Trích "Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân tại Việt Nam" nxb. Hương Quê 1988
Phần III: "DẤU IN MỌI Ý TƯỞNG CỦA NHỮNG NGƯỜI TRUYỀN ĐẠO LÊN TỔ CHỨC - (MT đánh máy gửi SH).
III – PHƯƠNG PHÁP CỦA LANESSAN .
Lanessan đã đến Đông dương năm
1887, khi còn là dân biểu, để điều tra giúp cho Bộ ngoại giao . Lúc đó,
người ta chú ý đến y về các bài báo nỗi tiếng đăng trong tờ “Thông tin Hải
Phòng” , trong các bài đó y nghiêm khắc chỉ trích chính sách thôn tính và
chinh phục điên cuồng của những người kế tiếp Pail Bert. Với chính sách thay
thế, dân biểu hạt Seine đã cuồng nhiệt chủ trương chính sách “bảo hộ thành
thật và nhân từ” và khi làm toàn quyền y đem ra áp dụng ở Đông dương
1- Chỉ trich
chính sách nô dịch :
Trong chuyến ngắn ngủi ở
Việt nam năm 1887, chính Lanessan có thể nhận ra tình hình nguy hiểm cho
người Pháp. Trông bên ngoài, xứ nầy đã bình định , sự thật nó ở trong một
tình trạng hỗn loạn mà mọi người cảm thấy, mà mọi người nói đến nhưng không
ai dám nói cho chính quốc biết, vì nỗi lo ngại, nỗi bất mãn trong xứ là hâu
quả của chính sách của giới chức Pháp, của thái độ họ, của từng cử chỉ và
hành vi của họ.
Trước hết là nỗi lo ngại cùng
bất mãn của triều đình Huế và quan lại.
Từ ngày viên tướng Decourcy nghỉ
rằng nên dẫn cả đoàn quân hộ tống 1000 người theo khi trình ủy nhiệm thư cho
triều đình, người Pháp, ngoại trừ Paul Bert, không bao giờ thôi đối xử với
triều đình Huế và quan lại như thế, là các ông chủ nghiêm khắc và dữ tợn.
Với các quân nhân, điều nầy không đáng ngạc nhiên lắm nhưng thái độ này cũng
có ở một số viên chức dân sự.
“Không biết gì về phong tục của
người An nam và cũng không biết gì về chính sách thực sự của các bổn phận mà
hiệp ước 1884 đòi hỏi họ, nhiều công sứ tự xem mình như là những ông chủ độc
nhấtở các tỉnh và khiến những viên chức An Nam phải chịu những cảnh đối xử
làm thương tổn không những viên chức liên hệ, mà còn các viên chức phụ
thuộc. Do đó, chúng tax a cách với các quan mà sự giúp đở thật cần thiết cho
chúng ta, vì theo hiệp ước, họ vẫn giữ quyền điều hành công việc. Mặt khác,
chúng ta chạm đến tự ái và quyền lợi của các nhà Nho khi tìm một phần công
chức cao cấp nhất ở ngoài hàng ngủ họ. Thêếlà chúng ta làm theo chính sách
cổ truyền của các nhà truyền giáo vốn có mục tiêu hủy diệt Văn Thân, nhưng
chúng ta chống lại quyền lợi chính trị trực tiếp của chúng ta, vì chúng ta
làm mích lòng phần thông minh nhất, hoạt động nhất và duy nhất có ảnh hưởng
đến xứ sở, phần mà thợ thuyền ở thành thị, nông dân ở thôn quê đã mù quáng
đi theo, phần đại diện, ngay cả các nhà truyền giáo cũng thú nhận, họ là phe
dân tộc An nam.
“Giám mục Puginier, mà hưởng đến
chính sách chúng ta tại Bắc kỳ rất lớn từ mấy năm nay và lúc nào cũng thúc
dục tiêu diệt Văn Thân, cũng đã thừa nhận với tôi, cách đây mấy hôm rằng
“đảng Văn Thân” , đó là cách ông ta gọi thành phần có học trong dân chúng
cùng những người theo họ, thực sự là đảng dân tộc.
“về phần các ngài, những nhà
truyền giáo, tôi nói với ông, các ngài muốn tiêu diệt giới nho sĩ mà các
ngài thấy là một lực lượng chống đối mạnh mẽ cho việc truyền đạo của các
ngài, việc đó dễ hiểu, nhưng khi những nhà chính trị chúng tôi làm theo quí
ngài, là chúng tôi phạm một lỗi nặng và nguy hiểm, vì chúng tôi đẩy xa ra
chúng tôi phần dân chúng thông minh nhất, có thế lực nhất. Khi thúc đẩy họ
theo con đường đó, các ngài đã giết chết việc bình định xứ sở cùng việc
thiết lập nền bảo hộ kinh tế mà hiệp ước 1884 muốn xây dựng ở Trung và Bắc
kỳ, dù cố ý hay không, các ngài cũng thừa nhận rằng không thể làm được nếu
không có các chi phí to lớn về người và về của, trở nên cần thiết”[1]
Tại Trung kỳ, Văn Thân đông đảo
hơn tại Bắc kỳ nhiều, họ tức giận vì vô số sự làm nhục mà quân đội Pháp gây
ra cho quan lại cao cấp nhất, vì tiền phạt mà các Phật tử phải trả cho tín
đồ Thiên Chúa giáo và vì thái độ của Thiên Chúa giáo hầu như khắp nơi không
chịu nộp thuế, không chịu làm xâu, tóm lại không chịu tuân lệnh các quan. Về
việc này Lanessan đã đưa ra một ví dụ tiêu biểu : Viên Tổng đốc và các viên
Tri phủ trong một tỉnh Trung kỳ đã kể với y rằng các tín đồ Thiên Chúa giáo
không tuân lệnh nộp thuế và làm xâu v.v… của giới chức địa phương, y hỏi tại
sao không dùng sức mạnh buộc họ phải theo như đã làm đối với Phật tử, viên
tri phủ tại một phủ có nhiều tín đồ Thiên chúa giáo đã trả lời : “chúng tôi
thường cố gắng làm như thế, nhưng nhân viên chúng tôi luôn luôn lãnh những
phát đạn ”. Hầu như khắp nơi, ở Bắc cũng như ở Trung kỳ, Các tín đồ Thiên
chúa giáo đã hoặc ít, hoặc nhiều tránh né các bổn phận mà các người Việt Nam
khác phải làm, và trong việc kháng cự này, họ được các kẻ truyền đạo khuyến
khích. Kết quả tự nhiên là các mối hiềm thù sâu xa giữa hai hạng dân và là
một nguyên nhân hổn loạn địa phương, nhất là tại các tỉnh miền Bắc Trung kỳ.
[2]
Trong khi giới chức Pháp tách
các quan và các nho sĩ ra xa mình bằng cách làm nhục họ đủ điều, thì nó cũng
làm cho dân chúng ghét vì những xâu dịch mà các toán quân và các đồn bót
Pháp tại các tỉnh gần nơi hành quân của đạo quân viễn chinh bắt họ phải chịu
: Sơn tây, Hà Nội, Hưng yên, và nhất là Bắc Ninh và Hải Dương.
