Trích "Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân tại Việt Nam" nxb. Hương Quê 1988
Phần III: "DẤU IN MỌI Ý TƯỞNG CỦA NHỮNG NGƯỜI TRUYỀN ĐẠO LÊN TỔ CHỨC BẢO HỘ"- (MT đánh máy gửi SH).
Các khó khăn gây nên
do cuộc kháng chiến tại Việt nam kéo dài làm gia tăng việc mất tín nhiệm
trong dư luận Pháp về vấn đề Bắc kỳ. Hơn mười năm sau khi có hiệp ước bảo
hộ, lúc nào ở Pháp, ngưới ta cũng tự hỏi có nên bỏ hẳn đi việc xâm lăng Bắc
kỳ vì quá tốn kém cho nước Pháp.
Chính để đánh đổ dòng
thác “chủ bại” đó Giám mục Puginier đã thảo “các văn thư và tin tức”, đây là
những chương trình thực dân thật sự.
I-
CUỘC KHÁNG CHIẾN VÕ TRANG.
Việc thất thủ kinh đô
không ngăn cản việckháng chiến tiếp tục trong dân chúng. Giới chức Việt nam
tại bắc kỳ không chịu công nhận hiệp ước do Nguyễn trong hiệp ký, mặc dù đã
có những cố gắng xa gần của những sứ giả Huế[1]
Đồng minh của họ là quân đội Trung Hoa do tướng Từ Diệm Húc đóng ở Sơn Tây,
Bắc kinh và quân Cờ Đen của Lưu vĩnh Phúc . Các đoàn quân chí nguyện được
thành lập. Một phong trào kháng chiến có tính dân tộc và nhân dân được tổ
chức. Ngay từ 1883, Tôn Thất Thuyết đã quyết định là triều đình sẽ rút lui
vào một thành trì được dựng lên trong vùng núi non nội địa, hàng chục ngàn
công nhân đã bắt đầu ngay từ tháng 8 năm đó được dựng lên tại Tân Sở, “Thủ
Đô mới”, trong tỉnh Quảng Trị, đồng thời các kho lúa, gạo cũng được tổ chức
trong miền Thượng du.
Về phần thế lực đối
nghịch, các cộng đồng Thiên Chúa Giáo Việt nam, được các kẻ truyền đạo hàng
ngủ hóa vững chắc, đã cung cấp cho quân đội Pháp những thông dịch viên, phu
thợ, dân vệ, mà nếu không có, Pháp sẽ bị thiếu thốn nghiêm trọng. Quân cờ
vàng bị Harmand cho giải ngủ ngày 15-9-1883, khí giới của chúng được Pháp
trao lại cho quân đội Thiên Chúa giáo Việt nam, được tuyển mộ với sự giúp
đở của các kẻ truyền đạo.
Tháng 4-1884, triều
đình Huế cho dựng tại Thanh Hóa và Nghệ An những trại quân quan trọng và ra
lệnh cho các quan tỉnh, phủ, huyện tổ chức việc mộ binh to tát, các công tác
cho tu sửa con đường Đong Vang để quân tiếp viện đi vào những tỉnh Quảng
Bình, Quảng Trị. Tại những nơi nầy đã chuẩn bị sẵn sàng đón tiếp nhà vua và
triều đình . Một kế hoạch tổng nổi dậy đã được chuẩn bị tỉ mỉ.
Khốn thay, kế hoạch
đó đã bị Puginier vạch trần, ngay cả những chi tiết nhỏ nhặt cho viên tổng
chỉ huy đoàn quân viễn chinh trong thư đề ngày 6-11-1884.
Ngày 12-4-1885 , viên
thiếu tướng De Courcy được Paris lựa chọn để thực hiện một chính sách quyết
liệt tại Việt nam, đến Bắc kỳ với tất cả quyền hành dân sự và quân sự. Là kẻ
chủ trương chiếm đóng toàn vẹn, De Courcy quyết định loại trừ Tôn Thất
Thuyết, Thượng thư Bộ binh, người lãnh đạo phong trào kháng chiến. Ông nầy
biết được ý đồ thực sự của De Courcy, liền tăng cường lực lượng phòng vệ.
Nhưng các chuẩn bị nầy lại bị tiết lộ và các giám mục Puginier và Caspar lại
loan tin cho Courcy biết.
Ngày 3-7-1885 ,
Courcy đến Huế với một đạo quân hộ vệ gần 1000 người, với thái độ hổn xược,
khiêu khích, y đòi đoàn quân hộ vệ được cùng đi với y đến cung vua để trình
ủy nhiệm thư lên vua Hàm Nghi.
Trước thái độ thù
nghịch rõ rệt của tên đại diện nước Pháp và nguy cơ một cuộc tấn công cấp
kỳ, Tôn Thất Thuyết ra tay trước bằng cách tấn công quân đội De Courcy vào
đêm 4 rạng 5-7.
Mưu toan bị thất bại,
trước đó vài giờ, có một tên Thiên Chúa giáo báo trước cho Courcy, Đến trưa
quân Pháp đẩy lui được liền chiếm thành trì và cung vua rồi cho cướp bóc thả
dàn. Ông Tôn Thất Thuyết liền chạy ra Tân Sở cùng Vua Hàm Nghi và toàn thể
triều đình Huế. Từ nơi đó, nhân danh vua Hàm Nghi, quan phụ chánh đưa ra lời
kêu gọi, “người giàu đóng góp tiền của, người mạnh khoẻ dóng góp sức lực,
người can đảm đóng góp cánh tay, để lấy lại đất nước trong tay quân xâm
lăng”. Đặc biệt ông kêu gọi mọi người yêu nước quay lại chống đối tín đồ
Thiên Chúa vì sự đóng góp tích cực của họ đã làm cho hành động những kẻ xâm
lăng được dễ dàng: “Nếu giặc Pháp đến được đây, nếu chúng biết được đường
sá, song ngòi, núi non, tất cả những gì trong nước chúng ta, đó chỉ là do
những giáo dân và các linh mục. Vì thế mọi người phải bắt đầu hành động,
phải tiêu diệt các giáo dân. Nếu việc đó thành công, giặc Pháp sẽ bị đẩy vào
thế bất động hoàn toàn, cũng giống như con cua đã bị bẻ hết càng không còn
cựa quậy được”[2]
Trước lời kêugọi của
vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết, văn thân hưởng ứng đông đảo, Là những nhà
ái quốc nhiệt thành, tự ý không chịu ra làm quan cho một triều đình đầu hàng
giặc, có một uy tín lớn lao đối với người nông dân mà họ sống chung đụng
với, đa số họ là những người nghèo, thật sự văn thân đại diện, theo chữ dùng
của Lanassan là “đảng dân tộc” (parti national) và trở thành người dấy khởi
cuộc kháng chiên ngày càng rộng lớn.
Do văn thân lãnh đạo,
cuộc kháng chiến ngày càng được toàn thể dân chúng ủng hộ một cách rộng rãi,
tổ chức thật phi thường . Mỗi chiến khu tại địa phương có một lãnh tụ. Ở
Nghệ An, cuộc nổi dậy do Nguyễn Xuân Ôn lãnh đạo, ông là một “quan to, một
trong những nhà trí thức lớn nhất trong nước, trước kia làm quan thị đốc học
sĩ.”[3]
tại Quảng Bình các người khởi nghĩa tôn Đề đốc Lê Trực lên làm lãnh tụ, ông
là người yêu nước chân thành, tính tình đơn giản, thuần phát, chức vụ cao mà
vẫn thanh liêm, con người đáng phục về mọi mặt.[4]
Tại Quảng Trị phong trào do Trương đình Hội và Nguyễn Tư Nhu lãnh đạo. Tại
Thanh Hóa và Hà Tỉnh cuộc khởi nghĩa rất mạnh, cuộc chiến đấu được đặt dưới
quyền điều khiển của hai lãnh tụ nổi tiếng : Cai Mao và Đinh Công Tráng.[5]
Nguyễn Duy Hiền là người lãnh đạo cuộc nổi dậy rộng lớn ở Quảng Nam, “Con
người đó còn trẻ và có tánh cương nghị hiếm có, dần dần được bao phủ bằng
tính chất anh hùng vang dội, gần như hoang đường, đã đem lại cho phong trào
khởi nghĩa tỉnh nầy tầm mức rộng lớn và uy thế của một phong trào dân tộc.”[6]
Tại Bình Thuận, quân đội Mai Xuân Thưởng, Bùi Diệm và Nguyễn Đức Nhuậnchỉ
huy đã đe dọa mau cjhóng các tỉnh miền Tây Nam kỳ. Một cuộc khởi nghĩa cũng
bùng nổ ngay tại Sài Gòn và vùng phụ cận (đốt nhà tù trung ương, tấn công
làng mạc, ám sát Đốc phủ Ca và dân vệ của y).
Cuộc kháng chiến nhân
dân nầy đồng thời cũng là cuộc kháng chiến hợp pháp và nó muốn như thế.
Trong khi chạy trốn, Tôn thất Thuyết đã mang theo ấn tín nhà vua, tượng
trưng cho uy quyền và sự hợp pháp, các bản tuyên ngôn mang dấu nầy có một uy
thế lớn đối với dân chúng, lúc nào cũng xúc động vì cái tên Hàm Nghi.
Về cu65c kháng chiến
đó, ba năm đầu do Hàm Nghi và tôi trung của ông lãnh đạo thuộc giai đoạn
đầu. Không bao lâu, việc bảo vệ Tân Sở cho thấy là không thể được vì nó
không thể liên kết với Bắc Kỳ vì con đường bi cắt đứt khi Pháp chiếm Đồng
Hới (19-7) . Vị vua trẻ qua Lào lập lại một thứ bộ tổng chỉ huy lưu động
trong núi non các tỉnh Hà Tỉnh, Quảng Bình. Thuyết liền rời vua qua Trung
Hoa xin viện trợ và cầu cứu. Nhưng hai con ông là Tôn thất Đạm và Tôn thất
Thiệp điều khiển văn phòng liên lạc trung ương khiến họ vẫn còn tiếp tục có
bên cạnh vua Hàm Nghi.
