LỜI TÒA SOẠN
TT Bush và NT Rice dang
loay hoay đem cả vốn lẫn lời đặt vào canh bạc gọi là Hòa Hội Trung Đông ở
Annapolis khai mạc vào thứ Ba 27/11/07.Hội nghị này có cơ thành tựu không
và với những điều kiện nào?
Mỹ không thể rút chân ra
khỏi Iraq nếu Trung Đông không có một triển vọng hòa bình ổn định. Triển
vọng đó là gì?
Đấy là những câu hỏi
Hoàng Nguyên Nhuận đã thử đặt ra từ sáu năm nay qua lăng kính của Vụ 119,
nhưng thời sự tính thì hình như vẫn còn..xin hân hạnh giới thiệu bạn đọc..
ây là thời đại toàn cầu hóa. Biến cố 11.9.2001 ở Mỹ đã
trở thành một vấn đề toàn cầu nên những buồn giận sầu lo phát xuất từ vụ đó
không thể chỉ là phản ứng của người dân Mỹ thôi.
Suy nghĩ của Hoàng tôi về vụ 11.9 trước tiên khởi từ
một lý do khá riêng tư đó là con cháu, anh em, thầy trò, bè bạn thân sơ xa
gần của tôi đầy dẫy bên Mỹ. Chính quyền Mỹ hắt hơi là những người dân Mỹ
bình thường - kể cả những người thân của tôi, sẽ không tránh khỏi cúm, cảm
sốt, thương hàn. Đó là lý do ích kỷ khiến tôi không muốn ai khổ cả, không
thích thấy ai khổ cả, không muốn nước Mỹ rơi vào tình trạng dầu sôi lửa bỏng
như từ hôm 11.9 đến nay.
Một Ốc Đảo
An Toàn Tuyệt Đối
Tổng Thống G.W. Bush nhậm chức chưa đầy một năm, khai
sáng một thời đại trong đó nước Mỹ có vẻ muốn chứng tỏ cho thế giới thấy
rằng mình đủ điều kiện để thực hiện một thế cô lập an toàn sau hàng rào điện
tử và phi đạn chống phi đạn. T.T Bush công khai hô hào tái tục chương trình
Star Wars bị T.T Clinton gác qua một bên. Nếu chương trình Star Wars thành
công thì Mỹ sẽ thừa khả năng hăm dọa dùng vũ khí nguyên tử để đánh phá bất
cứ nơi nào trên thế giới mà đối phương khó lòng trả đũa. Danh sách của những
nước này hình như đã được liệt kê dưới cái tên 'những nước làm loạn' - rogue
nations. Một số người trong chính quyền Bush đã không ngần ngại gọi thế kỷ
21 là 'thế kỷ của Hoa Kỳ'.
Dưới nhãn quan cô lập an toàn tuyệt đối đó, T.T Bush đã
mạnh dạn hủy bỏ thỏa hiệp tài giảm phi đạn liên lục địa với Nga, đã dẹp xó
Hiệp định thư Tokyo nhằm thanh lọc môi sinh, đã chối từ không ký vào thỏa
ước thanh sát vũ khí sinh hoá được 143 quốc gia ký tên đồng ý sau ngót cả
chục năm thương lượng, đã từ chối không phê chuẩn hiệp ước cấm sản xuất và
xử dụng mìn chống cá nhân, đã tỉnh bơ khi bị loại khỏi các tổ chức bảo vệ
nhân quyền và tổ chức chống ma túy của Liên Hiệp Quốc, đã cố làm lơ phần
đóng góp của mình vào quỹ điều hành của LHQ.
Mỹ có vẻ như không cần ai nữa cả. Mỹ có thể tồn tại như
một ốc đảo an toàn vĩ đại. Biến cố 11.9 biến cảm nghĩ an toàn đó thành ảo
tưởng kinh hoàng.
Đồn lũy kinh tài ở New York bị đánh sập thành bình địa
- ground zero, đầu não quân sự Ngũ Giác Đài bị tấn công, trùng độc hăm dọa
Tòa Bạch Ốc, Quốc Hội, Tối Cao Pháp Viện, Bộ Ngoại Giao, Bộ Tư Pháp, Bộ Y
Tế, tổng hành dinh CIA, một số cơ quan truyền thông chủ chốt, một số trạm
bưu điện, bệnh viện ở New York, một số Tòa Đại Sứ Mỹ ở ngoại quốc... Đó chỉ
mới là trùng độc bệnh than, chưa nói đến những thứ độc hại khác như bệnh đậu
mùa, bệnh ebola và vi khuẩn phá hoại các máy điện toán. Kẻ thù vô hình chứng
tỏ họ không có khả năng tàn sát nhưng đủ sức gây hốt hoảng khiếp đảm, đủ sức
làm cho người dân Mỹ bình thường phải mất ăn mất ngủ vì thấy rằng không còn
nơi nào là an toàn tuyệt đối ngay trên nước Mỹ.
Lần đầu tiên, nước Mỹ bị tấn công ngay trên đất mình mà
vô phương chống đỡ. Lần đầu tiên người dân Mỹ thấy rằng chính phủ mỗi năm bỏ
ra 183 tỷ tiền thuế mình đóng để lo cho an ninh quốc phòng đã thất bại.
Thế an toàn của Mỹ nhờ những chiến lũy thiên nhiên vĩ
đại là Đại Tây Dương và Thái Bình Dương cũng hết hiệu nghiệm. Khả năng giáng
trả khủng khiếp của Mỹ dựa vào hỏa lực hải, lục, không quân, cộng thêm kỹ
thuật truyền tin điện tử tối tân và các biện pháp phong tỏa kinh tài vẫn
không thể làm cho đối phương phải e ngại dừng tay chùn bước.
Vì kẻ thù ở đây không có lãnh thổ, không có căn cứ địa
nên Mỹ không thể răn đe kiểu san bằng Hiroshima và Nagazaki bằng bom nguyên
tử, chà láng Bắc Việt bằng B.52, oanh tạc Yugoslavia, ồ ạt đánh phá rồi
phong tỏa kinh tế Iraq.
Những đòn trừng phạt răn đe đó chẳng ích gì với quân
khủng bố hay đối phương vô hình của Mỹ hôm nay, vì đám này không có lãnh thổ
để chịu trận, mà lại cũng không sợ chết. Cùi không sợ lở, biết đâu giết được
họ, họ còn cám ơn vì đã tạo cơ hội cho họ lên thiên đàng chóng vánh trót
lọt? Giết họ là tạo cơ hội để họ tuyển mộ thêm thánh tử đạo, cảm tử quân?
Không Theo
Ta Là Kẻ Thù Của Ta
Sắt máu bạo động là điều phải chống. Giết hại, nhất là
giết hại những người dân thường vô can là điều phải chống.
Hoàng tôi xót xa thương cảm những nạn nhân trong nấm mồ
vĩ đại nơi vùng bình địa, và những thân nhân của họ ở New York. Tôi xót xa
thương cảm cho những nạn nhân ở Ngũ Giác Đài, cũng như những nạn nhân của
độc khuẩn Anthrax. Tôi không thể không phân vân khi nghe T.T Bush bảo dân Mỹ
chỉ có hai đường lựa chọn. Một, theo ông đem hỏa tiễn, bom đạn dội xuống
Afganistan để truy lùng Osama bin Laden và tổ chức Al Qaida và để trừng trị
Afganistan về cái tội chấp chứa bin Laden. Hai, theo bọn khủng bố, những kẻ
đã cướp tàu bay đánh sập hai cao ốc ở New York và Ngũ Giác Đài hay những kẻ
dùng vũ khí sinh hóa để tàn sát đồng loại. Lý sự dồn thiên hạ vào chân tường
của T.T Bush như thế có thể biến cuộc chiến chống ác quỷ, chống khủng bố
thành một cuộc 'nội chiến' giữa chính quyền một bên và bên kia là truyền
thông Mỹ vốn không muốn bị ai khóa miệng khóa mồm và Quốc Hội Mỹ đang do
đảng Dân Chủ đối lập khống chế. Mắt đổi mắt, răng đền răng có thể là điều
'công bằng', nhưng cứ đền cứ đổi kiểu đó thì không khéo cuộc đời rồi sẽ chỉ
còn những... người mù húp cháo.
Nước Mỹ Vĩ
Đại
Mới hơn hai trăm năm lập quốc, người Mỹ đã thực hiện
được điều không một nước nào khác làm được đó là làm cho quốc gia mình trở
nên giàu nhất, mạnh nhất, tự do dân chủ nhất. Hoa Kỳ là quốc gia của những
điều vĩ đại. Là một quốc gia vĩ đại, Mỹ phải có những hành động vĩ đại và
những thành tích vĩ đại. Hành động và thành tích đó đòi hỏi một nhà lãnh đạo
vĩ đại cân xứng. Trách nhiệm và thiên chức thực hiện những thành tích vĩ đại
đó trước hết phải bắt đầu từ kẻ đang nắm vận mạng nước Mỹ là T.T Bush.
Lãnh đạo là kẻ lo trước cái lo của dân, vui sau cái vui
của dân - tiên thiên hạ chi ưu hậu thiên hạ chi lạc. Khi đất nước biến động
hay đại họa xảy ra - bất kể là thiên tai hay nhân họa, minh quân minh chúa
thường ăn chay nằm đất, sám hối tội lỗi, sáng suốt trầm tĩnh tìm giải pháp.
