãy nhà phụ, gọi là
"khu Nôrôđôm dành cho nhân viên phụ động của CIA. Trong cuộc tống tiến công
của cộng sản vào sứ quán, năm 1968, một tổ đặc công Việt cộng đã đánh tới
khu Nôrôđôm. Nhưng một lính Mỹ gác ở phòng dùng để xếp bản đồ của CIA, đã
lấy súng máy chặn họ lại. Từ đó, mối xông và phá hoại cả gian phòng. Ngày
cuối cùng của chiến tranh, gian phòng đã "vui vẻ”,, cháy hết.
Một ngôi nhà ba tầng mới được xây gần khu Nôrôđôm. Hơi xa một chút, gần
nơi sân bay lên thẳng hạ cánh ngày cuối cùng để cứu chúng tôi, đã thiết
lập một nơi giải trí mới, gồm một nhà ăn theo kiểu Mỹ và một bể bơi lớn.
Như bể bơi khách sạn Duc. Tất nhiên là người dân Sài Gòn không được vào
bơi ở bể này. Sứ quán được xây dựng năm 1967, dáng lẽ là chỗ ở, nơi
nương náu của Đoàn ngoại giao Mỹ tại Việt Nam - hồi ấy đã quá đông,
không thể ở trụ sở cũ, gần sông - Nhưng với những nhà kiến trúc không
được bí mật về ý đồ của chính giới cao cấp Mỹ, nên sứ quán mau chóng trở
nên chật chội đối với số nhân viên mỗi ngày một phình ra. Một số bộ phận
phải đặt tạm trụ sở ở những ngôi nhà tồi tàn trong thành phố. Cơ quan
CORDS - tượng trưng cho sự nỗ lực cua người Việt Nam và người Mỹ để bình
định nước này, gồm hai bộ chỉ huy riêng rẽ, ở cách xa sứ quán. Quan chức
cơ quan USAID được sử dụng những ngôi nhà lớn gần câu lạc bộ thể thao.
Và nếu cần phải có những dụng cụ tuyên truyền, thì phải đi qua phố Lê
Quí Đôn quá đông đúc để đến thư viện Lincoln, ở đó là trụ sở cơ quan
thông tin Mỹ, USIS.
Những ngôi nhà phụ của sứ quán ở cách đó 8 kilômét, nằm trong sân bay
Tân Sơn Nhất, trước mặt những ngôi nhà của sân bay. Ở đấy, trong những
căn phòng kín đáo, chắc chắn, gọi là "Lầu Năm Góc” phương Đông các tướng
Mỹ thuộc cơ quan MACV (cơ quan viện trợ quân sự Mỹ), từ giữa những năm
60, đã thảo ra những kế hoạch đánh chiếm cùng với Bộ chỉ huy tối cao Nam
Việt Nam, mà bộ tham mưu cũng ở ngay đây. Thời kỳ quân Mỹ tham gia toàn
bộ vào cuộc xâm lược.”Lầu Năm Góc phương đông” là một tổ ong ồn ào,
những binh sĩ bất mãn và chán chường, hít cần sa trong buồng thay quần
áo hay trong bể bơi, những sĩ quan trẻ, vẻ bận rộn, rảo bước ngoài hành
lang, làm như không trông thấy gì. Lúc tôi trở lại năm 1972, nếu có gì
thay đổi ở Nam Việt Nam thì đó là nhịp sống ở "Lầu Năm Góc" chậm lại.
Binh lính Mỹ giữ vai trò thứ yếu bên cạnh đồng minh Nam Việt Nam. Theo
tinh thần "triệt để” Việt Nam hóa, sĩ quan Mỹ cũng không trả lời dây
nói nữa.
Sau đó, khi ngừng bắn, những cơ quan ở rải rác của sứ quán đều thay đổi
và thu hẹp lại. cơ quan "Bình định và phát triển” nông thôn từ chối
không làm nhiệm vụ chống khủng bố, đổi thành "Phòng giúp đỡ đặc biệt”
Cơ quan MACV thu hẹp lại trở thành Phái bộ quân sự. Còn nhân viên ngoại
giao và quân sự Mỹ ở rải rác khắp miền Nam Việt Nam, kéo về những trung
tâm lãnh sự ở những thành phố quan trọng như Đà Nẵng. Nha Trang, Biên
Hòa và Cần Thơ. Mặc dù vậy, những cơ quan khác nhau của sứ quán cho đến
ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh, vẫn gây cảm tưởng là họ ở khắp mọi
nơi và không ở đâu hết. Không có sự giúp đỡ của Chúa trời và nhất là
không có sự tận tụy của một số người lái máy bay lên thẳng thì một số
khá đông nhân viên sứ quán có thể bị bỏ quên như trường hợp nhiều nhân
viên người Việt Nam.
Theo lý thuyết thì ông Đại sứ là người duy nhất chịu trách nhiệm về cộng
đồng viên chức Mỹ ở Việt Nam. Nhưng tháng 12 năm qua, trọng tâm chính
trị đã thay đổi hoàn toàn, nhiều lần khi ảnh hưởng của Phái bộ quân sự
lớn đến đâu thì các đại sứ Henry Cabot Lodge và M. Taylor bị đầu óc "Lầu
Năm Góc phương Đông" chi phối đến đấy. Năm 1967, khí ông E. Bunker vào ở
tầng gác thứ ba của sứ quán, thì ông chẳng làm gì đế thay đổi tình
trạng ấy. Nhưng hai năm sau, khi "Việt Nam hóa” trở thành chính sách của
Mỹ thì những quyền ưu tiên và trung tâm quyết định lại thay đổi một lần
nữa. Bunker dần dần trở thành người điệp viên chính trên sân khấu Mỹ ở
Việt Nam. Cùng với Đại tướng C. Abrams, người chủ "Lầu Năm Góc phương
Đông", ông giao quyền chỉ huy dần dần cho người Nam Việt Nam.
Một cuộc chuyển giao trách nhiệm như thế đòi hỏi phải có một chế độ vững
chắc, cùng với chính sách đối ngoại của H. Kissinger, Bunker có nhiệm vụ
chính là đề cao giới thượng lưu chính trị Nam Việt Nam, nhất là Nguyễn
Văn Thiệu. ông làm việc này rất vui vẻ và với nhiều trí tưởng tượng. Năm
1971, trong nhiệm kỳ thứ nhất tôi ở Sài Gòn, tất cả các ứng cứ viên tổng
thống phải rút lui vì Thiệu chắc trúng cử. Bunker liền dàn một cảnh xảo
quyệt để củng cố "uy tín” cho Thiệu, nhất là đối với phái đoàn hòa bình
Mỹ có thể cho rằng Thiệu trúng cứ tổng thống vì không có đối thủ, Bunker
quyết định, "ủng hộ" một nhân vật ôn hòa thuộc phe đối lập, Đại tướng
Dương Văn Minh, thường gọi là Minh lớn, để ông này không bỏ cuộc đua,
làm như thế may ra cứu vãn được tình thế. Bunker hành động theo lối
ngoại giao quen thuộc của ông. Mưu mô của ông có thể thành công nếu cuối
cùng Minh lớn không nói rằng ba triệu đôla người ta biếu ông để vận động
tranh cử không hấp dẫn bằng triển vọng một sự thất bại chắc chắn. Lúc
tôi trở lại Sài Gòn, mùa Thu năm 1972, tổ của tôi, một chi nhánh CIA,
ngày càng bị giới báo chí Mỹ công kích về những cuộc lạm dụng bịa đặt,
nhất là trong chiến dịch Phượng Hoàng. Không còn nghi ngờ gì, chúng tôi
có thể trở thành một tấm bia ít bị bắn hơn nếu chúng tôi tiếp tục tập
trung, như những năm qua, vào mục đích chính: thu thập tin tức. Nhưng từ
những năm đầu của thập kỷ 60, CIA ngày càng sa vào những vũng lầy khác.
Không phải chúng tôi hành động ngoài quy định của pháp luật. Thật vậy,
trong luật về an ninh quốc gia có một câu ngắn và mập mờ như thế này: "Cơ
quan CIA và các chi nhánh ở nước ngoài không được phép làm mọi việc và mọi
cách đề thu thập tin tức có quan hệ đến an ninh quốc gia mà Hội đồng an ninh
quốc gia đề ra cho nó".
Đầu những năm 60, Nhà trắng đã lợi dụng câu này để buộc CIA phải làm những
việc mà Hoa kỳ không có chuyên gia như tuyển và huấn luyện những đội quân
chống cộng. Sau đó, trong khi phái quân sự chuẩn bị một cuộc chiến tranh ác
liệt hơn, thì Tống thống Johnson quyết định để cho CIA tiếp tục hoạt động
ngoài chương trình đã định: nghĩ rằng Lầu Năm Góc không cho đó là điều quan
trọng.
Được sự đồng ý của Tổng thống Johnson, chi nhánh CIA ở Việt Nam dần dần phát
triển. Đầu năm 1965, có hơn sáu trăm người thư ký, phân tích tin tức, điều
khiển gián điệp, thám báo (thường gọi là người xem xét). Trừ cơ quan ở
Virginia, trên thế giới, không có chi nhánh CIA nào có đông nhân viên như
thế. Với thời gian, nhu cầu về nhân viên trở nên cấp bách, nên các chi nhánh
khác hàng năm phải cử nhân viên tình nguyện sang Việt Nam bất kể họ có kinh
nghiệm hay không. Phần lớn tình báo tới Việt Nam đều từ Cộng hòa Liên bang
Đức hoặc Châu Mỹ la -tinh đến. Họ chưa hiểu gì về Việt Nam mà là muốn biết
Việt Nam. Mặc dù như thế, chỉ một, hai tháng sau khi đến Nam Việt Nam, chưa
biết một tiếng địa phương nào, họ cũng vẫn phải nhận nhiệm vụ ở một đồn tiền
tuyến ở Tây Nguyên hay ở vùng đồng bằng; phải tuyển mộ nhân viên, thu thập
tin tức và thực hiện một chương trình mới và mơ hồ, để cứu vãn nước này, gọi
là chương trình "phát triển nông thôn”.
Một người phân tích tin tức trước đây của CIA tên là R. Komer đã đề ra
chương trình này năm 1967 lúc ông ta là cố vấn ở Nhà trắng. Ông cho rằng,
một mặt có thể loại trừ bộ máy chính trị của Việt cộng bằng chống khủng bố,
mặt khác, có thể củng cố vị trí của chính phủ bằng những công trình lợi ích
công cộng ở nông thôn. Người Việt Nam thành lập một bộ đặc biệt. Còn người
Mỹ, thành lập cơ quan CORDS vào cuối năm 1967, phó của Komer là W. Colby,
trước đây chỉ huy những hoạt động bí mật của CIA ở Viễn Đông, thay ông ta,
đứng đầu cơ quan mới này. Cơ quan CORDS được hình thành để trở thành một
hình mẫu của chủ nghĩa thế giới quan liêu. Nhân viên hoạt động được tuyển
lựa trong đội ngũ các viên chức của phái bộ Mỹ ở Sài Gòn. CIA là cơ quan có
tổ chức, giàu có nhất trong các cơ quan dân sự của sứ quán, cuối cùng đã chỉ
đạo được phần lớn những dự kiến táo bạo của CORDS, trong đó có chương trình
Phượng Hoàng.
Colby không ngừng nhắc lại, mục tiêu của chương trình Phượng Hoàng là bắt
sống cán bộ Việt cộng, hỏi cung, tiếp đó dùng họ làm gián điệp. Nhưng chương
trình ấy quá phức tạp đối với người "đồng minh” Nam Việt Nam. Đối với những
kẻ quan liêu, đó là vấn đề định nghĩa. Không ai, dù là Nam Việt Nam hay Mỹ,
có thể nói rằng mình không thể nhận ra người này, người kia, là cán bộ Việt
cộng. Đó có phải là một xã trưởng dành nửa thì giờ để phục vụ người Bắc Việt
Nam không? Hay từ Việt cộng chỉ dùng để ám chỉ những người cộng sản thật sự,
những đảng viên? Sự thiếu chính xác đó dẫn nhân viên Phượng Hoàng đến chỗ
làm việc tùy tiện, bắt bớ lung tung, bất cứ người nào có vẻ nghi ngờ. Sau đó
ít lâu, lúc các nhà tù đầy ắp người, nhân viên Phượng Hoàng tự quyết định
lấy, đâu là luật pháp.
Trước khi báo chí tố cáo sự lạm dụng của chương trình Phượng Hoàng, CIA vội
vàng tìm cách che giấu. Năm 1969, lúc chính sách Việt Nam hóa mới được thực
hiện, T. Shackley, giám đốc chi nhánh ở Sài Gòn bắt đầu rút các nhân viên
CIA làm việc ở cơ quan CORDS cho chương trình kiến thiết quốc gia về để ông
ta tập trung vào những nhiệm vụ cũ, thí dụ như lấy tin tức về những người
cộng sản và về chính phủ Nam Việt Nam. Chi nhánh có khả năng đạt mục tiêu
thứ nhất vì từ lâu, chúng tôi tin đã có nhiều nhân viên tình báo đắc lực ở
ngay trong bộ chí huy tối cao cua cộng sản(!). Nhưng Shackley, chuyên gia
đầy tham vọng chưa bằng lòng với công việc đã làm. Trong thời gian hoạt
động, từ năm 1968 đến năm 1972, ông thúc giục nhân viên "tuyển lựa tuyển
lựa, tuyển lựa" nghĩa là lôi kéo, dọa nạt, mua chuộc bất cứ ai có thể trở
thành người giúp việc. Khi ông hết nhiệm kỳ, danh sách tình báo của CIA dài
một cách kinh khủng. Nhưng chỉ một thời gian sau đó, năm 1974, chúng tôi mới
thấy rõ sự tai hại do sự sốt sắng của Shackley đem lại. Hơn một trăm "nhân
viên” Việt cộng được tuyển lựa chỉ là những nhà buôn Việt Nam láu lỉnh,
chẳng biết tí gì về âm mưu của cộng sản. Họ chỉ thu thập những tin tức đăng
tải trên báo chí, hoặc những lời đồn đại, rồi tập hợp lại một cách thông
minh, đưa cho chúng tôi để đòi tiền với giá cao.
Còn cái "bia thân hữu, (như thường gọi đối với Thiệu), để buộc hắn theo
chính sách của Mỹ, chúng tôi phải có những nhân viên có chất lượng trong
chính phủ. Trong những năm sau khi Ngô Đình Diễm bị lật đổ, từ năm 1963,
miền Nam Việt Nam liên tiếp bị xáo trộn vì những cuộc đảo chính và chống đảo
chính. Có những viên tướng đầy tham vọng định lợi dụng tình trạng không ổn
định của nước này để đục nước béo cò. Năm 1967, trong một cố gắng cuối cùng
để chống rối loạn, chính phủ Hoa Kỳ quyết định ủng hộ một nhân vật mới, một
viên tướng miền Nam bình thường và nổi danh là phi chính trị tên gọi là
Nguyễn Văn Thiệu. Sau đó ít lâu, cùng năm ấy, Thiệu được đưa lên làm Tổng
thống. Nhưng con người hùng thật sự là Nguyễn Cao Kỳ, một người Bắc xuất sắc
nguyên Thủ tướng trở thành Phó Tổng thống. Đại sứ Bunker không hề lo sợ về
Kỳ và phe cánh của Kỳ. Dần dần, ông gạt được họ ra và chỉ cho Tổng thống
Thiệu biết rõ các vấn đề chính trị. Kỳ bi bỏ rơi hẳn sau cuộc tổng tiến công
năm 1968 của cộng sản. Trong cuộc tổng tiến công này nhiều bạn đồng minh
tin cậy của chúng tôi đã bị giết. Tư đó, mục tiêu chính của sứ quán là củng
cố bằng bất cứ gia nào chính phủ Thiệu, để cho nước Mỹ có thế rút quân ra
khỏi Việt Nam mà không sợ nổ ra một cuộc khrng hoảng chính trị mới. Tháng 10
năm 1972, nhằm mục tiêu ấy, chúng tôi đã mua, ủng hộ và bán nhiều nhà quân
sự, chính trị Nam Việt Nam, nhiều nhân viên tình báo, người hợp tác với
chúng tôi nằm trong chính phủ.
Shackley đã lôi kéo được tướng Đặng Văn Quang, viên cố vấn sôi nổi về an
ninh của Thiệu (Kissinger của Thiệu, nếu như bạn muốn gọi như thế) cộng tác
chặt chẽ với CIA. Shackley còn sử dụng được tướng Nguyễn Khắc Bình, người
chỉ huy cảnh sát độc ác của chính quyền Nam Việt Nam.
Cho đến ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn, Quang và Bình được coi là những
nhân vật có giá tri, chắc chắn nhất của chúng tôi ở Việt Nam. Nhưng họ được
đánh giá hơi cao so với thực tế. Người này cũng như người kia, không ai cung
cấp cho chúng tôi nhiều tin tức. Chúng tôi lấy tin chủ yếu nhờ những máy móc
đặt bí mật trong dinh Tổng thống. Phòng làm việc của Thủ tướng được nghe
thường xuyên. Số ít tin tức do Bình và Quang cung cấp thường sai lệch. Thật
vậy, họ nhanh chóng hiểu rằng họ phải nghĩ đến quyền lợi riêng của họ và
quyền lợi của Thiệu, không thể cung cấp cho chúng tôi đúng những tin tức
chúng tôi yêu cầu. Hơn thế, CIA phụ thuộc rất nhiều vào họ về mặt chính trị,
vì họ là những người truyền đạt những chủ trương của người Mỹ trong chính
phủ, tình hình đó không cho phép chúng tôi đánh giá những tin tức của họ một
cách khách quan hay có phê phán. Sự tín nhiệm của chúng tôi đối với hai
người này đã gây ra nhiều hậu quả tai hại, không những cơ quan thông tin bị
ánh hưởng mà cả uy tín tinh thần và chính trị của người Mỹ đối với người
Việt Nam cũng bị giảm sút. Làm cho Quang và Bình trở thành những người giàu
có và có thế lực, những điển hình về tham nhũng và thoái hóa theo lối Mỹ,
chúng tôi đã cung cấp cho cộng sản những vũ khí có hiệu quả nhất để tuyên
truyền.

Ảnh-Trưởng chi nhánh CIA tại Sài Gòn trước Polgar: Ted Shackley

Ảnh (từ trái sang):Ted Shackley, Creighton Abrams tư lệnh MACV, Tom Polgar trong lễ bàn giao chức vụ trưởng chi nhánh CIA tại Sài Gòn cho Polgar tháng 1 năm 1972
Để củng cố chính phủ Thiệu, chúng tôi không chỉ đưa hợp
tác viên vào trong đó. Trung lập hóa phe đối lập không cộng sản cũng là một
phần hoạt động của chúng tôi. Một thí dụ đáng kể là trường hợp Trần Quốc
Bửu. Đó là một nhà chính trị chắc chắn thân Mỹ, đứng đầu Tổng liên đoàn lao
công Việt Nam. CIA đã biến Bửu thành một hợp tác viên. Chúng tôi sử dụng ông
ta để thuyết phục các công đoàn trung thành với chế độ Thiệu. Bửu cũng tuyên
truyền cho chính phủ trong những tổ chức lao công trên thế giới. Thỉnh
thoảng, CIA lại giúp cả Bửu viết thư xin ủng hộ gửi cho những đoàn viên công
đoàn Mỹ.
Tất cả những người đối lập với Thiệu không phải đã hiểu tình hình như Bửu.
Khi việc mua chuộc, đút lót, tẩy chay không mang lại kết quả mong muốn.
Chúng tôi đã dùng những phương pháp mạnh mẽ hơn. Đó là trường hợp với Trần
Ngọc Châu, nhà luật học nổi tiếng, có tinh thần dân tộc, năm 1970, trở thành
một đối thủ chính trị uy hiếp Thiệu. Shackley và Colby cùng với cơ quan cảnh
sát Nam Việt Nam đã tạo cho ông ta thành một tay chân và cổ động viên của
cộng sản. Anh của Châu là cộng sản, Châu đã gặp anh theo yêu cầu của CIA.
Như thế tương đối dễ qui cho ông ta một tội, chỉ cần thêm hoặc bớt một số
tài liệu về ông ta trong hồ sơ của cảnh sát. Shackley không phải là người
dựng lên vụ này. Đó là hành động bỉ ổi của Quang, người tin cẩn của CIA.
Nhưng Shackley không hề ngăn cản mặc dù ông biết rõ sự việc. Do đó, khi
chính phủ Nam Việt Nam cho đăng trên báo chí những tội trạng giả tạo của
Châu, Shackley và đại sứ Bunker lại khẳng định là đúng. Mấy ngày sau, Châu
bị bắt ở hành lang quốc hội, giữa Sài Gòn và bỏ tù ngay. Rõ ràng là vi phạm
luật pháp. Là kẻ có tội, Châu bị giam bốn năm, mới được tha đầu năm 1975.
Mấy ngày trước khi điện về bộ chỉ huy ở Langley, Virgnia, xin phép cho Châu
di tản bằng máy bay. Nhưng Shackley, lúc bấy giờ trở thành người chỉ huy của
CIA ở Viễn Đông, đã điện về phản đối, viện cớ rằng chưa bao giờ Châu phục vụ
lợi ích của Mỹ ở Việt Nam. Thế là Châu bị bỏ rơi, mặc cho số phận.
Hoạt động khác của CIA: thu thập tin tức về trình độ của quân đội Nam Việt
Nam và tinh thần tác chiến của họ. Người giao thiệp chính của chúng tôi với
bộ chỉ huy tối cao Nam Việt Nam là cựu chiến binh dũng cảm tên là Charles
Timmes. Ông được khen thưởng trong chiến tranh thế giới lần thứ hai vì đã
chỉ huy sư đoàn dũng cảm thứ 82 là đơn vị đầu tiên đã nhảy dù và chiếm đầu
cầu Noóc-măng-đi (Pháp) năm 1944. Hollywood đã giao cho một diễn viên lực sĩ
đóng vai Timmes trong phim Ngày dài nhất. Thật là một quyết định kỳ cục. Vì
Timmes người mảnh dẻ đi đứng xiêu vẹo, giống như Fred Astaire chứ không
giống John Wayne.
Từ năm 1962 đến năm 1964, Timmes là Trưởng đoàn cố vấn Mỹ Ở Việt Nam, cốt
lõi của "Lầu Năm Góc phương Đông" sau đó. Nhiệm vụ của ông tạo điều kiện cho
ông hàng ngày tiếp xúc với những sĩ quan trẻ đầy tham vọng của quân đội Nam
Việt Nam. Một số người trong những sĩ quan này, nhất là Nguyễn Văn Thiệu,
trở thành những người bạn chí cốt. Nhưng lúc hết nhiệm kỳ thì ông cũng mệt
mỏi về vấn đề Việt Nam và xin nghỉ hưu. Nếu CIA không yêu cầu thì ông có thể
dành vài năm đi du lịch khắp thế giới. Năm 1967 đề nghị với ông một chức vụ
mà ông không thể từ chối. Đó là việc ông trở lại Việt Nam, gặp lại những bạn
cũ của ông, những sĩ quan Nam Việt Nam. Timmes chấp nhận ngay. Trong suốt
cuộc đời của ông làm việc ở CIA cho đến ngày Sài Gòn thất thủ, ông đã hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ. Là bạn đánh quần vợt đều đặn với Minh lớn, qua từng
ván một, ông đã lượm được nhiều tin tức có giá trị về phe đối lập hợp pháp ở
Sài Gòn, kể cả về bản thân Minh lớn. Thường bay luôn vê lúc tỉnh, Timmes đã
chắp nối lại những cuộc gặp mặt với nhiều chỉ huy đơn vị Nam Việt Nam mà ông
quen biết những năm trước. Mọi người đều quý mến và coi trọng ông như người
thân, họ sẵn sàng giúp đỡ ông viết tóm tắt lại những cuộc trao đổi với ông
cho chính xác. kết quả là những bản báo cáo của Timmes gửi cho sứ quán Mỹ,
nhờ ông đến tận nơi, trở thành những bản tường trình cực kỳ đúng với những
điều quân đội Nam Việt Nam đang mong muốn.