Các viên chức xâu dịch này đã
làm cho dân chúng khủng khiếp, Mệt nhọc vì đi bộ hai, ba tháng trường, ăn
uống thì thường thiếu thốn và các sự đối xử tàn bạo đã giết chết một số lớn
cu ly trong các cuộc hành quân thường có này.
Về vấn đề nầy, các đội quân Lạng
Sơn đã để nhiều kỷ niệm đau buồn trong tâm trí dân chúng Bắc Ninh. Thường
thường thiếu muối, vì ban quản lý lơ là, những người cu ly phải ăn cơm lạt,
sau mấy hôm họ mắc chứng tháo dọ, rồi chứng kiết lỵ, có khi thiếu gạo và
người ta phát lúa cho họ, sau một ngày đi bộ mệt nhọc, họ không có cách gì
để giả, và đa số cam đành cất lại trong khi có cơ chết đói. Họ chết rất
nhiều, tỉnh Bắc Ninh hết sạch người vì chuyện bắt phu, và dân chúng nhiều
làng đã bỏ trấn đi để khỏi tiếp xúc với người Pháp. Những người khoẻ bị bắt
đi, bỏ việc cày cấy, gia đình họ bị đói khổ. Trên đường người ta thấy được
cảnh điêu tàn của nhiều làng và vết tích ruộng nương biến thành đồng lầy.
Đồn lính - rất nhiều – cũng cần
cu ly như các toán quân và một phần lớn dân chúng không ngừng bị trưng tập
để mang thực phẩm và sung đạn. Việc giới quân sự gia tăng có hệ thống các
toán quân và các đồn bót vì thế đã có hậu quả đã gia tăng lớn lao sự xáo
trộn trong dân chúng khi tăng gia các xâu dịch, và bắt người dân hiền lành
nhất phải chịu đủ thứ nhọc nhằn.
Trong tình cảnh như thế, không
có gì phải ngạc nhiên khi thấy lãnh thổ bị “những kẻ làm loạn “ quấy phá và
gần như không hề bị bắt vì sự đồng lõa hay sự im lặng của dân chúng mà họ
sống với. Trong phần lớn thời gian, người Pháp buộc phải sống đằng sau các
hàng rào của đồn bót, và họ không biết gì cả về một việc xảy ra cách đó độ
vài cây số.[3]
Ác cảm và bất mản của dân chúng
càng lớn mạnh hơn lên do việc đánh thuế nặng nề để giảm nhẹ bớt các khó khăn
ngân sách. Các khó khăn đó đã buộc người Pháp lập thêm hay giữ nguyên các
độc quyền mà sự vơ vét của những kẻ được nhượng quyền tham lam còn làm cho
đặc biệt đáng ghét.
Cảm thấy lòng oán thù của dân
chúng đe dọa , người Pháp buộc phải duy trì tại Bắc kỳ, cả sau khi đã bình
định xong về mặt vật chất một số lớn quân đội, gia tăng thêm đồn bót, các
toán do thám, các toán lính, làm mệt nhọc và kiệt sức lính tráng, mỗi năm
chi phí lớn lao mà không thu được lợi gì, gia tăng sự bất mãn của dân chúng
bởi các việc bắt xâu, bởi các việc can thiệp không những của giới quân nhân
và đời sống dân bản xứ.
Để quân bình ngân sách quân sự
khổng lồ do chính sách đó đòi hỏi, cần phải bỏ các công tác công cộng cần
thiết nhất, tạo nên các sắc thuế quan tai hại. Tóm lại, hy sinh canh nông,
buôn bán, kỷ nghệ, tất cả mọi tài nguyên phong phú của xứ sở.
“Để làm cho nền bảo hộ của chúng
ta được chấp nhận trong các hoàn cảnh bất lợi như thế, chúng ta quá thuờng
có các nhân viên thiếu chuẩn bị cho công việc rất nặng và đồng thời cũng rất
tế nhị được giao cho họ. Không biết gì hết về xứ này, họ đã dần dần giảm
bớt, tiêu diệt uy quyền các quan mà họ không xử dụng được sự giúp đở hay
kiểm soát được các hành động, không uy tín, không phương tiện hoạt động, các
viên chức bản xứ này càng lơ là với bổn phận, khi họ không lấy cớ thi hành
mệnh lệnh của các công sứ chúng ta, nhân danh chúng ta mà lạm thuvà thúc đẩy
những người họ cai trị ác cảm chống lại chúng ta…
“Kết quả trực tiếp của một tình
trạng như thế, là tại các tỉnh rối loạn, thuế mà trước hết được nộp cho trộm
cướp rồi mới đến chính phủ bảo hộ, Nhưng rất thường, các viên chức bản xứ
không có uy quyền, lại không có phương tiện làm cho người tuân lệnh, cũng
không có phương tiện bảo vệ nhân viên mình, đôi khi phải phó mặc cho trộm
cướp và lại còn bị mắc vào vòng liên ụy gọi đích danh là sự phản bội và bị
trừng trị như thế. Nhưng cũng phải thú nhận rằng các hành xử của chính phủ
bảo hộ thuờng biện giải phần nào cho các việc liên lụy thuộc loại đó.[4]
Đúng lúc Lanessan nắm lấy chức
vụ toàn quyền, triều đình Huế bị làm nhục, các quan chới với, phong trào
khởi nghĩa bành trường đáng ngại. Hoàn cảnh đã làm cho giới chức “bảo hộ”
phải biến quân đội Pháp và lính bảo an thành một quân đội cai trị thực sự,
nó đương đâ ầvới các toán, nói chung, võ trang đầy đủ lại có lợi hơn Pháp là
biết rõ tình hình, và chiến thuật thật là tuyệt, họ phân tán thành từng toán
nhỏ rồi lại tập hợp cho một trận đánh chung, rồi lại phân tán, né tránh có
phương pháp trước các toán quân Pháp mà nó làm cho mệt mõi và kiệt lực, buộc
quân đội Pháp phải xử dụng vô ích lực lượng mình.[5]
Hoạt động của các toán này có tầm vóc một phong trào khởi nghĩa thực sự,
nhưng may cho người Pháp, nó thiếu nhất trí trong hành động, thiếu sự hoà
hợp chặt chẽ giữa các chỉ huy cấpdướivà thiếu một tinh thần dân tộc thật sự.
Đó, theo lời Lanessan là di sản
thảm hại mà những người trước ông đã để lại vì họ đã phạm lỗi lầm to lớn khi
theo đuổi các kẻ truyền đạo.
2- Chính sách “
bảo hộ thành thực và nhân từ ”
:
Biết nguyên nhân căn bệnh ,
Lanessan đề trị phương thuốc trị liệu: “thay vì đi theo chính sách của các
nhà truyền giáo, đã từng làm những công việc đáng buồn cho chúng ta”phải
theo đúng
[6],
mà không hạn chế gì cả, đường lối duy nhất thích hợp cho một chính sách bảo
hộ, tức là cai trị Trung kỳ và Bắc kỳ bằng cách dựa vào toàn thể lực lượng
sống động trong xứ : Vua, triều đình, viện cơ mật, quan lại và Văn thân.