Lãnh đạo là kẻ phải tự trách mình trước, rồi mới trách
thiên hạ sau - tiên trách kỷ hậu trách nhân. Người Thiên chúa giáo trong
những hoàn cảnh đó thường đấm ngực ăn năn: Lỗi tại tôi! Lỗi tại tôi mọi
đàng! Nghĩa là khiêm nhường nhận hết lỗi về mình trước khi đổ lỗi hay lên án
kẻ khác.
T.T Bush không thể phủ nhận là kể từ ngày nhậm chức,
ông đã không thành công trong việc tiên liệu, đề phòng, ngăn chận những kẻ
khủng bố gây tội ác như thế. Ít nữa cũng là từ khi chiến hạm USS Cole bị tấn
bằng chất nổ. T.T Bush chưa hề xin lỗi dân chúng Mỹ về sự thiếu sót hay bất
lực đó trước khi đòi hỏi họ phải thế này thế khác.
Truyền thông kể lại chuyện Thị Trưởng New York Giuliani
hướng dẫn phái đoàn của một tiểu quốc Á Rập thân Mỹ đi thăm vùng bình địa và
nấm mồ vô danh vĩ đại của New York. Người trưởng phái đoàn tặng cho qũy cứu
trợ 10 triệu và nói một câu đại ý chính quyền Mỹ cũng nên nghĩ lại chính
sách đối với người Palestine. Giuliani đùng đùng nổi giận, vứt trả lại tấm
ngân phiếu và đuổi khách ra về. Phản ứng của Giuliani thật là điều khó hiểu.
Thứ nhất, quan hôn tang tế là những cơ hội mà chủ nhà
phải tuyệt đối nhún nhường lễ độ với khách. Khách có mất dạy chủ nhà cũng
phải cắn răng chịu đựng. Trước câu nói nghịch nhĩ của khách, Giuliani có thể
nhẹ nhàng trả đòn: 'Trong lúc tang gia bối rối, tôi không có thì giờ thưa rõ
chuyện với ngài, nhưng tôi có thể nói ngay rằng ngài không phải là người đầu
tiên hiểu lầm chúng tôi. Nước Mỹ là bạn của người Do Thái mà cũng là bạn của
người Palestine.' Nghe vậy, khách của Giuliani có điên mới nói tiếp.
Thứ hai, khách tặng 10 triệu cho nạn nhân và thân nhân
của nạn nhân chứ đâu có cho cá nhân Giuliani, Giuliani có quyền gì mà vứt
trả lại? Giuliani trả lại rồi lấy tiền túi ra bù vào hay Giuliani nghĩ mình
là đại diện New York, đại diện cho những người đã chết oan mạng và thân nhân
của họ? Chưa chắc! Vì những người này nếu khôn thiêng hay sống dậy thì họ sẽ
níu áo Giuliani về cái tội bất tài, bất lực, bất cẩn đã để cho thảm cảnh
bình địa xảy ra mà không làm gì được.
Thứ ba, Giuliani có biết rằng hành động nóng nảy bộp
chộp của mình là phản tuyên truyền vì đã làm cho người bàng quan, người Á
Rập và chính người khách bị xúc phạm thấy rõ là họ đã chạm trúng vào một tử
huyệt trong chính sách đối ngoại của Mỹ ở Trung Đông? Thứ tư, hành vi của
Giuliani biết đâu đã vô tình tạo nên một bin Laden, hay ít ra là một đồng
chí, một cảm tình viên cho bin Laden nữa?
Cuồng Nộ
Hốt Hoảng
Phản ứng của Giuliani biểu hiện một tâm trạng chung của
hầu hết giới chức Mỹ sau biến cố 11.9. Cuồng nộ hoảng hốt.
Chính quyền Mỹ nhắc đi nhắc lại sẽ trừng trị bọn khủng
bố và những kẻ chứa chấp bọn này, rằng đây chỉ là chiến tranh chống khủng bố
chứ không chống người Á Rập, không chống Hồi giáo.
Thế nhưng T.T Bush nhại lại Thánh Kinh: Ai không theo
ta là kẻ thù của ta! T.T Bush gọi chiến tranh chống khủng bố đó là thánh
chiến - crusade, và đặt tên chiến dịch đánh vào nơi được coi là hang ổ của
khủng bố là chiến dịch Công Lý Vô Hạn - Infinite Justice, nghĩa là những chữ
Thập Tự Quân của Công giáo La-Mã ngày xưa dùng trong chiến dịch bách hại dân
Hồi giáo và làm cỏ thánh địa Jerusalem của họ.
Mấy hôm sau cả hai tiếng đó đều biến mất, phải chăng vì
T.T Bush thấy mình đã nói lịu không đúng lúc đúng chỗ? T.T Bush hằng ngày
trấn an dân chúng đừng hoảng hốt, phải tiếp tục ăn làm bình thường, yên tâm
dùng máy bay để đi lại, trong lúc đó T.T và Phó T.T lại cứ như mặt trăng mặt
trời, T.T ở một nơi thì Phó T.T phải ở một nơi khác hoàn toàn bí mật để đề
phòng bị tấn công. T.T ở nơi nào thì những phi trường quanh đó đều đóng cửa
vì sợ không tặc khủng bố.
Chưa kể, Chủ Tịch Thượng Viện, nhân vật quyền thế thứ
ba của quốc gia đã bị Anthrax trực tiếp hăm dọa. T.T là kẻ quyền uy dũng
mãnh nhất nhân loại, là nhân vật trọng yếu nhất của quốc gia mà còn không
bảo đảm an toàn thì làm sao thuyết phục người dân rằng mọi chuyện đều bình
thường?
Sau cơn trời sập xuống New York và Ngũ Giác Đài, Quốc
Hội Mỹ cho T.T Bush khoảng 80 tỉ MK và đặc quyền hành động. Với tiền, quyền
và chỉ số dư luận quần chúng ủng hộ dâng cao, T.T Bush đã một mặt mở chiến
dịch toàn cầu và toàn quốc chống khủng bố, một mặt vừa ra lệnh lùng diệt bin
Laden, đổ quân xuống Afganistan và vừa ném bom phóng hỏa tiễn, vừa thả lương
khô để triệt hạ tổ chức Al Qaida của bin Laden và trừng trị chính quyền
Taliban đã chứa chấp bin Laden.
Quốc Hội Mỹ gần như cho T.T Bush muốn gì được nấy. Đây
không phải là lần đầu tiên Quốc Hội phản ứng kiểu rửa tay như Pontius Pilate
đó.
Quốc Hội đã cho T.T Johnson toàn quyền trả đũa ở Việt
Nam sau vụ Vịnh Bắc Việt năm 1964. Cho T.T Carter toàn quyền đối phó sau khi
Iran trắng trợn xâm phạm Tòa Đại Sứ Mỹ ở Teheran 1979.
Cho T.T Reagan toàn quyền truy bức Qaddafi của Libya
sau trận không chiến chớp nhoáng trên vịnh Sidra năm 1981 và nhất là sau khi
Tòa Đại Sứ và rồi trại Thủy Quân Lục Chiến Mỹ ở Beirut bị đặt bom sập năm
1983(1).
Cho T.T Bush bố toàn quyền trừng trị Iraq sau khi Iraq
tấn công Kuwait năm 1991.
Cho TT Clinton toàn quyền hành động ở Phi châu sau khi
xác mấy quân nhân Mỹ bị đám thổ phỉ của Farah Aidid kéo lê trên đường phố
Somalia và nhất là sau khi Tòa Đại sứ Mỹ ở Nairobi thủ đô Kenya và ở
Dar-es-Salam thủ đô Tanzania bị đánh bom năm 1998.
Ngày 20.8.1998, T.T. Clinton ra lệnh dùng 100 hỏa tiển
viễn khiển trung tầm - cruise missile, oanh tạc Afganistan, đòi Taliban giao
nạp bin Laden để Mỹ trừng trị tội nhúng tay vào các vụ đặt bom ở Nairobi và
Dar-es-Salam. Hậu quả của những cuộc ủy quyền và hành động giáng trả đó như
thế nào? Không biết ai đã nói câu: Bài học lịch sử qúy giá nhất là không ai
chịu học lịch sử cả? Ví dụ điển hình là vụ Vịnh Bắc Việt năm 1964 và vụ Iran
năm 1979...
Năm 1964, khi vụ Vịnh Bắc Việt xảy ra, Quốc Hội Mỹ với
88 phiếu thuận và 2 phiếu chống ở Thượng Viện, 416 phiếu thuận và 0 phiếu
chống ở Hạ Viện trao toàn quyền cho T.T Johnson 'leo thang trả đũa' Việt
Nam.
Mấy năm sau thì T.T Johnson thân bại danh liệt "xuống
thang rút lui" khỏi chính trường. Cuộc cách mạng 1979 biến Iran hành một
quốc gia Hồi giáo chính thống toàn trị đầu tiên thời hiện đại.
Iran cũng là quốc gia tiên phong phát động chiến dịch
khủng bố chống Mỹ công khai quyết liệt và trắng trợn nhất ở Trung Đông.
