 |
30 tháng 12, 2007
|
Steven Weinberg, giáo
sư ngành Vật Lý và Vũ trụ học tại trường Đại học Texas ở Austin, là tác
gỉa của nhiều tác phẩm, như Lý Thuyết trường Lượng Tử, và, dành
cho bạn đọc phổ thông, Ba Phút Đầu Tiên và Giấc Mơ về Một Lý
Thuyết Sau Cùng; Ông đoạt giải Nobel Vật Lý năm 1979 và Huy Chương
Quốc Gia về Khoa Học năm 1991 tại Hoa Kỳ.
Chương 20
Một nhà thiết kế vũ trụ ?
Như là một phần của
chương trình Đối thoại giữa Khoa học và Tôn giáo, Hiệp hội Hoa Kỳ về sự
Tiền Phong của Khoa học đã tổ chức một cuộc hội thảo vào tháng 4 ,1999
về chủ đề Vũ trụ có những chỉ dấu của một sự thiết kế thông minh hay
không? Tôi được mời làm diễn giả, có lẽ ,như là đại diện của những người
không tin. Tôi đã được biết đến như là người không dành nhiều nhiệt tình
lắm với tôn giáo, chẳng hạn như những điều đã được trình bày trong
chương :”Thượng Đế là gì?” trong một cuốn sách của tôi có tựa đề là :”
Những Giấc Mơ về Một Lý Thuyết Sau Cùng”.
Một trong những hấp
dẫn của lời mời này là việc sắp xếp cho cuộc gặp gỡ được tổ chức ở thính
đường Baird của Viện bảo tàng lịch sử tự nhiên Smithsonian ở Washington.
Đó chính là thính đường mà các nhà thiên văn học Heber Curtis và Harlow
Shapley đã tổ chức một cuộc thảo luận nổi tiếng về kích thước của vũ trụ
vào năm 1920. Một hấp dẫn khác đó chính là tôi được chia sẻ diễn đàn với
một người bạn cũ, Sir John, Polkinghorne.
Lần đầu tiên tôi
biết đến Polkinghorne khi ông ta là một nhà Vật
Lý Tóan lỗi lạc đang nghiên cứu
về lực tương tác mạnh giữa
các hạt nhân. Trong khoảng mùa hè 1975 , vợ chồng
tôi đã ngồi trong căn bếp
của nhà John. Khi nghe ông ta tuyên bố sắp
từ bỏ chức vị giáo sư ở
đại học Cambridge và nhận một
sứ mạng thiêng liêng do Giáo hội Anh quốc giao phó tôi
suýt té khỏi ghế ngồi. Tôi hình
dung đến John và người
vợ, Ruth, theo gót chân của
David Livingstone đi giảng đạo cho những
người nghèo khổ ở một
trong những nơi thiếu thốn
nhất của thế giới.
Khi điều đó xảy ra, số phận là kẻ an bài tử tế -ông đã khép lại chức vị
chủ tịch trường Queen, Cambridge,với tước Hiệp sĩ Anh (KBE). Trong nhiều
năm John đã viết một số cuốn sách về mối liên hệ giữa Khoa học và Tôn
giáo mà trong thâm tâm tôi không đồng ý lắm.
Ở cuộc gặp gỡ này
John phác thảo quan điểm của ông và tôi cũng giới thiệu cái nhìn của
mình. Chúng tôi đã không đi sâu vào thảo luận với nhau. Tuy nhiên với
những bài viết trên các tạp chí The Chronicle of Higher Education và
hàng tá những tờ báo khác bao gồm the New York Times thì sự đối kháng đã
thu hút sự chú ý rất nhiều. Khi tôi gởi bản thảo bài nói chuyện của tôi
cho Robert Silvers để chuẩn bị cho cuốn sách The New York Review of
Books, ông ấy đã quyết định cho đăng nó như là một bài viết có quan điểm
trung dung, hơn là một phần của cuộc thảo luận với Polkinghorne.
Đây là bài viết sau cùng
( và ưng ý nhất) trong số những bài viết của tôi cho tuyển tập The New
York Review of Books. Bài viết này gây nên nhiều lời bình phẩm- một số
chống đối- hơn bất kỳ những bài viết khác của tôi. Những câu trả lời cho
những bức thư chống đối này đã được đăng trên tờ báo này, được trình bày
trong bài tiểu luận tiếp theo cũng trong tuyển tập này.
Một chủ đề thường
xuyên trong những bức thư phản hồi và những bài báo khác nhằm đáp trả
bài tiểu luận này là sự giận dữ đối với một điều tôi đã nói:” Có hay
không tôn giáo, một người tốt có thể cư xử tốt và một người xấu có thể
làm điều tội lỗi ;nhưng đối với người tốt làm điều xấu xa - họ cần phải
có một tôn giáo”.Một số ký gỉa kêu gọi tôi chú trọng đến một thực tế là
những điều xấu xa tệ hại nhất của thế kỷ 20 đã được gây ra bởi các chế
độ phủ nhận tôn giáo : Hitler ở nước Đức, Stalin ở Liên Bang Sô Viết,
Mao Trạch Đông ở Trung Quốc và Pol Pot ở Cam Bốt. Danh sách này đã bỏ
sót một số chế độ khủng khiếp khác đã ủng hộ các lãnh tụ tôn giáo trong
thế kỷ 20- chế độ Czar của Nga, Franco của Tây Ban Nha, Horthy của
Hungary, Ustashe của Croatia,Taliban của Afghanistan,Ayatollah của Iran,
....Ngay cả Hitler cũng đã được hưởng những lợi ích với giáo ước 1933 ký
với nhà thờ KyTô giáo. Nhưng tất cả những điều này đã ra ngoài chủ đề.