Các kẻ truyền đạo hứa với giới
chức Pháp rằng bằng cách đánh đổ quan lại Huế tại Bắc kỳ, Pháp sẽ thu phục
cảm tình của người Bắc, họ làm cho giới chức Pháp hy vọng rằng chiến tranh
với Văn thân sẽ làm cho dân chúng biết ơn. Không có gì sai lầm hơn, theo lời
của Lanessan, tuyệt đối sai lầm khi tả rằng dân chúng bị quan lại chà đạp và
đè nén đến độ muốn thoát đi và thay đổi nền cai trị lâu đời bằng nền cai trị
của viên chức Pháp. Thực tế luôn luôn phủ nhận lý thuyết, chỉ tai hạicho
Pháp.
“Các lạm dụng của quan lại, quả
có đó, nhưng nhờ phong tục mà giảm bớt, và đã làm cho người Âu Châu chúng ta
xúc động hơn là người An nam. Chúng còn xa vời với các điều thái quá mà một
số người nói đến, và đù thế, dân chúng vẫn bám chặt sâu xa vào quốc tính của
họ và vàp tất cả những gì khẳng định quốc tinh đó, họ luôn luôn tuân theo
triều đình và các người lãnh đạo hợp pháp của nó. Họ có thể chỉ trích quan
lạivì họ có tinh thần lanh lẹnhư người Pháp, nhưng họ vẫn tôn trọng, vì
những người này có tiền bạc, học hành, và một uy thế tinh thần từ hàng bao
thế kỷ. Họ cũng còn tôn trọng và tuân theo những người này vì họ cùng một
giống nòi, và nói chung thì việc xử dụng quyền hành nhẹ nhàng hơn và tôi xin
thành thật nói rằng, thân mật hơn, vì tính chất này vốn là của tinh thần dân
An nam, cùng tất cả thể chế xã hội, chính trị và hành chính của nó. Tin rằng
dân chúng thích việc thay thế các lãnh tụ của họ bằng các người Âu, bằng các
người nước ngoài không cùng tiếng nói, phong tục, cùng tôn giáo, cùng tập
quán, cùng quan niệm, về nhân sinh, về xã hội, và về việc cai trị với họ,
thì quả thật là điên rồ, vì đó là ý tưởng trái nghịch nhấtvới mọi định luật
của lòng người. Bởi vì, dù người ta có nói gì đi nữa, dân tộc An Nam hiện
tại không có hai phe chống đối nhau mà một phe gồm có Văn thân và viên chức,
phe kia gồm phần còn lại, nhưng chúng ta thấy, khi thì cả hai phe cùng đứng
dậy chống chúng ta , khi thì họ yên lặng. Vã lạilàm sao mà các phe đó có thể
khác biệt nhaunhư người ta nói, trong một xứ mà giáo dục đưa đến mọi địa vị,
và nhờ vào việc làm, mỗi người đều có thể lên đến địa vị xã hội cao nhất và
trách nhiệm quan trọng nhất ? Trái lại, vì uy quyền triều đình Huế được mọi
người ở Bắc kỳ cũng như ở Trung kỳ, Nhà Nho cũng như dân chúng chấp nhận và
tuân theo, mà mới đây chúng ta thấy vùng đồng bằng được bình định mau chóng
và mộ cách gần như không tưởngđược từ ngày mà triều đình và quan lại tin
tưởng vào nước Pháp nhờ một chính sách mới.”[7]
Cắt đứt với hệ thống cũ mà y cho là trái với quyền lợi của chính nước Pháp
nữa, Lanessan thành thật sử dụng mọi lực lượng có sẵn trong một xứ mà từ lâu
đã có một tổ chức cai trị toàn vẹn. Phương pháp của y vì thế dựa nhiều hơn
nữa vào triều đình Huế, bằng cách trả lại cho giới chức bản xứ uy quyền và
trách nhiệm hữu hiệu mà họ đã mất đi một phần lớn từ khi chế độ bảo hộ được
thành lập.
Không thể có sự phản kháng quan
trọng nàoLanessan nói, chống lại chính sách đó. Bảo rằng triều đình Huế có
một vai trò nào đó trong các phong trào khởi nghĩa ở Bắc kỳ là chứng tỏ rằng
không biết gì hết về sự việc ở Trung kỳ. Thật vậy, triều này chỉ có nghĩa là
chỉ nghỉ đến việc bảo vệ quyền lợi riêng tư của nó dù phải hy sinh quyền lợi
dân tộc. Từ trong chốn cung son, Hoàng thái hậu già nua, lúc nào cũng ôm ấp
hy vọng rằng một ngày nào đó, Pháp sẽ bỏ Trung kỳ để đổi lấy trọn vẹn Bắc
kỳ.
[8]
Đồng Kháng chết, người kế vị là Thành Thái quá nhỏ, mới được 10 tuổi, để mà
có được tí ý chí để kháng cự nào ?
Việc nhà Vua quá nhỏ, làm cho
mọi quyền hành nằm trong tay các phụ chính, mà người thứ ba là Nguyễn trọng
Hiệp, có vai trò thật sự là ông chủ triều đình. Nhưng ông này cũng như đình
thần khác, từ lâu đã biết rằng quyền lợi của y buộc y phải theo chính phủ
bảo hộ vì đó là con đường duy nhât phù hợp với việc bảo vệ quyền lợi của
vua, quan. Một số người với sẵn lòng nghi ngại xem Nguyễn trọng Hiệp như là
kẻ tử thù của nước Pháp, lúc nào cũng nghiền ngẩm, mặc dù y có vờ phản đối,
một âm mưu nào đó chống lại người Pháp. Nhưng nỡi lo sợ này không dựa vào
bằng chứng nào cả. Quả thật viên quan phụ chính là kẻ bảo vệ hăng say uy
quyền nhà vua ở Trung kỳ, nhưng tham vọng y không bao giờ đi quá giới hạn
đó. Tất cả những điều y muốn là bảo vệ uy quyền của vua và các quan, dành
cho văn minh dân tộc ví như sự thờ cúng, lễ nghi, cùng các tập tục lâu đời,
một lãnh vực bất khả tranh, thoát khỏi các tư tưởng mới và ảnh hưởng nước
ngoài, cũng chính ý tưởng đó đã làm cho triềuđình Huế, ngay từ đầu đã nghỉ
đến việc hy sinh vĩnh viễn một phần lãng thổ của đất nước để được thừa nhận
là chủ các tỉnh xưa, nơi phát tích của nhà Nguyễn.[9]
Vì thế, các đại diện của triều đình Huế, trong khi hoàn toàn không lưu ý đến
các việc Bắc kỳ mà vẫn dễ dàng xúc động trước mọi hành vi và trước mọi biện
pháp có thể làm thương tổn đến quyền lợi riêng của họ, ví như việc sửa đổi
tại Trung kỳ các tổ chức, việc giảm bớt hay giới hạn quyền lực các quan để
nhường cho các nhân viên Pháp, nhất là là khi động đến quyền lợi của triều
đình và tôn thất, người ta thấy họ hết sức xúc động cũng như họ ấp ủ sự căm
tức và oán hờn nữa .[10]
Những ý tưởng giải phóng đất
nước ra khỏi sự thống trị của Pháp không hề vướng bận đến đầu óc Nguyễn