Tuy vậy những người phân tích tin của CIA, cũng như của Washington, của Sài
Gòn đều nghi ngờ những bản báo cáo của Timmes và coi đó chỉ là một quan điềm
về một vấn đề hết sức phức tạp. Nhưng dần dần, nguồn tin về quân đội Nam
Việt Nam mỗi ngày một cạn vì quân Mỹ giảm đi (năm 1970 và 1971) và cố vấn
quân sự Mỹ ở nông thôn rút về. Lúc đó giới cao cấp Washington và SàiGòn mới
coi trọng tin tức của Timmes. Những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh, đại
sứ và giám đốc CIA ở Sài Gòn đi đến mức đọc cho nhau nghe những tin tức của
ông và lấy đó làm chứng cớ thật sự cho chính những ảo tưởng của họ.
●
một ngày vĩ đại.
Mùa Thu, khi trở lại Sài Gòn, tôi trở thành một nhân
viên kỳ cựu của CIA và một chuyên gia thông thạo tình hình Bắc Việt Nam. Địa
vị và tiếng tăm của tôi trong chi nhánh không ngừng làm cho tôi ngạc nhiên.
Có phải tôi vào làm việc cho CIA năm 1968 là để tránh khỏi đi lính đánh nhau
ở Việt Nam không? Dù tôi có trở thành một bộ phận trong guồng máy chiến
tranh của chính phủ, tôi cũng không là đồng lõa, việc này nêu rõ nhược điểm
của chế độ Mỹ.
Giáo sư gợi cho tôi ý chọn nghề tình báo CIA này tỏ ra tôn trọng con người.
Sau hai năm học ở khoa các vấn đề quốc tế trường đại học Columbia, tôi có
những kiến thức chắc chắn về chiến lược làm cho giáo sư cố vấn khẳng định
rằng tôi có đủ năng lực cần thiết để trở thành một cán bộ phân tích của CIA.
Triển vọng ấy quyến rũ tôi, không phải vì những lý do nghề nghiệp hay yêu
nước. Mùa Xuân 1968, tôi suýt bị bắt lính và tôi nghĩ cách tốt nhất để tránh
khỏi phải ra trận ở Việt Nam là gắn bó số phận tôi với một cơ quan chính phủ
quan trọng. CIA tỏ ra hiếu khách. Tôi được đào tạo một cách nhanh chóng,
trau dồi lý thuyết và bổ nhiệm sang chi nhánh châu Âu, dưới danh nghĩa
chuyên gia về các vấn đề của Otan. Chỉ mấy tháng, tôi thông thạo công việc.
Người Xô viết vào Tiệp Khắc chấm dứt chủ nghĩa cộng sản thoải mái của A.
Dubcek. Các đồng minh trong khối Otan của chúng tôi ở châu Âu hoang mang,
cuống cuồng. Viên cố vấn mới của Tổng thống về các vấn đề an ninh quốc gia,
H. Kissinger, đòi chi nhánh gửi tin tức và bình luận về cuộc khủng hoảng.
Bị chất vấn nhiều quá, tôi chạy vạy suốt mùa Đông. Còn phòng động viên thôi
không còn tìm tôi nữa, coi tôi là một người lính mất tích.
Sau đó, một số đồng nghiệp của tôi sợ tôi suy sụp vì nhiều công việc, quyết
định cho tôi đi nơi khác. Buổi sáng một ngày thứ hai, một thông tri lấy
người đi Việt Nam được gửi đến các phòng. Không cho tôi biết, bạn đồng
nghiệp ghi tên tôi, gửi về ban giám đốc CIA kèm theo những lời khen đáng chú
ý. Mấy ngày sau, tôi được biết tôi đã được chấp nhận, đến tháng 6, đổi đi
Sài Gòn làm người phân tích "chiến lược của cộng sản".
Việc chuẩn bị cho chuyến đi làm cho tôi quên những ý nghĩ buồn nản, đen tối
mà các bạn đồng nghiệp đã tạo nên. Mặt khác, chính sách mới cũng dễ chịu
hơn. Cuộc thương lượng hòa bình nửa công khai đã diễn ra ở Paris. Đầu tháng
sáu, trước khi tôi lên đường, Tống thống Ni xon đã gặp Tống thống Nam Việt
Nam Nguyễn Văn Thiệu ở Midway để báo cho ông biết 25.000 quân Mỹ ở Nam Việt
Nam sẽ rút đi. Việc giảm số quân này sẽ tạo điều kiện cho cuộc đàm phán có
thể tiến triển và chứng tỏ rằng Hoa Kỳ tin tưởng vào quân đội Nam Việt Nam.
Đó cũng là bước đầu đi đến cái gọi là chương trình Việt Nam hóa. Thật ra, đó
chỉ là việc trao cho quân đội Nam Việt Nam tiến hành phần lớn cuộc chiến
tranh. Hai năm đầu từ 1969 dấn 1971, đối với tôi không có gì đáng lo như tôi
tưởng. Thật vậy, công việc của tôi, phần lớn, làm riêng biệt, không có người
ngoài biết. Chiến tranh chỉ đến với tôi, qua trung gian, thể hiện bằng hàng
lô báo cáo tình báo, xếp đầy bàn, chuyện nguy hiểm nhất tôi gặp trong những
năm ấy là một cuộc đánh nhau trong một tiệm nhảy ở Dakao, ngoại ô Sài Gòn.
Mặc dù chương trình Việt Nam hóa tiến triển nhanh, người Mỹ lúc bấy giờ, vẫn
là chủ tấn tuồng. Trong khi đại sứ Bunker và thủ trưởng tôi, Ted Shackley,
điều khiển và xâm nhập chính phủ Thiệu, đồng thời đối phó với phái đối lập
của ông ta thì đại tướng C. Abrams phụ trách kẻ thù kia. Chiến lược của ông
ta là mau chóng bình định tiếp theo những cuộc bắn phá dữ dội và tốn kém do
tướng W. Westmoreland tiến hành từ năm 1965. Mục tiêu chính của chiến lược
mới này là phá cơ sở hạ tầng của đối phương và những con đường tiếp tế từ
Bắc Việt Nam vào. Chiến lược được tiến hành lên tới đỉnh cao hồi đầu năm
1970 khi quân Mỹ phối hợp với quân Nam Việt Nam đánh vào đất thánh cộng sản
ở miền Đông Campuchia. Norodom Sihanouk, người lúc nào cũng phản đối sự can
thiệp trực tiếp của Hoa Kỳ, bị đánh đổ. Tổng thống mới của nước Campuchia,
hoàng thân Lonnol, không nói gì về việc này.
Cuộc hành quân vào Campuchia chỉ có một kết quả đáng kể. Nhờ những tài liệu
thu lượm được và nhờ sự hợp tác đều đặn với Lonnol, CIA và Lầu Năm Góc ít
lâu sau, thấy ngay rằng trong nhiều năm họ đã lầm. Con đường tiếp tế cho các
lực lượng cộng sản ở Campuchia và phía Nam Nam Việt Nam không phải là con
đường mòn Hồ Chí Minh chạy đến phía Nam Lào (do đó có những cuộc ném bom dữ
dội ở vùng này). Theo những tin tức thu thập ở Campuchia năm 1970 thì 80% vũ
khí và dụng cụ chiến tranh là do các tàu nhỏ của Bắc Việt Nam chở vào và bốc
dỡ ở cảng Sihanoukvilte của Campuchia. Sự khám phá này làm cho mọi người
sửng sốt, nhất là đối với các nhân viên CIA để có những lập luận ngược lại.
Nhưng họ đã lầm nếu họ sợ hãi. Vì không một ai, sau đó, bị thi hành kỷ luật
về sự nhầm lẫn này. Và những người sai nhất lại trở thành thủ trưởng và phó
thủ trưởng của những cơ quan phân tích của CIA. Tháng 2 năm 1971, gần một
năm sau cuộc xâm lược Campuchia, người Nam Việt Nam muốn kiếm một thắng lợi
của Abrams, tự họ, mở cuộc tiến công vào những con đường tiếp tế của cộng
sản ở Nam Lào. Chiến dịch gọi là "Lam Sơn 749" bị sa lầy ngay từ đầu. Người
Bắc Việt Nam, chiến đấu trên một chiến trường quen thuộc, đưa bốn sư đoàn
đến bao vây và đánh cho quân đội Nam Việt Nam tan tác, mặc dù người Mỹ đã
ném bom dữ dội. Cuối cùng, công cuộc bình định, đủ cho người Việt Nam hay
người Mỹ tiến hành, đều không có kết quá. Chiến dịch Lam Sơn gây cho Hoa
Thịnh Đốn sự nghi ngờ về khả năng chiến đấu một mình của quân đội Nam Việt
Nam. Mặc dù đại tướng Abrams, với sáng kiến của ông, đã mở rộng được vùng do
quân chính phủ kiểm soát ở những nơi tranh chấp trước kia ở đồng bằng Nam
Việt Nam cũng như ở dọc biên giới, nhưng kết quả ấy vẫn báo hiệu sự sụp đổ
của Thiệu. Thật vậy, lực lượng Nam Việt Nam đã tan rã một cách hết sức nguy
hiểm ngay lúc quân Mỹ chuẩn bị về nước.
Cùng với chiến dịch Lam Sơn, cuộc xâm lược Campuchia và chính sách bình định
cấp tốc, trong hai năm đầu ở Sài Gòn, tôi còn chứng kiến những cuộc thương
lượng bí mật để đưa đến một nền hòa bình giả dối ở Việt Nam. Mở đầu cuộc đàm
phán, thái độ của người Mỹ không phải là một kiểu mẫu của sự cứng rắn.
Đầu năm 1969, những ngày đầu dưới chính quyền Nixon, Kissinger bí mật báo
cho Liên Xô biết rằng Hoa Kỳ sẵn sàng xóa sạch Hà Nội khỏi bản đồ để bảo vệ
Nam biệt Nam không rơi vào tay cộng sản. Mấy tuần sau, như là để cụ thể hóa
lời đe dọa ấy, Nixon cho mở một chiến dịch ném bom vào những cơ sở của cộng
sản ở miền Đông Campuchia.
Mặc dù bước mở đâu tồi tệ ấy,Kissinger và Lê Đức Thọ, người thương lượng
chính của Hà Nội, vẫn gặp nhau trong tháng tám đế đàm phán bí mật. Thoạt
tiên, cuộc thảo luận không có kết quả. Điều kiện tiên quyết của Bắc Việt Nam
là Nguyễn Văn Thiệu phải ra đi. Nhưng mùa Xuân năm 1972, lúc tôi hoàn thành
nhiệm kỳ thứ nhất, tình hình quốc tế bao quanh cuộc đàm phán bắt đầu thay
đổi. Kissinger đạt được một số tiến bộ trong cuộc thảo luận với Liên Xô về
vấn đề hạn chế vũ khí chiến lược. Việc dàn xếp cho chuyến đi bí mật đầu tiên
của ông ta sang Bắc Kinh đã xong. Ớ Nam Việt Nam, số quân Mỹ từ năm trăm
nghìn người năm 1969, đã rút xuống còn ba trăm nghìn người. Chương trình
Việt Nam hóa với công thức lính Nam Việt Nam cộng với vũ khí Mỹ được tiến
hành. Kissinger nghĩ rằng có cơ hội để Bắc Việt Nam tỏ ra ít “cứng rắn" hơn
chung quanh bàn đàm phán. Do đó, trong mùa Thu và mùa Đông, ông bắt đầu tỏ
ra "mềm mỏng hơn” trong các cuộc thương lượng hy vọng rằng người Bắc Việt
Nam sẽ thật lòng nói chuyện. Không đưa ra điều kiện đòi quân đội Bắc Việt
Nam rút khỏi Nam Việt Nam nữa, ông nói rõ ngày quân Mỹ rút khỏi nước này với
điều kiện Hà Nội ngừng bắn trên khắp chiến trường Đông Dương và thả tù binh
Mỹ.
Lê Đức Thọ lắng nghe nhưng không hề xúc động như
Kissinger hằng mong muốn. Sự "mềm dẻo" của Mỹ được đánh giá là một sự giảm
sút về ý chí, và Bộ Chính trị Bắc Việt Nam quyết định thử nghiệm một lần
cuối cùng mở một cuộc tiến công mới vào Sài Gòn. Quyết định ấy được khuyến
khích vì sự thất bại của quân đội Nam Việt Nam ở Nam Lào hồi năm. Thất bại
này cũng chứng tỏ cho những người cứng rắn ở Hà Nội biết rằng chương trình
Việt Nam hóa không có kết quả. Trong thời kỳ ấy, tôi hoàn thành nhiệm kỳ thứ
nhất ở Việt Nam. Tôi trở về trụ sở ban giám đốc CIA mà từ đó tôi được coi là
người phân tích chính về chính sách của Hà Nội. Mặc dù có chức vụ oai vệ ấy,
tôi không hề được biết những điều bí mật trong cuộc đàm phán của Kissinger.
Gần như không một ai ở CIA biết được cả. Nhưng tôi có thể rút ra những kết
luận qua những tin tức từ Sài Gòn gửi về.
Cuối mùa Thu, luận điệu và nội dung bản báo cáo ngày càng bi đát, nhiều bạn
đồng nghiệp kết luận cùng tôi rằng một cuộc tiến công quan trọng của quân
đội Bắc Việt Nam đang được chuẩn bị. Nhưng các thủ trướng của tôi ở CIA,
luôn luôn thận trọng không đồng ý như thế và quyết định hỏi lại Kissinger về
những kết luận của chúng tôi, trước khi lấy làm quyết định chính thức của
CIA. Kissinger bận về các cuộc thương lượng và không thể nghĩ rằng Bắc Việt
Nam lại dám mở cuộc tiến công. Do đó, suốt mùa Thu và đầu mùa Đông, các thủ
trưởng ở CIA của chúng tôi, đã chặn lại và giữ bí mật hay thay đối mọi điều
kiện phân tích nêu rõ những việc Bắc Việt Nam đang làm.
Trong lúc ấy, Kissinger đòi tất cả các cơ quan cung cấp tin tức cho biết
cách làm cho Bắc Việt Nam phải nhượng bộ. CIA và Lầu Năm Góc cùng nêu ý kiến
ám sát hoặc bắt cóc một số nhân vật Bắc Việt Nam. Họ cho rằng việc đó sẽ gây
rối loạn ở Hà Nội và những người sống sót buộc phải cúi đầu tuân theo những
đòi hỏi của Mỹ. Được hỏi về triển vọng của âm mưu này, các bạn đồng nghiệp
và tôi cười phát điên. Trước đây, đã có một sự kiện tai hại. Năm 1970, quân
đội đã cho quân nhảy dù xuống một trại tù binh Mỹ ở ngoại ô Hà Nội (Sơn
Tây). Không nắm được tin tức và tình hình ở thủ đô Bắc Việt Nam nên chúng
tôi không nhảy dù đúng vào trại tù binh thì làm thế nào chúng tôi có thể đến
được nơi ở của các nhà lãnh đạo Đảng mà bắt cóc họ?
Ngày 17 tháng 2 năm 1972, trong khi Nixon chuẩn bị đi Bắc Kinh, thì
Kissinger gửi một thông điệp cho Hà Nội, trong đó, ông ta đề nghị nối lại
cuộc đàm phán bí mật ngay trong tháng. Ông muốn rằng cuộc gặp mặt lịch sử
đầu tiên giữa hai người đứng đầu nhà nước Hoa Kỳ và Trung Hoa có thể gây cho
Bộ Chính trị Bắc Việt Nam một thái độ ôn hòa. Nhưng theo cách của họ, người
Bắc Việt Nam đã bác bỏ và hẹn nối lại cuộc đàm phán vào giữa tháng 4.
Ở Sài Gòn, địa vị của Nguyễn Văn Thiệu ngày càng lung lay. Trái với người
Mỹ đầy kinh nghiệm, Thiệu không lấy làm khó chịu khi nghĩ đến cuộc tổng tiến
công mới của quân đội Bắc Việt Nam. Cuối mùa Đông, Thiệu và bộ tổng tham mưu
của ông ta đi đến kết luận rằng Bắc Việt Nam đang chuẩn bị một cuộc đánh ồ
ạt qua vùng phi quân sự, vào các tỉnh ở phía Bắc nước này. Hồi ấy, các cơ
quan tình báo Mỹ ở Sài Gòn và Hoa Thịnh Đốn bắt đầu nghi ngờ về những điều
dự đoán của mình. Tuy nhiên, nếu họ bắt đầu cho là có khả năng Hà Nội mở một
cuộc tiến công quân sự thì họ lại nghi ngờ những điều phán đoán của Thiệu.
Họ khẳng định rằng nếu có một cuộc tiến công thì đó là ở Tây Nguyên, về phía
Tây và ở đồng bằng, về phía Nam.
Ngày thứ sáu 31 tháng 3 năm 1972, bốn sư đoàn quân đội Bắc Việt Nam tiến qua
khu phi quân sự, như Thiệu đã dự đoán rất đúng. Những người Mỹ có trách
nhiệm lấy làm bằng lòng vì đã đưa được một người sáng suốt lên cầm quyền. Và
họ quên ngay những điều tính toán sai lầm của họ trước đó.
Cuộc tiến công của cộng sản diễn ra trên khắp miền Nam Việt Nam chỉ mấy tuần
sau khi Nixon từ Bắc Kinh trở về, giữa sự chuẩn bị chu đáo cho một cuộc gặp
mặt cấp cao mới ở Mátxcơva vào tháng 5. Sự trùng hợp ấy làm cho Nhà Trắng
phái tự đặt những câu hỏi hắc búa về ảnh hưởng đối với Hà Nội của những
cuộc trao đổi giữa Mỹ và Trung Quốc.
Trong những tuần đầu của chiến dịch, quân đội Bắc Việt Nam thắng lợi vang
dội. Chính phủ Hoa Kỳ đứng trước một tình thế khó xử, tiến thoái lưỡng nan;
can thiệp thế nào để cứu chính phủ Sài Gòn mà không làm gián đoạn cuộc họp
cấp cao với Liên Xô đã gần tới. Kissinger đưa ra một chiến lược hai mặt: một
mặt, ông yêu cầu Lầu Năm Góc soạn thảo một kế hoạch ném bom dữ dội nhằm
những mục tiêu quân sự ở phía Bắc vĩ tuyến 20, đồng thời thả mìn ở cảng Hải
Phòng. Mặt khác, ông quyết định đi thương lượng với Liên Xô. Trong cuộc đi
hết sức bí mật đến Mátxcơva ngày 20 tháng 4, ông Leonid Brejnev cho rằng Hoa
Kỳ đưa một số ý đồ mới lên bàn thương lượng: Hoa Kỳ không đòi quân đội Bắc
Việt Nam phải rút khỏi miền Nam Việt Nam nữa nếu người Bắc Việt Nam từ bỏ
yêu sách đòi Thiệu phải ra đi.
Không có điểm nào trong vấn đề này được thông báo cho những người phân tích
ở CIA. Chỉ có một nhà chính trị ở Hoa Thịnh Đốn biết. Đối với Thiệu,
Kissinger không hề cho ông ta biết tin gì, nhất là tin về cuộc đàm phán bí
mật có thể thay đổi tương lai của đất nước Việt Nam.
Ngày 2 tháng 5, Lê Đức Thọ bí mật gặp Kissinger ở Paris. Cuộc thảo luận
không chấm dứt được cuộc khủng hoảng chính trị và đi vào ngõ cụt. Lúc đó, vì
quân đội Bắc Việt Nam đang làm chủ chiến trường. Kissinger rời Paris với
định kiến rằng Hoa Kỳ cần phải có một sáng kiến táo bạo mới làm cho Bắc Việt
Nam "biết điều hơn”.
Tổng thống Nixon nghiêng về những cách giải quyết của Lầu Năm Góc như thả
mìn và ném bom. Trong một loạt buổi họp của Hội đồng an ninh quốc gia, người
ta hỏi ý kiến đại diện các cơ quan ở Hoa Thịnh Đốn về hiệu quả của biện pháp
trên và ảnh hưởng của những hành động ấy đối với mối bang giao giữa Hoa Kỳ
và Liên Xô. Những cuộc thảo luận rất sóng gió về vấn đề nêu ra đã tạo một
sự rạn nứt ngay trong nội bộ CIA. Những cán bộ phân tích tại chỗ như tôi,
không thể nào hình dung được rằng việc bao vây cảng Hải Phòng lại có ảnh
hưởng lớn đến cuộc chiến tranh vì phần nhiều viện trợ của bên ngoài cho Bắc
Việt Nam đều được chuyên chở bằng xe lửa chạy qua Trung Quốc. Nhưng một số
nhân viên cao cấp CIA có quan hệ chủ yếu với giới chính trị ở Hoa Thịnh Đốn
hiểu rằng Nixon muốn đi đến đâu và họ đã ủng hộ ông ta.
Nixon, chắc chắn là người quyết định cuối cùng theo lôgic đặc biệt kiểu
Nixon. Ông giải thích với các cố vấn rằng ông không thể đi Mátxcơva nếu
không bắt đầu tỏ cho Liên Xô biết rằng Hoa Kỳ không thể để bị coi là nhút
nhát. Do đó, ngày 8 tháng 5, ông công khai báo tin máy bay lần đầu tiên từ
cuối năm 1968, trở lại ném bom bên trên vĩ tuyến 20.
Tuyên bố của ông có ảnh hưởng như một quả bom nổ ở Mỹ. Nó gây ra một làn
sóng phản đối...
Cuộc gặp mặt cấp cao ở Mátxcơva diễn ra đúng lúc như đã định và Kissinger
cho rằng trong những buổi họp sau cùng, không khí có phần thuận lợi cho một
sáng kiến hòa bình ở Việt Nam. ông nói với Liên Xô: Hoa Kỳ sẵn sàng ngừng
ném bom Bắc Việt Nam trước khi các tù binh được thả nếu Hà Nội đồng ý từ bỏ
việc đòi Thiệu phải ra đi.
...Giữa tháng 7, tin tức cho biết Hà Nội có sự thay đổi trong các cuộc
thương lượng. Đôi khi, một sự đảo lộn hoàn toàn. Theo các báo cáo của tình
báo chúng tôi, quân đội cộng sản ở miền Nam Việt Nam đã bắt đầu thảo luận kế
hoạch ngừng bắn - việc truất quyền Thiệu không còn là điều kiện đầu tiên
trong các điều kiện nữa. Các nguồn tin của CIA cũng cho biết Trung Quốc mới
khuyên Hà Nội giảm bớt những đòi hỏi chính trị để đi đến ký kết hiệp định.
Mặt khác, bản thân cuộc tiến công của cộng sản cũng chậm lại vì những trận
ném bom của Mỹ vào các vùng phía Bắc nước này. Lợi dụng tình hình ấy,
Kissinger đẩy nhanh nền ngoại giao bí mật và gặp ông Lê Đức Thọ một lần nữa
ở Paris ngày 19 tháng 7 để đưa ra lập trường mới của Hoa Kỳ. Mấy ngày sau
ông đi Sài Gòn để nói cho Thiệu biết những sự kiện đã xảy ra. Nhưng, như
thói quen của ông, ông không thật thà với Thiệu cũng như không thật thà với
cộng sản. Ông không nói gì đến chủ trương của Mỹ về sự có mặt của quân đội
Bắc Việt Nam ở Nam Việt Nam, sau khi ngừng bắn.