Ai có thể gọi Hitler, Stalin, Mao, Pol Pot hay những người thừa kế của
họ là những người tốt ? Khi nói rằng cần phải có tôn giáo cho những
người tốt khi họ làm những điếu xấu tôi đã nhớ đến những người như vua
Louis IX. Theo đánh gía chung ông ta là một người khiêm tốn, rộng lượng
và quan tâm với mức độ bất thường đến những phúc lợi của người dân nước
Pháp, nhưng chính ông ta ,đã bị dẫn dắt bởi chính tôn giáo, phát động
một cuộc xâm lăng Ai Cập mà chúng ta được biết như là cuộc Thập Tự Chinh
lần thứ 6.
Tôi không cho rằng
tôn giáo gây ra mọi điều xấu xa trên thế giới, nhưng tôi biết rằng khi
bạn nói bất kỳ điều gì còn đang vòng tranh cãi, thì gần như bạn bị trách
mắng không phải chỉ vì những điều bạn vừa nói mà chỉ vì người ta nghĩ
rằng những chuyện tranh cãi này sẽ chẳng đi tới đâu. Như thế tốt
hơn là thấy rằng mình đã không làm ai giận dữ.
Nhưng không một ai
nổi giận với bài báo này; nó đã được chọn đăng trong cả hai tuyển tập
khác nhau về các bài viết hay nhất trong năm: The Best American
Essays,2000 và The Best American Science Writting,2000.
------------------------------------------------------
Tôi được yêu cầu nhận
định về điều có hay không vũ trụ có những chỉ dấu cho thấy nó đã được
thiết kế .Tôi không biết cách thức khả dĩ nào để nói về điều này mà
không có, ít nhất, một ý niệm mơ hồ nào đó về người thiết kế. Một vũ trụ
khả hữu nào đó có thể được giải thích như là một công trình của một loại
tác nhân thiết kế nào đó. Ngay cả một vũ trụ hoàn toàn hỗn loạn, không
có luật lệ hay qui định nào cả, cũng có thể được gỉa định thiết kế bởi
một kẻ ngu xuẩn nào đó.
Câu hỏi dường như
đối với tôi xứng đáng để trả lời , và có lẽ không thể không trả lời đó
chính là có hay không một vũ trụ có những dấu hiệu được thiết kế bởi một
vị thần linh ít nhiều giống như các vị thần trong các tôn giáo độc thần
truyền thống- không nhất thiết phải là những khuôn mặt được khắc trên
trần ở giáo đường Sistine, nhưng ít ra kẻ đã sáng tạo nên vũ trụ phải là
một cá thể nào đó, một sự thông minh nào đó và có một mối liên hệ đặc
biệt nào đó với sự sống, đặc biệt là với đời sống con nguời .Tôi ngờ
rằng đó không phải là ý tưởng về người thiết kế mà nhiều người ở đây
đang có. Bạn có thể nói với tôi rằng bạn đang nghĩ về một cái gì đó trừu
tượng hơn, về một tinh thần phổ quát của sự trật tự và hài hòa, như
Einstein đã nghĩ. Bạn chắc chắn có toàn quyền nghĩ theo cách thức đó,
nhưng rồi tôi không hiểu vì sao bạn lại dùng những từ như “ Nhà thiết kế
“ hay “ Thượng Đế”, ngoại trừ, có lẽ, như một hình thái nhuộm màu để bảo
vệ.
Ngày xưa hiển nhiên
là thế giới này được thiết kế bởi một loại trí thông minh nào đó. Điều
gì khác có thể giải thích cho lửa, mưa, sấm chớp và động đất? Trên
hết, khả năng tuyệt vời của mọi sự sống dường như đã chỉ ra một kẻ sáng
tạo có một mối quan tâm đặc biệt nào đó đối với sự sống. Ngày nay chúng
ta hiểu biết hầu hết những điều như thế bằng những lực vật lý tác động
theo những định luật khách quan. Chúng ta chưa biết những định luật cơ
bản nhất , và chúng ta không thể làm việc với tất cả những hệ qủa của
những định luật mà chúng ta đã biết. Trí óc con người vẫn còn là điều
cực kỳ khó khăn để hiểu được và thời tiết cũng như thế. Chúng ta không
thể tiên đoán trời mưa hay không trong vòng một tháng, nhưng chúng ta
biết rõ qui luật của mưa, cho dù không phải lúc nào chúng ta cũng có thể
tính toán hết hệ qủa của chúng. Tôi không thấy bộ óc con người hơn hẳn
thời tiết về mức độ phức tạp và thời tiết không nằm ngoài tầm hy vọng
về sự hiểu biết của chúng ta như là một hệ qủa của những định luật
mang tính khách quan tác dụng lên hàng tỷ năm.
