CÂU CHUYỆN CUỐI TUẦN

VĨNH BIỆT MỘT GIẤC MƠ

Anthony Darlic

đăng ngày 17 tháng 11, 2007

Yasser Arafat và  Yitzhak Rabin

LTS- 11/11/2007 - Theo tin thì, ngày kỵ của Arafat ở Tây Ngạn đã trở thành loạn khiến cho 6 người theo Arafat. Dân Palestine ở Dãi Gaza thật chẳng khác gì những con chuột trên nóc nhà cháy một thời đã làm cho Arafat đòi đoạn quyết tranh đấu để làm vợi nỗi khổ của họ. Gaza đã trở thành tụ điểm chính nghĩa của Hồi giáo chống Do Thái và Mỹ.

Bài này viết từ ba năm trước khi có tin Arafat từ trần. Xin đuợc phép trinh làng lại nhu một nén hương cũ tưởng niệm người hùng của dân Palestine đến khi chết ước nguyện không thành.

 

Thứ Năm 11/11/2004 – Tin xác nhận Chủ Tịch Arafat đã từ trần tại một quân y viện của Pháp ở Paris sau tám ngày hôn mê.  Arafat là người thường tự hào nói: “Núi ơi, gió nào đánh bạt núi được mà lo.” [Oh montagne, le vent ne t'ébranlera pas.]  Gió không làm rung núi nhưng cát bụi vô thường đã chấm dứt một giác mơ.  Giấc mơ của một tổ quốc Palestine mà Arafat đã ôm ấp từ hơn bốn mươi năm qua. 

Arafat là một Quốc Trưởng không có Quốc Gia từng quấy đảo chính trị Trung Đông và thế giới ngót nửa thế kỷ và hiện đang là chất keo kết nối các quốc gia Hồi giáo lại với nhau.

Bởi giấc mơ của Arafat ít ra cũng là một động năng cho cuộc cách mạng Hồi giáo đang nằm trong tay những kẻ mà Tây phương đồng rập gọi là “khủng bố quốc tế”.

Yasir Arafat tên thật là Muhammad Abd-al-Rauf al-Qudwah Arafat. Yasir là bí danh. Arafat cũng có một bí danh khác là abou Ammar. Arafat sinh ngày 24/8/1929, thuộc một gia đìnhHồi giáo phái Sunni. Arafat bảo sinh quán ông ở Jerusalem nhưng thiên hạ lại bảo ông hoặc sinh ở Cairo hoặc trên dải Gaza. 

Arafat đã làm quen với thế giới qua hình ảnh cái khăn trùm đầu ca-rô và bộ đồ trận màu ô-liu.  Đó cũng là hình ảnh quen thuộc của một chiến sĩ can trường trong tim óc của những người Palestine đang mơ ước một quê hương đã mất.  Arafat mồ côi mẹ từ năm 4 tuổi, ở với chị nuôi cho ăn học.  Năm 1992, Arafat lập gia đình với Souha Tawil, phụ tá của ông, trẻ hơn ông 34 tuổi.  Ba năm sau hai người có một người con gái tên Zawah.

Do Thái lập quốc là Palestine vong quốc và cuộc chiến đấu của Arafat khởi sự từ đó.  Cuộc chiến đấu đó hôm nay vừa dứt, chẳng phải vì ước nguyện của Arafat và dân Arafat đã thành mà vì thuận thế vô thường, Arafat đã chuyển nghiệp sau 75 tại thế và hơn nửa đời đấu tranh cho một quê hương.

Vòng oan nghiệt là tam giác Palestine-Do Thái-Hoa Kỳ.  Nhẩm lại những điều đã viết, Anthony tôi bỗng thấy thì ra tôi đúng là… ba phải.  Vì trên căn bản tình quê hương tổ quốc gần như mù lòa, Do Thái tôi thương, Palestine tôi cũng thương, mà Hoa Kỳ tôi cũng thương luôn.  Đây là một tóm lược những cái ba phải mà tôi từng ghi lại chỗ này một chút chỗ kia một chút lâu nay đó.     

 

Làm Sao Cắt Nghĩa Được Tình Yêu Quê Hương?