Ở bộ tham mưu CIA, tôi và các bạn đồng nghiệp không có ai tham gia vào quỉ
kế ấy. Mùa hè qua, những tin tức thu lượm được từ bộ chỉ huy cộng sản tiếp
tục chỉ rõ rằng có một sự thay đổi trong lập trường chính trị của Hà Nội.
Một số người trong chúng tôi bắt đầu tin rằng có khả năng cuộc đàm phán đi
đến kết quả.
Nhưng một lần nữa, một số quan chức cao cấp CIA lại cho là mình khôn ngoan
hơn. Cũng như chúng tôi, họ không biết gì về hoạt động của Kissinger nhưng
họ cho rằng những cuộc thương lượng công khai tạm ngừng là một hàn thứ biểu
có thể tin cậy. Tôi tự hỏi: Thế thì người ta đào tạo cán bộ cho Nam Việt Nam
để làm gì? Thủ trưởng trực tiếp của tôi thuyết phục tôi: trên chiến trường,
quân cộng sản không thắng lợi như họ hằng mong muốn, do đó họ lợi dụng triển
vọng của nền hòa bình sắp tới để nâng cao tinh thần quân đội họ .
Không còn nghi ngờ gì là Kissinger có vẻ ngạc nhiên và thú vị với lời giải
thích ấy. Đầu tháng 8, Kissinger và ông Lê Đức Thọ đạt được nhiều tiến bộ
trong những cuộc hội đàm bí mật nên Kissinger quyết định bắt đầu phổ biến
cho Thiệu để ông ta khỏi bất ngờ. Tướng A. Haig, người đại diện cho
Kissinger được cử đi Sài Gòn báo tin lành ấy.
Theo người đã dự cuộc gặp gỡ ở Sài Gòn, Thiệu rất sửng sốt về những điều
được phổ biến, tuy Haig không nói gì về sự có mặt của quân đội Bắc Việt Nam
ở Nam Việt Nam nhưng ông nói quá nhiều về vấn đề làm cho Thiệu hiểu rằng ông
đã bị bỏ rơi.
Lúc Haig trở về Hoa Thịnh Đốn, ông báo cho Kissinger biết rằng Thiệu phản
đối giải pháp. Nhưng Kissinger không phải là con người chịu chấp nhận sự bi
quan . Rõ ràng là ông cho rằng mối quan hệ ngày càng thân thiện giữa Hoa Kỳ,
Liên Xô và Trung Quốc cho ông ta thời cơ duy nhất để đưa chiến tranh đến kết
thúc tốt đẹp và ông không để cho Thiệu làm hỏng. Khi nghe Haig báo cáo, ông
chỉ nhún vai và quyết định đi Mátxcơva ngày 10 tháng 9, tiếp sau là một cuộc
hội đàm bí mật nữa với ông Lê Đức Thọ ở Paris.
Bắc Việt Nam vừa có một quyết định rất quan trọng, cuối tháng 8, Bộ Chính
trị của Đảng đi đến kết luận rằng mặc dù cuộc chiến tranh dẫm chân tại chỗ,
họ có thể có lợi nếu tạo cho nền ngoại giao của Kissinger một triển vọng và
Hoa Kỳ sẽ không dành cho họ những điều kiện tốt hơn một khi Nixon được bầu
lại làm tổng thống tháng 11, điều dự đoán mà họ chắc chắn đúng. Hà Nội đưa
tin công khai và rõ ràng rằng họ chấp nhận những đòi hỏi cơ bản của
Kissinger. Phát biểu ý kiến trên đài phát thanh trong nước, thủ tướng Phạm
Văn Đồng nói giống như những người truyền tin cộng sản Nam Việt Nam hồi giữa
tháng 6. ông hết sức tránh việc nêu tên Thiệu trong bảng liệt kê những đòi
hỏi của cộng sản trong các cuộc thương lượng hòa bình.
May thay, cuối
tuần ấy, bản dịch bài diễn văn của thủ tướng Phạm Văn Đồng được đưa đến bộ
tham mưu CIA, lúc ấy chỉ có tôi là cán bộ duy nhất của chi nhánh Việt Nam
đang làm việc. Sau khi đọc bài diễn văn nhiều lần, tôi gọi dây nói đến nhà
thủ trưởng trực tiếp của tôi. Tôi nói với ông rằng, đó là dấu hiệu mà chúng
ta chờ đón, ông trả lời, sẽ đến.
Chúng tôi cùng nhau phân tích toàn bộ bài diễn văn, sẵn sàng trình bày trước
hội nghị hàng ngày của tổng thống, vào hồi 16 giờ. Trong kết luận, chúng tôi
nhấn mạnh một cách rõ ràng rằng không có điều kiện Thiệu phải rút lui trong
một loạt đòi hỏi của cộng sản để nối lại các cuộc đàm phán hòa bình. Điều đó
có thể là một sự thay đổi trong lập trường chính trị của Hà Nội.
Sáng hôm sau, trời đổ sụp xuống đầu chúng tôi. Nhiều quan chức cao cấp của
chi nhánh liên tiếp gọi dây nói cho tôi. Họ kết tội tôi đã lừa họ khi tôi
đưa ra tin trái với tin chiều thứ bảy mà không có một ai trong họ ở đấy để
thẩm tra. Mặc dù có thủ trưởng trực tiếp của tôi ở đấy can thiệp và nói
rằng, ông chịu trách nhiệm một phần trong việc soạn thảo báo cáo, nhưng
không một ai thay đổi thái độ đối với tôi. Vì tôi bảo vệ luận điểm cho rằng
có thể mở đường tiến tới hòa bình từ nhiều tuần qua nên tôi trở thành người
chịu trách nhiệm duy nhất về bản báo cáo.
Trong 24 giờ tiếp sau, giám đốc chi nhánh CIA ở Việt Nam ra lệnh cấm tôi
không được phân tích bất cứ điều gì và tôi sẽ phải nhận một việc khác ở một
chi nhánh khác.
Nhiều ngày sau, ngày 10 tháng 9, Kissinger đến Mátxcơva như đã định. Ông
Brejinev khẳng định với Kissinger ba ngày sau rằng bài diễn văn của thủ
tướng Phạm Văn Đồng và một bản tuyên bố tương tự của Việt cộng, sẽ chỉ rõ sự
thay đổi trong những đòi hỏi của cộng sản về cuộc đàm phán. Việc Thiệu ra đi
không còn là điều kiện đầu tiên cho việc ngừng bắn, cho việc thả tù binh Mỹ.
Tin vào những điều bảo đảm ấy, Kissinger tiếp tục cố gắng để đi đến một cuộc
dàn xếp trước cuộc bầu cử tổng thống ở Mỹ, được tổ chức hai tháng sau đó.
Trong hai tuần tiếp theo, Kissínger bí mật gặp ông Lê Đức Thọ nhiều lần Ở
Paris. Còn tôi, thoát khỏi công việc về Việt Nam, tôi chỉ còn được phép biết
những tin tức từ chiến trường gửi về. Tôi dành phần lớn thì giờ trong tháng
9 để đọc truyện tình báo ở thư viện của CIA và ngắm nhìn đám trẻ con nhảy
trên đồi sau đồn điền cà phê.
Đến cuối tháng, một người bạn thân của tôi, chịu trách nhiệm về công việc
tình báo ở Việt Nam, tỏ lòng thương hại tôi: "Cậu nghĩ thế nào về việc tạm
thời ở Sài Gòn, phụ trách việc giải đáp một nhóm tù binh chiến tranh?".
Mất đúng bốn ngày mới làm xong thủ tục khám sức khoẻ và làm các giấy tờ cần
thiết để rời phòng làm việc cũ. Ngày 2 tháng 10, tôi vượt Thái Bình Dương
đến làm việc lần thứ hai và lần cuối cùng tại sứ quán Hoa Kỳ ở Sài Gòn. Tôi
bắt đầu làm quen với chức vụ mới lúc triển vọng của hòa bình đã hình thành ở
Paris. Ngày 8 tháng 10, ông Lê Đức Thọ đưa ra đề nghị mới trong đó không có
việc Thiệu rút lui. Trong gần bốn ngày, mọi vấn đề quan trọng bậc nhất đều
được giải quyết Mặc dù có một số trở ngại nhỏ, ông Thọ và Kissinger tỏ ra
tin tưởng rằng những trở ngại cuối cùng có thể giải quyết nhanh. Cuối buổi
hội đàm, ông Thọ đề nghị ngày 31 tháng 10 sẽ tổ chức lễ ký kết và ban hành
lệnh ngừng bắn, hy vọng rằng hòa bình sẽ dấn trước ngày bầu cử tổng thống
Mỹ. Kissinger bay đi Hà Nội ngày 24 tháng 10 để ký tắt dự thảo hiệp định và
bảo đảm những điều cam kết của Hoa Kỳ.
Trong những ngày sau, Kissinger gửi một thông tri cho bộ tham mưu CIA hỏi về
phản ứng của Thiệu trước cuộc ngừng bắn. Các bạn đồng nghiệp cũ của tôi ở
Việt Nam còn nghi ngờ về những điều sẽ xảy ra, vội vàng trả lời Kissinger.
Họ nói: Thiệu không bao giờ nhận một hiệp định trong đó ghi một điều khoản
thỏa hiệp chính trị với cộng sản hay chấp nhận việc quân đội Bắc Việt Nam ở
lại miền Nam. Kissinger đọc đi đọc lại bức điện trả lời, rồi để gạt nó ra
một bên với một cử chỉ nóng nảy: “quá bi quan!". Ông ta trở về nhà, sửa soạn
hành lý đi Sài Gòn định giành cho được một câu trả lời chắc chắn.
Nếu Kissinger không tỏ ra bối rối về kết luận của CIA thì trái lại có một
người ở Nhà Trắng lại tỏ ra không yên tâm: đó là bản thân Nixon. ông càng
nghĩ đến những đề nghị thỏa thuận do Kissinger đưa ra với ông Lê Đức Thọ
bao nhiêu thì ông càng khẳng định rằng những cử tri Mỹ bảo thủ nhất sẽ coi
ông là một kẻ đầu hàng. Ông không thấy lý do để phải lao vào một cuộc tranh
cử có bóng đen trên đầu mình. Ông quyết định lợi dụng sự bướng bỉnh của
Thiệu làm cớ để chỉ đưa ra những điều đã thỏa thuận vào lúc thích hợp.
Trong lúc đó, ở Sài Gòn, Thiệu kịch liệt phản đối bằng mọi cách những người
Mỹ đã che chở ông. Trong những buổi họp đầu với Kissinger giữa tháng 10,
Thiệu bác bỏ toàn bộ dự thảo hiệp định. Đặc biệt, ông tỏ ra hằn học với điều
khoản cho phép quân đội Bắc Việt Nam được ở lại miền Nam sau ngừng bắn. Điều
này, trước đó, chưa ai nói với ông ta. Mỗi ngày, Kissinger lại đe dọa một
ít, phỉnh phờ một ít mong Thiệu thay đổi thái độ. Cuối cùng ngày 23 tháng
10, Kissinger phải công nhận trước những người cộng sản rằng không có một hy
vọng nào làm cho người Việt Nam bằng lòng ngừng bắn tám ngày sau đó như đề
nghị của Hà Nội. Kissinger gửi một thông điệp cho thủ đô Bắc Việt Nam để bỏ
chuyến đi Hà Nội và để bảo vệ những chiếc cầu chính trị ông đã xây dựng. Ông
gửi cho tổng thống Nixon một bức điện đề nghị bỏ những cuộc ném bom từ vĩ
tuyến 20 trở lên, làm cho Hà Nội có thể hiểu rằng bao giờ Hoa Kỳ cũng mong
muốn hòa bình.
Trước khi Kissinger rời Sài Gòn ít lâu, một trong số nhân viên tin cẩn nhất
của CIA, đưa cho chúng tôi bản tài liệu, ghi rõ từng chữ một, những điểm
thương lượng mà ông Lê Đức Thọ đưa ra ở Paris ngày 8 tháng 10. Đó là bản
thảo bài nói chuyện tại một cơ quan chỉ huy cộng sản ở vùng đồng bằng. Khi
Tom Polgar, giám đốc mới của CIA ở Sài Gòn đưa ra bản tài liệu cho
Kissinger, viên cố vấn của tổng thống há hốc mồm, ông ta kêu lên: Làm thế
nào ông có tài liệu này? Polgar nói với ông về nguồn tài liệu và hỏi liệu
tin tức ấy có đúng không. Kissinger công nhận là "gần đúng”.
Nhờ tài liệu ấy mà phần lớn chúng tôi, quan chức CIA và sứ quán Ở Sài Gòn,
Ở Hoa Thịnh Đốn, lần đâu tiên biết được những tiến bộ mà Kissinger đạt được
trong nền ngoại giao bí mật. Không phải chỉ riêng chúng tôi biết; trong
những buổi họp sóng gió với Kissinger cuối tháng 10, những người Nam Việt
Nam đã đương đầu với ông vì nhân viên tình báo của họ cũng kiếm được các bản
sao những đòi hỏi của óng Lê Đức Thọ. Do đó Thiệu và những người cộng tác
với ông ta đã có thể biết Kissinger đã nói dối họ vào lúc nào. Họ có thể đối
phó với mỗi bước ngoặt.
Khi Kissinger nói với người Bắc Việt Nam rằng không thể hy vọng ngừng bắn
vào tháng 10, thì người Bắc Việt Nam cho ngay đó là một sự lừa đảo. Họ quyết
định công khai hóa biên bản những cuộc hội đàm để vạch rõ trách nhiệm của
Hoa Kỳ. Ngày 26 tháng 10, Đài phát thanh Hà Nội và đài phát thanh Giải
phóng, đọc toàn văn tài liệu về cuộc đàm phán ngày 8 tháng 10. Họ phê phán
thái độ bất tín của Hoa Thịnh Đốn. Kissinger nhận định ngay rằng người Bắc
Việt Nam không hiểu ông ta. Sáng hôm sau, trong cuộc họp báo Ở Hoa Thịnh
Đốn, ông cố làm cho các nhà báo hiểu rằng những điều nghi ngờ của Bắc Việt
Nam không có cơ sở. "Hòa bình đã ở trong tầm tay", ông ta khắng định với các
nhà báo có mặt như thế. Những người này hơi lấy làm ngạc nhiên. Tiếp đó,
Kissinger nhấn mạnh rằng mấy buổi họp chung quanh bàn thương lượng không thể
dẫn đến một hiệp định dứt khoát.
Trong lúc đó, Kissinger và Nixon quyết định đưa cho Thiệu một món quà phụ để
ông ta nhận thỏa hiệp, đó là một cầu hàng không tiếp tế lớn, theo luật
Rehausser. Ngoài ra, còn trang bị lại cho quân đội của Thiệu để đổi lấy sự
hợp tác của ông ta. Ngày 9 tháng 11, chỉ hai ngày sau khi Nixon thắng cử
vang dội, tướng Haig đến Sài Gòn để đòi nợ của Hoa Thịnh Đốn. Ông nói với
Thiệu, chính phủ Mỹ mong ông đồng ý ngay với bản hiệp định vừa đưa ra. Ông
còn báo cho Thiệu biết, dù ông ta có tán thành bản hiệp định hay không,
Nixon vẫn ký bản dự thảo khi Kissinger và ông Lê Đức Thọ đã hoàn thành những
chi tiết cuối cùng, chắc chắn là vào ngày 5 tháng 10.
Hai ngày sau, Nixon gửi một bức thư dài riêng cho Thiệu, trong đó ông nhắc
lại và viết một cách cứng rắn hơn những điều Haig đã nói. Nixon viết thêm:
"ông có sự bảo đảm tuyệt đối của tôi nếu Hà Nội không tôn trọng những điều
khoản của hiệp định, tôi có thể thực hiện lập tức những cuộc trả đũa...".
Câu ấy báo trước rằng Hoa kỳ không rút khỏi miền Nam Việt Nam sau chiến
tranh. Mót sự cam kết mà quốc hội Hoa kỳ chưa bao giờ được hỏi ý kiến.
Khi Kissinger gặp lại ông Lê Đức Thọ cuối tháng 11, ông khôn ngoan đưa cuộc
đàm phán đi theo một hướng khác, tất nhiên vì quyền lợi của Thiệu. Ông đặt
cho người đối thoại hơn 60 câu hỏi phụ nữa là của người Nam Việt Nam và 44
điều thay đổi của riêng ông. Ông Lê Đức Thọ hỏi lại một vài điều thay đổi
nhưng không trả lời những câu hỏi khác do Kissinger đưa ra. Thực tế, trước
mỗi điều thay đổi, ông dần dần biết rõ mưu đồ thật sự của Kissinger. Người
Mỹ muốn tranh thủ thời gian để trang bị lại cho quân Nam Việt Nam trước khi
ngừng bắn. Ngày 25 tháng 11 ông Thọ không còn nghi ngờ gì nữa, đề nghị tạm
thời hoãn cuộc đàm phán để xin chỉ thị của Hà Nội.
Ớ Nam Việt Nam, lực lượng chính phủ lợi dụng ngay việc hoãn cuộc đàm phán để
mở rộng việc lấn đất. Giữa lúc ấy, Kissinger trở lại Hoa Thịnh Đốn để xem
xét lại những đề nghị khác nhau có thể đưa đến việc kết thúc các cuộc thương
lượng. Một trong những tài liệu do Hội đồng an ninh quốc gia đưa ra là: ý
kiến lại mở một cuộc tiến công chống Hà Nội, ném bom ngay thủ đô để buộc Bắc
Việt Nam phải chấp nhận giải quyết cuộc chiến tranh. Một giải pháp cũ cho
một vấn đề cũ. Nhưng trong hoàn cảnh hiện nay, có cái lợi là làm cho Thiệu
tin rằng Hoa Kỳ không có ý định bỏ rơi ông ta.
Đầu tháng 12, khi ông Lê Đức Thọ trở lại Paris để nối lại cuộc đàm phán
riêng với Kissinger, ông tỏ ra lạnh nhạt với dự thảo hiệp định mới của Hoa
Kỳ . Thái độ đó làm cho Kssingel càng khẳng định thêm rằng Hà Nội định kéo
dài thêm cuộc thương lượng để cho lực lượng của mình tiến công quân đội Nam
Việt Nam. Ngày 14 tháng 12, sau một cuộc tranh luận ráo riết không đi đến
kết quả, ông Thọ một lần nữa, đề nghị hoãn cuộc đàm phán để trở về Hà Nội.
Mấy ngày sau Kissinger cũng rời Paris. để cho ông phó trưởng đoàn W.
Sullivan tiếp tục thảo luận dự tháo hiệp định với những nhà thương lượng thứ
yếu của Bắc Việt Nam.
Ngày hôm sau, Sullivan điện về Hoa Thịnh Đốn báo tin rằng những cuộc thảo
luận gọi là kỹ thuật ấy, đi vào bế tắc. Lúc ấy, Nixon và Kissinger nhận định
rằng thời gian để tỏ ra cứng rắn đã đến. Quá trưa, Hà Nội nhận được một
thông điệp nhạt nhẽo của tổng thống Hoa Kỳ. Thông điệp viết: nếu người Bắc
Việt Nam không nhận đàm phán một cách nghiêm chỉnh thì 72 giờ nữa, Hoa Kỳ sẽ
ném bom trở lại từ vĩ tuyến 20 trở lên.
Ngày 18 tháng 12, thời hạn do Nixon đề ra chấm dứt. Hàng loạt máy bay B.52
bay đến miền Bắc, ném bom xuống ngay những căn cứ quân sự ở Hà Nội và Hải
Phòng. Người Mỹ nói rằng những thành phố, cho đến lúc bấy giờ chưa hề là mục
tiêu đánh phá. (Điều này không đúng. Mỹ đã ném bom Hà Nội và Hải Phòng nhiều
lần và kể cả lần này, đều ném bom xuống những vùng dân cư). Cùng lúc ấy,
tướng Haig được cử đến Sài Gòn đem theo tối hậu thư: Nếu Thiệu khăng khăng
từ chối dự thảo hiệp định ghi những nét lớn thì Hoa Kỳ cắt mọi viện trợ cho
Nam Việt Nam và ký một hiệp định riêng với Bắc Việt Nam.
Bị xúc phạm, nhưng Thiệu vẫn tỏ thái độ bất trị. Người Bắc Việt Nam hiểu
biết nhiều hơn. Sau 12 ngày ném bom, nhiều máy bay B.52 bị bắn rơi, nhiều
phi công Hoa Kỳ bị bắt và chết, miền Bắc cũng bị thiệt hại, Hoa Kỳ buộc phải
ngừng bắn và hứa thảo luận nghiêm chỉnh dự thảo cũ về hiệp định Paris. Ngày
30 tháng 12, Nixon công khai tuyên bố chấm dứt việc ném bom bên trên vì
tuyến 20.
Bảy ngày sau, Kissinger nối lại cuộc đàm phán ở Paris với ông Lê Đức
Thọ. Mặc dù nhà thương lượng Bắc biệt Nam không còn là một nhân vật “dễ
thương” như trước khi có những trận ném bom nhưng ông vẫn tỏ ra lịch sự,
đứng đắn và nhất là thái độ của ông ở bàn đàm phán, lại trở lại như trước.
Cuối cùng, ngày 20 tháng 1, Nixon tuyên bố rõ, ông sẽ ký ngay một hiệp định
hòa bình riêng với người Bắc Việt Nam nếu Sài Gòn từ chối. Bị cô lập, Thiệu
phải cúi đầu tuân lệnh.
Ba ngày sau, như đã nhận định, Kissinger và ông Lê Đức Thọ ký tắt bản hiệp
định, thay mặt cả hai bên, chế độ Sài Gòn và Chính phủ Cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Sáng hôm sau, đại sứ Bunker mặc quần áo trắng,
tiến vào hội trường ở gác ba sứ quán Hoa Kỳ ở Sài Gòn và tuyên bố, nước mắt
chứa chan: “Đây là một ngày vĩ đại đối với tất cả chúng ta. Sắp sửa có ngừng
bắn.". Tám giờ sáng, giờ Sài Gòn, ngày 28 tháng 1 năm 1973, tiếng còi buồn
bã báo động phòng không của thành phố loan tin lệnh ngừng bắn có hiệu lực.
Tôi ở trên nóc nhà khách sạn Duc và uống một cốc rượu mừng một kỷ nguyên mới
bắt đầu, cốc rượu Bloody Mary.
Mặc dù giờ đó thiêng liêng, nền hòa bình mới trở lại cũng gặp một tai nạn
nhỏ... Chúng tôi gọi là không đâu! Trong lúc vội vàng ký hiệp định,
Kissinger quên không điện cho Sài Gòn biết những thay đổi trong những ngày
cuối của cuộc đàm phán. Do đó bản tài liệu Thiệu đọc cho nhân viên Chính phủ
Sài Gòn nghe không phải là bán dự thảo hiệp định mà Kissinger và ông Lê Đức
Thọ đã thỏa thuận.
Đại sứ E. Bunker, vốn là người thường giữ gìn, khi biết sơ suất này, chỉ kêu
một tiếng: Trời ơi! Tiếng kêu đó đúng với cái gì sẽ diễn ra.
●
đại sứ martin
Ngày 24 tháng 6 năm 1973, năm tháng sau khi ngừng bắn,
Graham Martin được bổ nhiệm làm đại sứ koa kỳ ở Sài Gòn thay Charles
Whitehouse, đại biện lâm thời từ ngày Bunker về nước trước đó mấy tuần.