Chỉ đến tháng 11-1888
Vua Hàm Nghi bị một tên người mường làm phản, bắt nạp cho Pháp. Khi bị bắt
ngài mới được 17 tuổi 7 tháng.
Việc Vua, mà người
Việt nam coi như là linh hồn cuộc kháng chiến bị bắt, đã giáng một đòn quyết
liệt xuống phong trào dân tộc. Nhưng không vì thế mà nó đánh dấu sự chấm
dứt phong trào, mà phong trào vẫn còn tiếp tục tới gần 20 năm sau.
Trong những vùng cố
cựu, nông dân nghèo nàn ở phía bắc Trung bộ, văn thân vẫn tiếp tục chiến đấu
do sự thúc đẩy của một nhà Nho bậc nhất tỉnh Hà Tỉnh là ông Phan Đình Phùng.
Cuộc khởi nghĩa mở ra vào tháng 12-1893 và mau chóng đi đến mức độ đáng
ngại. Nó được lãnh đạo do một lãnh tụ mà chức vụ cùng đạo đức cá nhân khiến
mọi người phải khâm phục. Nhưng chính núi non chung quanh đã đem lại cho
cuộc kháng chiến những điều lợi nhất. Chính đó là chổ mà quân Pháp gặp phải
sự mất an toàn. Trong số những lãnh tụ nổi tiếng còn phải kể đến cuộc nổi
dậy của Đề Thám trong rừng núi Yên Thế (1892), của Ba Cao ở Thái Bình
(1883-87) của Lãng Giang và Đốc Khoát ở Vĩnh Yên, Phúc Yên, Tuyên Quang
(1891-93), của Lãnh Pha ở Đông triều (1892-93), của Lãnh Táng ở Phú Thọ
(1890-93) của Nguyễn Thiện Thuật ở Hải Dương (1885-91) của Đề Kiêu ở Sơn Tây
(cùng thời gian đó), của Đốc Ngự ở Hưng Hóa .v.v….
Chiến tranh du kích
là hình thức chiến đấu võ trang giúp cho người Việt nam sử dụng được một
cách tốt nhất con bài tẩy của họ ở Trung Châu cũng như ở miền rừng núi :
“nhiều người dân ban ngày cần cày, tối cầm sung. Một toán quân không chống
đỡ gì được các quân ăn cướp đó, khi quân đội ta đến gần, chúng phân tán
trong làng, và không thể tìm thấy được, nhờ sự đồng lõa của dân làng, và các
viên chức bản xứ.”[7]
“Hoạt động quân đội chúng ta bị tê liệt vì thiếu tin tức. Phải nhắm mắt mà
đi trong một xứ thù nghịch.”[8]
Cuộc kháng chiến võ
trang nầy, thực tế chỉ ngừng với cái chết năm 1913 của một nhà cách mạng nổi
tiếng : Đề Thám, ông đương đầu với Pháp trên 20 năm trong vùng rừng núi Yên
Thế, môt “vấn đề An Nam thật sự.”[9]
với đồi núi rậm rạp, hiểm trở đã là một nơi trú ẩn tuyệt hảo cho ông.
Mặc dù đầy năng lực,
cuối cùng cuộc kháng chiến võ trang cũng thất bại. Nó thất bại không phải vì
hiệu lực của sự đàn áp, của các chuyên viên có giá trị cao như Servière,
Pennequin, Galliéni, Lyautey mà chính sự yếu kém cùng mâu thuẩn nội bộ.
Để được dân chúng ủng
hộ, cuộc kháng chiến phải có tính cách dân tộc và nhân dân. Về mặt nầy việc
thiếu lãnh đạo trung ương, thật sự, là một nhược điểm. Không nghi ngờ gì,
các người phụ tá của vua Hàm Nghi cố gắng thúc đẩy và điều hợp. Cố gắng của
các nhóm như Đề Kiêu, nhưng thực tế trong các nhóm đều có khuynh hướng cục
bộ hay địa phương. Nói chung, các lãnh tụ có ảnh hưởng mạnh ở nơi phát tích
của mình, tự giới hạn lại trong địa phương, tìm cách thiết lập giữa họ và
những người theo họ các giây liên lạc trung thành và tính cách cá nhân, tự
bằng lòng về những thắng lợi địa phương. Việc họ chết hay bị bắt đưa đến sự
tan rã hay đầu hàng của cả nhóm. Ngoài ra, họ có khuynh hướng vì tính chất
địa phương cphong trào, chấp nhận các thỏa hiệp trên căn bản địa phương và
cá nhân , ví dụ họ ký với giới chức Pháp các thỏa ước cam kết không đi ra
khỏi địa phương để đổi lấy quyền thu thuế và giữ lấy quân đội (đèo Văn Tri
1890, Lương tam Kỳ 1893 và cả Đề Thám nữa 1894)
Mặt khác, trong tình
trạng chính trị và xã hội nước Việt nam xưa, chỉ có chế độ quân chủ là đóng
được vai trò lãnh đạo trung ương cuộc kháng chiến. Nhưng chế độ quân chủ nhà
Nguyễn, vì mất long người, đã khiến cho nhân dân nổi dậy chống nó từ lâu.
Nghiêm trọng hơn nữa, triều đình Huế chia rẽ sâu sắc giữa kẻ chủ trương đầu
hàng và kẻ chủ trương kháng chiến, các kẻ đó lại lo cãi vã tranh chấp lẫn
nhau mà làm hại quyền lợi đất nước. Thiếu mất một luồng gió yêu nước mạnh mẽ
từ triều đình thổi lên, phần đông quan lại, sau những ngày sôi sục và phân
vân nối tiếp sau ngày Huế bị thất thủ năm 1885 lại muốn theo vua mới Đồng
Khánh mà Pháp vừa mới đưa lên ngôi sau khi Hàm Nghi trốn đi.
Chỉ có văn thân là
tiếp tục theo đuổi cuộc kháng chiến, Là những người yêu nước nồng nàn, đại
diện chân chính cho đất nước, các nhà Nho đó đồng thời cũng lại là các phần
tử quân chủ xác tín, đó là nguyên nhân sự thất bại của họ, vì sự mất lòng
dân của nền quân chủ nhà Nguyễn cùng sự đầu hàng của triều đình Huế đã đặt
họ trong một sự mâu thuẩn khó gỡ ra được. Thật vậy, họ đề nghị gì đây với
người nông dân bất mãn và bị bốc lột từ hàng bao thế kỷ để đưa họ vào cuộc
chiến đấu nếu không phải là trông ngày độc lập, để lập trở lại nền quân chủ
đó cùng chế độ quan liêu mà đã bị họ hạ nhục ?
Sau cùng, việc bành
trướng phong trào kháng chiến lại đụng phải khó khăn trầm trọng, gây ra do
sự bám víu của tín đồ Thiên Chúa giáo và óc chia rẽ của các dân tộc ít
người.
“ Sự giúp đở của
người Thiên Chúa giáo cho quân đội Pháp ngay khi mới đến thật là to lớn và
các cộng đồng Thiên Chúa vẫn tiếp tục hợp tác, lại cón gia tăng hơn nữa sau
năm 1885. Chính nhờ sự giúp đở của các phu thợ của các làng Thiên Chúa giáo
mà quân đội Pháp chiếm được Ba Đình . Đại úy Gosselin, một trong những người
đuổi bắt vua Hàm Nghi kể lại : ông ta đã được giúp ich rất nhiều trong những
tin tức của các nhà truyền đạo, các tin tức mà các người nầy thu thập được
qua lời xưng tội của con chiên họ, Mặc dù thiểu số, người Thiên Chúa Giáo
Việt nam cũng tạo nên được một trở ngại có tính cách quyết định cho sự thành
công của cuộc kháng chiến và họ đã làm cho quân đội Pháp khỏi bị cô lập”[10]
Vì thế, dần dần quân
đội Pháp làm chủ cả nước Việt Nam . nhưng các khó khăn mà họ gặp phải đã
đánh dấu ngay từ đầu một vết hằn không thể nào mờ được ,nói chung, cho chủ
nghĩa thực dân.
II-
VẤN ĐỀ BẮC KỲ VÀ DƯ LUẬN TẠI PHÁP
Trước cũng như sau
hiệp ước bảo hộ Bắc kỳ đã gây nên trong dư luận Pháp một phong trào chống
đối chính sách của chính phủ.
Trước 1884, đường lối
thực tiển với nền tảng là kinh tế và đế quốc của Ferry gặp phải sự chống đối
mạnh mẽ ở trong nước. Chính sách nầy đã tạo một dư luận thù nghịch với các
cuộc xâm chiếm thuộc địa. Nước Pháp muốn người ta không chú ý đến các tỉnh
bị mất cùng tư tưởng phục thù. Họ căm ghét cuộc viễn chinh hải ngoại, họ
nhắc nhở đến các cuộc phiêu lưu đáng ghét của nền đế chính thứ hai, đã tiêu
hao không phải binh lính nhà nghề mà là các toán lính quân địch bắt buộc và
còn p[hải chịu nhiều phí tổn làm cho thuế mà nặng nề. Các nhà kinh tế tự do
chứng minh cho thấy rằng người ta đã làm cho nước Pháp thêm nợ nần vì những
lợi lộc hảo huyền, không đâu.
Mọi dị biệt của dư
luận được phản ảnh trong nghị viện. Cánh hữu, đại diện cho dân quê hiếu hòa
và tằn tiện, lại càng căm ghét sau khi những đạo luật thế tục được thông
qua. Cánh tả, yêu nước và cộng hòa, tố cáo chính sách làm suy yếu quân đội,
làm hại tình hửu nghị có ích như đối với Ý, nước nầy vì việc Tunisie đã quay
ra đồng minh với Đức và gây ra điều ước Bismarck. Cánh cực tả, lên án chính
sách đế quốc thực dân đã chạy theo giới nhà băng và giới kỹ nghệ đã làm hỏng
sựđã làm hỏng sự phát triển của nền Cộng Hòa trẻ trung bằng cách phục hồi
chính sách cá nhân trì hoãn các đạo luật xã hội, những bổ túc cần thiết cho
luật chính tr, bắt các dân tộc tự do làm nô lệ, trái với các nguyên tắc
1879. Sau cùng, mọi phe đối lập đoàn kết chống Ferry để bảo vệ quyền tuyên
chiến hiến định. Chính vì lòng căm ghét chế độ thực dân phát sinh từ một
tình cảm mạnh mẽ và gần như toàn thể mà Ferry không dám tấn công thẳng v àcố
gia tăng hoạt động đến tối đa ngoài vòng kiểm soát của quốc hội. Nhưng mỗi
lần y phải đụng độ với quốc hội để thông qua một biện pháp cần thiết cho kế
hoạch thực dân, y phải nhờ ai giúp đở đây ? Dĩ nhiên trông chờ vào các dân
biểu Thiên Chúa giáo.