trọng Hiệp và đồng liêu của y. Bo bo giữ lấy quyền lợi của nền quân chủ nhà
Nguyễn ở Trung kỳ, Nguyễn trọng Hiệp tỏ rat rung thành với chế độ “bảo hộ”
hơn ai hết “ bản chức hứa với ngài, y nói với De Lanessan trong chuyến đi
Bắc kỳ năm 1891, là bản chức hy sinh những năm còn lại trong đời để giúp
ngài trong công trình văn minh hóa của nước Pháp”.[11]
Lỗi lầm lớn nhất của các người
Pháp trước y, theo Lanessan, là không hiểu rằng không thể có mâu thuẩn về
quyền lợi nào giữa triều đình cùng quan lại đã đầu hành mình và quyền lợi
của một chính phủ bảo hộ biết xử dụng một cách khôn khéo cẩn thận, không xúc
phạm đến tự ái và nể vị chúng : “Trong tất cả những mối giao thiệp của chúng
ta với triều đình Huế cùng các đại diện cao cấpcủa chính phủ An nam, chúng
ta đừng quên rằng dù có vua, chinh phủ An Nam trên hết vẫn là một chính phủ
dân chủ mà ý kiến dân chúng có một ảnh hưởng rất lớn. Vì thế chúng ta phải
cẩn thận đừng bao giờ đòi hỏi ở các quan thượng thư và các quan phụ chính
quá những điều mà dư luận cho phép họ. Cũng như mọi nước trên thế giới,
những nhà chánh trị tất nhiên sẵn sàng hy sinh hơn dân chúng khi họ thấy
phải làm và quan trọng hoặc vì họ thấy quyền lợi của họ bắt họ phải làm,
nhưng trong việc nầy họ không thể đi xa hơn mức độ tinh thần dân tộc chịu
đựng được mà không bị mất uy thế và ảnh hưởng. Nếu chúng ta muốn lợi dụng
ảnh hưởng và uy quyền đó, chúng ta cần phải cẩn thận duy trì chúng mạnh mẽ
trong phạm vi có thể. Vì thế tôi chủ trương cai trị với những người của phe
bảo thủvà quốc gia với những người được xem là các đại diện của đất nước và
những người bảo vệ sự toàn vẹn của đế quốc An Nam. Chúng ta sẽ có thì giờ và
phương tiện để hòa hợp với những người, chỉ vì tham vọng cá nhân tự động lăn
vào trong tay chúng ta. Có thể những người đó trung thành với chúng ta,
nhưng họ chỉ có ích cho chúng ta rất nhiều vì họ không hề được tyrong nước
xem trọng và không ảnh hưởng gì đến tâm trí đồng bào họ. Cũng chính nhận
thức chính tyrị đó đã khiến tôi, trong việc cai trị thích tìm những người An
Nam có học, có thi cử và đâu đạt, được bạn bè họ và dân chúng kính nể, chứ
tôi không chú trọng mấy đến việc tìm hiểu tình trạng kính đáo của họ đối với
chúng ta. Tôi tìm kiếm được rất nhiều, Chắc chắn những tổng đốc giỏi nhất ở
Bắc kỳ là các quan cũ, cáf người có đủ điều kiện mà phong tục An Nam đòi
hỏi. Họ được kính nể nhất, được tuân lệnh nhất và bây giờ được chúng ta đối
xử tử tế, họ cũng trung thành với chúng ta như những người khác. Khi tôi
phải trừng phạt vì thiếu hạnh kiểm hay biếng nhác, thì lúc nào người bị
trừng phạt cũng là quan của “tầng lớp mới”. Họ uống rươu sâm banh, hút thuốc
phi5ên, và quyến rũ công chức cùng sĩ quan chúng ta hút nhưng không còn tôn
trọng uy quyền chúng ta và không còn làm cho kẻ phụ thuộc kính nể họ”.[12]
Lại cón một sai lầm khác, không
kém phần to lớn, khi chủ trương dùng vua cai trị để chống lại các quan,
Lanessan xác nhận, ông vua không có thế lực gì hơn Hoàng thái hậu trong việc
lãnh đạo chính phủ. Tổ chức xã hội và chính trị Việt nam, theo y, quá dân
chủ để cho vua có có được quyền hành tuyệt đối mà một số người Âu tự ý gán
cho họ, sự thực có rất ít . Vua là hiện thân mẫu mực của đế quốc, là “cha
mẹ” con dân, nhưng dù gọi là Minh Mạng, là Thiệu Trị, là Tự Đức, vua chỉ nắm
giữ một phần hành khá nhỏ bé trong sự điều hành việc công. Tại Việt Nam,
Lanessan nhắc lại mãi chính “giai cấp tư sản - tức là quan lại và Văn Thân –
cai trị chứ không phải vua, như người ta tin. Muốn cai trị với một mình vua
thôi, như Richaud đã làm, là thi hành một chính sách trái ngược với mọi
phong tục dân Việt, và khi Brière khâm sứ Trung kỳ bày tỏ ý định muốn biến
Thành Thái thành một Louis XI để tiêu diệt tầng lớp quí tộc, quan lại, để có
lợi cho Pháp, y đã phạm một sai lầm to lớn, trước tiên vì Việt nam không có
tầng lớp quí tộc, kế đến vì xứ nầy đã quá dân chủ để muốn lùi về chế độ
Louis XI.
Bằng phương pháp dự trù,
Lanessan hy vọng diệt trừ các lực lượng nỗi loạn ngay từ gốc rể. Ngoài ra,
nó còn giúp cho Pháp giảm bớt rất nhiều đoàn quân chiếm đóng và vì thế san
phẳng mọi khó khăn tài chánh và tìm ngay ra được cho xứ này các tài nguyên
đầy đủ để nuôi sống nền hành chính giảm thiểu của nước bảo hộ.
Vì tin cậy vào quan lại như thế,
với mục đích giảm bớt đạo quân chiếm đóng, Lanessan giao cho tri phủ, tri
huyện sử dụng lực lượng cảnh sát địa phương (lính cơ) mà tập tục Việt nam
xưa nay vẫn giao cho họ : các công chức này có quyền và có bổn phận duy trì
trật tự trong quản hạt, họ hoàn toàn chịa tráchnhiệm về cảnh rối loạn mà vì
lơ là hay bất lực họ không dập tắt được ngay . Số lính cơ trong các tỉnh
Trung Châu lên đến 4000 người.
Mặt khác, Lanessan lại còn đặc
biệt đánh giá cao việc mở lại các kỳ thi 3 năm một lần để chọn cử nhân và tú
tài “để chứng tỏ cho từng lớp có học và thống trị thấy rằng hiện nay chính
quyền người Âusẳn sản không bít lối xuất thân làm quan của họ, trái lại còn
muốn tìm ở họ những kẻ giúp việc thông minh nhất và trung thành nhất”
[13]
9000 sĩ tủ đã từ mọi nơi ở Bắc kỳ kéo đến để thi, kỳ thi được tổ chức vô
cùng trọng thể vì viên toàn quyền, các viên nhiếp chính quan kinh lược đã
cùng chủ tọa buổi lễ khai mạc. Số thí sinh đông đảo nầy tuồng như xác nhận
sự đúng đắn chính sách Lanessan.