Dường như không có
bất kỳ ngoại lệ nào, phép lạ nào cho những trật tự của thiên nhiên. Tôi
có ấn tưởng rằng ngày nay hầu hết các nhà thần học đều bối rối bởi những
cuộc nói chuyện về phép lạ, nhưng niềm tin của những tôn giáo độc thần
lại đặt cơ sở trên những câu chuyện về phép lạ- một bụi cây phát cháy,
một ngôi mộ trống rỗng, một thiên thần đọc kinh Koran cho Mohammed- và
một vài niềm tin theo loại này dạy rằng phép lạ vẫn tiếp tục cho đến
ngày nay. Đối với tôi những chứng cứ cho tất cả những phép lạ này yếu
hơn hẳn những chứng cứ về phản ứng hạt nhân lạnh (1), và tôi không tin
vào những phản ứng hạt nhân theo kiểu này. Trên hết, ngày nay chúng ta
hiểu rằng ngay cả con người cũng là kết qủa của sự chọn lọc tự nhiên tác
động lên hàng triệu năm.
Tôi đoán rằng, gỉa
như chúng ta thấy được bàn tay của nhà thiết kế ở một nơi nào đó, về
nguyên lý căn bản nó phải là những định luật cuối cùng của tự nhiên, một
cuốn sách ghi chép đầy đủ những qui luật chi phối tất cả những hiện
tượng tự nhiên. Chúng ta vẫn chưa biết được định luật cuối cùng này,
nhưng mỗi khi chúng ta có khả năng nhìn thấy chúng, chúng hoàn toàn
khách quan và hầu như không có vai trò đặc biệt nào đối với sự sống.
Không có lực của sự sống. Như Richard Feynman đã nói, khi bạn nhìn vào
vũ trụ và hiểu biết những luật lệ của chúng, “ một lý thuyết mà nó được
sắp xếp hòan toàn như là một sân khấu cho Thượng Đế dùng để quan sát sự
tranh đấu của con người giữa điều tốt và cái xấu, là hoàn toàn không
thích hợp.”
Đúng như vậy, khi
Cơ học lượng tử mới ra đời, một số nhà vật lý nghĩ rằng nó đã đem con
người trở vào bức tranh tự nhiên, vì những nguyên lý của Cơ học Lượng tử
chỉ cho chúng ta biết cách tính xác suất của nhiều kết qủa biến thiên có
thể tìm được bằng quan sát viên –con người. Nhưng, bắt đầu với công
trình của Hugh Everett cách đây 40 năm, xu hướng của các nhà Vật lý đang
suy nghĩ sâu sắc về những điều này, muốn thiết kế lại môn Cơ Lượng tử
theo một cách thức hoàn toàn khách quan, trong đó người quan sát chỉ
được đối xử như mọi thứ khác. Tôi không biết là chương trình này đã hoàn
tất một cách thành công hay chưa. Nhưng tôi tin rằng nó sẽ đạt được kết
qủa như mong muốn.
Tôi phải chấp nhận
rằng, ngay cả khi các nhà Vật lý tiến thật xa ,tới mức họ có thể đạt
được - đạt được một lý thuyết cuối cùng- chúng ta cũng sẽ không có một
bức tranh hoàn toàn thỏa mãn về thế giới, vì chúng ta vẫn còn sót lại
câu hỏi “tại sao?” tại sao lý thuyết này mà không phải một lý thuyết
khác? Chẳng hạn, tại sao thế giới này được mô tả bởi Cơ học lượng tử ?
Cơ học lượng tử là một phần trong toàn bộ nền Vật lý hiện nay có vẻ như
sẽ sống sót nguyên vẹn trong bất kỳ một lý thuyết nào của tương lai,
nhưng về mặt logic không có gì không thể tránh khỏi ; thay cho Cơ học
lượng tử tôi có thể hình dung ra một vũ trụ được điều khiển bởi Cơ học
Newton. Như thế ,dường như vẫn có một sự bí mật nào đó không thể mất đi
mà khoa học cũng sẽ không loại bỏ được.
Nhưng những lý
thuyết tôn giáo về sự thiết kế cũng có chung vấn đề. Hoặc là bạn muốn ám
chỉ một cái gì đó là Chúa , nhà thiết kế, hoặc là không. Nếu bạn không
ám chỉ , thì chúng ta đang nói chuyện về cái gì? Nếu bạn muốn nói một
cái gì đó xác định là “Chúa” hay “sự thiết kế”, nếu gỉa như bạn tin vào
Thượng đế, người có tính chất ghen tị, hay nhân từ, hay là thông minh,
hay là khôi hài, thì bạn vẫn phải đối diện với câu hỏi “ tại sao?” Một
tôn giáo có thể khẳng định rằng vũ trụ được điều khiển bởi một loại
Thượng đế như thế này, hơn là một loại Thượng đế như thế khác, và niềm
tin này có vẻ là hiển nhiên, nhưng nó không thể giải thích tại sao lại
như thế.
Trong chiều hướng
đó, đối với tôi dường như Vật lý ở một vị thế tốt hơn tôn giáo khi cho
chúng ta một sự giải thích thỏa mãn phần nào về thế giới , chỉ vì mặc
dù các nhà vật lý sẽ không thể giải thích tại sao các định luật tự nhiên
là như thế mà không là một điều gì hoàn toàn khác, nhưng ít ra chúng ta
có thể giải thích tại sao chúng lại không khác biệt chút ít .