Năm 1883, cuộc chiến
tranh xẩy ra ở Bắc kỳ, Ferry cần Thượng và Hạ viện thông qua các món tiền để
y có được những phương tiện quân sự đầy đủ, cần thiết bao hàm cả sự đồng ý
của quốc hội về việc gửi những lực lượng tăng viện to lớn. Ngày 18-12-1883
trước mội hội nghị quá đổi lạnh nhạt, hoàn toàn bế tắt về vấn đề Bắc kỳ,
Ferry đã được Giám mục Freppel cứu thoát, ông nầy làm giám mục ở Angers, một
tên bảo Hoàng xác tín, ủng hộ triều Bourbon, nhất là ủng hộ Giáo hoàng, nghị
sĩ hạt Maine-et-Loire, chống đối quyết liệt chính sách đối nội nhưng lại ủng
hộ chính sách hải ngoại của nội các. Freppel đã cứu Ferry, không có gì làm
sáng tỏ hơn nữa cho sự liên kết giữa tôn giáo và chính sách thực dân bằng
cuộc đồng minh thần thánh nầy : giữa con yêu tinh của nền Cộng hòa và con
yêu tinh của giáo hội.
Giám mục Freppel
tuyên bố : “ Lý do thứ nhất, điều khiến tôi bỏ phiếu thuận cho các món tiền,
vì nếu không hậu quả sẽ là rút quân ra khỏi Bắc kỳ ngay lập tức, chỉ nay mai
thôi. Thế có nghĩa là sự đổ vở hoàn toàn của uy tín, của thế đi lên, của ảnh
hưởng nước Pháp trong toàn vùng viễn đông. Không bao giờ tôi theo một chính
sách như thế mà tôi gọi là một chính sách tháo bỏ, diệt vong và trốn chạy.
Lý do thứ nhì, là ở đó nước Pháp có một vấn đề công lý và danh dự đối với
các nhà truyền giáo cũng như đối với con chiên Bắc kỳ và An Nam.”
Đúng lúc đó,
Glémenceau ngắt lời ông ta, ông nầy là đối thủ cương quyết của Ferry, chống
lại cuộc viễn chinh Bắc kỳ, chống lại mọi sự khởi phát thực dân, y thét lên
: “Tốt lắm, đó là câu trả lời đích thực !”
Nhưng Freppel vẫn
tiếp tục lý luận. ông ta ca ngợi những viên chỉ huy dân sự và quân sự đã
thừa nhận và khen thưởng sự can đảm của các đại diện Giáo hoàng và kết thúc
bằng cách nói lên lý do thứ ba của việc thông qua những món tiền : “để đưa
lại cho lục quân, hải quân can đảm của chúng ta một dấu hiệu của sự tin cậy
và cảm tình sâu xa…”
Được đa số khá lớn
quốc hội lắng nghe, nhờ khả năng và tài hùng biện, Freppel đã làm cho đa số
thông qua các món tiền bằng sự can thiệp chấn động của mình.[11]
Nhưng vì Bắc kỳ mà
Ferry bị lật đổ sau đó 15 tháng.
Các thắng lợi về quân
sự và ngoại giao mà y đạt được tại Bắc kỳ và Bắc kinh đã bị hỏng đi vì một
biến cố Thiên Tân,[12]
vì sự mở rông các cuộc hành quân đã đưa y đến chiến tranh với Trung quốc, mà
không đạt được kết quả về quân sự quyết định nào, cũng không được quốc hội
đồng ý.[13]sau
chót là vì sự thất rận ở Lạng Sơn (27-3-1885) do sự bất cẩn của bộ chỉ huy
Pháp mà tin tức đã khiến cho mọi người tin đó là một tai họa, đã làm chấn
động mạnh mẽ trong dư luận và làm cho người cầm đầu chính phủ bị mất lòng
dân đến chổ không còn cứu gỡ được.[14]
Phiên họp 30-3-1885 thật là bi thảm, ngay trước phiên nhóm, đa số đã không
chịu tín nhiệm. Bị đánh ngã bởi lời buộc tội của Clémenceau và sự phủ nhận
của Ribot, Ferry bị lật nhào bởi 300phiếu chống 149, và không bao giờ còn
được làm bộ trưởng nữa. Bên ngoài quốc hội, đám đông reo hò phản đối “tên
Bắc kỳ” mà ch1nh sách cá nhân bị quét sạch nư cơn lốc.
Sau hôm lật đổ Ferry,
quốc hội lại thông qua một món tiền chiết khấu 50 triệu cho ngân khoản Bắc
kỳ. Sự đầu phiếu hôm trước nhằm đúng vào cá nhân Ferry.
Vấn đề Bắc kỳ đã đóng
vai trò lớn trong các cuộc bầu cử quốc hội tháng 9-1885, trong lịch sử chính
tyrị Pháp đây là lần đầu tiên , vấn đề thuộc địa chiếm một địa vị chính
trong một cuộc tuyển cử. Phe cấp tiến, phát ngôn viên cho những nỗi lo âu
tài chính của giới cấp tiểu tư sản đứng lạitrong hàng ngủ đối lập chống thực
dân bên cạnh phe bảo thủ cố tâm không chịu quên đi “con đường xanh của dãy
núi Vosges”, với phe xã hội, vì nguyêntắc đã chống đối mà cuộc chiến tranh
thuộc địa đã bị chiến dịch tuyển cử ám ảnh, chính phủ ra lệnh cho De courcy
ngưng ngay mọi cuộc hành quân cùng các hoạt động quan trọng tại Huế. Những
cuộc bầu cy73 tháng 9 đã tăng cường thêm phe chống đối cánh hữu, không ưa
chính sách thực dân.
Cuối năm 1885, khi
chính phủ Brisson yêu cầu chuyển sang 1886 các món tiền Bắc kỳ không dùng
đến (79. triệu), chủ tịch ủy ban, Georges Pénin, báo cáo cùng đa số nhân
viên ủy ban chống đối lại và tuyên bố tán thành giải pháp từ bỏ Bắc kỳ. Suốt
4 ngày, các cuộc thảo luận đả làm hai phe : từ bỏ và chiếm đóng Bắc kỳ,
chống đối nhau một cách cuồng nhiệt.
Dân biểu De Lafosse
nói : “Chúng tôi tin rằng Bắc kỳ là một hiện tượng dở sống dở chết, là cái
mụt nhọt nằm cạnh sườn nước Pháp mà lúc nào cũng lở loét và ngang qua đó
những giọt máu tột của pháp chảy qua, chúng tôi tin rằng việc chiếm đóng
vĩnh viễn bằng quân sự tại Bắc kỳ là một sự tàn phá tài chánh, sự thâm thủng
càng gia tăng của ngân sách, sự gia tăng thuế má, sự suy tàn của quân đội.”[15]
Phe chủ trương sự
chiếm đóng mà người cầm đầu là giám mục Freppel. Lên tiếng ngày 21-12
Freppel đã bác bỏ một cách quyết liệt, đến khinh bỉ nữa, việc rút khỏi Bắc
và trung kỳ, chứng minh rằng sẽ đưa dến việc rút khỏi nam kỳ và Cambodge,
Ông nầy tuyên baố rằng “Nước Pháp không gởi dân biểu dến điện Bourbon để làm
nhục nó” lên án giải pháp nửa vời khi chủ trương tại Bắc kỳ là chỉ chiếm
đóng giới hạn ở vùng đồng bằng sông Hồng , lên tiếng chống lại việc bỏ rơi
hàng trăm nghìn con chiên đã tự hiến mình cho nước Pháp, ông đã qui những
khó khăn trong vụ Bắc kỳ cho các “biện pháp nửa vời,chậm chạp, dọ dẫm, do
dự khiến cho Trung Hoa và An Nam có thể đưa ra mặt trận những lực lượng mà
lúc đầu họ không có” , tố giác moot hành vi khiếp nhược ở Châu á ảnh hưởng
đến địa vị nước Pháp trong các thuộc địa Phi Châu “ảnh hưởng một thất bại
như thế trên các thuộc địa của chúng ta” công kích những mưu mô của những kẻ
ở chính quốc “đã ngụy tạo một dư luận gian dối chung quanh vấn đề này”,
trong khi”xứ sở sẽ không bao giờ tha thứ cho quốc hội khi ra quyết định rút
lui và đầu hàng” và cuối cùng ông ta kết thúc bằng một lời tán dương đúng
điệu cho sự bành trướng thuộc địa :
“người ta khuyên nước
Pháp nên tự khép kín, tự nhốt mình lại, người ta hết sức muốn tự hạn chế
mình, tự khép mình trong Châu âu hẹp hòi nầy mà người Pháp, người Anh, người
Đức v.v…sống chồng chất lên nhau… như thế há không phải sống chật chội, dồn
đống trong rẻo đất nầy chăng ?...Từ nay, muốn được đáng kể ở Châu Âu, phải
được đáng kể trong phần còn lại trên thế giới,và tùy thuộc vào sự mở rộng
liên lạc về buôn bán và kỷ nghệ. Hơn nữa, há không phải là qúi vị, những
người anh cả của nền văn minh, quí vị không mong món nợ ánh sáng đối với
những kẻ lạc hậu sao ?...Và khi chúng ta có dịp làm họ tiến lên vài bước …lẽ
nào quí vị có thể tránh được nhiệm vụ đó, sứ mệnh đó mà thượng đế và nhân
loại đã quy định cho nước Pháp ? ”[16]
Các món tiền mà
Freycinet yêu cầu chỉ được thông qua có hơn 4 phiếu (274 chống 270) Cho rằng
không có đủ đa số cần thiết, nội các từ chức ngày 28-12-1885 , Chính
Freycinet phải tổ chức nền bảo hộ Bắc kỳ.