3- Kết quả
phương pháp Lanessan :
Các kẻ truyền đạo muốn lợi dụng
các nỗ bất mãn của nông dân để xúi dục họ nổi dậy chốn lại quan lại, tầng
lớp đại diện cho một nền văn minh và trật tự xã hội, làm bất lợi cho việc
bành trướng thế lực Thiên chúa. Ở các người nông dân bị bốc lột nầy, họ thấy
một lực lượng xã hội có thể làm một thứ cách mạng nào đó dưới sự che chở của
họ. Vì yêu, vì tự hào và nhất là vì hiếu thảo, đa số nông dân đã không theo
họ như họ tính toán.
Lanessan chống lại các kẻ truyền
đạo, y muốn cai trị xứ nầy bằng cách giữ nó trong trạng thái hiện giờ, với
phong tục, thể chế, tôn giáo, giai cấp thống trị, và bằng cách xử dụng tối
đa các lực lượng tinh thần và vật chất lâu đời. Quan lại, theo y, không hề
là kẻ tử thù, mà lại là nếu biết nể nang quyền lợi họ, sẽ là nền móng xã hội
tuyệt hảo của chế độ thực dân. Lịch sử hình như chứng thực cho lối nhìn nầy.
Thật vậy, không khó gì mà
Lanessan không gây được lòng tin cậy và giúp đở của triều đình Huế. Viện cơ
mật không đợi y đến Huế để bày tỏ cảm tình. Vừa bước chân đến Sai gòn, và cả
khi y báo cho triều dình biết việc y nhận chức, Lanessan nhận được của viện
cơ mật môt văn thư đầy tình cảm tang bốc nhất đối với viên toàn quyền mới.
Ngày 26-7-1891, ít ngày sau khi
Lanessan đến, triều đình công bố khắp nơi một “bố cáo của Hoàng thượng gởi
các quan nho sĩ và dân chúng Đông dương “ kêu gọi các chiến sĩ ở Bắc kỳ hãy
thôi kháng chiến và mọi người hãy giúp đỡ vị đại diện mới của “chính phủ
Pháp cao cấp” trong sứ mệnh “bảo hộ” và “bình định”.
“Đại nhân đã tuyên bố với chúng
ta rằng, ngài đến đây với ý định cương quyết và thành thật bảo hộ chúng ta,
củng cố quyền bính và uy tín triều đình, bình định xứ sở, chính phủ Pháp cao
quý không có tham vọng nào kháchơn là làm người bảo hộ chúng ta trước mắt
mọi người, bằng cách đêm ngày làm việc một cách hòa hợp với chúng ta để hoàn
thành công việc đó…Tất cả những gì mà quan toàn quyền sẽ làm đều nhằm mục
đích đem lại cho dân ta sự bình yên và hạnh phúc.
“Nếu loạn lạc vẫn tiếp diển sau
đạo dụ này, Trẩm buộc phải dùng đến mọi thứ nghiêm khắc, các người không
phải không biết rằng khó mà nhổ cỏ dại trong ruộng mà không làm hại một phần
lúa mạ…”[14]
Để chứng tỏ “lòng biết ơn sâu
xa” đối với chính sách nhân từ của Lanessan, vào tháng 10 năm đó, triều đình
phái Hoàng tử Hoài Đức cùng quan nhị trụ Nguyễn trọng Hiệpđương làm nhiếp
chính, đến gặp toàn quyền “để bày tỏ với ngài tất cả lòng biết ơn, và để
biết ngài có nhận được sự giúp đở chân thành mà các quan phải có với ngài
chưa. Bản triều cũng nhân dịp này, để tin ngài biết rằng bản triều hoàn toàn
tin cậy nơi ngài để làm cho dân bản triều được hạnh phúc và quốc gia bản
triều được thịnh vượng, để ngày càng thắt chặt các dây thân ái giữa hai
chính phủ. bản triều sẽ sung sướng khi thấy tâm hồn cao quí của đại nhân
được mọi tấm lòng của nước An nam tôn trọng cùng sức mạnh và vinh quang của
nước Pháp được to lớn giữa hoàn vũ”[15]
Tiếp theo lời bố cáo vủa Vua là
các chỉ thị nghiêm khắc của quan Kinh lược gởi cho tất cả công chức, ra lệnh
từ nay họ phải chăm lo bổn phận và một dạ trung thành, tận tụy với viên chức
Pháp.
“Cho đến nay, các quan phủ, quan
huyện vì lười biếng, vẫn cứ nằm ngủ yên trong khi tại phủ huyện có trộm cướp
xảy ra, họ không thèm tìm biết quân trộm từ đâu đến và rút đi về đâu. Nhưng
khi trộm cướp đi rồi, họ thức dậy và nghiêm khắc hỏi : “tụi chúng nó ở đâu
đến ? tụi chúng nó đi đâu ?” , bắt buộc dân chúng phải cung khai và lợi dụng
cả các dịp này để bóp hầu, bóp cổ dân chúng. Sai đó còn tìm đủ mưu kế, khi
thì viết báo cáo gửi các quan tỉnh , hoặc họ nói không đủ lính cơ để đuổi
bắt quân cướp, hoặc họ việng dẫn việc khó khăn kêu cứu kịp thời các đồn lân
cận. Thế là họ tìm đủ các câu trả lời cho mọi việc… Ngày nay, ở đâu cũng có
lính cơ dưới quyền xử dụng của họ. Họ sẽ không còn nói được rằng không có
binh lính hay binh lính đến quá trể, họ sẽ không còn chổ biện giải nữa”. Từ
nay, nếu các vụ “trộm cướp” quan trọng xảy ra ba lần tại một nơi mà Tri phủ
hay Tri huyện vùng đó không bắt được “thủ phạm”, y sẽ bị cách chức vì thiếu
cương quyết và các tỉnh không biết khuyến khích hay ép buộc thuộc hạ mình
làm đầy đủ bổn phận sẽ bị xét xử ( giảm tiền lương hay giáng cấp )
[16]
Về phần mình, toàn quyền cũng
vạch cho công sứ và phó sứ, trong thông tư ngày 6-10-1891, đường lối mới
phải theovà bảo họ cho các quan chủ động phần lớn công việc và chỉ kiểm soát
hành vi cai trị của họ thôi.
Việc áp dụng hệ thống chính sách
mới này có hiệu quả, nếu chúng ta tin theo báo cáo của Lanessan và các
người cộng sự, làm cho các quan tin cậy, đánh thức thiện chí và hăng hái của
họ dậy, cải thiện rõ rệt tình hình Bắc kỳ.