Từ sau thế chiến thứ hai đến năm 1979, Iran là con
domino quý của Mỹ, và là giếng dầu vĩ đại do công ty Standard Oil độc quyền
khai thác. Hoàng đế Iran do Mỹ bảo dưỡng. Iran là địa bàn hoạt động tấp nập
nhất của CIA ở Trung Đông.
Nhưng Mỹ đã không ngăn được Ayatollah Khomeini lật đổ
chế độ Shah hoàng. Iran thừa thắng xông lên, bất chấp dư luận và công pháp
quốc tế, bất chấp mọi nghi thức ngoại giao, xông vào Tòa Đại Sứ Mỹ, bắt 52
nhân viên Mỹ giam 444 ngày và chỉ phóng thích những người này sau khi Mỹ
chấp nhận mấy điều kiện của Iran công khai đưa ra là Mỹ phải cam đoan không
can thiệp vào nội tình Iran, không đòi Iran bồi thường thiệt hại, trả lại 8
tỉ MK tài vật đã phong tỏa của Iran, trả lại cho Iran tài sản của hoàng gia
Iran mà Mỹ đang giữ.
Bi hài hơn nữa là Mỹ không chỉ nhận những điều kiện đó
thôi mà còn cung cấp vũ khí cho Iran qua cuộc chiến Iran-Iraq. Đó là vụ
xì-can-đan Irangate làm cho T.T Carter thất cử và T.T Reagan điên đầu xấc
bấc xang bang.
Không rút tỉa kinh nghiệm từ những bài học đó thì không
khéo lại còn những ủy quyền quá trớn chỉ đẩy Hành Pháp đến chỗ sa lầy, xã
hội đến chỗ hoảng loạn?
Xung Đột
Hồi Giáo - Tây Phương Trong Thời Đại Mới
Vụ Tòa Đại Sứ Mỹ ở Teheran năm 1979 cũng như vụ sát hại
T.T Ai Cập Anwar Sadat năm 1981 là những hồi chuông báo động thực sự mở màn
cho cuộc chiến không biên giới giữa Mỹ-Tây phương và cái gọi là khối Hồi
giáo.
Cây cao gió lớn, hoan lạc vĩ đại thì khổ đau cũng vĩ
đại, thán phục vĩ đại thì ganh ghét cũng vĩ đại, quyền lực vĩ đại thì hận
thù cũng vĩ đại. Hoa Kỳ đã và đang phải đối phó với hận thù vĩ đại của một
số người nhân danh Hồi giáo mà Mỹ gọi là những người Hồi giáo cực đoan.
Đó là chữ của Charles Krauthammer của tờ Washington
Post khi ông này viết: Kẻ thù đã tự phát hiện một cách minh nhiên và
công khai. Tư cách tế nhị của chúng ta đã ngăn không cho chúng ta gọi tên kẻ
thù. Tên đó là Hồi giáo cực đoan(2).
Hồi giáo cực đoan đó là ai? Thủ Tướng Anh Tony Blair
trả lời cho phóng viên đài CNN của Mỹ rằng: Đây là một cuộc chiến giữa thế
giới văn minh và hạng cuồng tín... những kẻ không từ nan bất cứ một hành
động nào(3).
Thủ Tướng Ý Silvio Berlusconi còn nói rõ hơn: Chúng ta
tự hào rằng nền văn minh của chúng ta là thượng đẳng. Chúng ta phải ý thức
sức mạnh của nền văn minh của chúng ta, của tất cả những cuộc chinh phục mà
chúng ta đã thực hiện và của chính lòng yêu chuộng tự do. Đây không phải là
di sản của những nền văn minh khác, như văn minh Hồi giáo chẳng hạn(4).
Tội nghiệp, không phải chỉ một mình T.T Bush nói lịu
đâu, xin đừng vội thở dài buồn ông.
Hồi giáo không phải là một khối nhất phiến, dĩ nhiên.
Nhân loại có khoảng 1,2 tỉ người theo đạo Hồi. Nhưng - chưa kể những dị biệt
tông phái trong từng quốc gia, Hồi giáo của Iran đâu có giống Hồi giáo Iraq,
Hồi giáo Iraq không giống Hồi giáo Saudi Arabia, Hồi giáo Saudi Arabia không
giống Hồi giáo Pakistan, Hồi giáo Pakistan không giống Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ,
và Hồi giáo của Agfganistan hôm nay loay hoay quyết phá sập mấy tượng Phật
cổ ở Bamiyan đương nhiên là khác với Hồi giáo ở Indonesia đang gìn giữ từng
viên đá viên gạch của Phật tích Borobudour gần Yogyakarta.
Đọc quyển Vườn Hương của Shaykh Nefzawi(5) có ai
dám ngờ là có ngày mấy ông Taliban đối xử với phụ nữ như những nô lệ đến mức
đó? Cho nên, vơ đũa cả nắm bảo rằng thế giới Hồi giáo nhất trí ủng hộ hành
động khủng bố ở New York thì cũng chẳng khác gì nói rằng thế giới Công giáo
nhất trí ủng hộ các tòa án dị giáo sắt máu thời Trung cổ ở Âu Châu, cuộc tàn
sát ở Rwanda năm 1994 hay cuộc thánh chiến Tin Lành-Công giáo ở Bắc Ái Nhĩ
Lan hôm nay.
Nhưng Hồi giáo ôn hòa hay Hồi giáo cực đoan quá khích,
Hồi giáo khủng bố hay Hồi giáo hiếu hòa có điểm tối thiểu nào giống nhau
không?
Piers Akerman của tờ Daily Telegraph ở Sydney
đặt câu hỏi: Đâu là điểm khác biệt trong quan điểm của những cư dân Hồi giáo
ở Úc và quan điểm của đám Taliban hay của những người mà có khả năng làm
những chuyện bạo tàn như thế(6)?
Robert Fisk gián tiếp trả lời câu hỏi ấy khi ông nói
rằng đó là những người đều chia sẻ một cảm thức như nhau đối với người Mỹ:
nếu không chống ra mặt thì cũng không thật lòng tin tưởng Mỹ, nếu không oán
hận thì cũng có những điều muộn phiền đối với Mỹ. Fisk giải thích: '... Tại
sao có nhiều người Hồi giáo ghét Tây phương đến như thế ... Vì gia đình họ
cháy nát bởi bom đạn của Mỹ làm ra. Họ nghĩ rằng trên đời này chẳng còn ai
cứu giúp được họ ngoài Thượng Đế. Thần học chống thần học. Ôm bom quyết tử
để chống lại quyền lực nguyên tử'(7).
Trong 13 năm bị Nga Sô trực tiếp đô hộ từ 1979 đến
1992, người Afganistan một tay ôm AK do tiền Mỹ bỏ ra mua cho, một tay ôm
kinh Koran và đuổi được đạo quân viễn chinh sắt máu của một đế quốc hùng
mạnh nhất nhì thế giới khỏi lãnh thổ, gián tiếp giúp cho Mỹ rửa được mối hận
Việt Nam.
Suốt thời kỳ chiến tranh lạnh Cộng Sản-Tư Bản, Hồi giáo
là khối mặc nhiên theo Mỹ một cách keo sơn nhất trong khi Chính Thống giáo
đầu hàng cộng sản Nga và Yugoslavia, Công giáo đầu hàng cộng sản ở Đông Âu,
Cuba, Bắc Việt và hô hào theo Xã Hội chủ nghĩa ở Nam Mỹ.
Người Hồi giáo - nhất là hạng có học, làm thế nào quên
được điều đó, làm thế nào không khỏi buồn phiền thấy rằng không những Mỹ
quên công lao, không đền bù tưởng thưởng cho người bạn Hồi giáo đồng minh ý
thức hệ, mà Mỹ lại chỉ lo bảo vệ, nuôi dưỡng những chính phủ thiểu số độc
tài tham lam ở Saudi Arabia, Kuwait, Pakistan, Indonesia, Iran, Zaire,
Somalia... Chưa kể nỗi đắng cay dai dẳng Do Thái-Palestine.
Do Thái có những đau khổ lo âu của Do Thái ít người cảm
thấu. Khổ nạn của Do Thái dưới thời Đức Quốc Xã là niềm đau chung của loài
người. Ý chí lập quốc của người Do Thái là một hứng khởi cho những ai phải
làm con dân lưu lạc của một quốc gia bị đọa đày. Sự sống còn và an ninh của
Do Thái hôm nay đang trở thành một điểm bức xúc trong thế trận xung đối Hồi
giáo và Tây phương Âu Mỹ. Là một quốc gia chỉ khoảng 6 triệu dân, là một tôn
giáo chỉ vỏn vẹn 13 triệu tín đồ, thế nhưng Do Thái và Do Thái giáo đang trở
thành một điểm nóng bỏng lan khắp thế giới cách này hay cách khác.
Đáng buồn lo là điểm nóng đó đã cuốn hút và đốt cháy
bao nhiêu tâm sức của người Do Thái. Hồi nhỏ, Hoàng tôi rất thương bài
Summer Time, nhất là qua cuốn phim Mirage de la Vie (Imitation of Life?)
với Lana Turner đẹp áo não. Chẳng hiểu sao tôi cứ nghĩ tác giả bài nhạc ấy
là một người nô lệ da đen, mãi cho đến năm 1980 nói chuyện với một người bạn
Mỹ trong trại tị nạn tôi mới biết bản nhạc ấy là của một người Do Thái. Bất
công với tác giả thật.