Từ 1895, tình hình
chính trị ở phía Bắc kỳ đã vững chắc, có lợi cho quân Pháp trong thực tế.
Nhưng chế độ không vì thế mà ổn định. Vì cuộc kháng chiến Việt Nam không
những là một mối lo âuchính trị của nhà cầm quyền Pháp, mà còn tạo cho chính
phủ bảo hộ những khó khăn tài chánh . Việc duy trì sự xâm lăng cũng tốn kém
như cuộc xâm lăng vậy.
Từ 1885-1897, tổ chức
ngân sách của chính phủ bảo hộ trải qua ba giai đoạn kế tiếp. Cho đến
1-1-1887, ngân sách chính quốc phải chịu các món tiền chi phí dân sự và quân
sự. Từ 1-1-1887, ngân sách địa phương phải gánh lấy hết mọi chi phí, chính
quốc chỉ còn can dự vào bằng một số tài trợ nhất định, các món tiền trợ giúp
hay bất thường. Niên khóa 1892 đánh dấu sự bắt đầu của một chế độ mới : ngân
sách địa phương không còn nhận tiền tài trợ, nhưng chính quốc lại gánh hết
mọi chi phí quân sự. Những ngân sách đầu tiên của chính phủ bảo hộ chịu một
sự thâm thủng mà số tài trợ của chính quốc không lấy hết được. Nhưng từ
1885-86 người ta ước lượng số chi phí tổng cộng của Pháp ở miền Bắc Việt Nam
là 550 triệu frances vàng. Sự thiếu hụt của ngân sách bản xứ khiến chính phủ
phải yêu cầu, vào tháng 12-1895 quốc hội cho phép chính phủ bảo hộ ở Trung
kỳ và Bắc kỳ mượn 80 triệu để thanh toán dứt khoát tình hình tài chánh. Sự
vay nợ nầy đã phơi bày trước dư luận chính quốc “những sự phung phí lạm chi
mà trong đó lịch sử tài chánh ở Bắc kỳ được tóm gọn lại ”, nói theo ngôn ngử
của dân biểu Krantz, thuyết trình viên ủy ban điều tra của quốc hội.[17]
Năm 1897, tình hình
Đông Dương vẫn còn xa vời với việc đáp ứng đầy đủ nhũng mục tiêumà phe Ferry
nhằm đến thuộc địa vẫn còn quá tốn kém và không phải là nơi đầu tư khá vững
chắc cho tư bản Pháp.
Chính để cải đổi tình
trạng đó mà năm 1897, chính phủ Pháp phái Paul Doumer đến Đông Dương. Làm
toàn quyền trong 5 năm (1897- 1902) Doumer chấm dứt sự mất quân bình tài
chánh và mở ra một kỷ nguyên cho Pháp bóc lột kinh tế ở Việt Nam. Nhưng nếu
viên bộ trưởng tài chánh cũ trong nội các Bourgeois thành công trong việc
xóa mờ hình ảnh ảm đạm mà vụ Bắc kỳ đã gây nên và giữ lại trong dư luận
chính quốc, thì chính sách bóc lột và đàn áp đến cùng của y đã tạo trong dân
chúng Việt nam một nổi bất mãn to lớn mà hậu quả phải đến trong những năm
trước chiến tranh 1914.
III - KẾ HOẠCH CỦA GIÁM MỤC PUGINIER
Phải theo chính sách
nào để đối đầu với cuộc kháng chiến Việt nam và với dòng thác bi quan ở
chính quốc ? Làm thế nào để đặt chế độ thống trị Pháp trên một căn bản vững
chắc.
Hai giải pháp hiện ra
cho thực dân Pháp : hoặc cai trị với xứ bị trị, hoặc chống lại xứ bị trị.
Trong trường hợp đầu, nó vẫn để nguyên các định chế của xứ bị trị, nó tôn
trọng luât pháp, phong tục, nhất là tìm cách liên minh với tôn giáo bản xứ,
khuyến khích sự phát triển, dùng nó làm trung gian giữa dân bản xứ và giới
chức thuộc địa. Do đó, mà trong những thuộc địa các chính sách thân Hồi
Giáo, thân Phật Giáo, thường hay đổi. Nó vẫn nắm quyền lãnh đạo cũng như mọi
chính sách[18]
Trong trường hợp hai,
cố tiêu diệt cá tính của xứ thuộc địa, biến đổi xứ này theo quan niệm của
mình, biến xứ này thành một vùng đất Pháp, có “dân Pháp da màu” sống. Trong
trường hợp này, cần có tôn giáo hổ trợ.
Mọi cố gắng của Giám
mục Puginier đều để ngăn chận không cho chính sách Pháp bước vào con đường
thứ nhất : Thật vậy, đạo Thiên Chúa không được hưởng gì với chính sách “nguy
hiểm” đó. Theo giám mục, chỉ có con đường thứ nhì mới có thể bảo đảm cho
nước Pháp và đạo Thiên Chúa một tương lai tươi sáng.
Xậm lược, thống trị,
đồng hóa, đó là ba ý tưởng chủ chốt tỏa lên từ nhiều văn thư, điều trần mà
giám mục Hà Nội gửi cho các giới chức Pháp ở Hà Nội cũng như ở Paris
1-
CHÍNH SÁCH XÂM LĂNG VÀ SỨC MẠNH
Trước khi ký kết hiệp
ước 1884, một luồn dư luận muốn rằng Pháp chỉ cần một hiệp ước đem lại lợi
íchthật sự và trả nước Việt nam cho Việt nam, nhưng vẫn giữ một số lính thật
cần thiết để bảo vệ sự vinh dự của lá cờ Pháp và quyền lợi các nước Châu Âu.
Puginier đứng dậy chống chính sách đó mà ông ta cho là một “nổi nhục nhã của
nước Pháp, một sự bất công đối với dân chúng, nhất là đối với các con chiên
và là một hành động phi chính trị ”
“Chúng ta đã tốn công
vô ích khi điều đình với triều đình Huế và với nước Trung Hoa, đòi hỏi nước
nầy không còn gởi quân qua An Nam, chúng ta sẽ không bao giờ thành công
trong việc ngăn chận các hoạt động âm thầm và ủng hộ các cuộc nổi loạn ở Bắc
kỳ, nhất là khi nó thấy số binh sĩ Pháp giảm đi rất nhiều… Trước khi nghĩ
đến việc giảm quân, cần phải tiêu diệt tối đa các mầm móng nổi loạn… Muốn
cuộc chinh phạt tiến hành tốt sẽ còn phải chi tiêu nhiều nữa nhưng phải có
những hy sinh đó . Danh dự, quyền lợi và công lý nước Pháp đòi hỏi điều đó.
Pháp phải nhớ rằng mình còn là một nước vĩ đại, tóm lại, nó vẫn luôn luôn là
nước Pháp…”[19]
Nhưng Bắc kỳ có thật
xứng đáng cho cuộc xâm lăng đã quá tốn kém cho Pháp không ? Sự tiếp cận của
Trung quốc há không phải là một mối nguy rất lớn và đầy đe dọa có thể đưa
đến các thảm họa ? Người ta do dự, người ta bàn cãi để biết là tốt, nhất là
có nên rút ra khỏi bắc kỳ không, và cuối cùng người ta quyết định ở lại,
nhưng thu hẹp hoạt động và hạn chế đoàn quân viễn chinh.
Trong một văn thư gửi
Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa mà Puginier cho là “rất quan trọng”[20]
tên nầy cố chứng minh rằng Bắc kỳ xứng đáng với mọi hy sinh của Pháp.
Trước hết, đây là một
xứ cung cấp được rất nhiều tài nguyên to lớn. Đất tốt, có thể trồng được
nhiều thứ như lúa, bắp, mía, .v.v…Cao nguyên thì rất nhiều, lại cho nhiều
sản phẩm không kém phần quý giá như gỗ quí, sơn, cánh kiến, long não.v.v…
sau cùng, lại còn thấy mỏ than, mỏ vàng, antimoine, các nguồn tài nguyên
phong phú vô giá.
Thứ nhì, nhờ có sông,
Bắc kỳ sẽ mở cho Pháp các đường lưu thông dễ dàng để mang sản phẩm sang Lào,
sang tây nam Trung quốc, và mua lại của các vùng rộng lớn nầy các sản phẩm
thương mại rất có lợi như đồng, thiếc, kẽm, thủy ngân, chì,…
Thứ ba, dân chúng ở
Bắc kỳlà một “dân tộc rất đáng chú ý, và có thể biến thành bạn nếu chúng ta
biết đào tạo, lãnh đạo và cai trị” Điều nầy rất quan trọng vì “vấn đề dân
chúng chiếm một phần lớn trong nhận xét về giá trị thực sự của một thuộc
địa. Nếu gặp một miền đất tốt, mà chỉ có ít dân hay dân cư biến nhác, knhôg
thể đào luyện được và phải đem công nhân từ nước ngoài vào, và nhất là nếu
gặp ở dân bản xứ sự căm ghét có tính chất tự nhiên, chỉ nhường bước trước
sức mạnh, thì chắc chằn giá trị vật chất của đất đai bị giảm rất nhiều… Về
mặt nầy, Bắc kỳ cho ta những lợi lộc vô giá vì bản tính người dân phù hợp
tuyệt xảo với sự mầu mở của đất đai.”
Thứ tư, Bắc kỳ đã
cống hiến một lực lương manh mẽ và đã thành bạn bè rồi : thật vậy, nó có
400.000 con chiên “đã cho thấy lòng hy sinh cùng cảm tình của nó đối với
Pháp”. Thật là một điều đáng phấn khởi đối với nước Pháp khi “ biết rằng tại
Bắc kỳ có một lực lượng quan trọng và thân hữu mà nếu nó biết xử dụng thì
lực lượng nầy sẽ giúp cho nó được dễ dàng trong việc bình định xứ nầy cũng
như trong việc xây dựng ảnh hưởng và góp phần cho nó dần dần thu phục toàn
thể dân chúng.”