“Nếu có một thực tế đã xảy ra,
mà chúng ta có thể dùng làm lý lẻ tốt nhất, để ủng hộ sự có ích của các cải
cách đầu tiên do tân chính quyền 1891 công bố, đó là sự biến đổi triệt để
trong thái độ của quan lại, sự thay đổi mà chúng ta có thể nói là đã đóng
góp rất nhiều cho việc bình định xứ này” (báo cáo của Thông sứ Bắc kỳ ,
11-2-1893 .[17]
“Các công chức An Nam đã ngoan
ngoãn và nhiệt thành giúp đở chúng ta, không có một công sứ nào than phiền
về Tổng đốc hay Tuần vũ của mình, tất cả đều nói rằng họ sống hòa hợp với
các quan, những quan này lúc nào cũng tham khảo họ, không làm việc gì mà
không được phép họ và thi hành mệnh lệnh, càng trung thành hơn khi họ vừa ra
lệnh vừa kiểm soát, nhưng vẫn đối xử với các quan một cách thích đáng hơn,
làm cho những người này tôn trọng uy quyền họ hơn” (báo cáo của toàn quyền ,
16-9-1892).[18]
Các đối thủ của Lanessan cũng
phải công nhận chính sách y hữu hiệu, Chavassieux xử lý thường vụ khi
Lanessan bị cách chức, trong các báo cáo “rất mật” gửi thứ trưởng ngoại giao
Lebon đã chỉ trích gắt gao chính sách cá nhân của người chỉ huy củ của y,
cũng không thể không tỏ lòng khâm phục công trình của Lanessan :
“Tại vùng Trung Châu, việc bình
định đã xong, chỉ còn phải duy trì và củng cố. Đó là một nền cai trị tốt đã
làm cho các kết quả đã đạt sẽ được lâu dài nhờ một chính sách tốt. Tình hình
đã rõ rệt, con đường đã vạch ra, mỗi giờ trôi đi lại củng cố thêm nền cai
trị của chúng ta ….Sau một vài do dự của cả hai bên, các quan tỉnh đã reở
thành đúng với những gì mà họ phải trở thành, những kẻ cộng sự trung thành
của các công sứ và là kẻ trung gian bên cạnh dân chúng. Không nghi ngờ gì,
có những lạm dụng nhưng tôi không tin là dân chúng lầm lẫn như người ta nói
về những người có trách nhiệm và rồi chỉ có thời gian mới có thể giúp chúng
ta nới rộng kiểm soát, khi làm cho hiệu nghiệm hơn và làm cho chúng ta khoan
nhu hơn. Những ai mơ ước dẹp bỏ tức khắc một tình trạng lâu đời, sẽ phải
thay đổi lập tức không những quan lại mà còn cả giống nòi An Nam. Hãy thực
tế, chúng ta đang làm chủ tình hình và chỉ còn cần phải cải thiện. Tôi không
sợ gì ngoài việc cắt đứt công khai với chính phủ Huế hay một thay đổi rõ rệt
trong các mối giao thiệp, chỉ có lỗi lầm nàymới làm sống lại sự nổi loạn mà
hiện giờ đã chết. Tôi xin nói rằng, theo các kết quả mà tôi vừa nói đó là
công trình của ông Lanessan, ông có quyền đòi hỏi vinh dự đó.[19]
Nhưng chính sách Lanessan làm
phật lòng đến cao độ giới quân sự và các tên kiều dân ở Bắc kỳ, Tướng Reste
tổng tư lệnh đạo quân chiếm đóng, đã hòa điệu với tờ báo bảo hoàng phái
Orléniste tại Hà Nội, tờ “L’Avenir du Tonkin” – sau này thành cơ quan của
những kẻ truyền đạo- đã mở một chiến dịch báo nguy một cách có hệ thống nhằm
đè nặng lên dư luận ở Bắc kỳ và các giới chính trị ở chính quốc về mối đe
dọa của một sự xâm lăng khẩn cấp của các đạo quân chính qui nhà Thanh tại
các vùng thượng du Bắc kỳ, mối đe dọa mà sự thực chỉ có trong trí tưởng
tượng của họ.[20]
Lanessan cũng không được các
công chức cao cấp cộng sự của y yêu mến, y được sự giúp đở rất tồi tệ trong
chính sách mình bởi Brière, khâm sứ Huế, tên này vì vụng về mà bị triều đình
Huế ghét
[21],
y bèn trả thù, không bỏ qua dịp nào có thể làm nhục các viên nhiếp chính,
các Thượng thư, các hội viên viện cơ mật và làm biến tính hành vi họ, đồng
thời y dùng đủ cách, kể cả báo chí để đánh đổ tại Đông dương cũng như tại
pháp, chính sách của người chỉ huy mình
[22]
Boulloche, người thay thế Brière, không ngần ngại tuyên bố công khai y tính
về Pháp để mở tiếp chiến dịch, sau tướng Reste, chống Lanessan, Challassieux
Thống sứ bắc kỳ, được Thứ trưởng Ngoại giao Lebon bổ nhiệm làm xử lý thường
vụ toàn quyền Đông dương đi ngược lại ý muốn của Lanessan, đã không tán
thành “tính chất cá nhân và gần như chuyên chế rất đáng ngại” trong chính
phủ của người trước y
[23]
Còn Rheinart mà các nhà viết sử
người Pháp đã trình bày như là “kẻ chủ trương một nền bảo hộ tôn trọng giới
chức bản xứ”
[24],
sau đây là ý kiến của y về chính sách Lanessan :
“Có hai cách hiểu về chế độ bảo
hộ, một cách chủ trương biến kẻ bảo hộ thành kẻ hợp tác, kẻ cộng tác của
người bảo hộ, một cách nữa, trái lại, biền kẻ được bảo hộ chỉ còn là một
dụng cụ đơn giản trong tay người bảo hộ, người này giữ hết mọi quyền hành mà
không chia sớt gì và chỉ để cho kẻ được bảo hộ moôt cái quyền bề ngoài, vẫn
còn có sự cộng tác như trong trường hợp đầu, nhưng nó chỉ thuộc về một ý chí
duy nhất, một ông chủ duy nhất.
“Phương pháp đầu quả là bậy,
hiển nhiên một chính phủ không bao giờ tự ý và không có hậu ý khi từ bỏ sự
độc lập của mình. Vì thế, nếu trong một cuộc hợp tác giống như cái đang làm
tôi bận tâm, chúng ta để cho họ một phần ý muốn uy quyền thực sự, nhất định
họ sẽ dùng uy quyền này để nơi lỏng các dây làm họ tê liệt đi một nửa, với
hậu ý sẽ trở lại sự độc lập nếu có cơ hội thuận tiện. Chính đó là phương
pháp mà ông Lanessan theo, và vì thế người ta đã có lý trách ông đã nhượng
quá nhiều cho triều đình Huế, đã giải phóng nó quá một nửa, Vì những lý do
đó mà tôi không muốn tìm hiểu, ông lanessan hình như muốn đặt triều đình Huế
ra ngoài hành động trực tiếp, ra ngoài sự kiểm saót thường xuyên của chúng
ta. Vì thế ông đã dần dần thu hẹp quyền hạn của khâm sứ đến độ không còn gì
nữa, cho thấy rõ ràng triều đình Huế không đếm xỉa gì đến khâm sứ cả.
“Hình thức bảo hộ thực sự là
hình thức chúng ta nhất thiết phải trở lại, đó là hình thức phải biến triều
đình huế thành công cụ của ý muốn chúng ta, hình thức phải duy trì nó trong
tình trạng phụ thộc chặt chẽ nhất, dưới sự kiểm soát trực tiếp, không ngừng
của chúng ta mà vẫn giữ thể diện cho nó và dành cho nó một uy tín vừa đủ
trước mắt dân bản xứ…”[25]
Bị tấn công từ mọi phía, rút cục
Lanessan bị gọi về Pháp vào tháng 3-1894, Lanessan đi rồi, viên khâm sứ tại
Huế hiện nguyên hình như củ, nghĩa là ông chủ cứng rắn và tàn bạo
[26]
Paul Doumer, đến Đông dương năm 1897, sẽ lập một chế độ hoàn toàn trái ngược
với chế độ Lanessan.