Với tôi, chuyện yêu nước là một thứ lo con bò trắng răng, suy bụng ta ra bụng người thế này…

Dù đứng ở điểm nào đi nữa, cuối cùng cũng phải thấy rằng, đụng đến chuyện tự chủ tự quyết, ngoại quốc nào cũng là ngoại quốc thôi.  Cảm nghĩ đó có vẻ ngược với ý thức đại đồng của Khổng, với quan điểm vô sản quốc tế của Marx, với ý niệm cứu rỗi toàn nhân loại của Jesus hay ý niệm Phật tính không có Nam có Bắc của Phật giáo, và với khuynh hướng thời thượng Toàn Cầu Hóa hôm nay.  Nhưng một người Việt muốn làm đồ đệ chân chính của Khổng, của Marx, của Jesus, của Phật, của nhà băng thế giới IMF và quỹ tiền tệ quốc tế WTO thì trước tiên người đó phải là một người Việt “thật”, ít ra cũng “thật’ như con chó ghếch chân tưới vào gốc cây để “giữ” gốc cây, hay sũa để “giữ” nhà?

Ừ nhỉ! cảm nghĩ đó khiến tôi liên tưởng đến một sự cố có thể coi là “định phận”. 

Thật vậy, thời còn học Tiểu học, tôi được bạn bè tặng cho hỗn danh Thằng-N-Chó-Đái chỉ vì một đôi lần tôi bị thầy giáo thân yêu “thương cho roi cho vọt” vì tội... viết chữ N như con chó đứng... tè từ sau nhìn tới! 

Ôi, chuyện nước non thường là nghiêm túc đứng đắn nhưng cũng có khi lẩm cẩm đứng... đái như thế đó!  Ý thức dân tộc lắm khi nếu không là một bản năng thì ít ra cũng là một xung động hữu kiện, tương tự như ý thức tư hữu của con chó. 

Với ý thức tư hữu đó, con người thương gốc đa đầu làng thế nào thì con chó nhớ gốc cây mà nó đã đái vào để “đánh dấu” thế ấy, con người bảo vệ quê cha đất tổ thế nào thì con chó cũng sủa cắn người lạ để giữ nhà thế ấy.  Ít ra là như thế...

Tình yêu nước không chỉ là lý trí, không phát xuất từ một nhận định khách quan khoa học.  Cái lý của con tim thường phấn kích đam mê hoan lạc hay chịu đựng khổ đau hy sinh hơn là những chân lý hiển nhiên phổ biến. 

Galileo biết rõ trái đất quay nhưng khi bị dọa đem lên giàn hỏa là nói ngược ngay cái rụp!  Trong những thời kỳ đất nước bị đọa đày ngoại thuộc, không thiếu gì trí thức khoa bảng Việt Nam lần lữa cả đời để chứng minh cho được tội ác của ngoại nhân là hiển nhiên khách quan khoa học như 2+2=4 rồi mới bắt đầu yêu nước - nghĩa là bắt đầu nghĩ đến chống lại ách ngoại thuộc...

Cho nên họ đã bình nhiên tọa thị một cách khách quan lạnh lùng hay bàng quan khoa học như khi nói chuyện Hitler khởi động Đại Chiến thứ hai, hay Tần Thủy Hoàng xây vạn lý trường thành, các vua Ai Cập xây kim tự tháp. 

Thế nên, phần đông số đó đã trễ tàu yêu nước để vừa an nhiên với cuộc sống phúc lợi an toàn, hạnh phúc êm ấm, vừa được tiếng là khách quan, ôn hòa, đề huề, không cực đoan quá khích, vừa khỏi lao vào đường nhục nhằn tù tội đọa đày. 

Ai chết mặc ai, ai ngu ráng chịu!

 

Đôi Mắt Hớp Hồn Tôi

Tại sao người Do Thái đáng thương?

Mỗi khi nhớ nước nhớ nhà, tôi lại muốn nhìn về những người Do Thái lập quốc để mong tìm ra một đôi điều an ủi vỗ về cơn đau nhức không nguôi.

Với tôi, tiến trình dựng nước của người Do Thái là một kinh nghiệm tuyệt vời.  Và vớ vẩn nữa.  Thật vậy, không ai như tôi, chỉ vì khoái chuyện Do Thái mà tôi đã khư khư ôm hình ảnh một đôi mắt xanh vô danh ngót một phần tư thế kỷ. 

Phải, một đôi mắt vô danh gần như trừu tượng!  Người có đôi mắt đẹp đó có đẹp không?  Và người đó tên gì?  Tôi không biết.  Tôi thấy đó là đôi mắt đẹp, tôi nghĩ đó là đôi mắt đẹp, tôi quả quyết đó là đôi mắt đẹp và tôi nhớ mãi. 

Thế thôi!  Chấm hết!  Đôi mắt làm tôi yêu người Do Thái hơn, đôi mắt làm tôi yêu nước Do Thái hơn.