Thứ năm và là chót
hết, không thể chấp nhận được việc một nước như nước Pháp mà lại đi đến chổ
bỏ hết tất cả những gì đã phải tốn kém rất nhiều để chinh phục được. Đừng
quên rằng, ngay khi nước Pháp vừa rút khỏi Bắc kỳ, một nước Châu âu khác sẽ
đến thế ngay.
Báo chí Thiên Chúa
giáo, cùng báo chí giới kinh doanh đã phổ biến rộng rãi ở chính quốc các ý
kiến của Puginier, để trình bày trước dư luận Pháp một bộ mặt khác của Bắc
kỳ, hoàn toàn đối nghịch với bộ mặt đã được các phe chống thực dân đưa ra :
“Bắc kỳ, Lanessan
viết với giọng châm biếm, nếu tin theo lời họ, đó là một thiên đàng trần
thế. Tại đó, lúa tự mọc mà không cần gieo, tại đó, mía to và cao như cột
buồm , tại đó, vàng bạc chỉ cần lấy xẻng mà xúc như sỏi sạn trên tỉnh lộ và
quốc lộ nước ta, tại đó, trời không mây và đất không sình lầy gây bịnh, tại
đó, người ta chạy xô đến các nhà kinh doanh và trút sản phẩm lao dộng vào
miệng túi mở rộng của người nước ngoài mà không cần phải xin xỏ, tại đó, đàn
bà buôn mình theo ái tình thuần túy và say đắm không vị lợi.
Chạy mau đến Bắc kỳ !
Không có Bắc kỳ nước Pháp không phải là nước Pháp, không có Bắc kỳ người
Pháp không còn là người Pháp. Không có Bắc kỳ, con gái ta không còn có
chồng, binh sĩ ta chết không vinh quang, thủy quân ta trở thành bộ binh và
các ông chủ ngân hàng ta chết treo lủng lẳng và chạy dưới vòm thị trường
chứng khoán với cái dây của túi rỗng…”[21]
Theo Puginier, mặt
khác, cuộc xâm lăng phải tiến hành mạnh mẽ và mau lẹ. Phải đuổi theo kẻ thù
và tiêu diệt trước khi nó gầy dựng lại được. Chính vì thiếu sự chớp nhoáng
và cương quyết của Pháp mà Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết tổ chức lại được
phong trào kháng chiến. Làm sao kết thúc được cuộc kháng chiến đó ?
Puginier đề nghị đánh
Trung kỳ một đòn mạnh và theo gót vài tiểu đoàn Pháp, là các toán ngườiBắckỳ
đông đảo dưới quyền chỉ huy của sĩ quan Pháp. “Tôi thấy đồng thời bình định
cả Bắc kỳ và Trung kỳ còn dễ hơn là chỉ bình định có Bắc kỳ. Kẻ thù không có
sẳn lực lượng và phương tiện to lớn lắm, sẽ đồng thời bị tấn công khắp nơi
và không thể kịp tiếp viện cũng như chỉnh đốn lại, sẽ phải kiệt lực. Dân
chúng đã tranh thủ được theo mình và là nạn nhân và bị mệt mõi vì tình trạng
vô chánh phủ sẽ bỏ rơi ngay khi nào có thể mà không tự hại và sẽ theo phe
Đồng Khánh và chính phủ bảo hộ.”[22]
Dù không nói ra,
Puginier đặc biệt chủ trương dùng tín đồ Thiên Chúa giáo để thực hiện việc
săn đuổi lớn lao nầy từ Bắc đến Nam, nghĩa là từ Ninh Bình tiến vô Huế.[23]
Nên chú ý là đồng thời Nam kỳ cũng định sai Tri phủ Lộc cùng với các dân vệ
tuyển mộ ở địa hạt y tất cả lính khố đỏ cũ ở Nam kỳ, khởi hành từ Nam ra Bắc
để quét sạch xứ Trung kỳ, đến tận Huế.
Puginier chống đối
quyết liệt mọi sự giảm bớt quân đội Pháp ở Bắc kỳ. Theo ông ta, cần phải có
một chính sách tích cực hơn, hăn hái hơn, không ngừng hành quân để làm mệt
mõi dân chúng đanh ủng hộ quân “quân phiến loạn”, nếu không, sẽ không bao
giờ kết liểu được “phe kháng chiến”.
Ông ta viết năm 1891,
“tình hình cứ trầm trọng mãi lên, một cách đều đặng nhưng mau lẹ. Hôm nay,
nó trở nên cực kỳ khó khăn cho dân chúng và nguy hiểm cho quyền lợi chính
phủ bảo hộ. Theo tôi, tuồng như trước hết một hoạt động toàn diện, một cuộc
săn đuổi thực sự rất cần thiết. Một cuộc hành quân phối hợp do các toán quân
nhỏ phối hợp nhau, đồng thời tiến vào nhiều làng trong vùng sẽ làm cho bọn
trộm cướp rối loạn. Việc tiếp tục các cuộc hành quân sẽ làm chúng mất can
dảm và khiến cho chúng đào ngủ đông đảo. Dân chúng không còn chịu ảnh hưởng
của chúng nữa. Họ sẽ tố cáo và bắt chúng để nộp.
Nhưng cần phải hành
động mạnh, quyết liệt, liên tục, cho đến khi thắng lợi hoàn toàn. Nếu muốn
được dân chúng giúp đở và cung cấp tin tức cần thiết, nhất thiết phải kéo họ
ra khỏi ảnh hưởng của quân cướp. Phải mang lại cho họ lòng tin tưởng và can
đảm đã bị mất đi, một đàng vì thiếu sự bảo vệ và đàng khác vì sự khủng bố
của quân cướp.
Khi kết quả nầy đã
đạt được rồi, thì kế đó là vai trò của bộ máy cai trị. Nó cần phải tìm kiếm
kỹ lưởng và bền bĩ, nhưng phải sáng suốt, làng nào đồng lòng với quân phiến
loạn và kẻ nào thực sự bước theo phe kháng chiến. Khi đã biết được, nhờ vào
các tin tức chắc chắn, nhất đnịh phải nghiêm trị và các tấm gương nầy sẽ gây
nên một tác dụng tốt trong dân chúng, đó là chưa kể việc thanh lọc được môt
phần những kẻ làm bậy, nguy hiểm ra khỏi vùng.
Trước kia, chúng ta
đã có thói quen ân xá cho những kẻ làm loạn và chúng ta không chịu lhó tìm
kiếm kẻ khác một cách đầy đủ. Dù những người nầy khôn khéo đã tìm các lẫn
tránh để khỏi bị bắt khi hoạt động, nhưng chúng ta biết được một số tên đó,
nhưng khi nguy hiểm qua đi, chúng ta lại quá mau quên là trong vùng còn
nhiều kẻ nguy hiểm sắp hoạt động nay mai để chuẩn bị cho một cuộc khủng
hoảng mới.”[24]
Một vấn đề đặt ra là
tại sao giám mục Puginier lại chủ trương chính sách xâm lược và sức mạnh ?
Câu trả lời thuật là giản dị : chính là để cho, sau rốt, tín đồ Thiên
Chúa Giáo sẽ giữ một vai trò trọng yếu trong đời sống chíng trị, hành chánh
và quân sự ở Bắc Kỳ.[25]
Các báo, văn thư, tin tức, điều trần của ông giám mục nầy đều nhằm mục đích
nhất định : Chứng minh cho giới chức Pháp thấy rằng, ngoài tín đồ thiên
Chúa giáo ra, tất cả đều là kẻ thù. Vì thế, không phải với bộ máy hành
chánh Việt nam hiện giờ mà Pháp bình định rồi cai trị được xứ nầy, nhưng mà
là với tín đồ Thiên chúa giáo, “những người bạn tự nhiên của nước Pháp”. Đưa
người Thiên Chúa giáo lên nắm quyền bính, đó là kế hoạch ngắn hạn của
Puginier. Nhủng để chuẩn bị cho tầng lớp thống trị mới ra đời,việc đầu tiên
phải làm là tiêu diệt tầng lớp thống trị hiện có, tức là quan lại và Văn
thân. Như thế có nghĩa là chính sách đàn áp chứ không phải hợp tác.
2-
CHÍNH SÁCH ĐÀN ÁP.
Quả thật làm sao thi
hành được chính sách hợp tác khi mà theo Puginier, kẻ thù ở khắp nơi, còn
bạn bè thì không có đâu cả, ngoại trừ tín đồ Thiên Chúa giáo.
Sau đây danh sách các
“thủ phạm” mà Puginier lập nên :
1- Đầu tiên, chính là
triều đình Huế. Năm 1884, hai quan Nhiếp Chính Nguyễn văn Tường và Tôn Thất
Thuyết là tác giả các cuộc “phiến loạn”.
2- Những quan lớn các
tỉnh ( như Tổng Đốc, Bố Chánh, Án sát, Lãnh binh..).
3- Phần đông quan lại
dù tại chức.
4- Tất cả nhà Nho
5- Chánh Tổng, Lý
Trưởng.
6- Các làng không
Thiên Chúa Giáo, láng giềng của các khu giáo dân.[26]
Tóm lại, toàn thể đất
nước.
Kẻ thù chính, dĩ
nhiên, là quan lại và văn thân, các tác giả của phong trào khởi nghĩa. Những
người trước có mối tử thù với Pháp, vì sự thiết lập thế lực Pháp báo hiệu sự
sụp đổ của nền thống trị, của uy tín, của quyền bính, và tài sản họ. Những
người sau mà nước Pháp luôn luôn xem là kẻ thù trong tư thế cá nhân, là linh
hồn của “phe kháng chiến”
Sai lầm của giới chức
Pháp là quá tin tưởng vào số đông quan lại, những người nầy rất khôn khéo
khi tỏ ra trung thành. Người Pháp không biết rằng các quan, nhờ hoạt động âm
thầm, chậm chạp mà hữu hiệu, nhờ hoạt động bí mật và hằng ngày, họ không
ngừng vận động dân chúng mà không ai biết được họ đã gây ảnh hưởng.