Chẳng hạn như , về mặt logic không ai có khả năng nghĩ đến một phương
pháp thích hợp nào đó, chỉ khác biệt một chút nhưng lại có thể thay thế
vai trò của Cơ học lượng tử. Một khi bạn bắt đầu thử thay đổi một chút
trong Cơ lượng tử, bạn sẽ thu được trong những lý thuyết đó những xác
suất âm hay những sự vô lý khác về mặt luận lý. Khi bạn kết hợp Cơ lượng
tử và thuyết Tương đối bạn đã làm tăng tính chất mong manh về logic của
nó. Bạn thấy rằng trừ khi bạn đặt lý thuyết này đúng hướng, nếu không
bạn sẽ thu đuợc những điều vô nghĩa, giống như hệ qủa đi trước nguyên
nhân, hay là những xác suất vô cùng lớn. Mặt khác, những lý thuyết về
tôn giáo dường như vô cùng uyển chuyển mà không có điều gì ngăn cản sự
sáng tạo ra những tính chất thần thánh của bất kỳ những nhân vật khả dĩ
cảm nhận được .
Giờ đây, không tạo
nên bất kỳ một vấn đề nào đối với tôi, khi nói rằng chúng ta không thể
thấy bàn tay của nhà thiết kế trong những nguyên lý cơ bản của khoa học
mà chúng ta biết đến. Có thể là mặc dù những nguyên lý này không đề cập
một cách rõ ràng đến sự sống, hay chỉ một ít về sự sống của con người.
Tuy vậy chúng không được thiết kế một cách thủ công để làm cho sự sống
xảy ra.
Một số nhà vật lý
lập luận rằng một số các hằng số vật lý có gía trị dường như đã được
tinh chỉnh một cách bí mật để những gía trị này cho phép khả năng của sự
sống, theo một cách thức nào đó mà chỉ có thể được giải thích bởi sự can
thiệp của một nhà thiết kế có mối quan tâm đặc biệt về cuộc sống. Tôi
không có ấn tượng nào với những gỉa định về những trường hợp tinh chỉnh
này. Chẳng hạn như, một trong những ví dụ thường được dẫn ra nhất về sự
tinh chỉnh này có liên quan đến tính chất của hạt nhân nguyên tử carbon.
Trong một vài phút đầu tiên của vũ trụ vật chất được tạo nên hầu hết là
hydrogen và helium mà chắc chắn không có những nguyên tố nặng hơn nào
dường như cần thiết cho sự sống như carbon, nitrogen, và oxygen. Những
nguyên tố nặng mà chúng ta tìm thấy trên trái đất được hình thành hàng
trăm triệu năm về sau trong một thế hệ đầu tiên các ngôi sao, và rồi
chảy ra , đi vào chất khí giữa các ngôi sao mà từ đó hệ mặt trời của
chúng ta hình thành.
Giai đoạn đầu tiên
trong một chuỗi các phản ứng hạt nhân đã tạo nên những nguyên tố nặng
trong các ngôi sao đầu tiên thường là sự hình thành hạt nhân carbon từ
ba hạt nhân helium. Có một cơ may rất nhỏ để tạo ra nhạt nhân carbon ở
trạng thái bình thường của chúng ( trạng thái có năng lượng thấp nhất)
trong sự va chạm của ba hạt nhân helium, nhưng vẫn có khả năng tạo nên
một lượng đáng kể carbon trong các ngôi sao nếu hạt nhân carbon tồn tại
ở trạng thái phóng xạ với mức năng lược cao hơn khoảng 7 Mev so với mức
cơ bản, tương thích với năng lượng của khối lượng ba hạt nhân helium,
nhưng
( vì những lý do mà tôi
đang dẫn ra ở đây) không được hơn 7.7 MeV trên trạng thái bình thường.
Trạng thái phóng xạ
này của hạt nhân carbon có thể dễ dàng hình thành trong các ngôi sao từ
ba hạt nhân helium. Sau đó, sẽ không có gì vấn đề gì khi tạo nên carbon
thông thường; hạt nhân carbon trong trạng thái phóng xạ có thể phát xạ
(phát ánh sáng) một cách tự phát và trở nên carbon ở trạng thái bình
thường không phóng xạ, trạng thái tìm thấy trên trái đất. Điểm mấu chốt
để tạo nên carbon là sự tồn tại của trạng thái phóng xạ của hạt nhân
carbon mà nó có thể được hình thành từ sự va chạm của ba hạt nhân
helium.
Thật vậy, về thực
nghiệm trạng thái phóng xạ của hạt nhân carbon được biết có mức năng
lượng 7.65 MeV trên mức bình thường. Thoạt nhìn vào điều này dường như
đó là cú thoát hiểm trong gang tấc : năng lượng ứng với trạng thái phóng
xạ của carbon chỉ thiếu 0.05 MeV để vượt khỏi mức cho phép hình thành
carbon ( và cũng là hình thành chúng ta), con số này chỉ kém hơn 1 phần
trăm của 7.65 MeV. Có vẻ là các hằng số tự nhiên mà những tính chất của
tất cả các hạt nhân phụ thuộc vào nó đã được tinh chỉnh một cách thận
trọng để có thể hình thành sự sống.