Trí nhớ cùn mằn mỏi mòn cho phép tôi nói rằng đôi mắt đó đến với tôi từ một cuốn phim đen trắng được chiếu khoảng năm 1950 hay 1951 gì đó, nghĩa là lúc tôi mới xấp xỉ một con giáp!  Hình như phim có tên là La Bataille de Sable

Phim kể chuyện những anh hùng dựng nước Do Thái đánh chiếm một đồn lính Anh trên mảnh đất là Do Thái hôm nay.  Tôi mang máng nhớ chuyện phim có vậy.  Nhưng thích chuyện phim và thương những chiến binh Do Thái thì ít mà vì người nữ du kích có đôi mắt đẹp thì nhiều.  Thế hệ tôi, những đàn chị sắc nước hương trời thường được nhắc đến là Greta Garbo, Marlene Dietrich, Lana Turner, Greer Garson. 

Với tôi, những người đó vẫn thua xa nữ tài tử trong La Bataille de Sable.  Ngặt một nỗi là tôi quên mất tên người nữ tài tử đó!  Quên mất tên, nhưng không bao giờ quên đôi mắt, mặc dù bây giờ, nếu có ai bảo tôi tả đôi mắt ấy ra thì tôi cũng chịu chết nên chỉ lửng lơ, lơ tơ mơ... giữ mãi một ý tưởng rất kiên định về đôi mắt không tên ấy ngót một phần tư thế kỷ. 

Cho đến năm 1975 khi được share khách sạn Đô Thành với Nguyễn Tú, và sau đó về share Phòng 9 khách sạn T4 với Lê giáp Đệ thì tôi mới may mắn biết được tên chủ nhân đôi mắt huyền hoặc ấy.  Marta Toren!  Đúng rồi, Marta Toren!  Điều an ủi là cả hai đều đồng ý với tôi rằng đôi mắt Marta Toren thuộc vào hạng đẹp nhất!  Tình nghĩa ban sơ của tôi với Do Thái là thế đó. 

Lớn lên một chút nữa, tôi lại có dịp yêu Do Thái hơn qua quyển Exodus của Leon Uris.  Đọc tiếng Anh chậm nên tôi quyết mua cho được bản tiếng Pháp.  Tôi trốn học một tuần, tụng một mạch hết quyển sách và sau đó đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần nữa.  Mỗi khi buồn chán, hàn thử biểu tâm tư tuột dốc vì chuyện vớ vẩn gì đó tôi lại lôi Exodus ra tụng năm mười trang, một hai chương thế là... buồn ơi tạm biệt! 

Đọc Exodus thì được nhưng xem phim Exodus là cả một thất vọng tột cùng. Tương tự như cái hố tâm tư của người mê Kim Dung khi xem mấy phim kiếm hiệp Kim Dung.  Exodus là một anh hùng ca, trường thiên như Odyssey của Homer hay hào hùng ngắn gọn như câu /Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ của Lý thường Kiệt.

Chuyện lập quốc của người Do Thái trong thế kỷ nầy là một bài học đáng đồng tiền bát gạo về lòng yêu nước. 

Quê hương tổ quốc bàng bạc phiêu hốt, nhưng quê hương cũng cấp thiết như dưỡng khí cho phổi, nước cho cá, bầu trời cao rộng cho chim muông.  Không có quê hương là mất đi nửa cuộc đời.  Những người Do Thái lập quốc đã tiếp sức cho tôi yêu đất nước, yêu đồng bào, yêu Việt tính, yêu nhân cách Việt Nam và yêu tôn giáo đã gắn liền với mệnh nước. 

Vì thương người Do Thái bị người Anh đọa đày nên tôi cũng... thương lây tổ tiên ông bà và đồng bào tôi khi phải sống trong cảnh đô hộ Tàu, Tây.  /Sống mỗi người một nhà, chết mỗi người một mồ/.  Nhà đó là nhà Việt Nam, mồ đó là mồ Việt Nam. 

Phải làm bất cứ điều gì có thể làm được để cướp lại, để giữ lấy quê hương mình như những anh hùng trong La Bataille de Sable hay Exodus.  

Trong lúc /khóc cười theo vận nước nổi trôi/, ý tưởng và hình ảnh của những người Do Thái lập quốc vẫn là một phấn kích lớn cho tôi khỏi ngã lòng bỏ cuộc. 

Thần tượng ngoại lai của tôi thời đó là Ben Gourion, Golda Meir, Moshe Dayan, bên cạnh những Adenauer, Yochida... Họ là những kẻ xa lạ đã thúc đẩy tôi khắn khít với một quê hương hiện tại khốn khổ lồng trong một quê hương muôn đời tươi đẹp. 