“Rõ ràng là đa số
viên chức thuộc mọi cấp đều căm thù người Pháp. Ngoài tinh thần yêu nước mà
một số người có thể có, mà sự hiện diện của người Pháp đã làm thương tổn,
chúng ta làm họ khó chịu, chúng ta đã làm giảm uy tín họ trước đồng bào họ.
Mặc dù vì chính trị, họ che đậy tình cảm và vì quyền lợi, bề ngoài họ cũng
tỏ rat rung thành nhưng không vì thế họ không tư thù chúng ta, họ lợi dụng
chức vụ để moi móc tiền bạc của những người bị họ cai trị. Họ làm việc nầy
còn hơn xa dưới chế độ cũ, và rất nhiều trường hợp họ làm dưới bbóng chính
quyền Pháp. Nhiều người đã làm trắng trợn việc đó, nhưng không lúc nào có
bằng chứng giấy tờ hay công khai nào. Họ che dấu những âm mưu và các cuộc tụ
hợp chống đối, trong khi họ biết quá rõ. Họ giảm bớt tội trạng của những tội
nhân mà họ biết là kẻ thù của chúng ta, và nếu không thể tha bổng, họ thường
kết tội tương đối nhẹ.
Họ lợi dụng các cuộc
thay đổi thường xuyên trong giới chức Pháp để ân xá một cách khéo léo những
kẻ bị kết án, những kẻ nầy nguy hiểm nhưng họ lại cho là không đáng gì.
Họ liên lạc bí mật
với các kẻ làm loạn trong những vùng mà những kẻ nầy hoạt động . Họ cho
những người nầy biết những gỉ giới chức Pháp làm. Họ kịp thời báo tin cho
bọn nầy biết các cuộc tuần thám hay tấn công mà chúng ta định làm.
Họ thêu dệt và làm
biến tính những hành vi hay các mệnh lệnh của những vị đại diện chính phủ
bảo hộ để mọi người oán ghét, nhưng họ không để ai thấy được ý đồ của họ,
bằng cách họ hết sức vui vẻ, họ khéo léo phá hoại ảnh hưởng Pháp. Vì quyền
lợi riêng tư cũng như vì căm thù nước Pháp, họ tiếp tục có những hành đông
chống đối. Đó là cả một âm mưu mà ngày nào người ta cũng trù liệu đến tận
chi tiết nhỏ, với một sự kiên trì không ai nghi ngờ được, nhưng bề ngoài thì
trông như không có gì. Không có bằng chứng chính thức nào, và những ai không
quen với các mưu mẹo đó hay không có ý định quan sát những thủ đoạn đó sẽ
không nhận thấy có cái gì đáng khiển trách cả. Tôi đoan chắc những gì tôi
nói đã có.”[27]
Làm thế nào để hợp
tác với một guồng máy cai trị gồm những “nhân viên hai mặt” như chúng ta vừa
thấy ? Dưới mặt nạ chính thể bảo hộ, người ta cần thực hiện sự thôn tính đơn
thuần, nếu muốn duy trì ảnh hường Pháp ở Bắc kỳ.
Bảo hộ hay thôn tính
chỉ là hai cách gọi khác nhau cho cùng một sự việc, và tận căn bản, chúng
chỉ là một sự vật mà thôi. Chế độ bảo hộ có thể hoặc ít hoặc nhiều có thực
và thực có, tùy theo ý muốn của người lập ra và tùy theo sự khôn khéo, sự
cương quyết và sức mạnh của người thực hiện. Một quốc gia đã còn tin rằng
mình có quyền thôn tính một nước khác huống chi là quyền sắp đặt một nền bảo
hộ chặc chẽ và hiệu nghiệm đến độ mà nó cho là thích đáng. Họ chỉ cần quy
định trước rằng họ tự dành lấy quyền lập và điều khiển quân đội, quyền thiết
lập và phân phối các thứ thuế, sử dụng lấy các món thu nhập của thuế quan,
quyền bổ nhiệm quan lại, công chức mọi ngành với sự thỏa thuận của triều
đình, quyền cách chức các chức sự nếu cần, quyền điều hành tòa án, quyền xử
dụng hầm mỏ và những tài nguyên khác cho hạnh phúc xứ sở .v.v…Ngoài người
đại diện cho nền bảo hộ nước Pháp cũng sẽ có hai viên chức cao cấp khác,
người lo về tài chánh, người lo về tư pháp. Ở mỗi tỉnh cũng sẽ có một viên
công sứ để lo mọi việc.v.v… Tóm lại, chỉ cần phải quy định những điều như
trong một vụ sát nhập.
“Khi sắp đặt sự việc
một cách thông minh và thực tế, chúng ta có thể lập một nền bảo hộ mà tự bản
chất chỉ là một sự thôn tính được giảm thiểu và che đậy dưới chiếc áo choàng
quân chủ Việt Nam. Chúng ta sẽ giữ lại pháp luật của Vua và của xứ đó để
khỏi phải đụng chạm đến, cảm tình chính thống và lòng yêu nước của mọi
người, để từ đó lôi kéo dân chúng dễ dàng hơn. Nhờ chế độ bảo hộ chúng ta có
thể có được mọi tiện lợi của sự thôn tính mà nếu muốn và biết cách làm,
chúng ta không phải gánh chịu mọi bất tiện của sự thôn tính . Sự thực, đó
chỉ là vấn đề từ ngữ, vấn đề khôn khéo, nhạy bén, và thông minh, thực tế.”[28]
Nhưng một chế độ bảo
hộ như thế chỉ có thể thiết lập được với điều kiện thay đổi hàng ngủ cai
trị : cần phải “dùng một lực lượng mới mà số phận phải phụ thuộc vào nước
Pháp và đo đó, sẽ tự hại mình, sẽ sẵn sàng chấp nhận mọi điều kiện, bị buộc
vào quốc gia bảo hộ để có thể đứng vững. Ngoài ra, có được một chính phủ mới
ít kêu ngạo, ít chống đối hơn, chúng ta sẽ có được một nước trung thành và
hy sinh hơn.”[29]
Vậy thì mục đích của
Pháp tại Bắc kỳ là “thiết lập vững vàng thế lực của Pháp và dựng ở đó một
thuộc địa tạm mang danh là xứ bảo hộ.”[30]
Làm sao để thực hiện
mục đích đó ? Làm sao để bảo đảm cho mưu đồ đó thành công và duy trì vĩnh
viễn các lợi lộc đã thu được ? Làm sao loại trừ những nổi lo sợ mà sự tiếp
giới với Trung quốc có thể gây ra và khiến cho nước nầy phải kính nể ?
Người ta không thể
làm được điều gì tốt và lâu dài ở Bắc kỳ nếu người ta không muốn tiêu diệt
có hệ thống nền đạo đức xưa của Khổng Giáo vốn là căn bản của xã hội Việt
Nam và thay vào đó bằng một sức mạnh tinh thần khác “mà người ta có sẵn”
trong xứ đạo Thiên Chúa. nhờ vào sức mạnh nầy, người Pháp đần dần đồng hóa
được dân chúng Bắc kỳ và thiết lập trong một tương lai gần “một nước Pháp
nhỏ” ở Bắc kỳ.
3-
CHÍNH SÁCH ĐỒNG HÓA.
Đây là những phương
tiện dùng để lập ra nuớc Pháp nhỏ và thịnh vượng. Puginier bảo đảm là chúng
“rất hiệu nghiệm” và xem là “tuyệt đối cần thiết ”[31]
a.
Công Giáo hóa xứ sở.
Không có mối dây nào
mạnh để liên kết người ta và các dân tộc cho bằng sự đồng nhất tín ngưởng,
và khi một quốc gia Thiên Chúa giáo đã đăt được tôn giáo mình vào những
thuộc địa, là có thể an tâm. Sẽ có những kẻ bất mãn vì lạm dụng, nhưng không
phải sợ những sự phản bội và nổi loạn. Chúng ta sẽ không bao giờ thấy một
thuộc địa Thiên Chúa giáo nào bỏ nước mẹ để liên minh với một nước láng
giềng vô thần đánh lại nó. Nếu chúng ta đã Thiên Chúa giáo hóa được Algérie
thì việc chinh phục và bình định xứ nầy có lã ít tốn kém hơn nhiều, và có lẽ
chúng ta đã không phải chứng kiến nhiều vụ làm loạn quá đắt giá đối với nước
Pháp. Nhưng dân Á Rập cuồng tín, không dễ gì làm họ đổi đạo.
“tại sao cho đến ngày
nay các con chiên của các phái bộ đã chứng tỏ được sự tận tụy và cảm tình
với nước Pháp ? Nguyên nhân chính là sự đồng nhất tôn giáo. Họ không quên
rằng chính nhờ những nhà truyền đạo nước Pháp cử sang mà họ có được tín
ngưỡng và dù không phải là dân Pháp chính cống, lòng họ vẫn tự xem như thế.
Chính phủ An Nam biết rõ điều đó, nếu đã đàn áp lâu dài những nhà truyền đạo
và con chiên, nếu họ đã có những nổ lực lớn lao như thế để tiêu diệt những
người nầy, chính thực họ đã vì lòng căm thù tôn giáo thúc đẩy, không bằng bị
nỗi sợ hãi khi khi thấy ảnh hưởng nước ngoài đặt để lên xứ sở họ, sau khi
giá chử thập cắm lên đó.
“Tôi xác định rằng
khi nào Bắc kỳ thành Thiên Chúa giáo thì nó cũng sẽ thành một nước Pháp nhỏ,
hoàn toàn giống như các dảo Philippines là một nước Tây Ban Nha nhỏ.”
Về vấn đề
Philippines, Puginier thuật lời lại một viên toàn quyền của đảo nầy, một
viên tướng trẻ thuộc đảng cấp tiến và do Prim Y Prats phái sang có phần để
trục xuất các giới chức truyền giáo. “Tôi rất muốn, viên toàn quyền nói,
nhưng hãy gởi cho tôi 40.000 lính cộng thêm lính quân địch của thuộc địa để
thay thế họ.”
Puginier kết luận, Đó là một bài học mà mọi người nên lợi dụng và sau nầy
đừng có hối tiếc.