Chắc hẳn Hoàng tôi không phải là người duy nhất đã quên
những đóng góp lớn lao của người Do Thái lưu lạc cho nền nghệ thuật, văn
chương, khoa học, triết học của nhân loại. Những đóng góp đó hình như ngày
một thưa dần trong hàng ngũ những người Do Thái đã rời bỏ chốn tạm dung để
trở về cố quốc. Phải chăng vì bao nhiêu tâm sức của họ đã không thể đổ dồn
vào sáng tạo mà phải tập chú vào cái đầu ruồi trên nòng súng?
Palestine - cũng như Do Thái, không còn chỉ là một vấn
đề của Á Rập hay Hồi giáo. Thật vậy, báo The Guardian của Anh loan
tin rằng 75 % người Palestine đã lên án cuộc tấn công vào Mỹ ngày 11.9, và
89% người Palestine đã lên án cuộc tấn công Afganistan.
Nói thế khác, thế giới cũng như riêng người Palestine
không hề mù quáng trách hận Mỹ, Anh hay Tây phương. Không trách hận nhưng có
những điều khó hoàn toàn chấp nhận. Nhân danh những bất công đau nhục kéo
dài mà người Palestine đã và đang chịu.
Như nỗi khổ của người Do Thái trước ngày lập quốc, nỗi
khổ của người Palestine cũng trở thành điểm ray rứt lương tâm của nhân loại,
của những người nghĩ rằng là người thì phải 'sống mỗi người một nhà, chết
mỗi người một mồ.' Nhưng bức xúc hơn và đáng lo ngại hơn là Palestine đã trở
thành nỗi đau riêng của người Ả Rập đồng chủng, và nguy hiểm hơn nữa là đã
trở thành lý do sống động cho những người muốn lấy Hồi giáo làm ý thức hệ
chống Do Thái, chống Mỹ, chống Tây phương và những gì không phải là Hồi
giáo.
Mấy tượng Phật cổ ở Afganistan là 'nạn nhân' điển hình
của ý đồ chính trị vơ đũa cả nắm này.
Con Ruồi
Giữa Hai Con Bò Mộng
Osama bin Laden không phải là kẻ khủng bố chống Mỹ sừng
sỏ nhất thế giới, Al Qaida không phải là tổ chức khủng bố duy nhất đáng gờm,
và Taliban của Afganistan cũng không phải là chính quyền duy nhất can tội
'khủng bố' Mỹ.
Thật vậy, trước bin Laden đã có Abu Nidal, Carlos The
Jackal, Sheik Fadlallah.
Trước Muhammad Omar quốc trưởng của Taliban đã có
Qaddafi của Libya, Khomeini của Iran, Saddam Hussein của Iraq.
Trước Afganistan đã có Iran,
Libya, Lebanon, Somalia, Yemen. Trước Al Qaida đã có Hizbollah,
Intifada, Mujahedeen, Jihad.
Chưa kể những băng đảng khủng bố tuy không trực tiếp
nhắm vào Mỹ nhưng chắc chắn là không thương gì Mỹ như Toàn Chân phái và Hồng
Quân ở Nhật, Hồng Vệ Binh ở Ý, Baaden-Meinhof ở Đức, Tamil Tiger ở Shri
Lanka, IRA ở Bắc Ái Nhĩ Lan, nhóm Abu Sayaf ở Phi Luật Tân.
Mấy ai quên được chuyện T.T Reagan từng điên đầu gọi
Qaddafi là 'con chó điên vùng Trung Đông'(8)?
Mỹ là một văn minh non trẻ chỉ mới 200 năm như đang lâm
vào thế con ruồi kẹt giữa hai con bò mộng già hơn cả ngàn năm đó là văn minh
Do Thái giáo và văn minh Hồi giáo.
Do Thái giáo của người Do Thái và Hồi giáo của người
Palestine đều là hai tín ngưỡng độc thần.
Đặc điểm của độc thần giáo là tự cho mình gần Thượng Đế
nhất nên có nhiều đặc quyền đặc lợi hơn kẻ khác. Vì là con cưng của Thượng
Đế nên cũng là kẻ trung thành đáng sống đáng sung sướng, trong khi những ai
không biết đến Thượng Đế đó đều bị coi là kẻ bội tín ma qủy đáng phạt đáng
chết.
Thế giới đã không có nước Mỹ nếu ở Âu châu có thời tôn
giáo và chính trị tách rời nhau, nếu tôn giáo độc trị của Vatican không dùng
chính trị như phương tiện để đàn áp các giáo phái thiểu số bất phục khiến
cho những giáo phái này phải vượt biên lánh nạn.
Cho nên, hơn ai hết, Mỹ là quốc gia thấy rõ sự cần
thiết phải phân tách thần quyền khỏi thế quyền, phải bảo vệ thế quyền khỏi
những khuynh loát lạm dụng của thần quyền. Thế đó mà nửa thế kỷ qua, Mỹ lại
kẹt vào vũng lầy Do Thái giáo-Hồi giáo là hai tôn giáo chủ trương thế quyền
và thần quyền là một, và hơn nữa thế quyền chỉ là một phương tiện thực hiện
thánh ý của thần quyền.
Mỹ trở thành một hậu cứ cho Do Thái và Do Thái là căn
cứ tiền phương của Mỹ giữa biển cát Hồi giáo mênh mông ở Trung Đông. Trong
khoảng thời gian 1964-1970, Mỹ đổ vào Do Thái 221.782.000 MK vũ khí, gần gấp
đôi số vũ khí đổ vào Iran và gấp 50 lần số bán cho Saudi Arabia vốn là đồng
minh thân thiết của Mỹ thời đó(9).
Đã hẳn, người Palestine chẳng nhận được một viên đạn
nào mà cũng chẳng mua được một khẩu súng nào của Mỹ. Ở Mỹ có 5.600.000 người
Do Thái xấp xỉ bằng dân số chính quốc, trong khi chính quốc Do Thái chỉ có
khoảng 4.500.000 người theo Do Thái giáo. Trăm dâu đổ đầu tằm, mọi oán than
thù hận của người Hồi giáo đều đổ lên đầu Mỹ, ít ra cũng là từ ngày Do Thái
lập quốc năm 1948 đến nay.
Palestine!
Ôi, Palestine!
Năm 1944 trước viễn tượng lấn đất cắm dùi Do Thái-
Palestine, T.T Roosevelt cam đoan với vua Ibn Saud của Saudi Arabia rằng Mỹ
sẽ không để cho dân Palestine mất một tấc đất nào vào tay Do Thái.
Năm 1991, T.T Bush bố hứa hẹn cho Palestine 'một ốc đảo
an bình' ở Trung Đông để ve vãn khối Á Rập ủng hộ Mỹ trong chiến tranh chống
Iraq.
Thế đó mà năm 2001 Palestine trở thành tiếng trống trận
thúc đẩy những người muốn biến Hồi giáo thành một ý thức hệ chống Tây phương
và chống Mỹ.
Do Thái và Palestine đều nhận mình là con cháu của Tổ
phụ Abraham và Moses, đều tin vào một Thượng Đế toàn năng mà Palestine gọi
là Allah, Do Thái gọi là Jahweh hay Jehovah. Điều lạ lùng trớ trêu là
Thượng Đế toàn năng đó đã chỉ vùng đất Palestine hôm nay cho những người Do
Thái, và bảo họ rằng: Ngươi và con cháu ngươi là dân tộc ta chọn để sinh sôi
nảy nở nơi đây để làm sáng danh ta. Trong khi cũng Thượng Đế toàn năng đó
lại chỉ y nguyên phần đất Palestine sỏi đá đó cho người Palestine và bảo
rằng: Đây là quê hương của ngươi, đứa nào láng cháng đến thì đuổi nó đi để
làm sáng danh ta.
Cả người Do Thái lẫn người Palestine đều tin lời đó là
thật cho nên nhất quyết theo đúng lời Thượng Đế toàn năng dạy phải ăn miếng
trả miếng, mắt đổi mắt, răng đền răng bằng cách riêng và bằng phương tiện
riêng của mình.
Cuộc xung đột Do Thái-Palestine trở thành cuộc chiến
giữa hai giáo chủ Moses và Mahomet, giữa thánh thư Talmud và Koran.
Palestine là vùng đất mà cả người Do Thái, Hồi giáo và
các hệ phái Thiên chúa giáo đều coi là thánh địa của riêng mình. Đến thế kỷ
thứ hai thì coi như không còn người Do Thái nào hiện diện trên vùng đất đó
nữa. Qua thế chiến 1914-1918, Palestine thuộc Thổ Nhĩ Kỳ và rồi bị Anh cướp
mất mở đường kích thích người Do Thái lưu vong bắt đầu trở về. Họ phải chiến
đấu chống người Anh để bám đất, và đồng thời với dân bản địa Palestine(10).
