Hình như từ năm 16, 17 tuổi tôi đã mắc cái
chứng quái gỡ ấy. Bắt đầu ngày bằng một hớp cà phê sữa thật nóng và một hơi
thuốc thật dài.
Tất cả đều do bố tôi tập cho tôi.
Ông không hút thuốc không cà phê không rượu. Học hành thi cử, tôi có cái
tật ham chơi, đợi nước đến chân mới nhảy.
Ngày ấy, thi cử và nghỉ hè là vào khoảng giữa tháng 6. Và tôi cứ lần lữa
đợi nghỉ lễ Phục Sinh xong mới học rút. Nghĩa là còn hơn hai tháng ngoài.
Cho nên phải vắt giò lên cổ mà học. Đêm ngủ vài giờ là nhiều.
Và để có thể tỉnh ngủ, có khi tôi phải treo giò lên cao hơn đầu hay ngâm
chân và những thau nước có thêm nước đá. Thiên hạ học, mình học. Thiên hạ
thi, mình thi. Và đã thi thì phải đậu. Nghĩ như vậy mà cố gắng chứ đậu rồi
làm gì, tôi cũng không bận tâm lắm. Thời long nhong vô tư lự mà.
Hình như năm đó là năm thi Tú Tài 1.
Một hôm lúc ban ngày, học mệt quá tôi ngủ thiếp đi, nghe tiếng động nhẹ
tôi tỉnh dậy hé mắt thấy bố tôi rón rén bưng vào phòng học của tôi, một tô
hoành thánh, một ly cà phê sữa và mấy điếu thuốc Ruby. Tôi làm quen với mùi
cà phê sữa quyện với khói thuốc từ độ đó.
Rồi tôi thử đủ thứ thuốc. Ruby, Oakland, Craven A, Gitanes, Kent, Salem
và cuối cùng là Melia Vàng song song với thuốc Lào. Ngủ dậy không có hơi cà
phê thuốc lá là mắt mở không ra.
Không bao giờ tôi ý thức được mình đã ghiền cà phê thuốc lá. Cũng không
hề có ai nói cho tôi biết cái nguy hại của thuốc lá cà phê. Mà có nói chắc
tôi cũng không hơi đâu mà nghe.
Dân Việt mình, miếng thuốc miếng trầu là đầu câu chuyện, có gì hại đâu.
Tôi không nhớ có một tài tử Việt Nam nào trước nay ngậm thuốc hay cầm điếu
thuốc ‘ngầu’ như Humphrey Bogart. Nhưng tôi nhớ hình ảnh của một người đàn
bà hút thuốc bằng dọc tẩu – cigarette holder hay ống đót - do chính tác giả
họa trong quyển The Dragon and the Lotus của Crosbie Garstin. Sách in năm
1928, mẹ tôi lúc đó mới 6 tuổi.
Lớn lên, tôi cứ ước sao mẹ tôi giống người trong hình ấy. Người mẩu của
Garstin đúng là hình ảnh của một người đàn bà sắc sảo phóng đãng.
Mẹ tôi hiền quá nên bị bố tôi ăn hiếp. Bà vừa ăn trầu, vừa hút thuốc.
Không biết đó có phải là phản ứng vô thức của Bà không?
Hút thuốc được coi như là sành điệu, là đúng thời trang. Thời tôi lớn lên
gọi là đúng mốt. Ông nào ngậm điếu thuốc xem ra cũng có vẻ như Humphrey
Bogart cả. Thuốc lá trở thành chất liệu cho văn, cho thơ, cho họa, cho nhạc
Việt Nam.
Hình như, nếu thơ Tàu ngập mùi rượu và trà thì thơ Việt Nam lại ngập khói
thuốc?
Cho nên lớn lên khi bắt đầu bày vẽ tương tư, tôi đã không khỏi lắc lư con
tàu khi đọc đến những câu thơ trong bài Ngập Ngừng của Hồ Dzếnh:
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé.
Để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân
Ngó
trên tay, thuốc lá cháy lui dần...
Tôi nói khẻ: gớm, làm sao nhớ thế.
Em cứ
hẹn nhưng em đừng đến nhé.
Hoặc khi đọc bài Đôi Bờ của Quang Dũng:
Thương nhớ ơ hờ, thương nhớ ai?
Sông xa từng lớp lớp mưa dài.
Mắt kia em
có sầu cô quạnh.
Khi chớm heo về một sớm mai?
Rét mướt mùa sau chừng sắp ngự
Bên này em có nhớ bên kia.
Giăng giăng mưa bụi qua phòng tuyến
Quạnh vắng
chiều sông lạnh bến Tề.
Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa
Đêm đêm sông Đáy
lạnh đôi bờ
Thoáng hiện em về trong đáy cốc
Nói cười như một chuyện một đêm
mơ
Xa quá rồi em người mỗi ngả
Bên này đất nước nhớ thương nhau
Em đi áo
mỏng buông hờn tủi
Dòng lệ thơ ngây có dạt dào?