“Chắc chắn các nhà
truyền đạo là một sức mạnh tinh thần to lớn nhất trong một thuộc địa. Chính
họ đã làm cho thuộc địa biết chân tướng nước mẹ để yêu mến. Thế lực h ọcũng
mạnh, sự duy trì trật tự càng vững chắc. Dù có cố để không công nhận điều
đó, người ta cũng không thay đổi được sự thật. Người ta có thể chắc chắn
rằng những kẻ dèm pha những nhà truyền đạo, tìm cách cướp đi ảnh hưởng tốt
và chính đáng của họ trên dân chúng, là những kẻ có đầu óc bè phái hay là
những kẻ thiển cận, có một đường lối sai lầm và làm hại rất nhiều cho quyền
lợi thực sự của tổ quốc.”
Puginier tuyên bố
rằng ông ta không hề có ý định tuyên truyền cho đạo khi viết như thế. Mục
đích ông ta, ông ta minh định “chỉ là thi hành một chính sách tốt, chính
sách thực tế, và thật sự yêu nước để đưa đến kêt quả tốt nhất, hữu hiệu nhất
cho nước Pháp.”
Nhưng làm thế nào để
Thiên Chúa giáo hóa xứ nầy ? Sẽ truyền đạo với lưỡi gươm ?
Không phải vậy,
Puginier trả lời. Chỉ có những kẻ ngu mới cưỡng chế lòng người, dân Bắc kỳ
đã sẵn sàng tiếp thu đạo Thiên Chúa. Họ không còn là những cá nhân thuộc các
cộng đồng hổn hợp yêu cầu đổi đạo như ngày xưa mà ngày nay cả làng đều muốn
theo đạo Thiên chúa. Vì thế không có sức ép nào buộc kẻ ngoại đạo phải đổi
đạo. Ủng hộ bí mật việc làm các kẻ truyền đạo và để mặt họ làm việc, đó là
thái độ khôn ngoan nhất mà chính phủ bảo hộ nên theo :
“Nếu chính phủ hiểu
rõ quyền lợi thật sự của nước Pháp mà ủng hộ chúng tôi một cách bí mật dù có
che đậy một tí để khỏi đụng chạm dự luận, tôi cả quyết rằng, trong sứ mạng
của tôi, mỗi năm chúng ta có thể thu về cho nước Pháp khoảng 20.000 người
bạn bằng cách làm cho họ theo đạo mà không cần cưỡng bách tí nào. Chắc chắn
tỷ lệ nầy sẽ gia tăng hàng năm, và có dủ lý do mạnh mẽ để hy vọng sau 30
năm, gần hết xứ Bắc kỳ sẽ theo đạo, nghĩa là thành người Pháp.”
Vai trò chính phủ
giới hạn trong việc “ngăn cản kẻ thù của thế lực Pháp chống đối lại phong
trào đổi đạo, đừng để họ dựng đứng lên các lời vu cáo chống lại những kẻ xin
theo đạo” và nhất là đừng dung tha các sự phá phách chống lại những người
nầy. Làm như thế, chinh phủ sẽ không thể bị một ai buộc tội là theo chủ
nghĩa ủng hộ giáo sĩ.
“Điều tôi yêu cầu đó
không thể làm mích lòng ai, cũng không còn phải gọi nó là sự bảo vệ, dù xa
xa, đó là sự công bình sơ đẳng mà mọi người đều có quyền. Xét cho cùng,
chúng ta có thể đành chịu, chúng ta can tâm biến mất đi miễn là hạnh phúc
chung vì thế mà có lợi, và nếu dân chúng hiểu được rằng kẻ thù của nước Pháp
không còn được tự do hành động để ngăn cản và đàn áp những người muốn theo
đạo và thành bạn bè của nước bảo hộ, là chúng ta sẽ thực hiện được kết quả
tốt nhất ngay cả về mặt khai thác thuộc địa.”
Vị giám mục chỉ trích
sự sai lầm của những kẻ không thấy đúng mức sự giúp đở của các kẻ truyền đạo
và các con chiên, những kẻ phục vụ tốt nhất mà nước Pháp có thể bắt gặp trên
con đường thực dân :
“Thế là ở thời buổi
chúng ta, và ngay cả ở Pháp nữa, ít người hiểu được chính sách thuộc địa,
phần đông có đầu óc đầy thành kiến và không biết nhận xét tình tyrạng thực
sự trong các xứ viễn đông. Chúng tôi, những nhà truyền đạo, chúng tôi có mặt
lâu tại Bắc kỳ, chúng tôi sống giữa dân chúng, biết họ kỷ lưỡng, chúng tôi
hiểu rõ được tình trạng và thái độ của mọi người, có thể nhận xét phương
tiện nào thích đáng và hiệu nghiệm nên dùng để biến người Bắc kỳ thành bạn,
chúng tôi thường than thở khi thấy nước Pháp đã phải hy sinh nhiều người và
nhiều của như thế mà không đạt được một kết quả dứt khoát.
Tôi không muốn chê
trách ai, dù là người của chính phủ, hay các vị chỉ huy tối cao, hay giới
chức thuộc cấp bậc nào đã hoạt động ở Bắc kỳ, tôi ghét đầu óc ưa chỉ trích,
và tôi là kẻ đầu tiên tha thứ lỗi lầm của chính quyền. Thật vậy, chúng ta
không thể đòi hỏi một kẻ chỉ sống có mấy tháng, hoặc nhiều nhất là một, hai
năm ở một xứ, ở xứ An Nam mà không biết tiếng nước nầy, vẫn cứ sống trong
môi trường người Âu, tôi xin nói rằng, chúng ta không thể đòi họ có những tư
tưởng thích hợp với chính trị phương Đông, cũng như với người và việc. Vì
thế không tránh được lỗi lầm.
Nhưng khi suy nghỉ
đến các phương tiện nên dùng, mục đích để đạt, tôi thường có những hối tiếc
chua chát khi nghỉ rằng chúng ta chưa đạt được hoàn toàn, tôi tin sâu xa
rằng, nếu có sự hiểu biết hơn về các người mà chúng ta hoạt động với họ, về
xứ sở mà chúng ta muốn đặt dưới ảnh hưởng Pháp, có lẽ chúng ta sẽ dễ dàng
giảm bớt được tầm mức rộng lớn của các hy sinh và đạt được một kết quả hữu
hiệu hơn, dứt khoát hơn. Chính tình cảm trung thành với đất nước và với
quyền lợi chung đã khiến tôi quyết định viết các văn thư nầy với mục đích
giúp những ai muốn biết sự thực được hiểu rõ hơn.
Tôi lên tiếng cả
quyết rằng : nước Pháp không có bạn bè nào tốt hơn là các nhà truyền giáo và
các con chiên, cũng không có kẻ nào phụng sự trung thành hơn và vô vị lợi
hơn. Vừa hoạt động để tôn vinh Chúa trời, cứu rổi linh hồn, các nhà truyền
giáo, tôi muốn lặp lại, tự thấy có bổn phận làm cho tổ quốc mình được hiểu
biết và yêu mến, Vừa dạy con chiên kính tyrọng và trung thành với mẫu quốc,
họ cũng làm cho những người nầy thành người bạn chân thật của nước Pháp.
Nếu chính phủ Pháp
muốn làm tại Bắc kỳ điều gì quan trọng, lâu dài, nếu muốn dựng nên một tình
trạng khiến bớt sợ sự tiếp giới với Trung quốc và khiến cho nước nầy kính nể
mình, không có phương tiện nào hữu hiệu hơn là giúp đở việc Thiên Chúa giáo
hóa xứ nầy. Phương tiện nầy cũng phải nên chấp nhận vì nó đơn giản, thực tế
và không tốn kém gì, nó càng có ích cho nước pháp vì nước Pháp ở xa Bắc kỳ
và vì trong những trường hợp cấp bách Pháp không thể gửi được các phương
tiện cấp cứu quá tốn kém và nhiều khi chậm trể tai hại.”
b- Điều thứ hai
phải làm là bải bỏ
chử Nho và thay thế lúc đầu, bằng tiếng Việt Nam, bằng chử viết Châu Âu gọi
là chử Quốc ngữ, rồi sau đó bằng tiếng Pháp. Không có phương tiện nào hữu
hiệu hơn để tiêu diệt tinh thần đạo Nho và uy thế to lớn của Văn Thân trong
dân chúng. Thật vậy, nếu không còn dạy và dùng chử nho nữa trong các văn
kiện chính thức, thì toàn thể sự hiểu biết của các nhà Nho nào có ích lợi gì
? Vì uy thế của những người nầy chỉ được xây dựng trên trí thức cổ điển, một
khi không còn cần đến nó nữa, những người nầy còn làm được trò trống gì ? và
nếu người Việt nam không còn đọc được sách cổ bằng chử Nho hay bằng chử Nôm
thì họ há không dần dần đi đến chổ không biết được văn hóa dân tộc cùng văn
minh của họ sao ? Triết học Khổng giáo, nền tảng của tổ chức chính trị và xã
hội trong nước há sẽ không bị chết dần mòn sao ?
Nhưng công việc nầy
phải tiến hành chậm chạp từng bước, và cũng đừng nói gì đến vì ngại va chạm
đến dân chúng quen dùng ngôn ngữ và chữ viết Trung quốc, vì lý do chính trị,
để tránh làm mích lòng nước Trung Hoa.
Từ lâu, tôi chủ
trương dạy và dùng chử Âu Châu để viết tiếng An Nam, nhưng khốn thay, tôi
không được ủng hộ trong việc thực hiện kế hoạch mà đã sáu lần tôi đề nghị.
Nhưng tôi sung sướng thấy từ hai năm nay, chúng ta hoạt động teach cực cho
mục đích nầy : Ngoài trường dạy tiếng Pháp của phái bộ là trường đầu tiên
được thiết lập ngày 8-12-1884, chính phủ còn lập nhiều trường khác từ ngày
5-4-1885. Cần phải dạy càng sớm càng tốt cho người An Nam đọc và viết tiếng
họ bằng chử Châu Âu, viêc nầy dễ hơn và tiện lợi hơn dùng chữ Nho . Trong
vài năm sau, cần phải bắt buộc mọi giấy tờ chính thức không được viết bằng
chữ Nho như trước nữa, phải viết bằng tiếng trong nước, mọi viên chức ít
nhất phải được dạy đọc và viết tiếng An Nam bằng chữ Châu Âu. Trong lúc đó,
việc dạy chữ Pháp sẽ tiến bộ và chúng ta chuẩn bị một thế hệ để cung cấp các
viên chức có học tiếng nuớc chúng ta . như thế có lẽ trong vòng 20 hay 25
năm, chúng ta sẽ có thể bắt buộc mọi giấy tờ đều viết bằng tiếng Pháp , do
đó chữ Nho dần dà chúng ta không cần nghiên cứu nó.