IV- TRỞ LẠI CHÍNH SÁCH ÁP CHẾ CỦA PAUL DOUMER
Doumer đi Đông dương với ý đồ rõ
rệt làm lớn và mau, y có một khả năng đã đặc biệt giúp cho y được dễ dàng
trong việc đó, y là một nhà tài chánh có giá trị, chình y đã đặt nền móng
cho bộ máy chặt chẽ giữa việc khai thác tài chánh và việc áp chế chính trị,
bộ máy nầy trong thực tế vẫn còn nguyên cho đến năm 1945.
Vì muốn đạt được những kết quả
mau lẹ, dĩ nhiên Doumer, không thể nghỉ đến giải pháp của Lanessan, tức là
duy trì chặt chẻ chế độ bảo hộ. Ngay khi hôm sau đến Hà Nội, viên toàn quyền
mới liền trình bày kế hoạch của y, trong một báo cáo gởi Bộ trưởng : tăng
cường sự tập quyền cai trị, và cấp cho thuộc địa khí cụ kinh tế “cần thiết
cho việc khai thác” phát triển khai phá thuộc địa cùng lao động bản xứ, tăng
cường lục quân và hải quân để bành trướng thế lực Pháp ở Đông Á.
Tại Bắc kỳ, chức kinh lược mà
năm 1886, Paul bert đã đặt ra vi phạm hiệp ước bảo hộ, Doumer thấy ngay là
vô ích cho chình sách thuộc áp chế của Pháp. Vì thế do sắc lệnh 26-7-1897,
các chức vụ của viên kinh lược bị bãi bỏ, và Hoàng cao Khải được đưa về Huế
để tham dự việc nhiếp chính với tư cách là quan nhiếp chính, Các quyền của
viên kinh lược được chuyển sang cho Thống sứ Bắc kỳ, các nhân viên, vẫn giữ
lương bổng cũ, được giao cho văn phòng sự vụ bản xứ của tòa Thống sứ Bắc kỳ.
Thế là sợi dây cuối cùng ràng buộc Bắc kỳ với triều đình biến mất.
Tại Trung kỳ, Doumer nghỉ đến
việc “mỗi ngày tiến thêm một bước mới trên đường chiếm hữu”. Trước sự độc
lập hoặc ít hoặc nhiều còn lại cho triều đình Huế, y muôn thay thế bằng một
“sự giám hộ mà chúng ta cần phải làm cho trực tiếp hơn, xác thực hơn…mà vẫn
để cho chính phủ nầy tất cả quyền bính giả hiệu”[27]
Vì thế y ép buộc Thành Thái, vừa mới trưởng thành, phải ký ngày 27-9-1897
một chỉ dụ tổ chức lại bộ máy cai trị, viện cơ mật bị dẹp, biến thành hội
đồng thượng thư, do khâm sứ chủ tọa, các quyết định của hội đồng, sau khi
được khâm sứ đồng ý, sẽ được thi hành bằng ấn triện nhà vua đóng vào, Các
viên nhiếp chính, đảm trách những trách vụ hàng đầucủa nội các, Các công
chức Pháp bên cạnh các Thượng thư và giúp đở họ trong việc cai trị. Số công
sứ Pháp đến lúc đó vẫn còn ít, được gia tăng đến mức độ mỗi tỉnh có một
viên.
Tại Bắc kỳ cũng như tại Trung
kỳ, các quan chức đầu tỉnh nhận trực tiếp mệnh lệnh của công sứ, là những
người, trong thực tế, đã cai trị qua trung gian.
Lấy lại ý kiến của Paul Bert,
nhưng không đi xa hơn Paul Bert, Doumer lập lại, do một nghị định ngày
32-3-1898, các ủy ban tư vấn hàng tỉnh mà số nhân viên do quan đầu tỉnh
chọn, cứ một hay hai người cho mỗi huyện, do y triệu tập mỗi năm hai lần,
mỗi khi y thấy cần. Những người nầy được yêu cầu cho ý kiến về việc lập ngân
sách tỉnh và công chánh. Doumer, do sự định chế đó, rõ rệt tiến gần đến quan
điểm của Paul bert : bỏ qua các quan và Văn thân mà chú ý đến thành phần dân
chúng do thân hào đại diện.
Doumer thất các biện pháp đó
cũng đủ hiệu nghiệm, y tin rằng quyền bính của Pháp tại Trung kỳ chỉ vững
vàng khi nào người Pháp nắm giữ lấy tài chánh của xứ này. Y đạt và thực hiện
mục đích đó bằng đạo dụ của Hoàng đế ngày 15-4-1898, giao hoàn toàn việc
điều hành tài chánh của xứ này cho giới chức Pháp. Cho đến ngày đó, các quan
thu thuế cho triều đình, từ nay giới chức Pháp sẽ đứng ra thu mọi thứ thuế
và nộp vào kho bạc của triều đình một số để vua và triều đình chi dụng.
Thế là xong đời các quyền hạn
cuối cùng của triều đình Huế : Doumer đã thay thế sự cai trị trực tiếp bằng
nền bảo hộ mà các văn kiện qui định. Việc thay thế này lại càng trầm trọng
vì sự giả định nền tài chánh của Đông dương , Dần dần Doumer làm mọi người
thừa nhận cá thể duy nhất của liện hiệp Đông dương. Liên hiệp này gồm có Nam
kỳ, Cambodge, Lào, Bắc kỳ và Trung kỳ, mọi người chỉ còn thấy có Đông dương
mà quên mất hai xứ bảo hộ.
Doumer xây dựng chính sách mình
trên lý thuyết mạnh mẽ và cũ kỹ cho rằng Văn thân và quan lại đại diện cho
tinh thần truyền thống không bao giờ chịu khuất phục, chỉ có điều, muốn áp
dụng tốt chính sách đó ít nhất y cần có thể dựa vào sự tôn trọng tự nhiên ở
Trung kỳ chống lại uy thế các quan, vào thôn xã nhưng quan niệm thuần túy
Pháp về tập quyền hành chánh do Doumer nhập cảng đã làm cho thôn xã mất hết
sức mạnh, điều đó đương nhiên làm cho biện pháp của y hết sức thất nhân tâm,
vì chúng làm bất mãn vừa các quan, vùa các thân hào trong làng là những kẽ
vẫn giúp việc trung thành cho sự áp chế của người pháp
[28]
Doumer,”người xây dựng đế quốc”
như một số người viết sử người Pháp đã tự hào gọi thế, đã nghĩ đến chính
sách y “bằng những ngôn từ vinh quang đế quốc”
[29]
Tất cả mọi hoạt động của y đều nhằm mục đích “chuẩn bị cho Pháp bước vào
hàng đại cường Châu Á”.”dó là thời kỳ Pháp chế mà vấn đề bản xứ không được
đặt ra”[30]
Rời Đông dương, Doumer đã cung
cấp cho thuộc địa một tổ chức vững vàng và một ngân sách quân bình, nhờ đó
mà cắt đứt những lời chỉ trích của phe hữu chống thuộc địa, đồng thời y cũng
gây ra một bất mãn toàn diện mà hậu quả nặng nề trong những năm trước chiến
tranh thế giới thứ nhất.