Martin là người thế nào? Ngay cả những nhân viên đại sứ mới này. Dần dần,
chúng tôi biết rõ thêm.
Lần đầu tiên đến sứ quán, tôi tiếp xúc với một số sĩ quan bộ binh, một người
32 tuổi tên là Moorefield. Anh ta đột nhập phòng làm việc của tôi vào tuần
thứ hai tháng 7. Vừa cầm tay tôi, anh vừa kêu lên: “Này, mình được phân công
làm việc gần ông Đại sứ, mình sẽ tìm hiểu xem ông ta thế nào. Người ta nói
với mình rằng, cậu có nhiều thế lực ở đây, cậu là người mình cần làm quen.
Tóc hung, đeo kính, cương nghị, Ken Moorefield không phải thuộc loại người
gây được cảm tình ngay. Đồng nghiệp của anh ở bộ ngoại giao cho anh là hời
hợt. Nhân viên sứ quán nghĩ rằng người ta sẽ cách chức anh. Nhưng
Moorefield, người được Martin chọn giúp việc cai trị, quả quyết rằng nếu có
người nào thay được cách xử sự của anh thì đó không phải là một con người
giỏi giang như anh mà phải hơn nhiều. Tài hùng biện và sự vững vàng của anh
rất phù hợp với cách làm việc của sứ quán dưới thời Martin.
Khác với nhiều nhân viên Martin đưa sang, Moorefield không lạ gì Việt Nam.
Tốt nghiệp trường West Point, trong những năm 60, anh nổi tiếng khi làm cố
vấn ở phía Nam vùng đồng bằng và bị thương nặng ngay năm anh được bổ nhiệm
đến Sài Gòn lần đầu tiên. Chiến công rực rỡ của anh tạo điều kiện cho anh có
thế được bổ sung vào tiểu đoàn danh dự của tổng thống ở Hoa Thịnh Đốn. Nhưng
sự phát triển của phong trào hòa bình làm cho anh suy nghĩ. Càng ngày anh
càng chứng kiến nhiều cuộc biểu tình của thanh niên trạc tuổi anh, họ đã
phản đối và thóa mạ chính quyền mà anh đại diện. Cay đắng và chán nản, anh
xin giải ngũ năm 1971 và sống một năm trời rỗi rãi để cuối cùng trở thành
một người huấn luyện bơi lội ở bể bơi gần đấy. Ở đây, anh gặp một người trẻ
tuổi tên là Martin và trở thành bạn thân của anh này. Đó không phái ai khác
mà là con út trong ba con trai của người sau đó trở thành Đại sứ ở Sài Gòn.
Gia đình Martin đã chịu nhiều đau thương. Người con cả bị chết vì tai nạn xe
hơi. Người con nuôi, Glen, là phi công lái máy bay lên thẳng trong chiến
tranh, bị bắn rơi năm 1966. Có phải chỉ vì có kinh nghiệm về Việt Nam mà
Moorefield dành được ngay tình cám của ông đại sứ mới không. Chỉ biết rằng
sau mấy lần gặp nhau, Martin đã bảo Moorefield đi Sài Gòn làm người cộng tác
riêng của ông.
Khi chọn người cựu chiến binh trẻ tuổi này làm công việc ấy, Martin đã bỏ
qua những luật lệ của tệ bàn giấy quan liêu. Chức vụ công tác viên, nhất là
ở một sứ quán quan trọng như sứ quán Sài Gòn, được coi là một chức vụ đặc
biệt thường dành cho những cán bộ xuất sắc thuộc Bộ ngoại giao. Moorefield
không xuất sắc, không phải là viên chức ngoại giao. Có lẽ điều đó đã thuyết
phục ông Martin, vì ông là người tự học, không thích kiểu cách làm việc của
Bộ ngoại giao. Ông muốn có một người chiến đấu, có thể giúp ông làm mọi
việc, chứ không phải một viên chức! Chức vụ ấy rất hợp với Moorefield như
người đấu quyền anh có thêm găng. Nhưng, trong 18 tháng sau đó, anh không
trở thành người thân thiết của Martin như điều anh mong muốn, Martin vẫn là
con người xa cách, không thể gần được. Ông đánh giá Moorefield là một con
người thông minh, và lẽ dĩ nhiên, là con người không thật trung thành. Tuy
vậy, hai người vẫn trao đổi kinh nghiệm với nhau và qua đó, Moorefield thấy
có phần nào cảm tình với thủ trưởng của mình. Ngày Martin đến Sài Gòn,
Moorefield đã cầm tay ông Đại sứ giúp ông xuống thang máy bay. Ngày 30
tháng 4 năm l975, Moorefiefield cũng ở bên cạnh ông đại sứ giúp ông, lần
này, lên may bay lên thẳng, đưa ông đi vĩnh viễn khỏi Sài Gòn.
Bên ngoài, Graham Martin là một người tự mãn, tỏ ra không cần sự giúp đỡ của
một ai. Con một vị mục sư, ông được nuôi dạy hết sức khắt khe theo phương
pháp giáo dục của đạo tin lành miền Nam ở tỉnh nhỏ Mars Hill, vùng Carolina
Bắc. Ông nói theo kiếu các nhân vật của thánh kinh, như một tín đồ. Ông
thường nhắc lại với bạn bè và đồng nghiệp rằng ông được như thế này là nhờ
sự giáo dục nghiêm khắc của cha ông mà ông thừa hưởng. Ông giải thích trước
một ủy ban của quốc hội: tôi tránh được phiền muộn là nhờ những điều khuyên
dạy của cha tôi: tôi quá lười biếng để có thể nói dối được. Ông cũng khẳng
định rằng nếu anh nói thật, anh sẽ không bao giờ còn nhớ những điều anh nói.
Tốt nghiệp trường Wake Forest College năm 1932, anh thanh niên Martin, năm
sau, làm phóng viên ở Hoa Thịnh Đốn cho một loạt tờ báo nhỏ ở miền Nam nước
Mỹ. Sau này, ông nói: Tôi được coi là một phóng viên khá. Năm 1933, ông bỏ
nghề làm báo và hợp tác với New Deal của Roosevelt. Ông dược làm phó cho
Averell Harriman, lúc bấy giờ là giám đốc cơ quan khôi phục lại đất nước.
Người thanh niên vùng Carolinia phớt đời và chịu đựng, tranh thủ được nhiều
tình cảm của thủ trưởng. Ông này đã giới thiệu với anh phần lớn giới thượng
lưu ở Hoa Thịnh Đơn. Có dạo, anh là sĩ quan tình báo trong quân đội dự bị.
Một sự bổ nhiệm đã quyết định hẳn tương lai của Martin. Sau này, ông kể lại:
"Lúc bấy giờ, người giao cho tôi chịu trách nhiệm cả một vùng, buộc tôi phải
làm việc. Tôi chịu trách nhiệm cả vùng Đông Nam Á. Khi chiến tranh nổ ra,
sáng nào, tôi cũng phải báo cáo với bộ trưởng bộ ngoại giao Henry L. Atimson
và đại tướng George Marshall, diễn biến tình hình chiến sự ở Thái Bình Dương
trong 24 giờ qua". Nhưng công việc ấy tạo cho Martin niềm say mê làm công
việc thu lượm tin tức và "tình ưu ái" đối với châu Á. Ông cũng trở thành
người thầy trong việc tóm tắt tin tức. Ông giải thích: "Tôi thuộc lòng những
bản báo cáo nên nói rất tự nhiên". Ông sử dụng nghệ thuật lấy một cách sung
sướng trong suốt đời làm nghề ngoại giao của ông.
Sau chiến tranh, cả nước không còn quan tâm đến chủ nghĩa phát xít mà chú ý
đến chủ nghĩa cộng sản quốc tế. Bạn của Martin ở Hoa Thịnh Đốn nhờ đến khả
năng của ông, nhanh chóng đưa ông vào cuộc đấu tranh mới này. Được Harriman
và nhiều người khác ủng hộ, năm 1947, ông vào làm việc ngay ở Bộ Ngoại giao
và được bổ nhiệm ngay làm cố vấn chính trị tại sứ quán Hoa Kỳ ở Paris. Ở
đây, ông trở thành một chuyên gia về những trò ngoắt ngoéo nhưng quan liêu
của Bộ.
Về sau, ông phải trả giá đắt về sự tiến nhanh của mình ở Bộ Ngoại giao. Mùa
hè năm 1973, vừa mới đến Sài Gòn thì một nhà báo Mỹ đã tố cáo rất đúng rằng
đại sứ mới chưa hề tốt nghiệp trường ngoại giao. Bài báo đó làm Martin tức
giận. Và ông vội vàng cấm không cho thủ phạm là George Mẹ. Arthur, viết cho
tờ Los Angeles Times, tiếp xúc chính thức với sứ quán. Đó là mối bất hòa đầu
tiên giữa Martin với giới báo chí Mỹ ở Sài Gòn.
Trong tám năm làm việc ở Paris đã nâng cao năng lực làm viên chức, nhất là
sự hiểu biết về "kẻ thù". Từ năm 1947 đến năm 1956, thời kỳ chiến tranh thứ
nhất ở Đông Dương, ông nghiên cứu thái độ của Bắc Việt Nam và đồng minh của
họ, thái độ của những người cộng sản Pháp và châu Âu. Dần dần, sự nguy hiểm
của việc tuyên truyền của cộng sản ám ảnh ông và ông dành tất cả nghị lực
của mình để chống lại nó.
Từ vị trí quan sát ở Paris, ông cũng thấy một mối nguy hiểm khác mà lúc bấy
giờ ít người Mỹ thấy. Ông hiểu rằng chủ nghĩa thực dân cũ hay biến tướng của
nó, đã chết ở Đông Dương, và nếu Hoa Kỳ cố can thiệp trực tiếp vào đế cứu
nó, thì kết quả chỉ là một thất bại thảm hại. Ông trình bày trước một ủy ban
của quốc hội mấy năm sau: "Tôi đã theo dõi sự tiến triển của chiến tranh du
kích của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ sai lầm nghiêm
trọng nếu trước một làn sóng yêu nước sâu rộng, chúng ta cố khôi phục lại
chế độ thuộc địa của Pháp, nhất là ở Viễn Đông. Tôi chỉ nghĩ rằng sẽ là một
tội lỗi nếu chúng ta giúp đỡ người Pháp, và tôi đã nói rõ việc này.
Martin trở lại Hoa Thịnh Đốn giữa những năm 50. Ông làm việc một năm ở
trường không quân. “Ở đây, trong những buổi giảng dạy, tôi đã cố gắng làm
cho mọi người chú ý đến cuộc chiến tranh Đông Dương, không một phút nghĩ
rằng ít lâu sau, chúng ta sẽ phải can thiệp". Sau đó, Martin còn nhận nhiều
chức vụ khác, chủ yếu là làm cố vấn cho cho đoàn đại biểu Mỹ ở Liên hiệp
quốc. Cuối cùng, năm 1963, ông được thăng làm bộ trưởng và đợi đi làm đại sứ
ở Thái Lan, một chức vụ quan trọng mà nhiều người mong muốn. Ở đây, ông nổi
tiếng là người thương lượng giỏi của Bộ Ngoại giao. Ông cũng gặp nhiều may
mắn. Một hôm, có một ứng cử viên tổng thống khốn khổ, tên là Richard Nixon
dừng lại Bangkok, Martin cho trải thảm đỏ, đón "người công dân bình thường"
ấy; và khi trở thành tổng thống Hoa Kỳ, Nixon đã trọng thưởng Martin.
Chức vụ đại sứ ở Bangkok không chỉ là một chức vụ tốt lành, có lợi về chính
trị. Trong bốn năm ở sứ quán, Martin đã phải đấu tranh với những nhà quân sự
Mỹ muốn biến Thái Lan thành một Việt Nam nữa. Rút bài học của chiến tranh
Đông Dương lần thứ nhất, ông đã phản đối xu hướng này. Đến mức, ông phải
trục xuất người tùy viên quân sự của ông là tướng Wlliam Stiliwell, một con
diều hâu. Ông lấy làm tự hào về việc này. Tự hào đến mức bực mình vì thất
vọng không được David Halberstam, mấy năm sau, nêu tên trong một tác phẩm đồ
sộ là The Best and the Brightest (Những người ưu tú và xuất sắc nhất) nói
về những nhà chiến lược Hoa kỳ. Mùa Hè năm 1974, trước một ủy ban của quốc
hội, ông than phiền: "Trong cuốn sách ấy, thậm chí tôi không được nhắc đến.
Tôi biết khi người ta hỏi Halberstam vì sao lại quên tôi, tác giả đã trả lời
rằng mục đích cuốn sách là chỉ rõ khi bộ máy quân sự đã lên đường thì không
có người nào cản trở nó được. Nếu trong cuốn sách ấy, tác giả lại nói đến
tôi, người đã đấu tranh có kết quả, làm cho người Mỹ không dính líu trực
tiếp vào cuộc nổi loạn ở Thái Lan thì tác giả đã tự chống lại luận điểm của
mình".

Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn 1967-1973 Elsworth Bunker, người
tiền nhiệm của Martin
Mặc dù ông chống lại sự dính líu của Mỹ ở Thái Lan, Martin không thấy khó
chịu khi phải ủng hộ sự can thiệp quá sâu của Mỹ ở Việt Nam. Năm 1974, ông
trình bày trước quốc hội: "Khi tôi được bổ nhiệm sang Bangkok, tôi tưởng
rằng, thỉnh thoảng người ta hỏi tôi,"có nên để Việt Nam sụp đổ không. Vì tôi
không đủ tầm cỡ để phân tích cho mình, tôi trá lời rằng để như thế không có
lợi cho Hoa kỳ. Tôi đã nghĩ và vẫn nghĩ thế: Nếu có thể tránh được và không
phải trả giá đắt thì tốt. Chính sách tốt nhất là, nếu vì quyền lợi của chúng
ta, chúng ta không muốn một hình thức xâm lược mới thì chỉ nên viện trợ quân
sự, có thể có một số cán bộ khung, không nên đưa hắn lực lượng của chúng ta
vào.
Martin góp phần vào cuộc đấu tranh chống cộng sản mới ra đời ở Đông Dương
bằng cách thuyết phục người Thái Lan, giữa những năm 60, cho lực lượng Hoa
Kỳ thuê những căn cứ không quân lớn nhất của họ để Mỹ ném bom những con
đường tiếp tế của cộng sản ở Lào, Campuchia và Việt Nam. Mặc dù, công khai
ông đã chối không có những hiệp định này, nhưng trên thực tế, phần lớn những
phi vụ Mỹ đi ném bom ở đường mòn Hồ Chí Minh, miền Nam Lào đều xuất phát từ
những căn cứ "mượn” của Thái Lan.
Glen, người con nuôi của Martin bị giết ở vùng Tây Nguyên, miền Nam Việt Nam
khi ông làm việc ở Bangkok được ba năm. Từ đó tính tình và ý kiến của viên
đại sứ có vẻ thay đổi. Ông mất cả một ít khoan nhượng của mình đối với công
việc bàn giấy quan liêu. Năm 1967, trong khi ông không ngừng cố gắng ngăn
cản việc quân Mỹ vào Thái Lan, ông đã thố lộ sự thiếu kiên nhẫn của mình với
bộ trưởng ngoại giao. Trong một bức điện đặc biệt hỗn xược, ông yêu cầu Dean
Rusk phải ủng hộ ông. Sau này Martin kể lại: tôi bị mất chức ở Bangkok vì có
những ý kiến không đúng với phép tắc lễ nghi.
Kỷ luật ấy, tuy nhiên, không kết thúc đời hoạt động của viên đại sứ cáu
kỉnh. Một năm sau, người bạn thân của ông, Richard Nixon, trúng cử vào Nhà
Trắng, khôi phục địa vị cho ông và bổ ông đi làm đại sứ ở Rome, để đền đáp
sự kính phục trước kia. Trong lịch sử của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đây là một
trong những vụ khôi phục địa vị chính trị nổi tiếng.
Trong ba năm Ở Italia, Martin xử sự rõ ràng là một đại sứ của một nước lớn.
Ông chọn những người giúp việc tận tụy và điều khiển sứ quán với một bàn tay
thép. Ông không để có một trách cứ nào đối với bản thân cũng như đối với Bộ
Ngoại giao. Cũng như ở Bangkok ông khám phá thấy chung quanh ông, có một kẻ
thù. Lần này, không phải là quân đội Mỹ, mà là chi nhánh CIA ở Italia. Tự
khẳng định rằng mình là một nhân viên tình báo còn giỏi hơn tất cả nhân viên
tình báo của CIA gộp lại, Martin quyết định kiểm tra lấy và trực tiếp giữ bí
mật những gì do Hoa Thịnh Đốn giao để điều khiển chính sách của Italia.
Trước khi hết nhiệm kỳ ở Rome, Martin đã đạt được thắng lợi chính trị vang
dội. Trước cuộc bầu cử vào Thượng nghị viện nước này năm 1972, ông cung cấp
cho đảng Dân chú thiên chúa giáo hàng nghìn đô la, nhờ đó đảng này đã chiếm
ưu thế so với những người cộng sản. Một thắng lợi tạm thời, vì những người
cộng sản tiếp tục dành được cử tri, nhưng thắng lợi trên tạo một giá trị
tượng trưng cho Martin. Ông có thể rời Rome một cách hồ hởi. Ông đã đánh
bại cuộc tiến công của cộng sản ở một trong những nước đồng minh rất gần gũi
của Hoa Kỳ.
Martin định nghỉ hắn sau khi ở Rome về. Ông đã mua một trang trại ởToscane,
như ông cho biết sau này với một vẻ hài hước nặng nề, - định ở đó để viết
một cuốn sách và ghép một cành Ô liu với một cây đỗ tùng, nhờ đó có ngay một
thứ rượu Martin không cần pha. Nhưng đầu mùa Hè năm 1972, Kissinger đề nghị
ông nhận một chức vụ mới, đặc biệt phức tạp mà một nhà ngoại giao kỳ cựu,
William Sullivan, đáng lẽ thay Bunker ở Sài Gòn, đã từ chối. Martin có bằng
lòng nhận chức vụ này không.
Martin kể lại: "Mặc dù tôi thích châu Á, và ở đấy tôi có nhiều bạn nhưng tôi
đã mất tám tháng để suy nghĩ: "Không ta không đi. Tôi không hề tưởng đến
những gì sẽ xảy ra. Nhưng khi những nhà chức trách cao cấp nhất của nước Mỹ
nói rằng: "Tôi nghĩ ở Bộ Ngoại giao, người ta nhận những chức vụ khó cũng
như những chức vụ dễ. Anh sẽ phải trả lời: Thưa vâng, đó là việc chúng tôi
thường làm. Rồi anh sẽ tìm cách giải thích cho vợ anh biết việc anh đi Sài
Gòn chứ không phải về trang trại ở Toscane. Martin cuối cùng đã trả lời
Kissinger rằng ông ta bằng lòng nhậm chức trong một năm, chứ không hơn.
Bà Dorothy Martin đã chống lại quyết định ấy cho đến phút cuối cùng. Bà ta
đã mất một đứa con ở Việt Nam và có một ác cảm tự nhiên đối với nước này. Bà
hiểu rằng chồng bà sẽ chẳng lợi lộc gì, khi nhậm chức ở đấy vì ông ta phải
bảo vệ một chính sách mà hầu hết người Mỹ đã phản đối.
Lần đầu tiên lúc tôi gặp Graham Martin, ông đang cúi xuống một cái bàn rộng,
dài trong phòng nhận tin của tùy viên quân sự ở căn cứ không quân Tân Sơn
Nhất. Mặc một bộ quần áo kẻ sọc, lưng gù, tóc xám, mặt nhăn nheo và cắt tóc
giống một bức tượng bằng gỗ, nói không ngoa, ông tựa như hình ảnh viên đại
sứ Hollywood. ông nói về sự cam kết, sự cần thiết phải làm việc, với những
từ nghe vui tai sau sáu tháng ngừng bắn mà chưa có kết quả gì mới. Tôi chú ý
đến cái nhìn của ông, xám xịt và lạnh lùng như đá. Đối với những người có
đâu óc tưởng tượng nhất trong chúng tôi, ông ta giống một con rắn sẵn sàng
mổ.
Lúc nào không ra mắt, không đứng làm đại diện thì Martin là một con người
bình thản, khiếm tôn, gần như thẹn thò. ông ta có dáng đi và tư cách của
người miền Nam (nước Mỹ) hồi xưa, rất quyến rũ đối với phụ nữ. Tướng John
Murray, tùy viên quân sự một hôm nói rằng: "Thật là một con người làm mê
hoặc lòng người. Vợ tôi cho rằng không có một người nào khác đáng mê bằng
ông ta. Nhưng cái bề ngoài ấy dấu kín ý chí thép của một người không có gì
làm cho xúc động. Những nhân viên đã làm việc lâu với ông vẫn nhớ, với lòng
cảm phục, cái ngày khủng khiếp mà ông ta biết tin người con là Glen bị chết.
Hai ông bà đang chuẩn bị đến dự một cuộc tiếp kiến của vua Thái Lan. Những
báo cáo đầu tiên thu nhỏ vấn đề: "Vâng, Glen bị thương, nhưng không nặng
lắm". Đến khi biết rõ sự thật, ông chịu đựng, không nói một lời nào với vợ.
Ông đưa vợ đến dự cuộc tiếp kiến và xử sự đúng, với sự thận trọng và tư cách
mà người ta chờ đợi ở một viên đại sứ Hoa Kỳ.
Về hình thức, Martin có vóc người mảnh và cao. Ông ta còn chịu hậu quả của
một tai nạn xe hơi, chỉ hơi quay đầu được từ trái sang phải. Bệnh tật ấy hạn
chế hoạt động của ông ở Việt Nam. Ông không thể đi thăm nội địa nước này để
tự mình tìm hiểu tình hình. Thực tế, chỉ có một lần, ông ra khỏi Sài Gòn.
Mặc dù ở ẩn dật, Martin không chịu ngồi rỗi. Hút thuốc nặng, mất ngủ liên
miên, ông làm việc dẻo dai, cho tới khuya, ở phòng riêng trong sứ quán, đọc
những bản báo cáo tin tức và tình báo.
Một chị thư ký bực mình về cách làm việc đơn độc ấy. Một hôm, nửa đùa nửa
thật, chị ta so sánh ông với đức chúa trời: "Tôi biết có ông ấy đấy, nhưng
tôi chẳng trông thấy ông ấy!". Câu nói đùa ấy, cũng như nhiều câu khác,
không đúng đối với Martin. Ông ta độc lập và có uy quyền, nhưng đối với các
nhân viên phục vụ, còn dễ gần hơn nhiều so với Bunker và những vị đại sứ
trước.
Thỉnh thoảng ông ta cũng nghỉ ngơi, đi xem chiếu phim. Buổi tối, sau bữa ăn,
ông lên phòng khách, những người lính gác chiếu cho ông xem những phim ảnh
Mỹ mới nhất mà sứ quán Sài Gòn nhận được trước tiên. Tôi còn nhớ được xem
phim cùng ông vào một buổi tối năm thứ hai ông ở Việt Nam. Lúc ấy ông đang
phải chống chọi với quốc hội và báo chí.

Graham Martin, đại sứ Mỹ cuối cùng tại Sài Gòn, 1973-1975
Chúng tôi xem phim Những ngày cuối cùng của Hitler và
thấy cảnh đứng túc trực bên linh cữu của tên trùm quốc xã trong căn hầm ở
Berlin. Sau cuốn phim thứ nhất, khi đèn bật sáng, Martin đã nhìn tôi thở
dài: "Anh biết đấy, tôi bắt đầu hiểu cái đồ chó chết ấy phải bối rối thế
nào". Ông rời ghế đi lên phòng làm việc nghiên cứu những hồ sơ tình báo.