Năm 1947, LHQ phân chia Palestine thành hai phần cho
người Palestine và Do Thái dưới quyền giám định của Anh. Năm 1948, Anh chém
vè rút khỏi Palestine. Người Do Thái lợi dụng khoảng trống đó tuyên bố thành
lập quốc gia Israel và bắt đầu xua đuổi người Palestine như những kẻ cư ngụ
bất hợp pháp khỏi quốc gia Israel, ngay cả những người Palestine ở trên phần
đất được LHQ phân chia cho họ năm 1947.
Bốn triệu người Palestine phải tha phương cầu thực khắp
các quốc gia đồng đạo vùng Trung Đông. Trong khi 750.000 người Palestine bị
tống khỏi những vùng đã được phân chia cho họ trở thành những kẻ không đất
cắm dùi lui về cố bám lấy vùng Tây ngạn sông Jordan và dải Gaza.
Năm 1967, Do Thái lấn vào hai vùng này và người
Palestine bị dồn vào chân tường phải vùng lên. Danh từ Intifada, Jihad bắt
đầu được thế giới nhắc đến từ đó. Cuối cùng Do Thái đã nhượng cho Palestine
17% vùng Tây ngạn sông Jordan và 60% dải Gaza. Người Do Thái tiếp tục dành
đất, và hiện có 400.000 Do Thái trên những phần đất thuộc quyền quản trị của
Palestine.
Trước 1967, mật độ chung Do Thái là 278 người trên một
cây số vuông trong khi ở dải Gaza, mật độ đó là 3.138 người. Nguồn nước
uống, những đường thông thương ra biển, đa số công ăn việc làm và chuyện học
hành của Palestine đều do Do Thái kiểm soát. Kinh tế của Palestine giảm 1/3
trong giai đoạn 1992-1996, số thất nghiệp lên đến 20%. Lợi tức đồng niên của
người Do Thái là 36.000 MK, cao gấp 12 lần cao hơn người Palestine trong khi
đó viện trợ Mỹ hàng năm cho Do Thái là 1.000 MK cho mỗi đầu người, ở các nơi
khác vùng Phi Châu 6 MK cho mỗi người.
Năm 1991, khối Cộng Sản sụp đổ cộng thêm chiến tranh
với Iraq, liên minh Mỹ-Hồi giáo hình thành nhưng rồi các đồng minh Hồi giáo
của Mỹ dần dần rút lui vì Mỹ không giải quyết xong những đau khổ của
Palestine và Iraq.
Khốn Đốn Vì
Dầu Hỏa
Dầu càng ngày càng trở thành nhu yếu nhất là sau khi
Tây phương dùng dầu thế than đá. Nhưng Mỹ và Tây phương chỉ sản xuất được
20% dầu tiêu dùng, 80% còn lại phải lệ thuộc vào các nước khác, nhất là
Trung Đông. Hai phần ba dầu khí cung cấp cho Tây phương đi qua vùng này, và
đây cũng là vùng chất chứa khoảng 1/2 trữ lượng dầu của thế giới đã được
khám phá, chưa kể số lượng dầu của các cộng hòa trong Liên Bang Sô Viết cũ
quanh đó.
Có thể nói G.W Bush là Tổng Thống của kỹ nghệ dầu hỏa
và khí đốt. Bush là một triệu phú nhờ dầu khí. Kỹ nghệ dầu khí tài trợ cho
cuộc tranh cử của Bush khoảng 100 triệu. Phó T.T Dick Cheney là Bộ Trưởng
Quốc Phòng của T.T Bush bố, trong thời gian Mỹ đánh nhau với Iraq để dành
quyền kiểm soát dầu hỏa và khí đốt quanh Vùng Vịnh.
Năm 1992 Bush bố thất cử, Cheney về làm cho hãng
Halliburton, hệ thống bán xăng dầu lớn nhất hế giới. Cheney cũng có chân
trong ban giám đốc đại công ty TRW chế tạo khí giới.
Trong năm 2000, số lời của các đại công ty dầu khí là
80 tỉ, trong đó Exxon Mobil của Mỹ chiếm 34 tỉ. Exxon bị các nhà bảo vệ môi
sinh tố cáo là chủ chốt trong vụ phá hoại Hiệp định thư Kyoto. Tổ chức The
International Labor Rights Fund đang truy tố Exxon Mobil ra trước tòa án Mỹ
về tội yểm trợ lực lượng an ninh Indonesia ở Aceh trong chiến dịch tàn sát
phe đấu tranh đòi tự trị cho Aceh. Exxon bị cáo là để bảo vệ công việc khai
thác khí đốt ở vùng này, Exxon đã tiếp tay với lực lượng an ninh Indonesia
trong việc đào các mồ chôn tập thể, cũng như việc xây cất các trung tâm giam
giữ và thẩm vấn.
Chevron mới sát nhập với Texaco, là một công ty lớn
khác của Mỹ. Chevron có nhiều quyền lợi ở Nigeria và Saudi Arabia. Chevron
là công ty hưởng lợi khi Bush chấp nhận cho khai thác dầu ở vùng hoang dã
Alaska.
Đế quốc Nga Sô tan rã, Mỹ và Tây Âu cũng như Trung Hoa,
Ấn Độ đều tìm cách bành trướng ảnh hưởng và thế lực vào các quốc gia quanh
biển Caspian. Để tranh phần sản phẩm chiến lược là dầu hỏa và khí đốt.
Ngay từ tháng 9 năm 1997, tờ New York Times đã
tiết lộ rằng khối lượng tài nguyên cô đọng nhất chưa được khám phá được biết
là ở trong những vùng chứa dầu hỏa và khí đốt dưới lòng biển Caspian và
những vùng đất quanh biển đó. Những cập lụy chiến lược của cuộc khám phá bất
ngờ này đã làm hết hồn hết vía các nhà hoạch định chiến lược an ninh Tây
phương cũng như đã khiến cho mấy ông chủ hãng xăng dầu phải xiêu hồn bạt
vía. Những công ty dầu khí đa quốc đã hoạch định kế hoạch thiết lập những
ống dẫn từ các vùng dự trữ này đến Âu châu ngang qua vùng Balkans. Tờ báo
này cũng ước tính tài nguyên đó trị giá khoảng 6.000 tỉ MK(11).
Điều may và cũng là điều khốn nạn cho Afganistan là
Afganistan ở ngay cửa ngỏ dẫn vào khu vực biển Caspian và những quốc gia
quanh vùng biển này như Azerbaijan, Kazakhstan, Turmenistan. Cho nên
Afganistan đã kẹt vào thế tranh giữa Mỹ, Nga, Trung Hoa, Ấn Độ và Pakistan
trong việc khai thác và chuyển vận dầu khí từ biển Caspian và các vùng chung
quanh đến Hắc Hải, Địa Trung Hải qua Thổ Nhĩ Kỳ, đến Vịnh Á Rập qua Iran,
Pakistan và Afganistan, và theo đường bộ đến Iran, Ấn Độ, Pakistan, Trung
Hoa, Nam Cao Ly rồi Nhật(12).
Năm 1997, công ty Unocal của Mỹ bắt đầu thương lượng
với Taliban để xây một hệ thống ống dẫn qua Afganistan chuyển vận dầu khí từ
Turkmenistan, qua Afganistan xuống tận Pakistan ra biển và xâm nhập thị
trường vĩ đại của Ấn Độ. Dự án này được hai bên thoả thuận vào tháng 1.1998
nhưng rồi bị bỏ dở vì tình hình không thuận lợi. Sau đó Mỹ lại tính thiết
lập một hệ thống ống dẫn dầu khí về hướng Tây từ Kazakhstan qua biển Caspian
đến Azerbaijan xuyên qua Hắc Hải đến vùng Balkans.
Một trong những lý do chính khiến NATO oanh tạc
Yugoslavia tưng bừng năm 1999 cũng là vì thiên hạ muốn cho vùng này yên ổn
để vững bụng ăn làm, bất kể chế độ nào, bất kể tôn giáo nào.
Liên Hệ
Chính Trị-Quân Sự-Doanh Thương
Các báo Việt ngữ loan tin một triệu phú gốc Việt ở Mỹ
đã cúng cho quỹ ủy lạo nạn nhân New York và Ngũ Giác Đài hai triệu MK, một
vài tổ chức khác cũng hồ hởi gây quỹ ủy lạo. Không biết có đại công ty Mỹ
gốc Mỹ nào góp gì cho chiến dịch ủy lạo này không?
Năm ngoái, kỹ nghệ dược phòng ở Mỹ lời 13.5 tỉ MK. Các
công ty dược phẩm sản xuất trụ sinh chống Anthrax có giảm giá các khế ước
sản xuất không, có đóng góp đồng nào cho quỹ ủy lạo nạn nhân New York và Ngũ
Giác Đài không?
Quan hệ chính quyền, các đại công ty và các tướng lãnh
là một quan hệ thiết thân còn hơn ruột thịt. Thomas Friedman từng chua chát
bảo rằng cánh tay bí mật của thị trường sẽ không bao giờ hoạt động hữu hiệu
nếu không có quả đấm bí mật. Đã có McDonald thì phải có công ty chế tạo vũ
khí McDonnnell Douglas, đã có Silicon Valley sản xuất điện toán thì phải có
lục quân, không quân, TQLC.