Hãy nhìn kỹ hơn, sự
tinh chỉnh của các hằng số tự nhiên dường như không hẳn là tinh vi, mịn
màng. Chúng ta phải xem xét lý do tại sao sự hình thành của carbon trong
các ngôi sao đòi hỏi sự tồn tại của trạng thái phóng xạ carbon với mức
năng lượng không hơn 7.7 MeV so với mức cơ bản. Lý do chính là hạt nhân
carbon trong trạng thái này thực sự được hình thành trong một qúa trình
gồm hai bước: đầu tiên, hai hạt nhân helium kết hợp với nhau để hình
thành một hạt nhân không bền của đồng vị beryllium, beryllium 8, nó
thỉnh thoảng thu tóm hạt nhân helium thứ ba trước khi phân rã để hình
thành hạt nhân carbon ở trạng thái phóng xạ, hạt nhân carbon này cũng sẽ
phân rã để trở thành hạt nhân carbon bình thường. Năng lượng tổng cộng
của hạt nhân beryllium 8 và của hạt nhân hellium ở trạng thái nghỉ là
7.4 MeV trên mức năng lượng bình thường của hạt nhân carbon; như thế
,nếu năng lượng của trạng thái phóng xạ hạt nhân carbon hơn 7.7 MeV thì
nó chỉ có thể hình thành từ sự va chạm của hạt nhân helium và hạt nhân
beryllium 8 nếu động năng của hai hạt nhân này ít nhất phải là 0.3 MeV-
một năng lượng cực kỳ khó tồn tại ở những nhiệt độ tìm thấy trên các
ngôi sao.
Như vậy, điểm mấu
chốt ảnh hưởng lên sự hình thành của carbon trong các ngôi sao không
phải là mức năng lượng 7.65 MeV của trạng thái phóng xạ carbon trên mức
bình thường, mà là năng lượng 0.25 MeV( trên mức năng lượng của các hạt
nhân này ở trạng thái nghỉ ) của trạng thái phóng xạ, một trạng thái
liên kết không bền của beryllium 8 và hạt nhân helium. Đối với sự hình
thành carbon, năng lượng này còn thiếu một tỷ lệ 0.05 MeV/0.25MeV , hay
20 %. Dù sao thì đó không phải là sự thoát hiểm trong gang tấc.
Kết luận này về
những điều đã được biết từ việc tổng hợp carbon còn trong vòng tranh
cãi. Trong bất kỳ trường hợp nào, chỉ có một hằng số mà gía trị
của nó dường như đã được điều chỉnh một cách đáng kể theo cách có lợi
cho chúng ta. Đó chính là mật độ năng lượng của chân không, thường được
biết đến dưới cái tên hằng số vũ trụ. Thật vậy, nó có thể có một gía trị
bất kỳ, nhưng từ các nguyên lý đầu tiên người ta có thể đoán rằng hằng
số này phải rất lớn, có thể dương hoặc âm. Nếu rất lớn và dương, hằng số
vũ trụ có tác dụng như một lực đẩy càng xa càng lớn, một lực sẽ ngăn vật
chất tụ hợp lại trong vũ trụ sơ khai mà đó chính là qúa trình ban đầu ,
là bước đầu tiên trong việc hình thành thiên hà, ngôi sao, hành tinh và
con người. Nếu rất lớn và âm, hằng số vũ trụ sẽ có tác dụng như một lực
hút tăng dần theo khoảng cách, một lực hầu như đảo ngược ngay túc khắc
sự nở rộng của vũ trụ và làm nó tái sụp đổ, không để lại thời gian cho
sự tiến hóa của sự sống. May thay, các quan sát thiên văn cho thấy rằng
hằng số vũ trụ rất nhỏ nhỏ hơn nhiều so với dự đoán của các nguyên lý
đầu tiên.
Còn qúa sớm để nói
rằng có hay không một nguyên lý căn bản nào đó có thể giải thích tại sao
hằng số vũ trụ phải nhỏ như vậy. Nhưng ngay cả nếu như không có một
nguyên lý như thế, sự phát triển gần đây của môn Vũ trụ học cũng đưa đến
những khả năng cho một sự giải thích tại sao gía trị đo được của hằng số
vũ trụ và những hằng số vật lý khác đã ủng hộ cho sự xuất hiện của một
sự sống có trí thông minh. Theo lý thuyết về “ sự lạm phát hỗn loạn”
(chaotic inflation) và “sự lạm phát vĩnh cửu” (eternal
inflation) của André Linde, Alex Vilenkin và những người khác, những đám
mây đang bành trướng của hàng triệu thiên hà mà chúng ta vẫn gọi là Big
Bang có thể chỉ là một mảnh của một vũ trụ rộng lớn hơn trong đó big
bang luôn luôn bùng nổ, mỗi vụ nổ này sẽ có những gía trị khác nhau cho
các hằng số cơ bản.
Trong bất kỳ một
bức tranh nào như thế, trong đó vũ trụ hàm chứa những phần khác nhau với
những gía trị khác nhau của những cái mà chúng ta thường gọi là các hằng
số tự nhiên. Có lẽ sẽ không có sự khó khăn nào trong việc tìm hiểu tại
sao những “hằng số” này lại có những gía trị thích ứng cho sự sống có
trí thông minh . Có thể có vô số những Big Bang mà trong đó những hằng
số tự nhiên có những gía trị không thích ứng cho sự sống và một ít
những Big Bang cho sự sống khả dĩ. Bạn không cần phải viện dẫn một nhà
thiết kế nhân từ để giải thích tại sao chúng ta lại ở một phần trong vũ
trụ nơi sự sống là khả dĩ vì trong tất cả các phần còn lại không có ai
đặt ra câu hỏi này . Nếu bất kỳ một lý thuyết nào thuộc loại tổng quát
trên trở nên đúng đắn thì việc kết luận rằng những hằng số tự nhiên đã
được vi chỉnh bởi một nhà thiết kế nhân từ sẽ giống như phát biểu sau,”
Có phải là điều tuyệt vời không, khi Thượng Đế đã đặt chúng ta ở đây,
trên trái đất, nơi có nước và không khí, có trọng lực và nhiệt độ qúa dễ
chịu, thay vì ở một nơi khắc nghiệt khác chẳng hạn như sao Thủy hoặc
Pluto?” . Ở nơi nào khác trong hệ mặt trời khác hơn là trái đất chúng ta
có thể tiến hóa được?