Còn như nhân cách của Martin, nó giống như một cái kính trăm màu hiện ra một
lúc, không một màu nào phản ảnh đúng. Một hôm, ông nói trước một ủy ban của
quốc hội rằng nghệ thuật đạo diễn là một phần của vốn kiến thức ngoại giao.
Trong trường hợp đó, ông thực chất là nhà ngoại giao, người diễn viên xuất
sắc có thể đóng vai bất cứ người nào trong chúng tôi. Nhưng nghệ thuật ấy đã
làm ông phải trả giá đắt vì ở ông, không có gì hoàn toàn thật, hoặc hoàn
toàn giả. Với thời gian, ông trở thành bất lực để phân biệt giữa việc đạo
diễn và sự thật. Ông tưởng rằng có thể bóp méo sự thật theo quan điểm của
mình. Ông đã thất bại trên cả hai mặt.
Một đồng nghiệp nói: "Lúc đầu, ông giống một nhân vật lãng mạn đi chinh
phục. Nếu anh có một chút lãng mạn, anh rất có khả năng làm như ông ta".
Nhiều người khác đánh giá thấp hơn tính thay đổi của ông. Một người cộng
tác với ông nói: "ông ta có đủ mọi thói xấu đã làm hại những vị đại sứ ở
Việt Nam. Một người khác nói: "ông bẩm sinh là một người hay lật đổ. Nói
chung, hay đánh lừa, hay làm cái việc bí mật. Định trị anh, ông ta tìm nhược
điểm của anh như một con cá mập tìm mồi. Thí dụ lúc ông tức giận, tiếng nói
của ông trở nên thì thầm khó nghe. Mục đích của ông làm cho anh phái thật
chú ý. Một bận giám đốc CIA ở Rome đã phải đeo máy nghe. Cứ chỉ đó buộc
Martin phải nói to. Đối với những sĩ quan quân đội Mỹ ở Sài Gòn, thoạt tiên,
Martin hình như hợp với họ. Một người ở Lầu Năm Góc nói: "Sau B.52, ông là
nhân vật ưu tú, một người khác khẳng định: ông là một người Mỹ siêu ái quốc,
bất chấp người Việt Nam. Chỉ có Hoa Kỳ là đáng kể. Và nếu ông có thể hành
động theo ý mình, tôi chắc là cờ Mỹ sẽ không còn những ngôi sao nữa, mà chỉ
có một con rắn ngửng đầu lên với những dòng chú thích: "Đừng dẫm lên tôi".
Tướng Murray, đã từng phục vụ cả ông Bunker lẫn ông Whitehouse, cho rằng
không một ai trong hai ông này có thể bén gót chân ông Martin: đó là một con
ác điểu!
Một hôm, tướng Murray nói với tôi: "Khi Martin đến Sài Gòn, ông ta không hề
hỏi tôi về tình hình tài chính hay tình hình ăn, ở, tinh thần quân đội hay
cái gì gì đó thuộc loại này. Cái ông muốn biết là chúng ta có sắp ném bom
những căn cứ cộng sản ở dọc biên giới Campuchia không? Tướng Murray giải
thích rằng máy bay B.52 không được ném bom ở đấy vì có nhiều thường dân.
Tướng Murray và tướng John Vogt chỉ huy không quân, đều nhắc cho ông đại sứ
mới biết rằng Lầu Năm Góc vẫn chưa bỏ lệnh ấy. Nhưng Martin trả lời: tôi sẽ
xin phép cho các anh ném bom". Tướng Murray nói rõ hơn. Vogt nhìn tôi, tôi
nhìn Vogt. Hai chúng tôi đều nghĩ rằng gã này là một đồ tồi! Nhưng, anh biết
không, Martin đã xin được phép ném bom 30 ngày trước khi có lệnh thôi bắn
phá Campuchia.
Nhưng khi chúng tôi cho máy bay đến các mục tiêu, đôi khi chúng tôi cũng bảo
phi công chừa ra một số khu vực. Thí dụ, tôi còn nhớ một cái làng nhỏ có
xưởng vũ khí. Martin hỏi tôi sao không ném bom xuống đấy, tôi trả lời: ở đấy
có nhiều dân lành. Chúng tôi tập trung ném bom xuống mục tiêu quân sự Martin
trả lời tôi: Anh nói với Vogt rằng tôi không cần biết ở đó có dân thường hay
không. Tôi nói lại với Vogt, Vogt bảo tôi: có lẽ ông ta bất chấp tất cả!
Theo một ý nghĩa khác, Martin đúng là Nhà Trắng của Nixon được kéo dài thêm.
Cũng như tổng thống, ông ta là một người cực kỳ chống cộng, có một niềm tin
gần như của tín đồ tôn giáo. Một anh bạn nói: "ông ta coi cộng sản là người
xấu xa nhất. Việt Nam là một chiến trường tâm lý.
Tuy nhiên, quan điểm của Martin không phải chỉ do thành kiến mà có. Cũng như
Kissinger, ông nhìn cuộc chiến tranh Việt Nam trong tình hình chung của thế
giới, tách riêng ra, nó là một nhân tố quan trọng của sự cân bằng trên trái
đất, và nhất là, là một yếu tố quan trọng của nền an ninh Hoa Kỳ. Martin
giải thích trước nhiều ủy ban của quốc hội: tôi kiên quyết khẳng định rằng
chúng ta phải chấm dứt mau chóng sự cam kết của Mỹ ở Việt Nam. Nhưng cách
làm của chúng ta vô cùng quan trọng. Tôi nghĩ rằng mục đích của chúng ta
phải là rút ra, và để lại một Việt Nam mạnh về kinh tế, đủ sức tự vệ về quân
sự, có quyền tự do để lựa chọn chính phủ và những người thủ lĩnh của mình,
đủ khả năng đi đến một sự dàn xếp với kẻ thù ở miền Bắc. Tôi nghĩ rằng nếu
chúng ta hoàn thành tốt việc này thì sẽ gây ảnh hưởng lớn về hình ảnh nước
Mỹ, về ý chí của Hoa Kỳ và về lời bảo đảm của Hoa Thịnh Đốn với Bắc Kinh.
Martin không những kính phục nhà ngoại giao Kissinger mà còn coi trọng bản
thân Kissinger nữa. Ít nhất cho đến khi Việt Nam sụp đổ. Một hôm, ông ta kể
một chuyện chứng tỏ sự thân thiện mà ông tưởng có giữa hai người, Kissinger
và ông ta cùng ở trong phòng rửa mặt dành cho quan chức cao cấp trên tầng
thượng Bộ Ngoại giao. Martin nói nhỏ qua vai Kissinger: ông là một thần kỳ..
Kissinger trả lời ngay: ông Graham ạ, ông cũng là một thần kỳ theo kiểu cách
của ông.
Theo một trong những người cộng tác gần gũi với Kissinger thì Martin chỉ là
một dụng cụ có ích cho bộ trưởng ngoại giao, "một con rệp" dùng để làm những
việc bần thỉu, một ống thu lôi để hứng lấy những lời công kích đáng lẽ là
chĩa vào Kissinger và Nhà Trắng. Mặt khác, chính sách của Kissinger đòi hỏi
những sở trường mà viên dại sứ phải có. Nói cho đúng, đó không phải là một
chính sách, theo ý nghĩa thật sự của từ này, mà chỉ là bề ngoài của chính
sách. Hoa Kỳ phải quì gối mà bỏ Việt Nam nhưng phải làm sao gây được ấn
tượng là Hoa Kỳ đàng hoàng rút khỏi nơi đây. Muốn thế, phải có một thầy phù
thủy và có nghệ thuật đạo diễn. Martin là bậc thầy trong vấn đề này. Hơn
thế, một trong những mục tiêu của Kissinger là đảm bảo sự vừng chắc cho
Thiệu đồng thời vẫn làm cho hắn phụ thuộc vào Mỹ, do đó, Kissinger càng cần
có ở Sài Gòn, một con người hiểu biết và đủ sức mạnh để điều khiển người Nam
Việt Nam. Martin đã chứng tỏ có những khả năng ấy.
Lập tức, Martin hoạt động theo hướng của Kissinger. ông ta dùng mánh khóe
mua chuộc, đánh lừa làm cho quốc hội ủng hộ Thiệu, khôi phục tín nhiệm của
người Mỹ đối với Thiệu. ông tiến công ngay những người thuộc phe đối lập có
lợi cho tuyên truyền của Hà Nội vì ông cho đấy là trở ngại duy nhất cho
những mục tiêu của ông. Những người này đã làm suy yếu ý chí của người Pháp
trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Martin nghĩ rằng họ đang làm
như thế đối với những người Mỹ còn lại. Báo động với Quốc hội và dư luận
người Mỹ, tiếp tay bộ máy tuyên truyền của Hà Nội. Theo Martin, sự nguy biến
không chỉ do việc tuyên truyền của Hà Nội mà còn do một âm mưu lật đổ thật
sự của một hệ thống những người thuộc phái tà và có cảm tình trên khắp thế
giới đang giúp Hà Nội vì những nguyên nhân riêng. Một hôm, Martin tuyên bố
với một nhóm người Mỹ mới đến: Tôi đã theo dõi những sự kiện xẩy ra ở Đông
Dương một phần tư thế kỷ nay, chưa bao giờ tôi hoảng về hiệu quả, sức mạnh
và sự hoàn bị về kỹ thuật của bộ máy tuyên truyền của Hà Nội. Thật có một
không hai trong lịch sứ.
Martin khẳng định rằng những nhóm hòa bình khác nhau ở Hoa Kỳ phục vụ trực
tiếp cho việc lật đổ lớn ấy. Người ta giục ông chứng minh mối quan hệ trực
tiếp giữa những nhóm hòa bình với những tổ chức cộng sản ở nước ngoài. Ơ Sài
Gòn, CIA phí công vô ích tìm chứng cứ trong hồ sơ không có gì cả. Nhưng
Martin vẫn giữ nguyên ý kiến của mình và cam đoan rằng có một mối quan hệ tư
tưởng giữa những người hòa bình và những người cộng sản, họ đều có ý muốn
chung là đánh đổ chế độ Sài Gòn. ông kết tội cả giới báo chí Mỹ đã tham gia
tích cực vào âm mưu ấy. Mấy tuần sau khi Sài Gòn thất thủ, ông viết trên tờ
báo Times rằng những đồng nghiệp cũ của ông, những người viết báo, phải chịu
trách nhiệm một phần về những sự chia rẽ ở Hoa Kỳ đã làm cho nước này co
mình lại trong mấy năm qua.
Vụ đổ vỡ Watergate làm cho ông càng củng cố thêm ý kiến là giới báo chí vừa
độc ác, vừa có nhiều ảnh hưởng. Đối với những đồng nghiệp ở bộ ngoại giao,
ông cho rằng họ chỉ là những người nhút nhát đáng xấu hổ. Trước khi đi Sài
Gòn, Martin còn nhận định là không có một ai ở Hoa Thịnh Đơn biết giữ bí
mật. Do đó, vừa đến sứ quán, ông ta đã ra lệnh hạn chế việc phổ biến tin bí
mật có thể làm hại "khách hàng mới của ông. Mọi tin tức về người Nam Việt
Nam phạm sai lầm đều được xếp ngay vào hồ sơ tối mật để hạn chế việc gửi
sang Hoa Thịnh Đốn. Đôi khi, ông chỉ nói là cấm phổ biến, rất đơn giản. ông
cũng đòi những bản báo cáo của sứ quán phải rõ ràng, ngắn gọn, để sau nay dễ
loại bỏ những phần không có lợi. Thí dụ muốn thành lập một hồ sơ về một nhân
vật Nam Việt Nam tham nhũng, phải có nguồn tin thật chính xác. Nhân vật càng
ở cấp cao, nguồn tin càng phải thật chính xác. Do đó, Hoa Thịnh Đốn ít khi
biết được những việc lạm dụng của giới lân cận Thiệu. Martin củng cố ngăn
ngừa việc làm cố chấp của các nhân viên trước đây đã từng làm hại đến sự
nghiệp của Hoa Kỳ. Trong một bức điện, ông nói rõ rằng; yêu cầu mỗi người
trong sứ quán và những bạn đồng nghiệp ở Hoa Thịnh Đốn, không nên quá để tâm
vào những nhận xét về tư cách các nhà chính trị Nam Việt Nam. Theo ông, phải
chấp nhận cái xã hội này với mọi thói xấu của nó. Ít lâu sau, trong một
thông báo gửi Hoa Thịnh Đốn, ông đã viết nhẹ đi rất nhiều về những tội lỗi
của giới cầm quyền và chỉ huy quân đội Nam Việt Nam. Ông viết: mức độ tham
nhũng phổ biến ở Nam Việt Nam cũng gần giống như mức độ tham nhũng ở bang
Massachusetts và thành phố Boston trong những thập kỷ của đầu thế kỷ này.
Chúng tôi đã đối phó, nhưng không thể chấm dứt sớm được. Sự lạc quan của
Martin, quan điểm riêng của ông trở thành quan điểm nổi bật của sứ quán. Đại
sứ biết Việt Nam rất ít. Một mình làm việc trong phòng, ông dành hàng giờ để
nghiên cứu những tập hồ sơ rồi rút ra kết luận của mình. Trừ tổng
thốngThiệu, ông gặp một vài lần vào cuối tháng, còn ông ít đến thămnhững
người Nam Việt Nam. Một người bạn ông nói: Graham cóvẻ coi những người Nam
Việt Nam như những con tốt trên bàn cờ.
Một hôm, ông nói với tôi: "Tôi là một người theo Jefferson. Chúng ta phải
đối xử với người Việt Nam như Jefferson đã dạy chúng ta cách đối xử với đồng
bào. Xen vào công việc của họ càng ít càng tốt Nhưng sau khi Sài Gòn thất
thủ, ông đã thổ lộ với một đồng nghiệp ở bộ ngoại giao: Chưa bao giờ ông tin
người Nam Việt Nam cả, làm như họ thua trận là họ đã phản lại ông.
Martin triệt để lợi dụng sự tín nhiệm của tổng thống Nixon để tỏ rõ quyền
lực. Ông từ chối chưa đi Sài Gòn vội chừng nào mà Nhà Trắng chưa dành cho
một máy bay riêng. Trong những buổi họp hoặc thảo luận với nhân viên, ông
không ngừng nhắc lại rằng cấp trên duy nhất của ông là Kissinger. Do đó, khi
đón tiếp vị bộ trưởng ngoại giao, ông ta để ông này ngồi bên trái mình.
Việc bất chấp phép tắc lễ nghi đã nhanh chóng gây nên nhiều cuộc xung đột
với giới ngoại giao và quân sự. Trước và khi đến Sài Gòn, ông đã bất hòa với
đô đốc Noel Gayler, tổng chỉ huy hạm đội Thái Bình Dương. Ông cho rằng lão
già ở biển này chưa thật kính trọng ông. Tướng Murray cũng có vấn đề phép
tắc lễ nghi với Martin. Mỗi tháng một lần, tướng Murray tổ chức một buổi họp
ngắn với các quan chức cao cấp của sứ quán và một buổi họp với nhân viên
CIA. Murray nói lại với tôi: "Martin chỉ đến dự phiên họp đầu tiên, sau đó
không đến nữa.
Một người cộng tác với tôi cho biết lý do là vì trong khi tôi làm chủ tọa
buổi họp, tôi lại mời Martin ngồi bên phải tôi. Tôi nói với Francis: trời
ơi, lần sau tôi sẽ mời ông ta ngồi lên ngai vàng. Nhưng Martin không đến dự
nữa!
Martin chú trọng đến phép tắc lễ nghi chủ yếu vì chiến
thuật. Ông ta đang có một đồng minh lúc nào cũng lo lắng và cần được sứcmạnh
và uy tín của Hoa Kỳ che chở. Vì viện trợ tài chính và quân sự ngày càng
giảm nhiều, nên Martin muốn tỏ rõ sự ủng hộ của nước mình, không có cách nào
khác là nêu bật oai quyền riêng.
Bản thân sứ quán cũng cần có một thủ trường vững vàng và không khoan nhượng.
Khi Martin đến, vẫn còn 9.000 viên chức Mỹ ở Việt Nam. Làm thế nào để điều
khiển một khối nhân viên đông và hỗn tạp như vậy, nếu không phải là ý chí và
uy tín!
Trong tất cả các bộ phận của sứ quán, bộ phận khó điều khiển nhất là Phái bộ
quân sự (Lầu Năm Góc phương Đông trước kia), với 400 nhân viên quân sự, 50
cựu sĩ quan quân đội Hoa Kỳ và 2500 viên chức dân sự Mỹ làm hợp đồng. Mùa Hè
năm 1973, Nhà Trắng định giảm số nhân viên ở đây xuống mức thấp nhất. Nhưng
mặc dù có ngưng bắn, Martin đã phản đối kịch liệt ý kiến này. Ông cho rằng
văn phòng của tùy viên quân sự rất cần cho sự sống còn của chế độ Sài Gòn và
cơ quan thông tin của nó sẽ bổ sung và đối chiếu với cơ quan tình báo CIA.
Ông cũng cho rằng phái bộ quân sự rất cần đối với ông để kiểm tra người Nam
Việt Nam. Tuy chắc chắn là sẽ điều khiển được Thiệu và bộ sậu của hắn. Nhưng
ông vẫn cho rằng nhà binh thường kính trọng nhà lính nên ông đề nghị với
tướng Murray và bộ tham mưu của tướng này nắm chặt giới quân sự Nam Việt
Nam.
Dưới sự chỉ đạo của Martin, phái bộ quân sự giữ nguyên sức nặng của nó, ít
nhất là trong 18 tháng đầu sau khi ngưng bắn. Đại sứ cũng nghĩ đến quyền lợi
bản thân và quyền lợi của bọn tay chân người Nam Việt Nam. Nhưng việc đó chỉ
đem lại hậu quả tai hại. Do sự phụ thuộc quá nhiều của sĩ quan bộ chỉ huy
tối cao Nam Việt Nam vào các cơ quan của tướng Murray nên quân đội Nam Việt
Nam không thể có một sáng kiến nào, ngay dù chỉ là một sự cảnh giác đơn
giản. Trong những tuần đầu Ở Việt Nam, Martin dành nhiều thời gian tìm hiểu
Murray. Những khó khăn ông gặp phải ởThái Lan với tướng Stillwell làm ông
nghi ngờ các tướng lĩnh.
Về mặt nghiệp vụ, Murray có vẻ là người tinh thông. Anh ta có vóc nhỏ bé,
khô khan nhưng ham làm việc như viên đại sứ.Trong nhiệm kỳ trước ở Việt Nam,
Murray đã chứng tỏ là người có tài. Một hạ cấp của ông cho ông là người sử
dụng giỏi vũ khí nặng, chuyên gia về nghệ thuật cung cấp, trong một thời
gian kỷ lục có thể tiếp tế đủ vũ khí đạn dược của Mỹ vốn đã thiếu, cho một
đơn vị Nam Việt Nam cũng thiếu. Đó là đặc tính cần thiết, đối với đại sứ, vì
sự sống còn của chế độ Sài Gòn tùy thuộc vào làn sóng tiếp viện không ngừng
từ Hoa Kỳ sang.
Nhưng do tình hình nên tướng Murray chưa phải là người lý tưởng của đại sứ.
Một cộng tác viên của đại sứ nhận định: tướng Murray không phải là một con
người kiên trì. Chịu lắng nghe người khác, tinh thông nghiệp vụ, uyên bác.
Bậc thầy trong nghệ thuật trình bày có hình ảnh nhưng thiếu kiên trì. Do đó,
Martin không tin ông ta lắm nhưng đã làm ngơ trước khuyết điểm đó để sử dụng
mặt ưu điểm vào một công việc đang cần. Để cho tùy viên quân sự khỏi quên
rằng chính Martin mới là thủ trưởng nên đại sứ đã dùng mọi mánh khóe ông ta
sàng lọc được ở Bangkok. Sau khi đến Sài Gòn ít lâu, ông cử một trong những
cộng tác viên trung thành đến làm việc ở Bộ tổng tham mưu tại Tân Sơn Nhất
để theo dõi tướng Murray. Sau này, Murray nói: "Martin cho rằng tôi viết
nhiều báo cáo mà không cho ông biết. Martin luôn luôn làm cho người này
chống lại người kia, để không một ai có thể đủ uy quyền về một vấn đề nào.
Ông ta chỉ nói chuyện riêng với tôi, không có vấn đề gì khác. Không khi nào
tôi biết được chuyện gì đã xảy ra ở sứ quán trừ việc tôi báo cáo với Martin
điều ông ta nói với tôi.
Giữa cơ quan của Murray và cơ quan CIA, hai tổ chức trụ cột của sứ quán,
Martin mau chóng phân công rõ ràng để cơ quan này không giẫm chân lên cơ
quan kia.
Để kiểm tra Murray tốt hơn, đại sứ tuyển nhiều người trung thành ngay trong
giới thân cận viên tướng này. Một trong những người ấy là viên sĩ quan tình
báo đại tá Bill Legro, sau trở thành người chỉ huy mọi hoạt động của cơ
quan. Từ bộ binh đến, đã chiến đấu ở Việt Nam, Legro là một người bình tĩnh,
kín đáo. Trước hết đó là một người lính tốt, tôn trọng kỷ luật, thi hành kỷ
cương chu đáo. Dần dần, Martin dành được lòng tin của Legro và sử dụng anh
ta để gây ảnh hướng, điều khiển cả Phái bộ quân sự.
Chỉ huy tình báo Legro cững là người lý tưởng để chống lại CIA. Khi quan
điểm của CIA khác xa quan điểm cưa đại sứ, bao giờ Legro cũng theo ngay quan
điểm của đại sứ và gửi báo cáo về Hoa Thịnh Đốn theo tinh thần ấy. Nhận định
tình hình của Legro cũng giống như nhận định của đại sứ. Là cựu chiến binh,
Legro biết rõ khả năng của người Bắc Việt Nam. Do đó, anh ta có xu hướng
công nhận và còn đánh giá cao sức mạnh của họ. Những điều phân tích của anh
đã ủng hộ mạnh mẽ những đơn vị xin viện trợ quân sự bổ sung của Martin trình
lên Quốc hội. Mấy tuần sau khi Martin đến Sài Gòn, Legro đã dự đoán cuộc
tiến công ồ ạt của quân đội Bắc Việt Nam trong những tháng sắp tới. Việc đó
làm cho Martin hết sức vui lòng.
Ngoài những diều phân tích của Legro, Martin còn đòi
Phái bộ quân sự phải có một màng lưới tình báo dân sự ở khắp trong nước để
cung cấp tin tức về quân đội Nam Việt Nam. Màng lưới này do đại tá Ai
Weidhas chỉ huy, chỉ được Lầu Năm Góc ủng hộ và phần lớn dẫm chân lên công
việc của CIA. Đó đúng là mục đích của Maltin. Nhiệm vụ của Weidhas cũng như
của Legro là làm trái với giám đốc CIA.
Martin đào tạo nhân viên dân sự, nhằm những mục đích tương tự như đào tạo
nhân viên ở Phái bộ quân sự. Ông ta không muốn chung quanh mình có người có
thể nói trái ý ông hoặc cản trở ông. Những người dưới quyền phải là Martin
con, nhất là những tùy viên hay cố vấn.
George Jacobson, 62 tuổi, một người còn lại của ê kíp Bunker, đã phục vụ ông
hết sức trung thành. Là quan chức đã làm việc dưới bốn thời đại sứ khác nhau
ở Việt Nam, "Jake" là máy nhớ của sứ quán. Trong 15 năm trước ở Sài Gòn, ông
đã góp công sức vào việc thực hiện chương trình bình định. Ông quen biết hầu
hết người Việt Nam quan trọng trong chính phủ.