Đọc những dòng thơ đó thì làm sao mà không muốn có dịp thất tình để xem
khói thuốc đẹp ra sao?
Thế nên, khói thuốc đã ám vào lục phủ ngũ tạng tôi, đã ăn vào gene của
tôi biến tôi thành một tên nô lệ hồi nào không hay. Khổ nhất là những lần đi
tù.
Nhưng tôi nhớ không lầm thì trong những lần đó, chưa lúc nào tôi phải
thấy thèm thuốc cả, không phải vì tôi khôn hồn bỏ ngay cho đỡ vã mà vì loay
hoay rồi thế nào cũng có người ra tay nghĩa hiệp ‘mời’ mình điếu đỡ buồn cho
đến lúc được thăm nuôi tiếp tế hay quản giáo cai ngục thương tình nhận tiền
mua về cho.
Cho đến năm 1980, tôi mới phải đối đầu với một lựa chọn quyết tử: hút hay
không hút!
Số là, trên đường đến Thái Lan, ghe của tôi bị chận cướp ba lần te tua.
Có cái nhẫn kim cương phòng thân, hai lần trước ghe bị hải tặc tôi dấu được.
Lần thứ ba, thấy mệt quá tôi lột vứt, thế là trơ thân cụ.
Lên trại, có liên lạc với bạn bè thì tối thiểu cũng hai tuần mới có viện
trợ trong lúc trước mắt tôi cần một ly cà phê sửa và một hơi thuốc để mở mắt
mỗi ngày. Gặp anh em mời cà phê cà pháo thì cũng trưa trưa chứ bét mắt ra ai
tới lô lều của mình mà mời mình đi uống cà phê. Mở miệng hỏi mượn tiền để cà
phê thuốc lá thì cũng hơi kỳ. Tôi đã trãi qua mấy ngày vật vã ển ển xìu xìu
vì thiếu cà phê thuốc lá khai thị.
Đến ngày thư tư, tôi thấy không nên kéo dài cảnh dở dở ương ương đó nên
lúc thức dậy, thay vì nằm mơ màng nghĩ đến thuốc cà phê, tôi chạy một mạch
ra bờ biển. Ngồi thiền.
Thành thật mà nói, tôi chẳng biết thiền là gì, điều tôi muốn làm là tập
trung vào thế ngồi, theo dõi hơi thở, và làm một cai gì đó để đầu óc đừng
nghĩ đến thuốc lá cà phê.
Theo ngôn ngữ bây giờ thì lẽ đáng tôi phải quán những cái hại cái xấu của
cà phê thuốc lá. Cũng như muốn ngăn ái dục thì quán cái xấu cái hại của ái
tình, của người yêu!
Khổ nổi là thời đó, chưa ai nói cho tôi nghe và tôi cũng chưa bao giờ
nghĩ đến cái hại của cà phê thuốc lá, mặc dù tôi từng nghe đi nghe lại hàng
ngàn lần cái giới cấm rượu trong Ngũ Giới.
Cũng là cái tội đã học không đến nơi đến chốn mà còn học mà không tu!
Vì không biết cái hại của cà phê thuốc lá nên khi dùng thiền quán để
chống lại bệnh ghiền, tôi chỉ còn cách là đếm hơi thở. Mới đầu đếm ngắn, sau
đếm dài… Tâm thì đếm, mắt thì trừng trừng nhìn phía mặt biển nhấp nhô những
làng sóng bạc lân tinh. Cứ thế mà ngồi cho đến khi màn đêm dần khuất và mặt
trời ló dạng như một lằn chỉ đỏ trên mặt biển xa. Rồi lằn chỉ đỏ khum tròn
lớn dần lớn dần thành hình cái mâm khổng lồ đỏ choét vừa lên cao vừa nhạt
dần cho đến khi trời sáng hẳn.
Có hôm mắt cay xè, nước mắt ràn rụa. Tôi vật lộn với cái thèm cà phê
thuốc lá như thế khoảng một tuần thì cái ghiền biến mất. Trong ngày gặp anh
em bạn bè mời ly cà phê thì tôi nhận, nhưng mời thuốc thì nói dối: Cám ơn,
vừa mới hút xong!
Nhờ lối thiền ba rọi đó mà tôi bỏ được cà phê thuốc lá. Cho đến khoảng ba
tuần sau đó thì viện trợ bắt đầu đổ vào túi.
Có tiền rủng rỉnh tôi đã làm một lựa chọn hết sức ngớ ngẩn và tốn kém là
chỉ bỏ cà phê, nghĩa là sáng ngủ dậy không cần hớp cà phê nóng sốt đầu ngày.
Tôi hút thuốc trở lại. Mùi Samit hơi xóc nhưng vẫn quyến rũ, khói Samit vẫn
‘xanh dòng’ gợi hứng. Thỉnh thoảng lại còn chen thêm Lucky Strike không đầu
lọc.