Lập luận kiểu như
vậy được gọi là “ vị nhân “ (anthropic) (2). Đôi khi nó dẫn đến sự khẳng
định là các luật của tự nhiên là những gì cần thiết để cho chúng ta hiện
hữu, không có sự giải thích nào sâu xa hơn. Đối với tôi điều này dường
như chỉ huyền bí hơn những lời nói nhảm (mumbo jumbo) một chút. Mặt
khác,nếu thực sự có vô số thế giới trong đó những hằng số tự nhiên có
những gía trị khác nhau ,thì sự giải thích lấy con người làm gốc cho lý
do tại sao trong thế giới của chúng ta những hằng số này thích ứng cho
sự sống chỉ là lẽ thường tình, giống như chuyện giải thích tại sao chúng
ta lại sống trên trái đất mà không sống trên sao Thủy hoặc Pluto. Gía
trị hiện nay, đo được gần đây nhất ,của hằng số vũ trụ bằng sự quan sát
chuyển động của các siêu lân tinh (supernova) vào khoảng gía trị trong
tầm trông đợi của bạn từ những lập luận theo kiểu này: nó chỉ đủ nhỏ để
không can dự sâu vào sự hình thành các thiên hà. Nhưng chúng ta vẫn chưa
biết đủ về Vật lý để nói rằng có hay không những phần khác nhau của vũ
trụ mà ở đó cái mà chúng ta thường gọi là những hằng số vật lý thực sự
có những gía trị khác. Đây không phải là một câu hỏi tuyệt vọng; chúng
ta có lẽ có đủ khả năng để trả lời câu hỏi này khi chúng ta có sự hiểu
biết tốt về lý thuyết hấp dẫn lượng tử.
Có thể là một chứng
cứ của nhà thiết kế nhân từ nếu sự sống tốt đẹp hơn sự mong đợi ở những
nền tảng khác. Để thẩm định điều này,chúng ta nên nhớ rằng một khả năng
nào đó đối với sự vui thích cũng đã tiến hóa thông qua sự chọn lọc tự
nhiên, như là một động lực cho những con vật chỉ cần ăn và truyền giống
để truyền gen của chúng. Không có vẻ như sự chọn lọc tự nhiên trên bất
kỳ một hành tinh nào có thể tạo ra những sinh vật có đủ may mắn để có
những thú tiêu khiển, khả năng làm khoa học và suy nghĩ trừu tượng,
nhưng những mẫu vật được tạo nên bởi sự tiến hóa của chúng ta cho thấy
một sự thiên vị rõ rệt. Với sự kiện đó chỉ là duy nhất trong những
trường hợp may mắn, nhưng có nhiều người đang nghĩ về một sự thiết kế
của vũ trụ. Các nhà thiên văn học đơn thuần gọi đó là hiệu ứng chọn lọc.
Vũ trụ rất rộng
lớn,và có lẽ là vô tận, vì thế chẳng có gì ngạc nhiên rằng, trong số
muôn vạn hành tinh chỉ dung dưỡng cho sự sống không có trí thông minh và
một số lớn khác vẫn hòan toàn không ủng hộ cho sự sống, vẫn có một tỷ
lệ rất nhỏ mà ở đó các sinh vật có khả năng suy nghĩ về vũ trụ, như
chúng ta đang làm ở đây. Một ký gỉa có nhiệm vụ phỏng vấn những người
trúng số độc đắc có thể cảm nhận rằng đã có một sự phù hộ đặc biệt nào
đó cho những người này, nhưng anh ta nên nhớ rằng đại đa số những người
chơi xổ số không được anh ta phỏng vấn chỉ vì họ chẳng trúng một giải
nào cả. Như thế để phán xét rằng có phải cuộc sống của chúng ta là chứng
cứ cho nhà thiết kế nhân từ, chúng ta không những phải hỏi rằng có phải
cuộc sống của chúng ta tốt hơn sự mong đợi trong mọi trường hợp mà trong
đó chúng ta biết rõ về sự chọn lọc tự nhiên, mà còn phải xét đến sự
thiên vị bởi sự kiện là chính chúng ta là kẻ đang suy nghĩ về vấn đề
này.
Đó chính là câu hỏi
mà tất cả các bạn phải trả lời cho chính mình. Là một nhà vật lý nên tôi
không có sự trợ giúp nào với những câu hỏi như vậy. Chính vì vậy tôi
phải phát biểu từ chính kinh nghiệm bản thân.Cuộc sống của tôi rất hạnh
phúc , có lẽ trên 99.99 % so với hạnh phúc của con người, nhưng ngay cả
như thế, tôi đã chứng kiến mẹ tôi chết đau đớn do căn bệnh ung thư, cá
nhân cha tôi bị hủy hoại bởi căn bệnh Alzheimer, và họ hàng của tôi chết
trong những trại tập trung Holocaust. Dấu hiệu của một nhà thiết kế nhân
từ hầu như còn ẩn nấp đâu đó.