Đây cũng là thời tôi yêu Tình Nước của Vũ hòa Khanh, Tình Ca của Phạm Duy, Hải Ngoại Thương CaHàng Hàng Lớp Lớp của Nguyễn văn Đông... 

Tôi chưa thấy Việt Nam mình có một phim nào như La Bataille de Sable, không có một quyển sách nào như Exodus.

Tôi yêu Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt, Nha Trang, Sài Gòn, Cà Mau, U Minh vì những kinh nghiệm bản thân chứ không phải qua sách vở chữ nghĩa. 

Trái lại tôi đã chết lên chết xuống vì yêu Hà Nội, yêu miền Bắc cũng chỉ vì Hà Nội Băm Sáu Phố Phường của Thạch Lam, Mối Tình Đầu của Hoàng công Khanh và câu ca dao

Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa

Có nàng Tô Thị có Chùa Tam Thanh

 

Palestine! Ôi, Palestine!

Tại sao người Palestine đáng thương?

Năm 1944 trước viễn tượng lấn đất cắm dùi Do Thái- Palestine, T.T Roosevelt cam đoan với vua Ibn Saud của Saudi Arabia rằng Mỹ sẽ không để cho dân Palestine mất một tấc đất nào vào tay Do Thái. 

Năm 1991, T.T Bush bố hứa hẹn cho Palestine 'một ốc đảo an bình' ở Trung Đông để ve vãn khối Á Rập ủng hộ Mỹ trong chiến tranh chống Iraq. 

Thế đó mà năm 2001 Palestine trở thành tiếng trống trận thúc đẩy những người muốn biến Hồi giáo thành một ý thức hệ chống Tây phương và chống Mỹ.

Do Thái và Palestine đều nhận mình là con cháu của Tổ phụ Abraham và Moses, đều tin vào một Thượng Đế toàn năng mà Palestine gọi là Allah, Do Thái gọi là Jahweh hay Jehovah. 

Điều lạ lùng trớ trêu là Thượng Đế toàn năng đó đã chỉ vùng đất Palestine hôm nay cho những người Do Thái, và bảo họ rằng: Ngươi và con cháu ngươi là dân tộc ta chọn để sinh sôi nảy nở nơi đây để làm sáng danh ta.  Trong khi cũng Thượng Đế toàn năng đó lại chỉ y nguyên phần đất Palestine sỏi đá đó cho người Palestine và bảo rằng: Đây là quê hương của ngươi, đứa nào láng cháng đến thì đuổi nó đi để làm sáng danh ta. 

Cả người Do Thái lẫn người Palestine đều tin lời đó là thật cho nên nhất quyết theo đúng lời Thượng Đế toàn năng dạy phải ăn miếng trả miếng, mắt đổi mắt, răng đền răng bằng cách riêng và bằng phương tiện riêng của mình. 

Cuộc xung đột Do Thái-Palestine trở thành cuộc chiến giữa hai giáo chủ Moses và Mahomet, giữa thánh thư Talmud và Koran.   

Palestine là vùng đất mà cả người Do Thái, Hồi giáo và các hệ phái Thiên chúa giáo đều coi là thánh địa của riêng mình. Đến thế kỷ thứ hai thì coi như không còn người Do Thái nào hiện diện trên vùng đất đó nữa. 

Qua thế chiến 1914-1918, Palestine thuộc Thổ Nhĩ Kỳ và rồi bị Anh cướp mất mở đường kích thích người Do Thái lưu vong bắt đầu trở về.  Họ phải chiến đấu chống người Anh để bám đất, và đồng thời với dân bản địa Palestine. 

Năm 1947, LHQ phân chia Palestine thành hai phần cho người Palestine và Do Thái dưới quyền giám định của Anh.  Năm 1948, Anh chém vè rút khỏi Palestine. 

Người Do Thái lợi dụng khoảng trống đó tuyên bố thành lập quốc gia Israel và bắt đầu xua đuổi người Palestine như những kẻ cư ngụ bất hợp pháp khỏi quốc gia Israel, ngay cả những người Palestine ở trên phần đất được LHQ phân chia cho họ năm 1947. 