CHÚTHÍCH:
[1]
- Văn thư về tình hình chính trị và kinh tế ở Bắc kỳ và Trung kỳ
13-7-1887 , thư khố bộ Pháp quốc hải ngoại A 00 (22) hộp 2.
[2]
- như trên
[3]
- như trên
[4]
- Báo cáo chính trị hàng tháng của thống sứ Bắc kỳ 2, 3, 3-1891,
thư khố Bộ Pháp quốc Hải ngoại A 20 (35) hộp 7
[5]
- như trên
[6]
- Văn thư về tình hình chính trị, kinh tế ở Bắc và Trung kỳ , đã dẫn
.
[7]
- Báo cáo Lanessan 2-4-1892 , thư khố Bộ Pháp quốc hải ngoại A 20
(37) hộp 7
[8]
-Bà đã giao Nguễn trọng Hiệp, nhân khi tên nàyở Paris, trách nhiệm
thăm dò chính phủ Pháp về vấn đề này.
[9]
- Báo cáo của Chavassieux, xử lý thường vụ toàn quyền gửi tổng
trưởng Thuộc địa, 26-7-1894 thư khố Bộ Pháp quốc Hải ngoại , A 20
(41) hộp 7. Môt hôm Nguyễn trọng hiệp nói với Khâm sứ Boulloche “các
ông đã chiếm Bắc kỳ rồi, ít nhất thì cũng chừa lại nhà chúng tôi chứ
! “
[10]
- như trên
[11]
- Báo cáo Lanessan , 28-11-1891 , Thư khố Bộ Pháp quốc Hải ngoại A
20 (36) hộp 7
[12]
- Thư riêng và mật của Lanessan gửi tổng trưởng Thuộ địa 26-9-1894.
Thư khố bộ Pháp quốc hải ngoại A 30 (101) hộp 21
[13]
- như trên
[14]
- Báo cáo Lanessan , 28-11-1891, thư khố bộ Pháp quốc hải ngoại, A
20 (36) hộp 7
[15]
- Thư khố bộ Pháp quốc Hải ngoại , A 20 (36) hộp 7
[16]
- Thư của vua gửi cho Lanessan, đối chiếu báo cáo ngày 30-10-1891. ,
Thư khố bộ Pháp quốc hải ngoại A 20 (36) hộp 6
[17]
- Thư Lanessan 30-10-1891 , A 20 (30) hộp 6
[18]
- Thư khố bộ Pháp quốc Hải ngoại , A 20 (39) hộp 7
[19]
- như trên A 20 (37) hộp 7
[20]
- Thư rất mật, gởi thứ trưởng ngoại giao Lebon 18-2-1894, thư khố
bộ Pháp quốc hải bgoại , À0 (40) hộp 7
[21]
- Xin xem báo cáo Lanessan gửi thứ trưởng Bộ thuộc địa 30-9-1892 ,
thư khố bộ Pháp quốc hải ngoại A 30 (92) hộp 20
[22]
- xem báo cáo Lanessan 11-11-1893
[23]
- Thư riêng và mật của Lanessan gửi thứ trưởng bộ Thuộc địa
26-9-1894 , đã dẫn
[24]
- Thư rất mật của Chavassieux gửi thứ trưởng ngoại giao , 15-3-1894
, A 20 (40) hộp 7
[25]
- Thư từ Félix Faure, tạp chí “ d’Histoire des Colonies” tập XI ,
11-1955, tam cá nguệt đầu
[26]
- Thư của Rheinart, nguyên khâm sứ Trung kỳ và Bắc kỳ, gởi bộ
trưởng, 4-3-1895, thư khố bộ Pháp quốc Hải ngoại , A 00 (35) hộp 2.
Cũng xin xem thư mật 7-2-1894 của Chavassieux gửi thứ trưởng ngoại
giao Lebon, cũng được viết theo chiều hướng đó. Sự kiểm soát phải
theo viên xử lý thường vụ toàn quyền “trực tiếp, liên tục, không dứt
khoảng, không gián đoạn, không yếu ớt, với tất cả quyền bính của một
đại diện nước Pháp bên cạnh một chánh phủ Châu á.”
[27]
- Tiếp theo buổi họi kiến long trọng mà y nói với Thành Thái về việc
tuyển chọn Casimir Renier, Boulloche bảo người ta nói với ông vua
trẻ rằng y muốn ông nấy đến thăm y vào thứ hai tới, Những người
trước y không bao giờ làm thế cả, và chờ đợi triều đình tự quyết
định lấy ngày giờ đén thăm, Các viên chức phụ chính không bao giờ sơ
sót bổn phận . Ngày thứ hai được ấn định cho chuyến xuất hành, vua
bị cảm, và ra lệnh viên khâm sứ hoản lại một ngày khác, Boulloche
được báo truớc lúc 7 giờ, y đến hoàng cung và thấy vua bị cảm nặng,
nhưng y tức giận đi ra và nói rằng y sẽ khiếu nại về việc thiếu lịch
sự của Thành Thái. Một việc khác làm Boulloche tức giận, đó là y
phải đợi một lúc sau y mới gặp được vua, y cho rằng bất cứ lúc nào,
đem cũng như ngày, y đều có quyền đến tại giường vua. Đối với các
Thái hậu, Boulloche cũng làm xách và cố tâm xác nhận uy quyền mình
như thế. Y buộc họ tiếp y ngay khi y đến Huế, mặc dù không có gì làm
cho họ khó chịu cho bằng sự phá lệ trước các tập tục lâu đời đó.
Đối với triều
đình, y quyết định mỗi tuần các nhân viên viện cơ mật phải đến tòa
khâm một lần, rồi viên khâm sứ cũng đến viện cơ mật một lần, để các
phiên họp đều phải có mặt khâm sứ và phó khâm sứ. Từ Pháp trở về,
Nguyễn trọng Hiệp liền đến vấn an vua và các hoàng hậu, hôm sai y
lại đến chào khâm sứ, tên nầy tỏ vẻ bực mình về việc viên phụ chính
không đến tòa khâm sứ ngay ( thư riêng và mật của Lanessan gởi Bộ
trưởng ngày 26-9-1894, đã dẫn )
Rousseau toàn
quyền từ 1895-1896, dùng mọi kẻ chống lại Lanessan làm cộng sự viên,
vì thế Brière, mà Lanessan đã cho về hưu, được bổ làm khâm sứ ở Huế,
Bouloche được cử sang Lào làm một công tác quan trọng và Chassieux
đã về Pháp được gọi là Đổng lý văn phòng phủ toàn quyền .
[28]
- Chesneaux , sách đã dẫn, tr 151
[29]
- Kế hoạch tổng quát của
toàn quền Doumer 22-3-1897 , thư khố bộ Pháp quốc hải ngoại , A 20
(46) hộp 8
[30]
- F.Ferrot, sách đã dẫn
, tr 148
Những bài cùng tác giả.