Sự phổ biến của tội
lỗi và đau khổ luôn luôn quấy rối những ai đang tin vào một Thượng Đế
nhân từ và toàn năng. Đôi khi Thượng Đế được tha thứ bởi sự chỉ ra nhu
cầu của ý chí tự do nơi con người. Milton cho Thượng Đế lời lý giải này
trong bài thơ Thiên Đường Đã Mất (3):
Ta cho họ tự do và
họ phải giữ lấy,
rồi mê hoặc chính
mình: ta phải làm khác đi
bản chất của họ, nhân
lời cao cả
thường hằng, vĩnh
cưủ, để ban cho
Sự tự do ; tự chuốc
lấy sự sa đọa của chính mình.
Có vẻ như là một
sự bất công khi quyến thuộc của tôi bị sát hại để cung cấp một cơ hội
cho ý chí tự do đối với người Đức, nhưng ngay cả khi bỏ qua chuyện này,
làm sao ý chí tự do có thể giải thích cho căn bệnh ung thư? Đó có phải
là cơ hội cho ý chí tự do của các ung bươú?
Ở đây tôi không
cần biện giải rằng cái xấu trên thế giới minh chứng rằng vũ trụ đã không
được thiết kế, mà chỉ lập luận rằng không có một dấu hiệu của lòng nhân
từ để chứng minh cho bàn tay của người thiết kế. Nhưng ,thật vậy, sự
cảm nhận về Thượng Đế không thể nhân từ rất xa xưa . Những vở kịch của
Aeschylus và Euripides đã cho một lời khẳng định nhanh chóng rằng các vị
chúa rất ích kỷ và tàn ác, mặc dù họ trông mong sự cư xử tốt hơn ở nơi
con người. Chúa trời trong Cựu Ứớc bảo chúng ta đập vào đầu những kẻ
chống đạo và đòi hỏi sự tự nguyện hiến dâng mạng sống của con chúng ta
theo lệnh của Ngài và Chúa của các đạo truyền thống KyTô, Hồi giáo
nguyền rủa chúng ta đời đời nếu không thờ phượng đúng cách. Đó có phải
là cách cư xử đẹp? Tôi biết, tôi biết chúng ta không được phán xét các
vị Chúa trời theo tiêu chuẩn của con người, nhưng bạn sẽ thấy vấn đề là
ở chỗ này: Nếu sự hiện hữu của Ngài chưa thuyết phục chúng ta , và chúng
ta đang đi tìm những dấu hiệu của lòng từ tâm của Ngài, thì có những
tiêu chuẩn khác nào mà chúng ta có thể sử dụng?
Vấn đề tôi đặt ra ở đối
với nhiều người dường như chỉ là chuyện “thời thượng”. “Luận cứ sự
thiết kế” của nhà thần học người Anh William Paley không còn nằm trong
đầu óc của hầu hết mọi người vào thời nay. Ngày nay uy tín của tôn giáo
dường như chỉ dẫn xuất từ những điều mà người ta cho là những ảnh hưởng
của luân lý , mà không phải từ những điều người ta có thể nghĩ và đang
thành công trong việc giải thích những gì chúng ta thấy trong tự nhiên.
Ngược lại, tôi phải nhận rằng, mặc dù tôi không tin vào một nhà thiết kế
vũ trụ, lý lẽ mà tôi đang gặp khó khăn khi biện giải đó chính là tôi
nghĩ rằng ảnh hưởng luân lý của tôn giáo, khi cân nhắc kỹ, thật là đáng
qúi.
Đây là một câu hỏi
qúa lớn đặt ra ở đây. Một mặt, tôi có thể chỉ ra vô số những ví dụ tai
hại được thực hiện bởi lòng nhiệt thành tôn giáo, xuyên qua một chiều
dài lịch sử của các cuộc tàn sát người Do Thái (dưới thời Nga hoàng),
những cuộc thập tự chinh, những cuộc chiến tranh giữa tín đồ Hồi giáo và
ngoại đạo. Trong thế kỷ của chúng ta chính người hồi giáo qúa khích đã
giết Sadat và chính người Do thái giáo qúa khích đã giết Rabin. Không ai
có thể nói rằng Hitler là một tín đồ Kytô qúa khích, nhưng khó có thể
hình dung rằng chủ nghĩa Nazi hình thành mà không có nền tảng được cung
cấp bởi nhiều thế kỷ người Kytô chống chủ nghĩa Semit. Mặt khác, nhiều
người ngưỡng mộ tôn giáo có thể đưa ra vô số những thí dụ về những điều
tốt đẹp thực hiện bởi tôn giáo. Chẳng hạn như trong một cuốn sách gần
đây Những Thế Giới Tưởng Tượng , nhà vật lý lỗi lạc Freeman Dyson
đã nhấn mạnh đến vai trò của niềm tin tôn giáo trong việc phá bỏ chế độ
nô lệ. Tôi mạn phép nhận định ngắn gọn về điểm này, không cố chứng tỏ
bất kỳ điều gì với một thí dụ, mà chỉ để minh họa những suy nghĩ của tôi
về ảnh hưởng của tôn giáo về mặt luân lý.