Bốn triệu người Palestine phải tha phương cầu thực khắp các quốc gia đồng đạo vùng Trung Đông.  Trong khi 750.000 người Palestine bị tống khỏi những vùng đã được phân chia cho họ trở thành những kẻ không đất cắm dùi lui về cố bám lấy vùng Tây ngạn sông Jordan và dải Gaza.  Năm 1967, Do Thái lấn vào hai vùng này và người Palestine bị dồn vào chân tường phải vùng lên.  Danh từ Intifada, Jihad bắt đầu được thế giới nhắc đến từ đó.  Cuối cùng Do Thái đã nhượng cho Palestine 17% vùng Tây ngạn sông Jordan và 60% dải Gaza. 

Người Do Thái tiếp tục dành đất, và hiện có 400.000 Do Thái trên những phần đất thuộc quyền quản trị của Palestine.  Trước 1967, mật độ chung Do Thái là 278 người trên một cây số vuông trong khi ở dải Gaza, mật độ đó là 3.138 người. 

Nguồn nước uống, những đường thông thương ra biển, đa số công ăn việc làm và chuyện học hành của Palestine đều do Do Thái kiểm soát.  Kinh tế của Palestine giảm 1/3 trong giai đoạn 1992-1996, số thất nghiệp lên đến 20%.  Lợi tức đồng niên của người Do Thái là 36.000 MK, cao gấp 12 lần cao hơn người Palestine trong khi đó viện trợ Mỹ hàng năm cho Do Thái là 1.000 MK cho mỗi đầu người, ở các nơi khác vùng Phi Châu 6 MK cho mỗi người. 

Năm 1991, khối Cộng Sản sụp đổ cộng thêm chiến tranh với Iraq, liên minh Mỹ-Hồi giáo hình thành nhưng rồi các đồng minh Hồi giáo của Mỹ dần dần rút lui vì Mỹ không giải quyết xong những đau khổ của Palestine và Iraq.

 

Thương Hoa Kỳ Như Con Trâu Kẹt Giữa Hai Con Ruồi

 

Từ ngày Do Thái lập quốc, Mỹ trở thành một hậu cứ cho Do Thái và Do Thái là căn cứ tiền phương của Mỹ giữa biển cát Hồi giáo mênh mông ở Trung Đông. 

Trong khoảng thời gian 1964-1970, Mỹ đổ vào Do Thái 221.782.000 MK vũ khí, gần gấp đôi số vũ khí đổ vào Iran và gấp 50 lần số bán cho Saudi Arabia vốn là đồng minh thân thiết của Mỹ thời đó. 

Đã hẳn, người Palestine chẳng nhận được một viên đạn nào mà cũng chẳng mua được một khẩu súng nào của Mỹ.  Ở Mỹ có 5.600.000 người Do Thái xấp xỉ bằng dân số chính quốc, trong khi chính quốc Do Thái chỉ có khoảng 4.500.000 người theo Do Thái giáo. 

Trăm dâu đổ đầu tằm, mọi oán than thù hận của người Hồi giáo đều đổ lên đầu Mỹ, ít ra cũng là từ ngày Do Thái lập quốc năm 1948 đến nay.

Về phương diện đối ngoại, Hoa Kỳ đã chịu quá nhiều tai tiếng trong chuyện bênh ai bỏ ai.  Có khi điên điên tôi nghĩ vớ vẩn, ừ phải chi cả Do Thái và Palestine đều biến thành những Tiểu Bang của Mỹ thì khỏe biết mấy? 

Chẳng còn lý do hại nhau, chẳng còn súng đạn để giết nhau.  Cứ cái đà anh uýnh tui gãy răng, tui bẻ răng anh, anh chọc mù mắt tui, tui móc mắt anh thế này thì không khéo cả Palestine và Do Thái đều sẽ trở thành xứ sở của những người mù húp cháo.  Đến nước đó thì lý thuyết N-Chó-Đái của tôi ở trên còn đúng không?

Một điều chắc chắn là Arafat hẳn vui mừng gặp lại Thủ Tướng Do Thái Yitzhak Rabin, kẻ đã cùng ông ký Thỏa Ước Oslo 1993 và rồi chia nhau giải Nobel Hòa Bình năm đó.  Thỏa ước Oslo yểu tử sau khi Rabin bị một đồng bào mình bắn hạ vì tội bán đứng Do Thái cho Palestine.

Đâu đó, trong tam thiên đại thiên thế giới, Arafat và Rabin nghĩ gì khi nhìn xuống quê hương đồng bào, nhìn xuống bạn thù của mình?  Họ nghĩ gì? 

Họ vĩnh biệt một giấc mơ và đón chào một giấc mộng.

 




Những Câu Chuyện Cuối Tuần

Trang Hoàng Nguyên Nhuận