Martin cử ông ta làm người giúp việc, hoạt động thực tế. Với một ê kíp nhỏ.
Ông chịu trách nhiệm về những nhà canh nông ở rải rác khắp nước này. Không
phải là một chức vụ quan trọng vì ông cùng chịu trách nhiệm với 4 lãnh sứ
quán ở ngoài Sài Gòn – nhưng ông đã tỏ ra rất có ích cho đại sứ. Bao giờ ông
cũng theo lệnh của Martin, bao giờ cũng phải cúi đầu trước ý kiến của
Martin.
Trong nhiều buổi họp với các nhân viên hoặc nghe báo cáo, tôi quan sát
Jacobson: ông ngồi yên lặng, lắng nghe không chút phản ứng, đại sứ nói một
cách ngây thơ về nền an ninh đã được khôi phục ở đồng bằng. Chuyên gia về
bình định, Jacobson biết rõ tình hình ấy. Nhưng sau này, ông phải trả giá
đắt vì tiếp tục làm việc dưới quyền Martin.
Một nhân viên kỳ cựu ở Việt Nam, Josiah Bennett cũng được Martin che chở. Đó
là một người mảnh như sợi chỉ, đã tỏ ra dũng cảm trong cuộc tiến công năm
1968 của cộng sản, hồi anh ta làm cố vấn ở tỉnh. Một số người biết anh cho
rằng đại sứ không thích anh lắm, nhưng họ quên rằng Martin rất chú trọng đến
quyền lợi riêng. Khi những người cộng sản chiếm được Trung Quốc cuối những
năm 40, Bennett là một viên chức trẻ của bộ ngoại giao ở Trùng Khánh. Hoàn
cảnh đó tạo cho anh trở thành người chống cộng kịch liệt. Không những Martin
đánh giá cao thái độ ấy mà còn định khai thác tối đa khả năng của Bennett.
Ông ta cho anh làm cố vấn chính trị, tức là người thứ ba trong bộ tham mưu
của ông và ông ủy quyền cho anh duyệt lại nội dung và hình thức những báo
cáo của sứ quán. Trong 18 tháng tiếp theo, Bennett làm tròn nhiệm vụ đúng
như yêu cầu của Martin. Anh dành phần lớn thì giờ để sắp xếp lại những bản
báo cáo về tội ác, đưa cho Martin gửi cho một số đại biểu quốc hội và cất
giữ ở bộ ngoại giao, nơi ra chỉ thị cho chính phủ Nam Việt Nam. Anh cũng
hiểu nhanh ý định của đại sứ. Đầu năm 1974, một viên chức ngoại giao trẻ
định xin phép gửi về một bản báo cáo tố cáo tệ tham nhũng trongchính phủ
Thiệu, Bennett phản đối vì, như anh viết trong lời giải thích: "Tôi không
biết Hoa Thinh Đốn sẽ làm gì với tài liệu ấy, nhưng nó có thể rơi vào tay
nhà báo Jack Anderson, ông này có thể cho đăng ngay không cần biết hậu quả".
Cơ quan khó điều khiển nhất sứ quán chắc chắn là cơ quan chịu trách nhiệm về
báo chí, “hắc thú” của Martin. Sở thông tin Hoa Kỳ (USIS) đã cử nhân viên
của mình sang Sài Gòn. Thủ trưởng cơ quan này là Alan Carter, không phải là
người của Martin và hơn thế, không đồng ý với nhận định xấu xa về giới báo
chí của đại sứ.
Vui vẻ không nói nửa miệng, khác với Martin, Carter tán thành việc tiếp xúc
thật thà và trực tiếp với các báo và phản đối việc coi báo chí là kẻ thù.
Nhanh chóng anh bị bỏ rơi, không được dự các buổi họp nội bộ do đại sứ chủ
tọa, không được xem các điện gửi đến. Còn đại sứ thì ra lệnh tất cả các câu
hỏi của giới báo chí, đều phải đưa cho John Hogan, một nhân viên kỳ cựu dưới
thời đại sứ Bunker. Hogan được giữ lại làm việc vì đã tâng bốc những ý kiến
của Martin. Chính Hogan - nghề chính là viết những bài hát - được giao nhiệm
vụ thảo những bài đả kích cay độc của đại sứ chống giới báo chí.
Trong tất cả các nhân viên ở sứ quán, người nguy hiểm nhất đối với Martin là
Tom Polgar, thủ trưởng của tôi. Ông có những nguồn tin độc lập và điều khiển
một cơ quan mạnh và tự trị, không có gì để phải sợ bản thân đại sứ. Ông cho
rằng chi nhánh CIA đã cung cấp những tin tức rất có lợi cho Martin và chính
Martin nợ Polgar chứ không phải ngược lại.
Tuy vậy, trong các nhân viên cao cấp ở sứ quán, chính Polgar lại là người tỏ
ra kính trọng và phục Martin nhất. Ông có những lập luận như đại sứ, cũng
chống cộng và ham thích việc nghiên cứu, phân tích tin tức. Mặc dù hai người
có nhiều điểm không giống nhau và có khi chống đối nhau nhưng cuối cùng, hai
người trở thành hai con ngựa của một cỗ xe, rất hợp nhau.
Nhận xét đầu tiên của tôi đôi với Polgar vẫn còn in trong trí nhớ: Về hình
thức, ông không phải là người có thể làm lu mờ tiếng tăm của đại sứ: bé,
lùn, có dáng đi của một người bán thịt với những cánh tay lực lưỡng, ông
giống như một đứa bé lớn quá khổ chứ không phải là "người giúp việc riêng
cho đại sứ" như chức vụ của ông. (Tôi đã viết như thế trong cuốn sổ tay sau
khi tôi gặp ông). Mặt tròn, xoa kem, mũi dày, đeo kính gọng to, vuông, tóc
thưa dựng đứng trên vành tai như những cái gai. Khi vào phòng làm việc của
ông, cái đầu tiên phải chú ý là cái bàn bằng gỗ sến rất rộng kê ở đầu gian,
giống như một con rùa đang mơ màng.
Ở phòng này có đủ đồ đạc đành cho các vị thủ trưởng, một ghế xô pha, mấy ghế
tựa kê rải rác. Trên tường, có một bức tranh đáng chú ý. Đó là bức phác họa
một Việt cộng đâm ngọn giáo vào một con voi trong khi có một Việt cộng khác
đang giơ cao một cái búa lớn định đập nát đầu con thú. Dưới bức tranh, có
chú thích: "Cuộc tiến công cuối cùng của Việt cộng: pháo binh nặng". Một
tượng trưng về sự châm biếm của Polgar.
Nhân vật kỳ cựu này không bao giờ tiếp cộng tác viên của mình ở cửa phòng
làm việc. Người ta nói với tôi, thỉnh thoảng, có một người quan trọng đến
thăm, ông lẳng lặng đi vào phòng, giơ tay ra, không nói một lời. Đối với
chúng tôi, cuộc đón tiếp được qui định như một cuộc vũ ba lê và làm cho
chúng tôi phải hiểu thứ bậc trên dưới. Thoạt tiên, vào phòng đợi, chờ mỏi
mắt. Ở đây, có hai thư ký luôn luôn chế nhạo sự sốt ruột của chúng tôi. Sau
đó mới được vào gặp thủ trưởng. Nhưng phải đứng khúm núm, cách xa bàn giấy,
giống như một con rùa. Lão ta đang chúi đầu vào nghiên cứu một hồ sơ cực kỳ
mỏng. Lão ngẩng mặt lên, nhìn anh bằng một ánh mắt ngờ vực. Lưng ghế tựa bao
phủ lên vai tròn của lão như những cánh chim bằng da. Sau một lúc chờ đợi -
buổi tiếp nào cũng diễn ra như thế - lão thở một cái lấy tay xoa mũi rồi lên
giọng: "Ông muốn gì?". Những tiếng ấy được nói với giọng người Trung Âu (bắt
chước đúng giọng nói của Kissinger) nhằm vào anh như một lời trách móc. Anh
cố giải thích. Lão cắt lời anh: "Ồ, phải, tôi biết rồi, ồ, phải, tôi có
nhớ”. Rồi lại ngừng. Mắt nhìn đăm đăm vào tập hồ sơ, lại thở, lại xoa mũi.
Sau cùng lão đứng dậy. Mắt nhìn vào tập giấy cầm trong tay, lão đến chiếc
ghế dài. Ngồi chắc chắn đâu đấy rồi lão mới ra hiệu cho anh ngồi xuống một
ghế tựa thẳng đứng. Cuộc nói chuyện bắt đầu.
Tom Polgar sinh Ở Hunggari, trong những năm 20, gốc nông dân. Như nhiều
người đồng hương của lão, lão thích ruộng đất. Nhưng vì là người Do Thái và
nói giọng lơ lớ nên khi thấy bóng nước Đức của Hitler bắt đầu tỏa sang phía
Đông, lão quyết định xây dựng tương lai ở nơi khác. Đầu những năm 30, trốn
sang phương Tây và đi Mỹ. Trong những chuyến đi này, lão bập bẹ học nhiều
thứ tiếng nhưng không thành thạo một thứ tiếng nào và không giấu được giọng
Hunggari. Nhưng trong chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Mỹ tuyển tình
báo viên, đã đồng ý chấp nhận Polgar vì nói được nhiều thứ tiếng. Nhập ngũ
rồi, lão được đổi đến cơ quan tình báo Office of Strategic Service, được đào
tạo để trở thành một nhân viên phản gián, được thả dù xuống sau hàng ngũ
quân Đức, trong túi chỉ có một tấm thẻ đảng viên Đảng Nadi để tự vệ.
Sau chiến tranh, nhờ trẻ và hăng, Polgar leo rất nhanh trên bậc thang cấp
bậc của cục tình báo Trung ương Mỹ CIA lúc ấy đang phát triển. Nhờ biết
nhiều thứ tiếng, rất nhanh, lão được bổ nhiệm là người phó chính cho tướng
Lucian Truscett, một vị anh hùng của chiến tranh thế giới thứ hai, trong
những năm đầu của thập kỷ 50, trở thành giám đốc CIA ở Cộng hòa Liên bang
Đức. Đây là một chi nhánh rất quan trọng, có tới 1000 nhân viên. Làm việc
với Truscett, Polgar trổ hết tài năng tổ chức và nhờ đó, đã thành đạt một
cách vẻ vang. Sau nhiệm kỳ ở Cộng hòa Liên bang Đức, lão nhận nhiều chức vụ
khác, ở đâu cũng được cấp trên chú ý. Cuối những năm 60, Polgar được làm
giám đốc CIA Ở Achentina. Ờ đây lão gặp một bước ngoặt tàn nhẫn và không
ngờ. Một bọn người Mỹ ăn cướp máy bay, hạ cánh xuống sân bay Buenos Aires để
lấy dầu. Người ta đề nghị Polgar thuyết phục chúng thả những con tin. Polgar
kể lại với tôi việc ấy như sau: "Rất đơn giản. Những kẻ cướp máy bay bắt đầu
nóng nực vì ở trong ấy không có máy điều hòa không khí. Tôi cho đem côca
côla đến, trong đó tôi đã bỏ thuốc mê. Chúng uống xong, nằm lăn ra, thế là
tôi lên máy bay, tước hết súng". Trước nhiều bạn đồng nghiệp và thủ trưởng,
Polgar được coi là một anh hùng. Ít lâu sau, người ta cử lão đến một trong
những nơi quan trọng và khó khăn nhất của CIA, đó là trùm CIA ở SàiGòn.
Trước đó, lão chưa hề bước chân đến châu Á.
Do giọng nói và nguồn gốc nên Polgar lúc nào cũng cảm thấy xa lạ đối với
các nhân viên CIA và lúc nào cũng phải tỏ ra hiểu biết nhiều về kiến
thức cũng như trên thực tế. Theo lão, nhân cách của Kissinger đứng về
một mặt nào đó, cũng quan trọng như chính sách của ông vì giọng nói và
nguồn gốc của Kissinger cung cấp cho Polgar đủ chứng cớ để tỏ rõ rằng
người nước ngoài có thể thành đạt trong giới thượng lưu của nền ngoại
giao Hoa Kỳ.
Polgar lúc nào cũng giữ gìn, cố gắng tránh xa những người khác, có lẽ
vẫn mặc cảm mình là người nước ngoài. Nhưng lại thoải mái với các đồng
nghiệp dưới quyền vì họ không thể làm hại lão được. Còn ngoài ra, ít gần
ai.
Do những đặc điểm riêng ấy, Polgar giao thiệp dễ dãi với những người
Việt Nam. Trong xã hội Sài Gòn, những vị tướng và chính trị gia giữ chức
vụ nổi tiếng chỉ có khoảng độ 12, 13 người. Polgar lấy làm thú vị đến
chơi với họ. Có lẽ với giới này, lão được nể nang hơn là với những người
Mỹ. Người Việt Nam cũng lấy làm hãnh diện được Polgar đến thăm. Nhưng có
phải vì thế mà quyền lợi của Hoa Kỳ được bảo vệ tốt hơn không? Đó là một
vấn đề khác. Đến thăm những người có thế lực ở Sài Gòn. không hiểu
Polgar có phần nào giảm mất đầu óc nhận xét không, hay lại tin những
điều họ nói. Ngay cả khi Polgar biết rằng họ chỉ nói vì lợi ích của họ
mà thôi? Những bản báo cáo của Polgar gửi cho HoaThịnh Đốn về những nhân
vật này, chưa bao giờ đúng tới mức như lão tưởng.
Cách đối xử của Polgar, cũng như tính châm biếm của lào đều nặng nề như
nguồn gốc của lão. Có lần lão bỏ một buổi biểu diễn hài hước rẻ tiền;
nếu có người dám phê bình và tỏ ra nghi ngờ ý kiến của lão thì lão thẳng
tay bác bỏ. Polgal thường bảo chúng tôi, khi nói về những đại biểu tự do
trong quốc hội. "Không bao giờ nên đấu với những con lợn. Chúng thấy
thích thú trong cuộc đấu ấy nhưng còn các anh thì chỉ làm bẩn mình".
Nếu có thể tin được một trong những người đã cộng tác lâu với Polgar thì
theo anh ta, Martin và Polgar bí mật ghét nhau cũng vì những nguyên nhân
nói trên. Polgar là một người Hunggari di cư, về mặt xã hội, lẽ đương
nhiên là ghét cái mà Martin đại diện. Còn Martin luôn luôn tỏ ra là con
người quí tộc miền Nam nước Mỹ, có vẻ khinh bỉ Polgar về nguồn gốc và
tham vọng của lão. Martin một hôm nói với tôi: "Sai lầm lớn nhất của
Polgar là sự kiêu căng quá đáng của anh ta". Không còn nghi ngờ gì
Polgar cũng có một nhận xét như thế đối với Martin.
Tuy vậy, Polgar cũng phục Martin về nhiều tài năng của ông này - nhất là
về nghệ thuật viết và nói văn hoa. Polgar vốn thường dùng lời nói như
một vũ khí, một cái mộc, đã khen ngợi đại sứ là người khéo chơi chữ hơn
ai hết.
Trong những buổi họp vào chiều thứ năm, Polgar thường thích thú đọc to
những bức điện của đại sứ. Đọc xong những câu lão cho là hay nhất, lão
bình luận: con người này là một khẩu súng. Một khẩu súng!"
Polgar làm việc đúng như điều người ta dạy lão. Được đào tạo làm phản
gián cho nên lão quan niệm hoạt động chính trị nghĩa là sử dụng tin tức
và con người. Việc đó lão làm rất thoải mái, tự nhiên. Nhưng cũng như
nhiều tay tình báo chuyên nghiệp khác,lão có vé quá thuộc những bài học.
Tài năng trở thành bản năng và do những nhân viên của Martin thúc đẩy
nên lão dã sử dụng tài năng của mình đối với bất kể mục tiêu nào, dù đó
là HoaThịnh Đơn, Hà Nội hay Sài Gòn.
Mấy tháng trước khi Sài Gòn thất thủ, trong khi sứ quán cố gắng xin quốc
hội chuẩn y một viện trợ bổ sung, một trong những cộng tác viên của
Polgar gửi cho lão một bức thư, trong đó anh ta phàn nàn về giọng văn
ngày càng gay gắt của những bản báo cáo của CIA trái với ý định tốt của
chúng tôi là cung cấp cho Martin tài liệu tuyên truyền mà đại sứ cần
dùng để gây ảnh hưởng trong cuộc bỏ phiếu của quốc hội. Polgar thảo một
thư trả lời tỏ rõ quan điểm của lão về trách nhiệm: "Tôi đã biết lời phê
phán của ông và muốn nói rõ thêm để tránh mọi sự hiểu lầm có thể xảy ra
đối với tôi là giám đốc chi nhánh. Tôi chỉ huy một trong những cơ quan
của tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn. Đại sứ là người đứng đầu phái bộ và theo ý
kiến của tổng thống Kennedy và những tổng thống khácnối tiếp sau, đại sứ
phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của Mỹ ở nước này. Nếu đại sứ, dù
là ông Martin hay ông khác, bảo tôi cung cấp cái gì, tôi cố gắng thỏa
mãn với ông điều kiện là cái đó không có gì là không hợp pháp và không
ảnh hưởng đến trách nhiệm của tôi".Theo Polgar, không một ai trong chúng
ta được vượt quá mức mà chính sách, sự liêm khiết, sự biết điều và phần
nào sự khôn ngoan đòi hỏi. Về phần tôi, tôi không tán thành ý kiến giấu
giếm sự thật viện cớ rằng sự thật có thể bác bỏ một số nhận xét của
chúng ta. Sự thật đôi lúc có thể gây ra tranh cãi không thể buộc chúng
ta không cung cấp nó.
Nhận xét ngắn này tóm tắt tất cả triết lý về nghề nghiệp của Polgar và
nhiều quan chức cao cấp của CIA. Không phải đơn thuần là một người thu
lượm tin mà là người tìm cách thuyết phục và hành động, cố gắng gây ảnh
hưởng đối với những người có quyền quyết định, dù họ là những ủy viên Bộ
chính trị của Hà Nội hay là những người to tiếng nhất trong quốc hội ở
Hoa Thịnh Đốn. Đó là kết quả lôgic kinh nghiệm của Polgar về những cuộc
chiến tranh dù lạnh hay không, trong ba thập kỷ qua, đồng thời đó cũng
là một triết lý được Martin tán thành hoàn toàn.
Quá khứ và nguồn gốc của Polgar cũng giữ một vị trí trong tác phong làm
việc của lão ở Việt Nam. Mặc dù chống cộng kịch liệt, lão cũng nhớ đến
Tổ quốc quê hương. Lúc phái đoàn Hunggari trong đoàn quốc tế kiểm soát
quân sự đến Sài Gòn, Polgar chú ý ngay đến phái đoàn này, như nghe tiếng
gọi của dòng máu.
Mới đầu, người ta ra lệnh ngay cho lão tiếp xúc với những người
Hunggari. Theo một qui tắc ngoại giao, tổng thống Thiệu chưa bao giờ
công nhận đại sứ Hunggari trong Đoàn đại biểu quốc tế. Martin cũng từ
chối không cộng tác với phái đoàn, mà để cho Polgar tiếp xúc, làm việc.
Người Hunggari có vẻ mừng. Họ biết rõ Polgar là giám đốc chi nhánh CIA
và họ quyết định khai thác triệt để mối liên hệ đặc biệt ấy, kể cả những
tin tức của Mỹ. Một năm sau ngày ngừng bắn, họ cử sang Sài Gòn nhiều cán
bộ đặc biệt dưới quyền điều khiển của Anton Tolgyes. Bề ngoài lấy danh
nghĩa là cố vấn chính trị của phái đoàn, thực tế, Tolgyes, 52 tuổi , là
sĩ quan tình báo xuất sắc. Là người Do Thái Hunggari, ông gia nhập Đảng
Cộng sản. Ở Sài Gòn, ông có nhiệm vụ chính là tranh thủ được trùm CIA.
Theo một nhận định phổ biến trong những cơ quan tình báo, những người
Đông Âu di cư thường là những người nhớ quê hương nhiều nhất, đặc biệt
hay xúc động trước những lời kêu gọi của tổ tiên. Tolgyes biết rõ điều
đó và ông đã lôi kéo Polgar. Thỉnh thoảng ông mời Polgar đi chơi, đi
uống, trao đổi kỷ niệm vế nước Hunggari thời xưa. Nhờ đó, dần dần, ông
khám phá được nhược điểm của Polgar đằng sau tấm áo cứng rắn: đó là tính
kiêu căng mà ông có thể khai thác triệt để một cách bền bỉ và khéo léo
làm cho Polgar tin rằng lão và Kissinger, nhờ quan điểm và quyền lợi
giống nhau, có thể giải thích được vấn đề Việt Nam không vui này.
Ở bộ tổng tham mưu CIA, những chuyên gia về vấn đề Liên Xô rất cảnh giác
đối với Tolgyes, đã báo cho Polgar biết phải cẩn thận. Nhưng hình như
Polgar đã quên mất cả ý nghĩa của việc dè chừng. Hoặc là lão không tin
rằng một người Hunggari lại định đánh lừa lão. Hay là Polgar tưởng mình
cao tay hơn, có thể đánh thắng Tolgyes trong trò chơi của ông. Dù sao,
tháng này qua tháng khác, quan hệ giữa Polgar và những người Hunggari
ngày càng chặt chẽ. Một mối tình hữu nghị đã ngăn cản Polgar dự đoán
nhưng sự kiện sẽ xảy ra.
Những cuộc giao thiệp giữa tôi với Polgar cũng xoay quanh vấn đề cá tính
và nguồn gốc lão ta. Đúng hay sai, lão đều cho rằng tôi cũng có khả năng
sử dụng lời nói như đại sứ. Có thể lão coi tôi là một cái đệm trong quan
hệ giữa lão với Martin. Dù sao, tôi cũng là người miền Nam nước Mỹ quê ở
Carolina Bắc, như đại sứ, cùng nói một giọng giống nhau. Tôi còn là bạn
thân với con gái của Martin và có một kiểu cơ hội chủ nghĩa như ông. Một
hôm Janet Martin thổ lộ rằng tôi làm cho cô ta nhớ đến bố, tôi cho lời
tâm sự ấy là một lời khen cực kỳ.
Cương vị của tôi đối với Polgar được qui định đầu tháng 8/1973. Ted
Shackley, trùm chi nhánh CIA Sài Gòn trước Polgar, nay trở thành thủ
trưởng của Polgar vì được bổ nhiệm làm giám đốc ở Viễn Đông. Ông đến
kiểm tra Sài Gòn. Từ lâu, Shackley được coi là người vừa đáng sợ, vừa
đáng yêu vì ông có xu hướng viết rất cẩn thận, đúng như một máy tính và
cách lập luận của ông làm cho người ta tưởng ông sâu sắc. Thực tế ông
không được như vậy.
Tôi đã làm việc dưới quyền ông trong nhiệm kỳ trước đó ở Sài Gòn, tôi
biết rõ ý thích của ông. Do đó, khi người ta bảo tôi báo cáo với ông thì
tôi bắt chước ông, dùng nhiều sơ đồ đường cong và những câu văn hay điểm
thêm những thống kê. Polgar xúc động đến mức quyết định dùng tôi ngay và
phân công tôi chịu trách nhiệm về việc tổng hợp tin.