Trong cuộc tấn công vào Afganistan, ba thứ vũ khí được
nhắc đến nhiều nhất là oanh tạc cơ tàng hình B-2, hỏa tiễn Tomahawk, và
chiến đấu cơ JSF - Joint Strike Fighter, tức loại phản lực có thể lên xuống
như trực thăng. Không lực Mỹ có một phi đội 20 chiếc B-2 do công ty Northrop
Grumman sản xuất với giá 2.6 tỉ MK một chiếc. Raytheon chế tạo Tomahawk với
giá 600.000 MK một chiếc.
Trong ngày đầu oanh tạc Afganistan, Mỹ tiêu 30 triệu
riêng cho hỏa tiễn Tomahawk thôi. Lockheed Martin vừa trúng thầu 200 tỉ MK
để sản xuất chiến đấu cơ JSF cho cả không lực Mỹ và Anh. Sau biến động 11.9,
giá cổ phần của Lockheed Martin tăng hơn 30% và Lockheed Martin vừa cho biết
là lợi nhuận trong quý 3 năm 2001 của công ty là 213 triệu MK. Lockheed
Martin là công ty chế tạo vũ khí lớn nhất thế giới. Khối NATO, các nước Đông
Âu, Do Thái và Saudi Arabia là khách hàng chính của công ty này.
Ngoài các công ty đó ra còn phải kể TRW và Boeing.
Thương số của Boeing là 100 tỉ mỗi năm, khách hàng chính của Boeing là Trung
Hoa và Saudi Arabia. Tất cả đại công ty vừa kể chắc chắn sẽ ăn ra làm nên
nếu chương trình Star Wars được thực hiện. Đây là lý do tại sao tất cả công
ty này đều ủng hộ T.T Bush đẩy mạnh cuộc chiến vào Afganistan và những nơi
mà T.T Bush gọi là những nước làm loạn(17).
Quan hệ thiết cốt chính trị, quân sự và đại kỹ nghệ này
đã được Tướng Smedley Butler nói rõ như sau: Tôi đã tích cực phục vụ
trong binh chủng TQLC 34 năm tròn. Trong thời gian đó, tôi đã hầu như dốc
hết tâm sức phục vụ các doanh nghiệp lớn, phục vụ Wall Street và các ngân
hàng... Tôi đã tiếp sức làm cho Mexico thành một nơi an toàn cho các quyền
lợi dầu hỏa của Mỹ năm 1914. Tôi đã giúp biến Haiti và Cuba thành nơi ổn cố
cho City Bank thu tiền lời... (13).
Tướng Smedley Butler là sĩ quan cao cấp từng chỉ huy
nhiều chiến dịch bình định các quốc gia Trung Mỹ để bảo vệ cho quyền lợi của
các doanh gia Mỹ hồi đầu thế kỷ này. Ngoài những chiến công vừa kể, ông còn
là thần giữ của cho ngân hàng Brown Brothers ở Nicaragua thời gian
1909-1921, bảo vệ quyền lợi về đường của Mỹ ở Cộng Hòa Dominique năm 1916,
và các công ty chuối của Mỹ ở Honduras năm 1903.
Có điều gì tương đồng giữa công trạng đánh Đông dẹp Bắc
của Tướng Butler hồi đầu thế kỷ và các chiến tướng của Mỹ như Tư Lệnh
Westmoreland trong chiến tranh Việt Nam, Tư Lệnh Schwarzkopt trong chiến
tranh Vùng Vịnh và Tư Lệnh Tommy Franks trong chiến tranh Afganistan hôm
nay?
Làm Gì Để
Chống Khủng Bố?
Trong cơn quốc biến hôm nay, chính quyền của T.T Bush
muốn vùng vẫy cũng gặp phải nhiều giới hạn, đặc biệt là ba giới hạn sau đây.
Thứ nhất, quyền lợi và ảnh hưởng của Mỹ ở Trung Đông
nhất là Vùng Vịnh hay Biển Á Rập.
Thứ hai, số Do Thái có quyền lực ở Mỹ nơi mà số người
Mỹ gốc Do Thái còn đông hơn là dân số của chính quốc Do Thái và họ lại không
phải là những người nghèo khó thất nghiệp thất học.
Thứ ba, quan hệ gắn bó sinh tử giữa chính quyền-kinh
tài-quân sự. Quân sự lệ thuộc vào chính quyền, chính quyền lệ thuộc vào tài
phiệt, và tài phiệt lệ thuộc vào lợi nhuận hay đồng tiền. Đồng tiền là chúa
tể. Những quyết định chính trị có khi chỉ là tiếng vang của những toan tính
tài lợi của phe nầy nhóm khác mà thôi. Ví dụ như trong cảnh dầu sôi lửa bỏng
hiện nay, Hạ Viện Mỹ đã thông qua một dự luật nói là để kích động nền kinh
tế đi tới bằng cách bơm thêm vào thị trường 100 tỉ MK. Điểm chính của dự
luật này là giảm thuế. Nhưng ai là thành phần hưởng lợi nhiều nhất nhờ biện
pháp này? Giới nghiệp đoàn Mỹ thở than rằng 90% số thuế được cắt giảm sẽ lọt
vào tay các đại công ty và nhà giàu. IBM sẽ được bồi hoàn 1.4 tỉ và 13 công
ty cỡ lớn khác mỗi công ty sẽ được hưởng 100 triệu thuế bồi hoàn. Giới thợ
thuyền cũng than là Quốc Hội vừa châm cho kỹ nghệ hàng không 15 tỉ mà đâu có
ngăn được các công ty hàng không thải hồi 140.000 nhân viên.
Sở dĩ chính sách đối ngoại của Mỹ lùng bùng khốn tới
khốn lui đó cũng là vì áp lực tròng tréo của những điều vừa kể. Đây là điều
gây ra những hiện tượng ngoài ý muốn trong chính sách đối ngoại của Mỹ, gọi
là hiện tượng backflow hay blowback, tương tự như hiện tượng 'ống cống
nghẹt' trồi nước dơ trở lại.
Có lẽ cũng vì hiện tượng ống cống nghẹt đó mà một số
những đồng minh Á Rập của Mỹ cuối cùng đều phản Mỹ như Iran năm 1979, Libya
năm 1981, Lebanon năm 1983, Iraq năm 1991. Osama bin Laden và nhóm Taliban
cũng là một đặc sản trong chính sách đối ngoại của Mỹ, do Mỹ huấn luyện,
nuôi dưỡng, tài trợ để chống Nga Sô. Những người mà T.T Bush con hôm nay gọi
là quỷ dữ - eveil, lại cũng chính là những người mà T.T Reagan và T.T Bush
bố trước đây từng ca tụng là những chiến sĩ của tự do - freedom fighters.
Hoàng tôi thông cảm nỗi lo sợ âm thầm sâu kín của T.T
Bush khi nghĩ đến hoàn cảnh chua chát của thân phụ.
Năm 1992, T.T Bush bố chiến thắng vẻ vang trên chiến
trường Vùng Vịnh nhưng thất bại trên mặt trận kinh tế nên phải ê chề nhường
ghế Tổng Thống lại cho Clinton. Mỗi quyết định hôm nay của T.T Bush hẳn đều
phải cân nhắc qua kinh nghiệm đau đớn đó. Ông thận trọng là phải. Nhưng
trách nhiệm của ông không phải là dậm chân tại chỗ hay hoảng loạn thụt lùi,
trách niệm của ông là dẫn nước Mỹ đi tới, để nước Mỹ dẫn nhân loại đi tới.
Muốn vậy thì ông phải biết nước Mỹ hiện đang đứng ở đâu? Trước nấm mồ vĩ đại
trên vùng bình địa ở New York, câu hỏi mà ai cũng nghĩ tới, và ai cũng cố
tránh không thốt ra đó là Tại Sao? Tại sao Mỹ bị một số người thù ghét đến
như thế? Hỏi như vậy tức là hỏi nền văn minh, văn hóa Mỹ có gì cần thay đổi
không? Và tại sao phải thay đổi?
Đối ngoại không chỉ có cây gậy và củ cà rốt mà phải có
lòng nữa. Có uy thì cũng phải có ân. 'Đại nghĩa' mới thắng được 'hung tàn',
đó là bài học của tổ tiên người Việt ước mong chia xẻ với người Mỹ. Mỹ là
quốc gia giàu tiền giàu bạc nhất thế giới. Có tiền mua gì cũng được, ngay cả
tương lai(14). Đây là cơ duyên cho T.T Bush và dân chúng Mỹ nghĩ đến chuyện
'mua' một tương lai tốt đẹp hơn cho mình và cho cả nhân loại. Mua tương lai
là một dự án vĩ đại, mua được là một thành tích vĩ đại vậy.
Nhân loại không thiếu gì những nền văn minh, những đế
quốc thịnh trị nhưng rồi đã tàn lụi vô phương cứu chữa.