Hồi ở U Minh cũng như sau 30/4/75 thỉnh thoảng tôi cũng có thử cần sa.
Nhưng tạng của tôi phê cần sa là đâm sợ ma nên cũng chẳng hấp dẫn gì đành
thôi dù thỉnh thoảng tôi vẫn còn nhớ mùi hột cần sa cũng như thuốc Lào.
Tình trạng đó kéo dài cho đến ngày tôi đi định cư ở Australia.
Đến Sydney thì ngày hôm sau người anh em thân đến thăm đem cho ba món.
Cái TV National bấm nút, chai Chivas Regal và một cây Salem. Chivas Regal và
Salem là hai món ruột của tôi ở Sài Gòn trước khi được Thủ Tướng Trần văn
Hương gửi đi Quang Trung chín tuần ‘đường còn xa Thiếu Tá không cho về nhà…
xa nhìn cắc ké leo cây!’
Người anh em này còn nhớ Salem vì anh ấy rời xa tôi trong thời kỳ tôi
đang ghiền Salem không đầu lọc, nghĩa là phải ngắt đầu lọc vứt trước khi
châm lửa.
Ở Sydney, tôi cũng thử đủ thứ thuốc nhưng cuối cùng bám trụ với Peter
Jackson. Tôi bắt đầu kỳ thị thuốc hút.
Đầu tiên là chống quảng cáo thuốc lá, nghĩa là thứ bảy chủ nhật tụm năm
tụm ba đi phá mấy bảng quảng cáo thuốc lá. Rồi giảm dần bằng cách dùng dọc
tẩu, nhờ vậy tôi có thể ngắt điếu thuốc châm lửa hút hai lần. Số thuốc hàng
ngày giảm đi gần một nữa và dĩ nhiên lượng nicotine và khói độc hấp thụ cũng
giảm đi một nữa.
Đất không chịu trời thì trời chịu đất, máu ghiền của tôi dần dần cũng
phải thích nghi với tôi thôi.
Một trong cái thú bất trị của hút thuốc là điếu thuốc đầu ngày và điếu
thuốc sau bửa ăn. Thức dậy hay ăn xong là phải có điếu thút để bập bập ngay.
Nhất là điếu thuốc sau bửa ăn.
Nếu muốn tiết kiệm hay bớt dần thì nên bắt đầu bằng cách kéo dài việc
châm điếu thuốc sau khi ăn. Mới đầu vài mươi giây, rồi một phút, rồi hai
phút…
Có khi tôi đùa là chỉ cần hoãn lại một sát-na thôi. Vì sát na ngắn quá
nên sát-na này chưa hết thì sát- na khác đã tới cho nên hoãn được một sát-na
có nghĩa là hoãn vô tận, nghĩa là dứt luôn?
Cái thú bất trị thứ hai là dùng thuốc để trám cái trống rỗng của tình
trạng ‘thừa đôi tay, dư làn môi’. Loay hoay không biết làm gì thì đốt điếu
thuốc vậy. Người ta gọi đó là hút thuốc vặt? Cũng chẳng sao, nhưng nếu hút
bất đắc dĩ thế thì nên thử chậm lại một phút hai phút rối đốt thuốc xem sao.
Tình trạng thèm thuốc cũng xảy ra sau khi ân ái. Tôi nhớ mãi một câu của
Francoise Sagan: On fume ca après. Sau đó thì người ta hút thuốc! Nếu người
bạn đời của mình cũng biết hút thì không nói làm gì, nếu không thì phải
chăng hành động đốt thuốc tráng miệng này sẽ bị coi như là một cách bày tỏ
cảm thức chán ngấy như vừa ăn cơm nếp nát? Tránh đi có được không?
Đối với người ghiền rồi mà đem chuyện đạo đức, sức khoẻ, tiền bạc tiết
kiệm, lịch sự ra nói thì cũng vô ích thôi. Đem thống kê này nọ ra làm bằng
chứng thuyết phục cũng chưa hẳn đã hiệu quả. Ép quá người ta có thể nói bừa:
Bỏ em [hay bỏ anh] được chứ đừng hòng anh [em] bỏ thuốc!
Biện pháp mạnh như giáo dục, thuế, bảo hiểm, cấn hút những nơi công
cộng…là cần nhưng chỉ là phụ trợ.
Việt Nam đã làm được một chuyện với tôi là ‘văn minh hiện đại nhất’ đó là
cấm quảng cáo thuốc hút dưới nhiều hình thức. Chậm còn hơn là không có.
Không ai chỉa súng vào đầu, kê dao vào bụng mình bắt mình hút thuốc thì
cũng không ai có thể dùng súng dùng dao bắt mình bỏ thuốc. Tự mình quyết
định thôi. Và thường là phải quyết định lui quyết định tới mấy lần.
Nói thì hay, có thể vỗ tay thì dỡ. Vậy thì tôi đã bỏ thuốc được chưa? Tôi
đã giã từ khói thuốc xanh dòng chưa?
Huỳnh Bất Hoặc