Trong 18 tháng sau khi ngừng bắn, chính tôi đã viết tất cả những bản báo
cáo công tác của Polgar (hai bản ông ta viết lấy đều bị bộ tổng tham mưu
CIA vứt bỏ) và hầu hết những bàn thông báo riêng của ông gửi Hoa Thịnh
Đốn. Người ta cũng giao cho tôi chịu trách nhiệm về một trong những hoạt
động tình báo khó khăn của CIA ở Bắc Việt Nam. Và tôi có toàn quyền hỏi
cung tù binh, những kẻ đảo ngũ, những nhân viên tình báo để góp phần vào
việc tìm hiểu thấu đáo hơn ý đồ của Bắc Việt Nam. Tôi là người phát
ngôn, cái bóng và cái chắn gió cho Polgar, là một trong ba, bốn cộng tác
viên mà Polgar có quan hệ mật thiết nhất. Một số đồng nghiệp tưởng tôi
trở thành con nuôi của ông ta.
Ê kíp nhỏ những người phân tích tin, trong đó có tôi dần dần thay đổi,
và công việc của tôi cũng khác đi, có tầm quan trọng hơn. Một số bạn
đồng nghiệp năng suất kém được trả về Hoa Kỳ và Polgar bắt đầu lựa chọn,
tuyển những người thay, theo đúng sự đòi hỏi của nghề nghiệp. Người được
bổ nhiệm đầu tiên là bà Pat Johnson, một phụ nữ tóc hung, vợ một quan
chức cao cấp trong chi nhánh. Không phải là người biết phân tích, cũng
không phải là chuyên gia về Việt Nam, Pat có một nghề chuyên môn làm cho
Polgar phải chú trọng. Là nhân viên CIA 20 năm nay, bà ta biết mọi cái
về cóng tác phản gián. Đối với Polgar, đó là một mưu sĩ.
Thoạt tiên, Pat và tôi không hiểu nhau. Theo tôi, bà ta quá bảo thủ. Còn
bà, xoi mói công việc của tôi hơi nhiều. Tuy vậy, bà có một đức tính
giúp ích rất nhiều cho cả hai chúng tôi: lòng chính trực không lay
chuyển. Những lời trách mắng, phê phán của bà làm tôi luôn nhớ đâu là sự
thật và tính ngay thắng, trong khi đó, càng ngày tôi càng bị thu hút vào
luồng gió cuốn của đại sứ Martin.
●
sống nhờ viện trợ
Lúc Quốc hội Mỹ bỏ phiếu đình chỉ ném bom Campuchia, giữa mùa hè 1973, thì
Thiệu không hiểu nổi cái gì đã và sẽ xảy ra.
Mấy ngày sau phi vụ B.52 cuối cùng, một vị khách đến an ủi Thiệu, đó là Sir
Robert Thompson, một chuyên gia kỳ cựu chống cách mạng của nước Anh, đước
Nhà Trắng cử đến Sài Gòn. Không úp mở, ông khẳng định với Thiệu rằng Nixon
sẽ tìm cách thay đổi quyết định của Quốc hội về việc đình chỉ ném bom.
Tin tưởng, một lần nữa, Thiệu quyết định, tỏ rõ cho người Mỹ biết ông là
người xứng đáng được Hoa Kỳ hậu thuẫn. Mùa Hè sắp đến. Thiệu cho mở nhiều
cuộc hành quân rộng rãi để đuổi những đơn vị Bắc Việt Nam ra khỏi căn cứ của
họ ở vùng đồng bằng và dọc biên giới Campuchia, phía Bắc Sài Gòn.
Nhưng mục đích chính của cuộc hành quân ấy là xóa bỏ những mối nghi ngờ mà
người Mỹ có thể có đối với khả năng của ông ta.
Trước sự lấn chiếm vùng giải phóng một cách trái phép của quân đội Sài Gòn,
vi phạm những qui định của hiệp định Paris về Việt Nam, Hà Nội quyết định mở
những cuộc tiến công một cách khôn khéo. Trong mấy tháng sau, quân Bắc Việt
Nam không đánh quân Nam Việt Nam mà nhằm tiến vào những vùng yếu nhất, có
nhiều quyền lợi tài chính. Đánh chớp nhoáng, đánh chiến thuật để làm yếu nền
kinh tế và gây hoang mang trong những người định bỏ vốn ra kinh doanh. Ngày
6 tháng 11, sau quyết định trên ít lâu, khoảng một sư đoàn quân đội Bắc Việt
Nam mở cuộc hành quân chiến thuật đầu tiên, tiêu diệt ba vị trí tiền tiêu ở
phía Tây Bắc Sài Gòn. Nixon có cho máy bay B.52 ném bom không? Lệnh cấm ném
bom có được duy trì không? Hai mươi bốn giờ sau ai cũng biết.
Có sự trùng hợp là lúc ấy quốc hội Mỹ đang tranh luận gay gắt về việc hạn
chế quyền của tổng thống sử dụng lực lượng quân sự. Ngày 7 tháng 11, hạ nghị
viện cũng như thượng nghị viện đều bác bỏ phủ quyết của tổng thống và thông
qua luật đặc biệt nói rõ những hạn chế. Luật về quyền trong thời chiến nói
rõ rằng: không được quốc hội chuẩn y thì tổng thống không được cho lực lượng
Hoa Kỳ tham chiến quá 60 ngày. Người Bắc Việt Nam biết rất rõ quyết định này
và chính sách bất lực của Nixon.
Trong khi đó, các cơ quan tình báo Mỹ theo dõi chặt chẽ những người chịu
trách nhiệm chính trị của Hà Nội. Trong một hay hai tuần sau khi họ mở cuộc
tiến công chiến thuật, chúng tôi nhận được hàng lô báo cáo của nhân viên.
Những người này đều nói rằng quân đội Bắc Việt Nam ở miền Nam không thể nhận
được đủ vũ khí đạn dược trong sáu tháng tới để có thể mở một cuộc tổng tiến
công trên khắp nước.
Tuy chỉ là thắng lợi vừa phải, nhưng cuộc tiến công chiến thuật đã nhằm đúng
gót chân Achille của Sài Gòn, đó là nền kinh tế. Trong những tháng sau ngừng
bắn, trên thị trường Nam Việt Nam, giá cả tăng 65%, số người thất nghiệp
tăng lên vùn vụt, sau khi người lính Mỹ cuối cùng ra đi. Viện trợ kinh tế
của Hoa Thịnh Đốn giảm nhiều do lạm phát trên thế giới. Điều bi đát sắp tới
nữa là do chiến tranh ở Trung Đông, do cấm vận dầu lửa nên giá vàng đen của
các nước A rập tăng gấp bốn lần. Điều làm phức tạp thêm vấn đề là viện trợ
quân sự của Mỹ cho Sài Gòn giảm đi. Cuối tháng 12, tướng Murray, tùy viên
quân sự ở Sài Gòn, được Lầu Năm Góc báo là quốc hội đã hạ số tiền viện trợ
mới đây cho chính phủ Sài Gòn xuống còn khoảng một tỷ đôla, nghĩa là ít hơn
nhiều với số tiền xin.
Thất vọng, Murray đề nghị Martin cho phép cho người Nam Việt Nam biết việc
giảm bớt viện trợ để cho họ tiết kiệm hơn, Martin phản đối, ông sợ rằng lời
thú nhận ấy sẽ làm nản lòng Thiệu và các tướng lĩnh của hắn và giảm sút
quyền lực chính trị của ông đối với bọn họ.
Trong khi Sài Gòn ngày càng lún sâu vào Cuộc khủng hoảng tài chính thì Nhà
Trắng và Bộ Ngoại giao lại lo những vấn đề rất chung. Tháng 9, giữa làn sóng
ngầm Watergate, Kissinger thắng William Rogers và làm bộ trưởng ngoại giao.
Tháng sau, chiến tranh ở Trung Đông tái diễn, Kissinger bận túi bụi trong
một cuộc khủng hoảng lớn. Mặc dầu ông làm cho hai bên đi đến chỗ ngừng bắn
nhưng còn phải dàn xếp, mở những cuộc thương lượng tiếp theo để tránh một
cuộc cấm vận dầu lừa A rập. Trong hoàn cảnh ấy, vấn đề Việt Nam có vẻ chỉ là
một cốc bia nhạt.
Nhưng về phía mình, Graham Martin không để yên, ông liên tiếp gọi dây nói
cho Hoa Thịnh Đốn. Ông kêu cứu, đòi phải giải quyết cuộc khủng hoảng tài
chính ở Sài Gòn. Đặc biệt, ông nêu ý kiến Hoa Kỳ nhờ nước Pháp giúp đỡ, có
thể đi đến ngừng bắn ở Campuchia bằng cách khôi phục lại cựu hoàng đế
Norodom Sihanouk đang tị nạn ở Bắc Kinh sẽ bắt buộc phải giúp đỡ Campuchia,
nhờ đó, ngân sách Mỹ dành cho nước này sẽ được chuyển sang Nam Việt Nam.
Kissinger không đồng ý. Ông ta ghét Sihanouk, sợ rằng nếu giảm viện trợ cho
người cai trị Campuchia lúc này là LonNol thì sẽ bị thế giới hiểu lầm đó là
một dấu hiệu yếu đuối của Mỹ.
Martin đề nghị mở những cuộc thương lượng mới với Bắc Việt Nam để chấm dứt
những cuộc đụng độ ngay trong việc ngừng bắn, Kissinger tán thành ý kiến
đơn giản này . Ngày 20 tháng 12. ông bay đi Paris, có Martin đi theo để mở
những cuộc đàm phán bị mật với đối thủ cũ, ông Lê Đức Thọ. Kissinger bỏ ra
hai ngày đêm trình bày với ông Lê Đức Thọ rằng tình hình hiện nay đang bế
tắc, hai bên phải tìm một thỏa hiệp thì có lợi hơn, không những phải định rõ
những vùng do mỗi bên kiểm soát ở miền Nam, mà còn phải thành lập ủy ban bầu
cử ba bên như hiệp định Paris qui định.
Ông Lê Đức Thọ lắng nghe, nhưng từ chối không cam kết điều gì vì việc đó
vượt quyền ông.
Sự vững vàng của ông Lê Đức Thọ không làm nguội lạnh sự phấn khởi của
Martin. Đại sứ cho rằng một hiệp định kiểu như thế rất cần thiết để cứu vãn
sự sống còn của chế độ Sài Gòn đã bị Mỹ giảm viện trợ. Do đó, trong những
tuần và tháng sau đó, ông cố thuyết phục Nam Việt Nam nhượng bộ trên cơ sở
những đề nghị của Kissinger với Bộ Chính trị Hà Nội.

Ảnh: Martin, Ford, Weyand, Kissinger tại phòng bầu dục Nhà Trắng ngày 25
tháng 3 năm 1975
Đồng thời, được Nhà Trắng cho phép và nhờ những người Ba Lan làm trung gian,
ông nói với người Bắc Việt Nam nghiên cứu lại những đề nghị trên. Ông cũng
đến thăm đều đặn các phái đoàn Ba Lan và Hunggari trong ủy ban quốc tế hy
vọng sẽ ủng hộ những dự kiến của ông. Do mối quan hệ hữu nghị giữa Polgar và
người Hunggari, nên Polgar được giao nhiệm vụ trao công hàm đại sứ. Tình
hình ở miền Nam Việt Nam vẫn đứng tại chỗ, giải pháp duy nhất tốt là cộng
sản ngừng gây sức ép.
Suốt mùa Đông, Martin cũng nói về việc uy hiếp quân sự để giành cảm tình của
quốc hội. Luôn luôn, ông nhắc nhở Hoa Thịnh Đốn rằng Hà Nội có ý định xâm
chiếm. Ông khuyến khích Murray và Polgar nhấn mạnh những điều kể trên trong
báo cáo của họ, việc này không dễ, vì những tin tức gần nhất cho biết rất rõ
là chiến dịch những trận đánh chiến thuật chỉ có tính chất hạn chế. Những
con diều hâu ở bộ phận tình báo phái bộ quân sự bỏ qua tin tức này và viết
theo điều mong mỏi của Martin. Mới đầu, Polgar có vẻ cũng định làm như thế.
Nhưng sau đó, theo những lời khuyên trong những cuộc gặp mặt với Ủy ban quốc
tế kiểm soát, Polgar đã thôi. Ủy ban đã gây cho Polgar niềm tin rằng không
có một cuộc tiến công lớn nào trong năm 1974. Những bản báo cáo của CIA đều
được thảo ra theo tinh thần đó.
Nhưng những nhận định như vậy của CIA trái lại với mục tiêu của Martin. Để
ngăn ngừa Polgar và chúng tôi có quan hệ với giới báo chí Mỹ, ông quyết định
chỉ để người con đỡ đầu của ông là Al Francis, làm người phát ngôn duy nhất
với các nhà báo. Francis làm việc này có hiệu quả. Anh đã làm cho nhiều nhà
báo tin rằng quân đội Bắc Việt Nam sớm muộn sẽ mở một cuộc tiến công lớn. Al
Francis cũng tìm cách bịt hết tin về sự ôn hòa của những người cộng sản, hay
sự hiếu chiến của quân đội Nam Việt Nam, không cho lọt ra ngoài.
Mặc dù vậy, những sự thật khác với “sự thật" của đại sứ thỉnh thoảng vẫn
được đăng trên báo chí Mỹ. Đầu tháng 1, có một loạt bài lấy nguồn tin không
phải của sứ quán, phản đối những nhận định của Martin về nền an ninh và nhu
cầu vũ khí của quân đội Nam Việt Nam. Martin ra lệnh mở ngay cuộc điều tra
để tìm thủ phạm. Đại tá Al Weidhas, một sĩ quan tình báo của Murray được
giao làm nhiệm vụ này.
Là người nhận định phân tích chiến lược chủ yếu ở chi nhánh Sài Gòn, tôi là
một mục tiêu lý tưởng của Weidhas và ê kíp của anh ta. Nhưng thật là mỉa
mai, nhờ giới báo chí tôi mới biết việc này. Trong một cuộc điều tra Weldhas
gọi George Mc. Arthur, phóng viên báo Los Angeles Times đến và hỏi ngay có
phải tôi đã đưa ra ngoài nguồn tin mới ấy không, Mc. Arthur trả lời không
phải. Đúng như vậy. Rồi anh gọi dây nói đến văn phòng đại sứ, phản đối. Bạn
tôi là Ken Moorefield, người giúp việc Martin, nghe dây nói và báo ngay cho
tôi biết, không nói gì với ai. Khi biết Moorefield làm việc này, Martin tức
giận đến điên người. Ít lâu sau, ông cử Moorefield làm một công việc mới và
từ đó anh này không còn được Martin tin cẩn nữa.
Cuối cùng, sau những ngày dò la khắp nơi, Weldhas đã tìm ra thủ phạm, đó là
Dick Peters, một cộng tác viên gần gũi của Martin, được đại sứ rất tin cậy.
Peters có thói xấu là nói quá nhiều khi đánh golf với Mc. Arthur.
Weidhas cho một nhân viên đem theo một máy thu thanh cực mạnh theo dõi
Peters. Tất cả lời nói của Peters đều được thu lại, kể cả những lời nói đùa,
nói tục, chuyển về cho Martin. Mấy tuần sau, Peters phải đổi đến lãnh sự
quán Biên Hòa, xa những nơi ra quyết định.
Không những ngăn ngừa không cho tin tức lộ khỏi nguồn, Martin còn trách cứ
giới báo chí nữa. Đầu tháng 2, báo New York Times đăng một bài lên án Hoa Kỳ
vi phạm tinh thần hiệp định, vì đã viện trợ kỹ thuật quá nhiều cho Sài Gòn,
Martin gọi điện về Hoa Thịnh Đốn vu cáo nhà báo viết bài ấy là người phát
ngôn của Hà Nội. Trước đó, ông đã cấm sứ quán tiếp xúc với các báo Times và
Washington Post.
Martin còn gây sự với nhiều nghị sĩ quốc hội có thế lực. Một trong những vị
đó là thượng nghị sĩ Edward Kennedy, người công khai phản đối việc viện trợ
bổ sung cho Sài Gòn. Tháng 2, lúc Kennedy chất vấn bộ ngoại giao rằng tăng
thêm viện trợ có nghĩa là có sự cam kết mới với Thiệu phải không, thì Martin
nói với các đồng nghiệp ở Hoa Thịnh Đốn: sẽ là điên rồ mới trả lời đúng và
hợp lý cho viên thượng nghị sĩ ấy.
Cuộc va chạm đáng nhớ nhất giữa đại sứ với phe đối lập không phải là với một
nghị sĩ, một nhà báo mà với một linh mục, cha William Webber ở nhà dòng thần
học New York. Ông đến Sài Gòn hồi tháng 2, với một nhóm người, phần lớn là
chống Thiệu. Webber tránh không đến sứ quán trong một tuần rưỡi ở Sài Gòn.
Nhưng trước khi về nước, ông đã đến nói chuyện với Martin. Trong cuộc thảo
luận mà Martin cho thu thanh, đại sứ đề nghị Webber tiếp xúc với những bạn
ông ở phía cộng sản và can thiệp để chấm dứt đổ máu. Đại sứ cho Webber biết
số máy của Đoàn đại biểu Chính phú Cách mạng lâm thời trong ủy ban kiểm soát
quân sự ở Tân Sơn Nhất. Webber vốn đã không tin Martin, lại thấy đại sứ có
thể nghĩ rằng ông có một ảnh hưởng nào đối với những người cộng sản nên ông
cho đó là một sự láo xược và từ chối không gọi dây nói. Hôm sau, ông giải
thích với đại sứ: số dây nói ấy không đúng.
Mấy tuần sau, khoảng một trăm trẻ con bị giết chết trong một trận máy bay
Mỹ ném bom xuống một tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long. Martin gửi cho Webber,
lúc bấy giờ đã về Mỹ, những bức ảnh chụp một số em cụt chân, cụt tay kèm
theo một thư viết: "Không ai có thể nói chắc rằng nếu ông can thiệp thì
những trẻ em này sẽ được cứu sống. Nhưng ông sẽ phải sống quãng đời còn lại
với sự hối hận ám ảnh. Những trẻ em này, đáng lẽ còn sống, không bị cụt
chân, cụt tay nếu ông không quyết định là không gọi dây nói!".
Đầu tháng 2, tướng Murray đã hiểu rằng những trò bi kịch ấy không có giá trị
làm thay đổi ý kiến của quốc hội. Mặc dù có sự phản đối của đại sứ, ông
quyết định báo gấp cho người Nam Việt Nam biết cần phải thắt lưng lại.
Các tướng lĩnh Sài Gòn biết rõ rằng nhu cầu của họ về dụng cụ chiến tranh
chưa cấp bách như Murray tưởng. Nhưng đáng lẽ nói thật hay đẩy lùi tham
nhũng đang hoành hành, gặm dần dự trữ, họ quyết định nghe theo lời tướng
Murray và ra lệnh cho bộ binh thực hiện trước.
Trong những tháng sau, họ ra lệnh càng phải hạn chế hơn việc sử dụng súng
ống, đạn dược. Những quyết định ấy làm tê liệt gần như toàn bộ quân đội. Cả
bốn quân khu đều hạn chế như nhau, không còn kể đến sự khác nhau và không
còn kể đến tầm quan trọng của những cuộc đụng độ đang xảy ra. Những cuộc
ném bom và bắn phá tiêu hao phải chọn những mục tiêu cụ thể rõ ràng. Gần
một phần năm lực lượng không quân Nam Việt Nam phải nằm dí ở dưới đất.
Trong khi đó, Thiệu thấy rõ Martin ngày càng có xu hướng thương lượng nên
quyết định lúc này cần củng cố địa vi chính trị của mình. Giữa tháng 2, ngay
lúc phải thực hiện việc hạn chế súng ống, đạn dược, lương thực, Thiệu ra
lệnh cho bộ chỉ huy tối cao của ông ta mở một cuộc hành quân mới, tốn kém,
để giành lại đất và mở rộng thêm quyền hành của chính phủ ở phía Nam miền
Nam.
Mấy tuần sau, Thiệu lại tìm ra một cớ mới để nâng cao quyền lực.Vị trí tiền
tiêu nhỏ, Tống Lê Chân, ở phía Bắc Sài Gòn, bị quân dội Bắc Việt Nam bao vây
hơn một năm nay, Thiệu cố giữ vì kiêu ngạo chứ không phải thực sự vì tính
tiêu biểu của vị trí đó. Nay Thiệu cho rằng để vị trí ấy ra vào tay cộng sản
thì sẽ rất có ích. Hắn hy vọng sẽ khơi được mối lo ngại, kéo được tình cảm
của Hoa Kỳ và nhiều nước khác, đồng thời có thể nhân đó hợp lý hóa cuộc phản
công mà hắn định tiến hành chống Chính phủ Cách mạng lâm thời. Và cũng có
thể, hắn kêu gọi được quốc hội Mỹ ủng hộ hắn. Hai trăm quân đang giữ vị trí
được báo tin bằng radio. Ngày 11 tháng 4, chúng bỏ chạy tán loạn với 62 tên
bị thương.
Hôm sau, chính quyền Sài Gòn nói ầm lên rằng vị trí Tống Lê Chân bị một biển
quân đội Bắc Việt Nam tràn ngập và vị trí đã bị san bằng. Rồi Thiệu, theo
đúng những lời của bộ ngoại giao Mỹ, phản ứng về chính trị. Từ lâu, ông ta
từ chối không họp tay đôi với Chính phủ Cách mạng lâm thời ở Paris, nay bãi
bỏ luôn những quyền lợi dành cho đại biểu của họ ở sân bay Tân Sơn Nhất đã
được hiệp định bảo đảm. Cắt dây nói, bỏ những cuộc họp báo, bỏ những chuyến
bay hàng tuần đi Lộc Ninh, ở phía Bắc Sài Gòn, nơi đóng trụ sở của Chính phủ
Cách mạng lâm thời.
Nhờ những báo cáo của các cơ quan tình báo, sứ quán biết ngay trò hề này từ
lâu. Nhưng Martin cũng như Thiệu, một đồng một cốt, hy vọng có thể làm quốc
hội Mỹ xúc động. Ông cũng bóp méo sự thật trong tất cả các báo cáo, trừ bản
gửi về Hoa Thịnh Đốn. Thành công của Thiệu vượt quá điều mong muốn của ông
ta. Để phản đối, Chính phủ cách mạng lâm thời không tham gia ủy ban quân sự
hỗn hợp Sài Gòn nữa và được sự đồng ý của Hà Nội, thôi không dự cuộc đàm
phán về số phận những binh lính Mỹ mất tích. Họ tẩy chay cuộc thảo luận này
cho đến ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh.
Đầu tháng 3, cân nhắc mọi nhân tố rồi, các nhà quân sự Hà Nội thống nhất
quyết định mở những cuộc tiến công chiến lược. Lực lượng cộng sản không
những tiếp tục phá hoại các cơ sở kinh tế miền Nam (đường sá, kho tàng, căn
cứ không quân) mà còn đánh chiếm lại đất bị mất từ ngày ngừng bắn.
Ít lâu sau, trong khi Thiệu chuẩn bị bỏ vị trí Tống Lê Chân, thì quân đội
Bắc Việt Nam bắt đầu thực hiện ý đồ của họ. Một sư đoàn tiến công những vùng
biên giới phía Tây và Tây Bắc Sài Gòn, trong khi đó, những đơn vị khác hành
quân làm cho sư đoàn 18 của Thiệu phải đóng nguyên tại chỗ, ở phía Đông Sài
Gòn. Một sư đoàn khác hành quân sâu vào nội địa khu tam giác sắt, một vùng
rừng rậm ở phía Bắc Sài Gòn để bẻ gãy những cuộc tảo thanh của quân đội miền
Nam. Một lần nữa, chiến tranh lại diễn ra.