Một phần vì thiên tai quá ác liệt, một phần vì nhân họa
quá bạo tàn, nhưng phần khác cũng vì chủ nhân của những nền văn minh và đế
quốc đó đã không tiên liệu và đổi thay thích ứng kịp thời để đối phó với
những hoàn cảnh nghiệt ngã. Mỹ là nước tự do dân chủ đầu đàn. Dân chủ tự do
đó chính là cái gối đệm, cái ống nhún thuận lợi lớn lao của Mỹ, nhờ đó mà
nếu cần quặn mình thay đổi, nếu cần nhảy vọt để tiến lên thì người Mỹ cũng
bớt lo là hụt chân cụp lưng u đầu bể trán hay vong mạng.
Có người thì cũng phải có ta, có ta nhưng cũng phải có
người. Nước Mỹ đang đối diện với tình trạng tiến thối lưỡng nan cục bộ và
toàn cầu, quốc gia và quốc tế. Nước Mỹ giàu có cường thịnh nhờ thị trường
chứng khoán và các định chế kinh tài liên hệ mà hình như lại quên một điều
là các định chế kinh tài này đã thực tế xóa mất những biên giới quốc gia.
Một mặt người Mỹ bỏ tiền ra thu mua tài nguyên thiên
nhiên, khoáng sản, dầu khí, lao động chân tay và trí óc khắp nhân loại về
cho mình, một mặt cứ lầm bầm God bless America! God bless America! chứ không
phải God bless the world! God bless the whole world! và thuyết phục thiên hạ
ăn MacDonald, uống coca-cola, hút Lucky, đi giày Nike, dùng Microsoft Word
2000, và xem những phim do ủy ban Oscar tuyển chọn cho.
Điều thứ hai cũng đáng cho người Mỹ phải suy nghĩ đó là
nền an ninh quốc phòng Mỹ chỉ là của thời chiến tranh lạnh, có biên cương,
có quốc gia thù nghịch, có mặt trận, có mục tiêu chiến lược chiến thuật hẳn
hòi, trong khi cái gọi là 'khủng bố' là một thứ chiến tranh không biên giới,
bạn thù lấp lửng, chiến hòa bất minh. Đối thủ của Mỹ muốn gì qua vụ tấn công
New York và Ngũ Giác Đài? Mỹ nhắm đến cái gì khi vừa oanh kích Afganistan
vừa treo đầu bin Laden với giá 25 triệu MK, vừa cho biết độc khuẩn Anthrax
là một thứ homemade - nghĩa là không phải nhập cảng từ Afganistan, Iran hay
Iraq vào?
Qua cuộc chiến chống khủng bố này, đến lúc nào, với
điều kiện nào thì người Mỹ mới cảm thấy an toàn như trước ngày 11.9.2001?
Sau ngày 11.9, không biết bao nhiêu phim Hollywood hoàn
thành sắp tung ra thị trường thì đã tự ý đình lại. Có thể nói đây là lần đầu
tiên nước Mỹ tự ý kiểm duyệt vì lương tâm tự giác và hối hận chứ không phải
vì nhu cầu an ninh quốc phòng hay chống khủng bố. Lần đầu tiên một số người
Mỹ biết tự vạch một biên giới minh định tự do đến mức nào là đủ, vượt mức
nào là quá đáng?
Mức giới hạn trong phạm vi nghệ thuật điện ảnh đó có
thể đặt ra tương tự cho những đại nạn khác như tự do mua giữ súng đạn, ma
túy, bạo động, thụ hưởng và phung phí, tính dục luông tuồng, tôn giáo qủy
quái, thờ ơ với đồng bào đồng loại... không? Nấm mồ vô danh vĩ đại ở New
York đã đủ cho người ta tự hỏi tài lợi có phải là mục tiêu của hiện hữu
không? có nên đặt lợi lạc lên trên những giá trị nhân sinh khác không? có
nên lấy việc bán vũ khí làm phương tiện kinh doanh không?
Phải chăng đã đến lúc phải xét lại câu nói thời danh
của Franklin Roosevelt: Hắn là một thằng chó đẻ, nhưng là thằng chó đẻ
của chúng ta(15). Xét lại câu nói đó để khỏi mang tiếng ủng hộ những
người anh em độc tài khát máu như Saddam Hussein, Shah hoàng, Slobodan
Milosevic, Noriega, Suharto?
Phải chăng đã đến lúc xóa lần nợ cho những nước nghèo
và biến viện trợ quân sự thành viện trợ kinh tế cho những nước nghèo và cho
chính dân nghèo trong nước Mỹ?
Bình tâm nghĩ lại thì những câu hỏi ấy là nỗi ưu tư
không phải chỉ của người Mỹ hữu tâm mà là của nhiều người, trong đó có Thầy
Nhất Hạnh vậy.
Thầy Nhất
Hạnh
và
Những Người
Thích Uống Thuốc An Thần
Đối với một số người Mỹ, nhất là một số những đồng
hương của Hoàng tôi ở Mỹ, tốt hơn hết hình như là đừng nói gì về vụ khủng bố
11.9 cả trong lúc này. Sự thật là điều đáng quý, nhưng có những lúc người ta
không đủ can đảm để chấp nhận sự thật.
Thảm trạng 11.9 là điều một số đồng hương của tôi ở Mỹ
không muốn nghĩ tới và không dám nghĩ tới. Lý do là vì họ cuống cuồng di
tản, tất tả vượt biên thập tử nhất sinh đến 'thiên đường hạ giới', cày ngày
cày đêm mới được như hôm nay, đời nào họ muốn có khủng hoảng lộn xộn để họ
bị mất việc, để nhìn thấy giá cổ phần của mình đang tan thành mây khói, để
thấy quán hàng, dịch vụ của mình thưa thớt ế ẩm, để trơ mắt nhìn chủ nợ siết
nhà siết xe vì nợ không trả nổi. Họ đến đây không phải để mà sợ đi máy bay,
sợ đi tàu hỏa, sợ dùng nước máy, sợ đến chỗ đông người, sợ nhận thư mở thư,
sợ bệnh than, bệnh đậu mùa, bệnh ebola, sợ computer bị virus, sợ mấy chiếc
ATM làm reo không cho rút tiền.
Từ hôm 11.9 đến nay, số tiền số quà gửi về quê nhà giảm
xuống hẳn. Họ không muốn nghĩ đến chuyện phải liên lạc về Việt Nam để thở
than xin ủng hộ, như thân nhân của họ từ Việt Nam đã thở than xin viện trợ
bao nhiêu năm qua. Họ không muốn nghĩ đến chuyện chẳng đặng đừng khiếp hoảng
quá phải 'bỏ ra sáu cây' vượt biên lần nữa. Cho nên, họ không muốn nghe nói
đến chuyện khủng bố, hoặc bất đắc dĩ phải nghe thì họ chỉ muốn nghe những
chuyện không làm cho họ phải suy nghĩ, ngay cả suy nghĩ chuyện... con bò
trắng răng.
Hạng thứ hai, không muốn nghe chuyện nghịch nhĩ đau đầu
không phải vì sợ vượt biên lần nữa nhưng là vì đầu óc đã bị đông lạnh, tâm
tư đã bị hóa thạch, họ không thể nghĩ một cái gì khác, không thể nhận một
cái gì mới ngoài những cái mà họ từng nhận được suốt mấy chục năm nay qua
những cuộc tẩy não hoán não của sinh hoạt cộng đồng, cầu nguyện, sách báo,
radio, tivi, rỉ tai đàn đúm hội đoàn, náo nhiệt đa nguyên nhưng thực tế chỉ
do một thiểu số treo đầu heo bán thịt chó, xúi trẻ bốc cứt gà, lợi dụng kẻ
khác làm ngựa cho mình cưỡi để phục vụ cuồng vọng cá nhân hay những ý đồ tôn
chính quốc tế. Họ chạy trốn 'cộng sản' độc tài thì lại gặp phải 'cộng đồng'
độc tôn độc thiện do chính đồng hương gây ra. Họ là nạn nhân điển hình của
thảm họa 'tị nạn hại thuyền nhân'.
Thứ ba là hạng của một số người hoặc nặng tình ân
nghĩa, hoặc xu phụ, bảo hoàng hơn vua, cảm thấy đây là cơ hội phải trả nợ
cho những người từng cư mang họ qua các chương trình Hè 64, chương trình
CPS, chương trình Du Ca, chương trình Xây Dựng Nông Thôn, chương trình trí
thức vận JUSPAO, Mẹ Việt Nam, Gươm Thiêng Ái Quốc, chương trình ODP, chương
trình HO. Nuôi quân ba năm, dùng quân một giờ, đây là cơ hội cho một số đồng
hương thuộc các 'diện' này trả nợ áo cơm, dù phải giả câm giả điếc, dù phải
trấn áp lý trí, dù phải bẻ cong ngòi bút.
Ba hạng đồng hương vừa kể là những người chỉ thích
thuốc an thần. Họ không muốn nghe nói đến chuyện khủng bố, hoặc bất đắc dĩ
phải nghe thì họ chỉ muốn nghe T.T Bush nói, bất đắc dĩ cần nói thì phải nói
như T.T Bush thôi. Để họ khỏi phải suy nghĩ gì cả, vì họ biết có suy nghĩ
thì cũng chỉ lo như lo con bò trắng răng.