Khi chúng ta đạt được
thành quả lớn lao đó, chúng ta cướp mất của nước Trung Hoa một phần lớn ảnh
hưởng tại An nam, Phe trí thức An Nam là phe rất căm ghét sự thiết lập thế
lực Pháp, do đó bị tiêu diệt lần lần.
Vấn đề nầy có tầm
quan trọng rất lớn, sau khi đạo Thiên Chúa được thiết lập, tôi xem việc tiêu
diệt chử Nho và thay thế dần dần, ban đầu bằng tiếng An Nam, rồi bằng tiếng
Pháp, như là phương tiện rất chính trị, rất tiện lợi và rất hiệu nghiệm để
lập nên tại Bắc kỳ một nước Pháp nhỏ ở viễn đông.”
c- Ngoài việc Thiên chúa
giáo hóa xứ nầy và tiêu diệt chữ Nho, giám mục Puginier đề nghị một số biện
pháp khác thực tế để củng cố nền thống trị Pháp ở Bắc kỳ :
Thành lập tại ven
biên giới Việt nam tiếp cận trung Hoa các dân tộc thân hữu và muốn trung
thành với nước Pháp, dùng các dân tộc ít người trong việc bình định, đào tạo
một đội quân Pháp theo mẩu quân đội Ấn Độ xưa kia, tạolập một nông trại kiểu
mẩu do tu sỉ dòng Luyện tâm đảm đương, giảm bớt chi phí và thuế má để chinh
phục “con tim và khối óc” dân chúng v.v…
Giám mục kết luận :
“Gần 30 năm tôi làm việc trong phái bộ và tôi biết khá nhiều về đất nước nầy
để bảo đảm được rằng nếu chính phủ Pháp chấp thuận theo kế hoạch mà tôi hân
hạnh đưa ra, thì không bao lâu nữa, Bắc kỳ sẽ thành nước Pháp nhỏ ở viễn
đông và tôi hết lòng tha thiết muốn lập nên.”[32]
Người cầm đầu phái bộ
lớn nhất ở Bắc kỳ là giám mục Hà nội, đã giúp rất nhiều cho đoàn quân chiếm
đóng Pháp, nhờ sự hiểu biết rộng lớn về đất nước nầy, lúc nào Puginier cũng
là cố vấn được nghe theo nhiều nhất, là kẻ hợp tác mà giới chức Pháp tôn
trọng nhất, tóm lại, ông ta là Laviegerie ở Đông dương.[33]
Trong một “văn thư
dành cho Bộ trưởng” đề ngày 4-4-1884 Puginier được kể ra như là kẻ góp phần
nhiều nhất cho cuộc xâm lăng Bắc kỳ :
“Trong thư từ chính
thức của Thiếu tá Rivière và những người kế tiếp ông ở Bắc kỳ, giám mục
Puginier thường được nêu lên vì đã có những phục vụ lớn lao cho nước Pháp.
Nhờ có sức hiểu biết hoàn toàn của ông về xứ này, nhờ có nhiều tin tức do
thám do các tín đồ Thiên chúa giáo Bắc kỳ cung cấp mà bộ tổng tham mưu đã có
thể nhận được nhiều tin tức có ích về xứ nầy, về các tin tức ở Sơn Tây, Bắc
Ninh, Hưng Hóa v.v…. Chính nhờ có những chỉ điểm đó mà chúng ta tìm lại được
đầu của thiếu tá Rivière và các đồng đội không may của ông ta. Ở đây tôi
không nói vai trò chính trị mà Giám mục Puginier đã đóng từ khi chúng ta đến
Bắc kỳ. Thật vậy, ông ta đã nghe theo tiếng gọi vừa là quyền lợi của người
lãnh tụ Thiên chúa vừa là tình cảm yêu nước, và chính phủ có thể đi đến chổ
không tán thành hết mọi hoạt động của ông. Nhưng ngoài những nhận xét đó ra,
tôi thấy tuồng như khó mà bỏ qua không nói đến công việc đặc biệt mà giám
mục Puginier đã giúp cho đoàn quân Pháp chiếm đóng.”[34]
[1]
- Chỉ có Tổng
đốc Hà Nội là Nguyễn hửu Độ là tuân theo nhà cầm quyền Pháp vào
tháng 9 1883
[2]
- Do A.
Schreiner dẫn, Abrégé, d’Histoire Anamite, tr 427
[3]
- Michelet,
những kẻ nổi loạn ở Nghệ An, 1888 tr 221.
[4]
- Gosselin
L’Empire d’Annam, Porrin, Peris, 1904, tr 271.
[5]
- “L’Annam
pendant la conquête” Revue Ondochinoise, 10-12-1900 , tr1170-1172.
[6]
- Beille,
Souvenirs d’Annam (1886 – 1890 ) Paris 1891. tr 72
[7]
- Histoire de
l’Indochine, Hà Nội 1922, tr 136
[8]
- De
Pouvourville, La Politique Indochinoise, (1892-93) Paris 1894, tr
219
[9]
- A.L.Bouchet
Au Tonkin, Paris 1930, Trung tá Pérez (Hors des chemins battus,
1908)
[10]
- Chesneaux
Contribution à Paris histoire de la Nation Vietnam
[11]
- Công báo,
thảo luận quốc hội , 19-12-1883
[12]
- Nhà Thanh
phủ nhận rằng bản văn đã dự liệu một sự rút lui lập tức quân đội họ
ra khỏi Bắc ky như người Pháp đòi
[13]
- Một biến cố
địa phương tại Paris ngày 23-6 làm cho quân đội nhà Thanh và quân
đội Pháp chống nhau, Courbet nắm lấy cơ hội bèn tổng tấn công, Y đổ
bộ Đài loan nã đạn vào Phúc Châu , một cảng lớn miền Nam Trung quốc
và chiếm quần đảo Bành Hồ (?) (Pescadores) để bít đường ghe tiếp tế
gạo cho miền Bắc Trung quốc
[14]
- tướng
Négrier theo lệnh Paris, Paris muốn đè nặng lên các cuộc thương
thuyết đương tiến hành với Trung Quốc, đã xâm nhập vào đất đai Trung
quốc, nhưng y không ở lại đó được, vì phải đụng độ với lực lương to
lớn hơn . Trong cuộc rút lui, y bị thương, và người thay thế y, mất
hết bình tỉnh, đã ra lệnh tháo chạy hổn loạn và bỏ Lạng sơn ngày
28-3.
[15]
- Công báo,
thảo luận quốc hội 22-12-1885 , tr 316
[16]
- Do
F.charles Roux trích lại, Giám mục ngày xưa và sự mở rộng thuộc địa.
La Nouvelle Revue francaise d’Outre-Mar tháng 7 và 8 -1954.
[17]
- Công báo,
24-1-1896, tài liệu quốc hội 1717 , tr 1906
[18]
- Hardy, Les
Problème religieux dans l’Empire Francaise, Paris, P.U.F 1940.
[19]
- văn thư về
vấn đề Bắc kỳ 3-1884 , thư khố Bộ Pháp quốc Hải ngoại . A00 (30)
hay H.F. 541
[20]
- văn thư về
Bắc kỳ, 3-1884 , 3-1887 cùng chỉ dẫn
[21]
- De Lanessan
, La Marseillaise số 14-5-1883.
[22]
- Văn thư
dùng để nghiên cứu một trong các giai đoạn ở Bắc kỳ : cuộc khởi
nghĩa 13-9-1886, thư khố trung ương Đông Dương, đô đốc 11782.
[23]
- Le temps
10-12-1886
[24]
- Tình hình
Bắc kỳ, ngày 15-1-1891 . văn thư gửi Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa
ngày 5-2-1891, thư khố Bộ Pháp quốc hải ngoại A00 (30) hộp 2
[25]
- Văn thư
toàn quyền Picquet gửi Bộ trưởng ngày 28-6-1890 cùng chỉ dẫn.
[26]
- Báo cáo
27-3-1884 , thư khố trung ương Đông Dương , đô đốc 11624 và bản
nghiên cứu về tình hình Bắc kỳ ngày 10-6-1890 thư khố Bộ Pháp quốc
Hải ngoại , A00 (30) hộp 2
[27]
- Bản nghiên
cứu tình hình Bắc kỳ 10-6-1890 . tài liệu gửi thứ trưởng Bộ Thuộc
địa 26-7-1890
[28]
- Văn thư về
vấn đề Bắc kỳ 3-1884. Thư khố Bộ Pháp quốc hải ngoại, A00 (30) hay
N.F 541
[29]
- như trên
[30]
- Văn thư về
Bắc kỳ 3-1887
[31]
- như trên .
[32]
- Thư của
Puginier gửi Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa 6-5-1887 , thư khố bộ
Pháp quôc hải ngoại A00 (30) hay N.F 541
[33]
- F.Julien,
Đô đốc Courbet theo thư từ củ ông, Paris, Vistor Palmé, 1889, tr
264.
[34]
- văn thư
dành cho Bộ trưởng 4-4-1884 , thư khố Bộ Pháp quốc hải ngoại A00
(30) hay N.F 541. nghiên cứu các công việc của Puginier và các kẻ
truyền đạotrong những năm 1883- 1884trong thư từ và báo cáo sau đây
“
-
Thiếu tá Rivière 14-4-1883 ; thiếu tá Berthe de Villers báo cáo ;
Đại tá Badens báo cáo ; Đô đốc Mayer 23-6-1883 ; Thiếu tá Fournier
9-7-1883 ; Đô đốc Courbet 16-10-1883, 10-1-1884, 18-1-1884 ; Tướng
Bouet 24-7-1883 ; tướng Bichopt 14-9-1883 và 4-10-1883.
Những bài cùng tác giả.