Chắc chắn rằng
phong trào chống nô lệ và buôn bán nô lệ được củng cố thêm sức mạnh bởi
những tín đồ Kytô, bao gồm người theo phái Phúc âm thế tục như William
Wilberforce ở Anh, và người đứng đầu phái Nhất thể như William Ellery
Channing ở Mỹ. Nhưng Kytô giáo, giống như những tôn giáo lớn khác trên
thế giới, sống thoải mái với chế độ nô lệ hàng nhiều thế kỷ, và chế độ
nô lệ đã in dấu trong Tân Ước. Vậy thì cái gì làm nên sự khác biệt đối
với Wilberforce và Channing ? Không có sự khám phá những Kinh Thánh mới
nào ở đây, Wilberforce và Channing cũng không tuyên bố nhận được sự
thiên khải nào. Đúng hơn là, thế kỷ 18 đã chứng kiến sự lan tràn của lý
trí và chủ nghĩa nhân bản đã dẫn đến những người khác-chẳng hạn –Adam
Smith, Jeremy Bentham và Richard Brinsley Sheridan- cũng chống lại chế
độ nô lệ trên những nền tảng không liên hệ gì với tôn giáo. Lord
Mansfield , tác giả của những quyết định trong vụ kiện Somersett chấm
dứt sự bảo vệ hợp pháp chế độ nô lệ ở Anh ( mặc dù không phải ở các
thuộc địa), không phải là người có đạo , và quyết định của ông không dựa
trên những lý lẽ tôn giáo. Cho dù Wilberforce là kẻ người chủ xướng của
phong trào chống buôn bán nô lệ vào năm 1970 , phong trào này thực chất
được nhiều người trong Quốc hội ủng hộ như Charles James Fox và William
Pitt, những người đã không được ai biết đến tấm lòng của họ. Điều tôi có
thể nói là, âm điệu luân lý của tôn giáo đã hưởng lợi từ những bộ óc của
thời đại hơn là hơn là những bộ óc này hưởng phúc lành từ tôn giáo.
Chỗ mà tôn giáo đã
tạo nên sự khác biệt, đó chính là nó ủng hộ chế độ nô lệ nhiều hơn là
chống đối. Những lập luận lấy từ kinh thánh đã được Quốc hội dùng để bảo
vệ chế độ buôn bán nô lệ. Frederic Douglass đã kể trong tác phẩm
Truyện Kể , làm thế nào mà hoàn cảnh làm nô lệ của ông ta trở nên tồi
tệ khi người chủ của ông đã đổi đạo và cho phép ông ấy xem sự nô lệ như
là một hình phạt dành cho những người con của Ham (4).
Mark Twain mô tả người
mẹ như là một người thuần khiết tốt bụng, lòng thương hại của bà còn
dành ngay cả cho Satan nhưng bà lại chẳng ngờ vực gì về sự hợp pháp của
chế độ nô lệ, bởi vì trong những năm trước chiến tranh sống ở Missouri
bà không bao giờ được nghe bất kỳ một bài giảng đạo nào chống lại chế độ
nô lệ mà chỉ nghe vô số những bài giảng đạo dạy rằng chế độ nô lệ là ý
muốn của Chúa. Có hay không có tôn giáo, người tốt có thể cư xử tốt và
người xấu có thể làm điều xấu xa; nhưng đối với người tốt làm điều tội
lỗi - cần phải có tôn giáo.
Trong bức điện thư của
Hiệp Hội Liên Hiệp Hoa Kỳ về sự Tiền Phong của Khoa Học tôi biết rằng
mục đích của buổi hội thảo này là có được một cuộc đối thoại xây dựng
giữa Khoa học và Tôn giáo. Tôi tán thành một cuộc đối thoại giữa khoa
học và tôn giáo, nhưng không phải là một cuộc đối thoại xây dựng. Một
trong những thành tựu vĩ đại của khoa học chính là, nếu không làm cho
việc một người thông minh là một người có đạo trở thành bất khả thi, thì
ít nhất việc làm cho họ vô thần là một chuyện khả thi. Chúng ta không
nên rút lui từ sự thành tựu này.
Chú thích của người
dịch:
(1): Phản ứng hạt nhân
lạnh (Cold fusion): còn gọi là phản ứng hạt nhân ở năng lượng thấp, được
báo cáo đầu tiên vào tháng 3/1989 bởi Fleischmann và Pons. Phản ứng này
đã tạo nên hy vọng có thể dùng làm nguồn năng lượng dồi dào và rẻ tiền.
Nhưng khoa học sau đó đã chứng minh rằng đó là những sai lầm về thực
nghiệm.
(2): Nguyên lý vị nhân (anthropic principle) là một khái niệm
của
triết học, được hình thành dựa trên ý tưởng chính đó là sự tồn tại
của các tham số đặc trưng của
vũ trụ mà chúng ta quan sát, có thể không xác định được một cách
trực tiếp thông qua các định luật cơ bản của
vật lý, nhưng bằng lý lẽ đúng của các quan sát viên thông thái. Nói
cách khác " nếu điều gì đó đúng với chúng ta, để tồn tại, thì nó mãi
đúng, vì chúng ta tồn tại ". (nguồn Wikipedia)
(3) Nguyên văn:
I formed them free, and free they must
remain/Till they enthral themselves: I else must change/Their nature,
and revoke the high decree/ Unchangeable,eternal,which ordained/Their
freedom;they themselves ordained their fall.
(4) The children of Ham: ám chỉ người da
đen trong thời kỳ nô lệ.