Thầy Nhất Hạnh chỉ hớ một câu: '300 ngàn nóc gia ở Bến
Tre' mà đã vô tình gây nên một trận bão trong khạp nước. Nếu Thầy cũng nói
hớ, nhưng không hớ lên mà lại hớ xuống ví dụ như 30, 300 hay ngay cả 3.000
nóc gia ở Bến Tre thay vì 300 ngàn thì những người ồn ào chống Thầy mấy hôm
trước đây chắc đã vái Thầy làm Vô Thượng Sư rồi!
Chuyện phải san Bến Tre thành bình địa để cứu Bến Tre
trong Tết Mậu Thân là chuyện có thật. Nguyên văn câu nói do miệng một Thiếu
Tá Mỹ đó là 'It became necessary to destroy the town to save it.'(16).
Chuyện này do Peter Arnett của hãng thông tấn AP độc quyền khui ra. Arnett
là người đầu tiên loan tin Toà Đại Sứ Mỹ ở Saigon đã bị đối phương chiếm
đóng một phần trong Tết Mậu Thân. Arnett là một trong những ký giả có tên
trong sổ bìa đen của giới chức thông tin Việt Mỹ như David Halberstam vì
những bài viết về cuộc đàn áp Phật giáo, Malcolm Browne vì những bức ảnh
Quảng Đức tự thiêu, Eddie Adams vì bức ảnh chụp một Tướng Việt Nam kê súng
bắn vào đầu một tù binh đang bị trói thúc ké, và Seymour M. Hersh vì phanh
phui vụ Mỹ Lai 4.
Chuyện Bến Tre là một chuyện có thật, nhưng đó là một
sự thật quá nặng nề đối với lương tâm của một số người. Thầy Nhất Hạnh cũng
từng cảm thấy sức ép đó nhưng khác với những người khác là Thầy đã xả được.
Bằng thơ, bằng những hồi kinh, những lời khấn nguyện như ở New York vừa qua.
Tiếng nói của Thầy không phải đơn điệu lạc lõng. Tiếng nói của Thầy hòa
trong một biển tiếng nói đồng điệu...
Thật vậy, trong lúc New York đang còn khói bụi mịt mù
thì đã có hàng chục ngàn người biểu tình dương cao khẩu hiệu: New York: xin
đừng nhân danh chúng tôi (NY: Not in our name), Mắt đổi mắt và toàn thế giới
sẽ mù (An eye for an eye and the whole world is blind), 4.000 người ở
Berkeley tham dự lễ cầu nguyện với khẩu hiệu: Đừng biến thảm kịch thành
chiến tranh (Don't turn a tragedy into a war), 10.000 người diễn hành phản
chiến ở Washington, 1.000 sinh viên đại học Iowa biểu tình chống chiến
tranh, 300 người vừa Do Thái vừa Á Rập dẫn đầu cuộc tuần hành cầu nguyện tại
Oakland, San Francisco với 10.000 tham dự trong đó ca sĩ Michael Franti của
ban nhạc Spearhead đã tuyên bố: Chúng ta cần tham gia một cuộc chiến chống
chiến tranh (We need to be in a war against war). 50.000 biểu tình ở London,
100.000 ở Ý, 3.000 ở Sydney, 1.500 ở Adelaide, 1.000 ở Melbourne, 300 ở
Brisbane, 150 ở Canberra, 100 ở Perth. Chưa kể Pakistan, Nam Cao Ly, Nigeria
với 200 người bị lực lượng an ninh bắn chết. Chưa kể lời kêu gọi ôn hòa của
Đức Giáo Hoàng, của Đức Đạt Lai Lạt Ma, của Jessie Jackson... Đó là những
ngày qua, chưa kể những ngày tới.
*
* *
Năm 1989, choáng váng chứng kiến cảnh Bức Tường Bá Linh
sụp đổ, Francis Fukuyama reo lên: 'lịch sử đã kết thúc'- The End of
History, tên một tác phẩm của Fukuyama, nghĩa là chế độ dân chủ và tư
bản chủ nghĩa đã toàn thắng.
Không biết nhà triết lý chính trị Mỹ này nghĩ gì khi
nhìn thấy những biểu tượng của quyền lực kinh tế và quân sự của Mỹ tan thành
tro bụi trong ngày 11.9? Francis Fukuyama lạc quan tếu nhưng một nhà triết
lý chính trị khác của Mỹ là Samuel Huntington thì không.
Bốn năm sau khi Bức Tường Bá Linh sụp đổ, Huntington
tiên đoán là nhân loại sẽ lao đao vì 'những va chạm giữa các nền văn minh' -
The Clash of Civilisations, tên một tác phẩm của Huntington. Hình
như các nước phương Tây luôn luôn cần đến những phấn kích tâm lý, những hiện
thân của Satan quỷ sứ để tiến tới. Chưa có phải tin là có, tin rồi phải làm
cho có thật. Trong thế kỷ 20, Tây phương đã sản xuất hai con ngáo ộp
vĩ đại: Cộng Sản Nga và Quốc Xã Đức. Và con ngáo ộp Họa Da Vàng nữa. Con
ngáo ộp này hết linh và đang được thay thế bằng Họa Da Nâu. Nhân loại mới
dắt díu nhau đi vào thế kỷ 21 và thiên niên kỷ thứ 3 được 9 tháng thì cuộc
chiến Da Trắng-Da Nâu hiện hình.
Ẩn sau cuộc chiến về Màu Da đó là sự xung khắc giữa hai
cuồng vọng độc thần giáo giữa Thiên Chúa giáo và Hồi giáo. Cả hai đều tin
chỉ có một Thượng Đế, cả hai đều muốn cả thiên hạ phải chấp nhận một Thượng
Đế và chỉ một Thượng Đế thôi. Nói thế khác, trước khi đánh nhau bằng gươm
giáo và súng đạn, hai bên đã đánh nhau bằng thánh điển, thánh kinh. Một lần
nữa nước Mỹ lại lãnh đạo cuộc chiến này.
Cách nào đi nữa thì nước Mỹ cũng không còn là nước Mỹ
trước ngày 11.9.2001 nữa.
Chấp nhận những quặn mình nhức nhối hôm nay để nhìn vào
một ngày mai có mình có ta, hài hòa, công chính thì vẫn hơn là gậm nhấm
những bực tức, thất vọng, lo âu, tiếc nuối để hận mình, hận người và bám vào
những ảo tưởng đã hiện hình thành ảo tưởng.
HOÀNG NGUYÊN NHUẬN
Phong Trang 1.11.2001.
[ Phồn Hoa Kinh, Văn Mới, CA.
2003 - tr.81-108]
GHI CHÚ -
1- Bob Woodward - Veil: The Secret
Wars of the CIA, Simon Schuster, London 1987.
2- The enemy has identified itself
openly and in public. Our delicate sensibilities have prevented us from
pronouncing its name. Its name is radical Islam.
3- It is a war, between the
civilised world and fanaticism ... There are people who will stop at
nothing.
4 - We are proudly conscious that
ours is a superior civilisation. We must be aware of the strength of our
civilisation, of all the conquests we've made and of the love of freedom
itself. This is not a heritage of other civilisation such as Islam.
5- Shaykh Nefzawi - The Perfumed
Garden, Sir Richard Burton dịch ra tiếng Anh, Connoisseur Publishing
Company, Ohio.
6- How do Muslim residents in
Australia differ in their view from those of the Taliban or others capable
of ordering these atrocities?
7- Why so manyMuslim had come to
hate the West ... Their families burnt by American-made bombs and weapons.
They talked about how no one would helpe them but God. Theology vs theology,
the suicide bomber against nuclear power.
8- Harry Gregory - Khadaffy,
PaperJacks, NY 1986.
9- Charles A. Kupchan - The Persian
Gulf and the West , Allen & Unwin, Boston1987.
10- Giới Tử - Đôi Mắt Đã Hớp Hồn
Tôi, Chuyển Luân số 9.
11- The most concentrated mass of
untapped wealth known to exist anywhere is in the oil and gas field beneath
the Caspian Sea and the lands around it. The strategic implications of this
bonanza hypnotic Western security planners as completely as the finances
transfix oil executives. Leading oil multinationals were making plans for
new pipelines that would connect theses reserves to Europe through the
Balkans."
12- Tad Tietze - Bush's Real War
Aims, Socialist Workers 5.10.2001.
13- I have spent 34 years in active
service as a member of the Marine Corps. And during this period I spent most
of my time being a high class muscle man for big business, for Wall Street
and for the bankers ... I helped make Mexico safe for American oil interests
in 1914. I helped make Haiti and Cuba decent place for the national City
Bank to collect revenues.
14- Anthony Sampson - The Midas
Touch, Coronet Books, London 1989.
15- He is a son of bitch, but he is
our son of bitch.
16- Don Oberdorfer - TET!, A Da
Capo Paperback 1984.
17- Chiến phí của chiến tranh Vùng
Vịnh trước đây là 60 tỷ, và đồng minh đã gánh cho Mỹ đến 80%. Chiến phí
trong cuộc hành quân ở Afganistan hôm nay là khoảng 1 tỷ MK mỗi tháng. Quốc
Hội đã cho T.T Bush 30 tỷ riêng về mục hành quân này và trước sau thì đồng
minh cũng phải đóng góp chứ không thể "mồm miệng đỡ chân tay" được, dĩ
nhiên.
Những Câu Chuyện Cuối Tuần
|