Những cuộc đụng độ càng mở rộng thì tướng Murray càng tỏ ra chán nản. Ông
không còn tin ở sự sống còn của chế độ Sài Gòn nữa. Ông chắc chắn rằng giảm
viện trợ nữa về tài chính, về dụng cụ chiến tranh thì sẽ là đòn quyết định
đối với Nam Việt Nam. Do đó, đầu tháng 6, khi Lầu Năm Góc cho ông biết rằng
năm sau, quốc hội sẽ giảm ngân sách viện trợ cho Nam Việt Nam, ông phản ứng
lại như người đã nhìn thấy sự đổ vỡ. Trong một điện gửi đầu Năm Góc, ông
giải thích là: nếu số tiền viện trợ giảm xuống dưới một tỷ đôla, thí dụ như
chỉ còn 700 triệu, thì Nam Việt Nam chỉ còn đủ khả năng bảo vệ một phần lãnh
thổ thôi, nếu giảm xuống nữa thì có nghĩa là xóa tên nước Việt Nam Cộng hòa
và cho nó vào sổ lãi, lỗ. Giải pháp duy nhất đối với chính phủ Nam Việt Nam
chỉ còn là bám lấy Sài Gòn và vùng đồng bằng".
Dự đoán lạ lùng! Thật vậy, không có ai trong giới lân cận Murray hay ở Hoa
Thịnh Đốn có thể biết rõ dự trữ chiến lược của Nam Việt Nam. Nhưng Murray
kiên trì khẳng định rằng không có viện trợ quân sự, ít nhất là một tỷ đôla
thì Nam Việt Nam chỉ còn là một cái bóng của họ.
Tháng 6 và tháng 7, Murray và nhiều sĩ quan tham mưu của tổng chỉ huy hạm
đội Thái Bình Dương, đô đốc Gayler, tổ chức ở Honolulu một hội nghị vạch rõ
luận điểm này bằng những bản đồ và sơ đồ. Martin rất thích thú được biết sự
việc này. Tuy ông không quá bi quan như Murray, nhưng ông hy vọng đánh đu
với tình hình, làm cho quốc hội có thể tăng thêm viện trợ cho Sài Gòn.
Dựa vào những tin tức Murray gửi đến, những sĩ quan chịu trách nhiệm ở Sài
Gòn cũng tổ chức một cuộc nghiên cứu tương tự và cũng đi đến nhận định là
phải bỏ đất đai nếu quốc hội Mỹ cắt viện trợ nữa. Thiệu không tin vào chuyện
ấy. Nhưng, cũng như Martin, ông cho rằng đó cũng là một cách để làm cho quốc
hội hiểu sự cần thiết phải tăng viện trợ tài chính cho Nam Việt Nam nếu
không sẽ mất đất. Thiệu bảo tướng Viên đưa cho ông ta bản báo cáo của hội
nghị Honolulu và đưa ra trình bày mỗi khi có một nghị sĩ quốc hội Mỹ nào đến
Sài Gòn. ông ta buồn rầu nói với họ: Nếu quốc hội không sáng suốt thì đến
như thế đấy!
Sự lố lăng của Thiệu làm một số cộng tác viên của ông ta khó chịu. Họ có cảm
tưởng là Thiệu không biết rõ tương lai gì chờ ông ta, không hiểu rằng ông ta
sẽ phải bỏ nhiều vùng đất đai quan trọng nữa. Họ có lý, theo một ý nghĩa nào
đó, nhất là về điểm Thiệu bất lực không hiểu được sự trầm trọng của tình
hình. Lo lắng về việc giảm viện trợ mới nhất, Thiệu không thấy rằng sợi dây
ràng buộc của Mỹ đã mong manh. Nhưng việc đó không hoàn toàn do lỗi của ông
ta. Để cho Thiệu giữ được bình tĩnh và can đảm, nhấn viên sứ quán tiếp tục
gặp Thiệu và nói với ông ta rằng vẫn còn có thể gây ảnh hưởng với quốc hội,
và Nixon sẽ giải quyết được những việc bối rối về chính trị. Đầu tháng 6,
trong một tiệc rượu, Polgar tuyên bố với một nhóm quan chức chính phủ Nam
Việt Nam: cái bí nhất trong vụ Watergate đã qua!
Thường vào mùa Hè, Martin Ở Hoa Thịnh Đốn để cầu cứu viện trợ. Để bảo vệ
quan điểm của mình, ông nhấn mạnh sự viện trợ của các nước trong phe cộng
sản cho Hà Nội, khẳng định rằng nó lớn hơn nhiều so với viện trợ của Mỹ cho
Sài Gòn. Để làm cho người ta hiểu một cách chắc chắn, ông phân phát cho các
đại biểu quốc hội một bị vong lục do tôi thảo một mình theo ý ông. Bản tài
liệu này căn cứ vào những tin tức tôi nhận được từ Bắc Việt Nam.
Trong khi Martin vật lộn ở phủ tổng thống thì Polgar và nhiều đồng nghiệp ở
Bộ Ngoại giao cố thuyết phục các phái đoàn Ba Lan và Hunggari trong ủy ban
kiểm soát ở Sài Gòn rằng chia lãnh thổ là có lợi cho mọi người. Về phần tôi,
tôi nhận được lệnh là trình bày tình hình cho phái đoàn Hunggari, để qua họ,
có thể cho Hà Nội biết rõ chúng tôi nắm được ý đồ của Bắc Việt Nam, Bắc Việt
Nam phải ngừng ngay những cuộc hành quân.
Bản báo cáo ấy hết sức thật và nói thẳng. Tôi nhấn mạnh điểm chúng tôi đã
biết được những quyết định gần đây nhất của Bắc Việt Nam và làm cho các
thính giả ngạc nhiên bằng cách nêu rõ lực lượng của đôi bên đang giáp mặt
nhau. Đó là loại tin mà Bắc Việt Nam có thể trả giá đắt để có. Như Martin
mong muốn, thông điệp của chúng tôi gửi ủy ban quốc tế giám sát không phải
là không được xem xét đến. Cuối tháng 7, đại diện Ba Lan và Hunggari báo cho
chính phủ họ biết quân đội Nam Việt Nam đang thực hiện chiến dịch cắm cờ lấn
đất để giành ưu thế. Người Bắc Việt Nam thì tích cực đối phó với những cuộc
càn quét của quân Nam Việt Nam và chuẩn bị cho những cuộc chiến đấu ác liệt
trong những phút cuối cùng.
Martin không gặp may trước quốc hội. Cuối tháng 7, thượng nghị viện và hạ
nghị viện thông qua luật qui định một tỷ đôla là mức tối đa về mọi chi phí
quân sự ở Việt Nam trong 11 tháng tới. Ngày 5 tháng 8, Nixon ký luật này. Đó
là một việc làm chính thức cuối cùng của tổng thống. Bốn ngày sau, ông xin
từ chức. Tuy nhiên, cuộc tranh luận về viện trợ cho Việt Nam chưa chấm dứt.
Chỉ một hay hai ngày sau khi Nixon ra đi, hạ nghị viện lại quyết định giảm
số tiền viện trợ xuống chỉ còn 700 triệu đôla.
Giữa sự rối ren về ngân sách ấy, tổng thông mới của Hoa Kỳ Gerald Ford, gửi
cho Thiệu một thư riêng, cam kết với hắn sự ủng hộ của Mỹ, và tỏ lòng tin
tưởng vào chính sách Việt Nam của Kissinger. Thiệu phản ứng đúng như Martin
mong muốn. Ông ta coi bức thư đó là một dấu hiệu chứng tỏ chính quyền mới
ủng hộ mình. Tướng Murray coi bức thư ấy là một trò hề bi thám. Sau này, ông
ta nói: một bức thư ngớ ngẩn phán đoán tương lai. Lại còn nêu tên Kissinger
lên, một tác giả đạo đức của nền ngoại giao!
Là người ngay thẳng và dễ xúc động, tướng Murray nhanh chóng đi đến chỗ bi
quan. Giữa tháng 8, ông trở nên cay đắng và không còn ảo tưởng gì nữa như
ông thường nói. Sau đó thấy mình không có tên trong danh sách những người
được đề bạt, ông quyết định rút lui khỏi quân đội. Biết rằng mình cũng chẳng
mất gì, ông nói với Lầu Năm Góc rõ ý nghĩ của ông đối với việc giảm viện trợ
và những biện pháp tiết kiệm. Trong một buổi trả lời phỏng vấn các nhà báo,
cũng không được phép, ông khẳng định rằng Việt Nam buộc phải thay đạn dược
bằng "tính mạng, xương và máu” và ông gọi những người chịu trách nhiệm về
ngân sách là những con "rệp ngân khố.
Những lời tuyên bố của Murray làm Martin lúc bấy giờ ở Hoa Thịnh Đốn tức
giận. Giám đốc cơ quan liên lạc Lầu Năm Góc điện cho Murray biết sự thật thà
của ông không có lợi. Ông không hề bối rối. Sau khi tuyên bố với giới báo
chí, ông quyết định nói với người biệt Nam. Ngày 16 tháng 8, trong buổi họp
cuối cùng với bộ chỉ huy tối cao của Nam Việt Nam, Murray và một số sĩ quan
Mỹ khác đề nghị họ bỏ một số đất đai và thực hiện chiến thuật củng cố để
tiết kiệm dự trữ. Tướng Cao Văn Viên và những viên phó tướng của hắn trả lời
rằng ý kiến ấy tốt về mặt quân sự, nhưng về mặt chính trị, không thể thực
hiện được.
Trên đường trở về Mỹ, Murray dừng lại ở Honolulu và hội kiến ngắn với đô đốc
Gayler. ông không giấu giếm sự thất vọng. Khi Gayler hỏi ông Mỹ nên thay đổi
chính sách ở Việt Nam như thế nào, ông trả lời không đắn đo: Trước hết đuổi
đại sứ về, sau đó giảm số máy bay của Nam Việt Nam xuống đến mức họ có thể
bảo quản được và làm cho quốc hội hiểu được hậu quả của việc giảm viện trợ.
Lúc ông sắp rời khỏi bộ tổng chỉ huy của Gayler, Murray nhận được dây nói
của tướng Homer Smith, thay ông làm tùy viên quân sự ở Sài Gòn. Smith đang ở
Honolulu để tìm hiểu về công việc mới của mình và bắt đầu thấy những chuyện
kinh khủng đang chờ đợi. Ông nói với Murray: "Tôi đã nghiên cứu hai ngày,
trời ơi, tôi cảm thấy như một con thỏ rừng trong ngày khai mạc mùa săn bắn".
Murray trả lời bằng một giọng bi thảm: "ông càng xa Hoa Thịnh Đốn, càng gần
đến sự thật.
Những điều Murray nói với người Nam Việt Nam lúc ông ra đi đã có một ảnh
hưởng sâu và tinh tế. Dù họ không quyết định bỏ đất đai, nhưng những lời căn
dặn của tướng Murray, sự đánh giá về tương lai của ông làm cho họ suy nghĩ
lại, nhìn tương lai như một thứ định mệnh, nhận định này sẽ giúp họ đối phó
với những thử thách sẽ xảy ra: Người chỉ huy quân sự Mỹ nói rằng họ không
thể sống sót được nếu viện trợ của Hoa Kỳ rút xuống dưới một tỷ đơm. Điều bi
thảm đã trở thành sự thật, càng ngày họ càng thấy rõ tương lai họ mờ mịt.
Họ hoàn toàn phụ thuộc vào sự ủng hộ và can thiệp của người Mỹ. Tinh thần họ
trở nên mong manh cũng như sự cam kết của Mỹ. Trong khi những nhà chỉ huy
quân sự Nam Việt Nam đang lo sợ về những dự đoán đen tối của tướng Murray
thì chiến tranh trở nên ác liệt. Trong tháng 8, những cuộc đụng độ diễn ra
khắp nơi. Những người cộng sản muốn thăm dò ý đồ của tổng thống Ford. Cuối
tháng, quân đội Bắc Việt Nam tiến công chung quanh Huế, Đà Nẵng và những
tỉnh phía Bắc, hơn bảy trăm nghìn người phải tản cư. Trên Tây Nguyên, lực
lượng cộng sản kéo dài đường tiếp tế ra bờ biển phía Đông. Ở phía Bắc và
phía Đông Sài Gòn, quân đội Bắc Việt Nam tiêu hao các sư đoàn 18 và 5 của
Nam Việt Nam. Dưới phía Nam, trong vùng đồng bằng, lực lượng chính phủ bối
rối trước lực lượng cộng sản đang cố gắng giành lại những vùng do quân đội
Sài Gòn chiếm trái phép hồi đầu năm.
Điều đáng sợ nhất: khoảng 26.000 binh lính chính phủ bị giết trong những
cuộc chiến đấu, kể từ tháng 1 năm 1973. Con số đó nêu bật sự thất bại của
cuộc ngừng bắn.
Một cuộc thăm dò dư luận tiến hành cuối mùa Hè cho thấy rõ uy tín của chính
phủ giảm xuống mức thấp nhất kể từ sáu năm nay. Tinh thần quân đội cũng tan
rã. Thực phẩm và đạn dược ngày càng khan hiếm. Người lính Nam Việt Nam chưa
bao giờ khổ vì chiến tranh như lúc này. Thêm vào những khổ ải đó là giá hầu
hết những nhu yếu phẩm đều tăng gấp đôi so với lúc mới ngừng bắn, trong khi
đó thì lương thực chỉ mới được tăng 25%.
Cuối tháng 8, sự lo ngại trong quân nhân và nhân dân càng tăng. Những nhóm
đối lập xuống đường biểu tình, tranh thủ sự bất bình của quần chúng, có
người kết tội Thiệu chỉ huy việc buôn ma túy trên khắp đất nước và giàu sụ
một cách bất hợp pháp.
Những cuộc biểu tình ấy làm Martin rất lo ngại. Ông sợ Thiệu càng mất thêm
uy tín trước người Mỹ. Ông thúc giục người Nam Việt Nam làm mọi biện pháp
để dập tắt. Cuối tháng 10, Thiệu mới quyết định đuổi bọn nhân viên trong
chính phủ, giáng chức 400 sĩ quan tình nghi tham nhũng, và thuyên chuyển ba
trong bốn chỉ huy quân sự cấp quân khu.
Nhưng Thiệu đã phải trả giá cho những biện pháp ấy. Thiệu củng cố, siết chặt
việc kiểm duyệt báo chí và báo cho những nhóm đối lập biết, nếu họ tiếp tục
đấu tranh, họ sẽ phải chịu hậu quả. Martin cố giải thích cho các phóng viên
Mỹ rõ là những biện pháp nói trên rất cần thiết để giữ vững nền an ninh
trong nước. Nhưng bên trong, Martin rất khổ tâm. Ông thấy rõ là phải dùng
những biện pháp quá khích này để giữ trật tự thì không lợi cho việc giao
thiệp công khai của ông.
Tuy nhiên, đại sứ cũng có một nguồn an ủi, ông đã thuyết phục được Thiệu
thôi không dùng Hoàng Đức Nhã, bộ trưởng thông tin trẻ của ông ta, người
thường nói năng bừa bãi và không chịu nghe ai. Nhã từ chức, không còn ai đối
lập với thủ tướng Khiêm. Vừa khéo léo loại trừ được kẻ thù duy nhất trong
chính phủ Nam Việt Nam, Martin vừa cố gắng giấu giếm những sai lầm và nhược
điểm của chế độ Sài Gòn trong những bản báo cáo của ông gửi về Hoa Thịnh Đốn
và những thông báo báo chí. Sự suy sụp về tinh thần của quân đội trong mùa
Thu và đầu mùa Đông, tình hình rối loạn ở nông thôn, và sự tham nhũng triền
miên trong nội bộ chính phủ - những vấn đề làm cho Sài Gòn trở thành một
thành phố bất an lung lay - được bỏ qua, không hề nhắc đến. Văn phòng tùy
viên quân sự - mặc dù không cần thiết - cũng tham gia vào việc che đậy này.
Do đó, ngay trong văn phòng của Polgar cũng diễn ra những hoạt động rối ren,
lúng túng.
Phương pháp thường dùng của Polgar nay được áp dụng theo sở thích của giám
đốc chi nhánh CIA. Chắc chắn không có tin sai, nhưng Polgar vẫn đòi kiểm tra
thật kỹ chất lượng tin: một cộng tác viên của ông gọi đó là những tia sáng
tạo". Người chỉ huy chi nhánh CIA ở đồng bằng sông Cửu Long chuẩn bị gửi một
bản báo cáo về tình hình mất an ninh, tham nhũng ở khu vực anh ta, Polgar
đòi đọc được khi công bố và yêu cầu những tin này phải đạt đủ chất lượng, do
đó rất ít tin được phép phổ biến.
Polgar cũng bắt xóa bỏ tất cả những yêu sách của phe đối lập trong các bản
báo cáo. Chẳng may, có những tin không lợi cho chế độ Thiệu được gửi đi mà
Polgar không phát hiện kịp thời thì ông lập tức gửi điện đính chính cho các
"khách hàng" ở Hoa Thịnh Đốn.
Đầu chiến dịch chống tham nhũng, tháng 8, một nhân viên lão luyện, thu lượm
được nhiều tin của CIA, đến nói chuyện với nhiều chính trị gia có tầm cỡ ở
Nam Việt Nam. Họ ủng hộ Thiệu từ lâu, nhưng nay nghi ngờ chính sách của ông
ta. Một người trong họ, một nhà ngoại giao trước đây, kể lại câu chuyện tham
nhũng kinh khủng trong quân đội và nói: Binh lính không thể nuôi được gia
đình, không còn ý chí chiến đấu, họ mất tinh thần vì sĩ quan cấp trên họ bóc
lột họ một cách đáng xấu hổ... Nếu Thiệu tiếp tục cầm quyền, dựa vào những
người tham nhũng và bất lực thì rất khó cho Nam Việt Nam chiến đấu chống
những người cộng sản dù về mặt quân sự hay chính trị cũng vậy.
Đó là một ý kiến quan trọng, nhất là của một cựu nhân viên chính phủ. Không
tôn trọng những cái gọi là tiêu chuẩn chất lượng tin của Polgar, người thu
được ý kiến này gửi thẳng báo cáo về Hoa Thịnh Đốn, làm mọi người sửng sốt.
Sự phản ứng của Polgar hơi khác một ít. Khi ông biết mình không được đọc báo
cáo mà Hoa Kỳ đã nhận được rồi, lập tức ông gửi một điện phản đối tới CIA.
ông viết: "Tôi cho rằng điều đó không có gì lạ. Tôi không nghĩ rằng quan
niệm của bản báo cáo có thể có một ảnh hưởng gì trong tương lai trước mắt,
đối với sự phát triển của những sự việc ở đây .
Nhưng Polgar không chỉ gửi bức diện riêng ấy cho CIA. Ông muốn phổ biến rộng
rãi trong các giới chính thức ở Hoa Thịnh Đốn. Do đó, tự ông làm một bản báo
cáo chống lại. Ông viết: "Không có một chứng cớ đúng đắn nào chứng tỏ tinh
thần chiến đấu cửa quân đội Nam Việt Nam sa sút. Trái với điều báo chí bi
quan đăng, những nhiệm vụ chính của chính phủ tiếp tục được thực hiện. Cảnh
sát quốc gia duy trì đầy đủ trật tự công cộng, không có bãi công, thư từ
chạy đều, đó không phải là tình hình của một số nước phát triển hơn.
Cũng rất rõ ràng là phần lớn nhân dân tiếp tục sống bình thường và trong cái
xã hội độc ác này, họ biết xoay sở. Mỗi ngày, họ cũng tỏ ra chịu đựng, dễ
bảo và tháo vát. Số dân tăng 3% mỗi năm, điều đó chứng tỏ sức sống và sự tin
tường vào tương lai của họ. Ở Việt Nam, không phải chỉ có những kẻ nghèo, kẻ
dốt mới sinh đẻ".
Sự phân tích về mặt chính trị của Polgar thật quá mức và buồn cười đến nỗi
bộ chỉ huy CIA, thượng cấp của ông ta, từ chối không gửi bản báo cáo của ông
đến những vị khách hàng cao cấp như Kissinger và tổng thống Nixon và nhiều
người khác. Đó là lần thứ nhất trong nghề nghiệp của tôi, tôi thấy người ta
không đếm xỉa gì đến việc nghiên cứu tại chỗ những tin tức.
Nhưng cả Polgar lẫn Martin đều không nản lòng. Họ cho in bản báo cáo, thảo
một điện gửi bộ ngoại giao và phân phát cho các đại biểu quốc hội và các nhà
báo không may gặp họ trên đường. Trong khi Martin và Polgar cố bưng bít tội
lỗi của chế độ Sài Gòn thì người Bắc Việt Nam ra sức khai thác... Họ cho
rằng việc giảm viện trợ của Mỹ là sự bất tín nhiệm của Mỹ đối với Thiệu và
một lời thú nhận về sự bất lực của lực lượng quân sự Sài Gòn. Họ còn lợi
dụng cả việc từ chức của Nixon. Họ nhận định là dù Ford có muốn hòa hoãn hơn
thì sự lộn xộn ở Hoa Thinh Đốn cũng lợi cho họ và phải làm cho người Nam
Việt Nam mất tinh thần hơn nữa.
...Tháng Chín, chiến dịch chống tham nhũng ở Nam Việt Nam phát triển. Người
Bắc Việt Nam chắc chắn ràng đó là dấu hiệu chế độ Thiệu lung lay tận gốc.
Cần phải làm cho quan hệ giữa Sài Gòn và đồng minh Mỹ, rạn nứt thêm. Tháng
Mười, Bắc Việt Nam quyết định chưa đánh những mục tiêu cụ thể mà giải phóng
vùng nông thôn, chiếm hai phần ba thu hoạch mùa màng ở đồng bằng sông Cửu
Long, bao vây Sài Gòn. Mục tiêu của họ là tạo nên một sự rối loạn lớn không
những ở miền Nam Việt Nam mà cả sự bất hòa giữa Hoa Thịnh Đốn và Sài Gòn và
lật đổ Thiệu. Chắc chắn những người nối tiếp ông ta sẽ buộc phải nhận điều
kiện một cuộc ngưng bắn mới.
Dựa vào những tài liệu thu lượm được, tôi làm một bản báo cáo giải thích gửi
về cho các giới chính trị ở Hoa Thịnh Đốn. Nhưng tôi mâu thuẫn ngay với
Polgar. Thủ trưởng tôi, vì thuốn thuyết phục những người có thể ủng hộ việc
viện trợ cho Thiệu, gán cho ý đồ của Hà Nội những điều ghê gớm, đáng sợ. Còn
tôi, trái lại, tôi nhấn mạnh, mục tiêu Hà Nội là tổ chức thận trọng những
trận đánh để đi đến thương lượng.
.. . Khi tôi nói rõ nhận định của tôi cho Polgar thì ông ta không nghe và
nói rằng nguồn tin của tôi không nắm được ý đồ của Hà Nội. Giữa lúc ấy, bộ
chỉ huy CIA ở Hoa Thịnh Đốn cho công bố bản báo cáo của tôi, coi đó là đúng
đắn.
Tháng 11, có nhiều nguồn tin báo Hà Nội sắp mở nhiều cuộc tiến công,
Kissinger quyết định đi một chuyến cuối cùng để tránh điều bi đát nhất...
Nhưng Kissinger đòi hỏi nhiều điều vô lý nên Liên Xô không nghe Kissinger.
Đầu tháng 12 năm 1974, mọi cái đều sẵn sàng để mở rộng chiến tranh Đông
Dương trên hai mặt trận: ở Nam Việt Nam và ở Campuchia.
(xem tiếp Phần II)
Phần hai: Tan Rã