Trích "Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân tại Việt Nam" nxb. Hương Quê 1988
Phần II: "CHÍNH SÁCH THỰC DÂN và CHÍNH SÁCH CỦA CÁC VỊ TRUYỀN GIÁO TẠI BẮC KỲ-
(MT đánh máy gửi SH).
Sau vụ tấn công 1867, người Pháp tìm cách làm cho triều
đình Huế thừa nhận một hiệp ước mới. Chủ quyền của Pháp ở sáu tỉnh miền Nam.
Huế không chịu vẫn giữ hy vọng thầm kính là cuộc chiếm đóng Nam kỳ sẽ ngắn
ngủi, cuối cùng người Pháp nếu không rút lui hoàn toàn thì ít nhất cũng có
những nhượng bộ quan trọng. Trong niềm hy vọng đó. Vua Tự Đức nghĩ đến việc
sau khi Pháp bị Đức đánh bại năm 1870 , phái sang Pháp một phái bộ khác để
thương thuyết trực tiếp với chính phủ Phápvề việc thu hồi các tỉnh đã mất.
Thay vì gây nên một cuộc nổi dậy giải phóng quốc gia để khôi phục lại Miền
nam, Tự Đức lại ru mình trong ảo tưởng là Pháp sẽ từ bỏ chính sách thực dân
tại Việt nam .
Cuộc thương thuyết về một hiệp ước kéo dài mãi cho đến
ngày Bắc kỳ trở thành trung tâm chú ý của các giới kinh doanh ở Pháp và ở
Nam kỳ. Là kẻ từ lâu chủ trương Pháp phải can thiệp vào Bắc kỳ , Đô đốc
Dupré, toàn quyền Nam kỳ bất chấp các mệnh lệnh được nhắc đi nhắc lạimãi ở
Paris, Y quyết định gởi một đoàn quân viễn chinh đầu tiên ra Bắc kỳ năm
1873.
I.- THỈNH CẦU CỦA ĐÔ ĐỐC DUPRÉ và CÁC CHỐNG ĐỐI CỦA
CHÍNH PHỦ PHÁP
Ngay từ năm 1872, Dupré đã gửi cho Bộ trưởng của Y hết
văn thư này đến văn thư khác yêu cầu chiếm giữ Bắc kỳ. “Tỉnh giàu có nhất
của nước An Nam” Y đã nêu lên hai lý do để biện minh cho lời yêu cầu của
mình : Trước hết cần phải chấm dứt tình trạng mập mờ, không cần biết lý do
của triều đình Huế gây cho người Pháp, cùng việc triều đình Huế cứ mãi tránh
né không chịu phê chuẩn hiệp ước mới. Đánh một trận vào Bắc kỳ vừa biểu
dương ý chí của nước Pháp muốn ở lại Nam kỳ, dù họ bị thua trận ở Châu Âu,
vừa là sự thúc bách có tác dụng đánh đổ các sự lần lửa của triều đình Huế và
buộc họ phải thương thuyết. Kế đến, điều này thật quan trọng hơn hết, nước
Pháp phải tự giữ vững để chống lại mọi sự nhường đất đai tiếp giáp với thuộc
địa của Pháp cho các cường quốc Âu Châu. “nhưng y nói, khổ thay, tôi có quá
nhiều lý do để tin rằng chính phủ đế quôc Đức,ngay từ bây giờ đã dòm ngó đến
xứ sở đẹp đẽ nầy (Bắc kỳ). Quả thật, số nhà buôn Đức đông đảo ở Viễn đông
không dấu diếm niềm hy vọng thấy một ngày gần đây chính phủ họ sẽ lập nên
một thuộc địa hùng mạnh tại vùng biển này để cạnh tranh thuộc địa chúng ta”[1]
Khi nhấn mạnh đến sự đe dọa của lòng tham muốn Bắc kỳ
của Đức, Dupré tưởng rằng tìm ra lý luận tốt nhất để đánh tan mọi do dự của
chính phủ ông. Ông đi vào chi tiết :
“Nhiều người không có tư cách chính thức, quả có như
thế, đến Huế và có những cuộc thương thuyết mà tôi chỉ có được tin tức mơ
hồ, có dư luận cho rằng họ bán cho người An Nam một pháo hạm Anh cũ, hiện
neo tại Sài Gòn, sau khi cố gắng đi ngược chiều gió mùa nhưng vô ích . Các
kẻ phiêu lưu sờ sờ đó được phái đi do một công ty Đức ở Hồng Kông mà viên
lãnh sự Đức là một trong những hội viên chính . Người ta nói rằng họ đã đệ
lên vua Tự Đức một hiệp ước 42 điều . Tôi không biết lời đồn đãi có đích xác
không. Tôi không rõ về những gì xảy ra ở Huế, những lời đồn đó có căn cứ vì
hai lần Huế cử quân sang Hương cảng”.Và viên Đô đốc yêu cầu ông Bộ trưởng và
Tổng thống Cộng hòa “lưu ý nghiêm chỉnh” về vấn đề này.[2]
Khi đó, các vị truyền giáo ở Bắc Kỳ cũng tìm cách
thuyết phục dư luận chính thức tại Pháp về một hành động bất thần của Đức ở
xứ này. Một bức thư đề ngày 14-9-1872 do Giám mục Nam Bắc kỳ gửi thẳng không
phải cho Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Thuộc địa mà là Bộ trưởng Chiến
tranh, đã xác nhận sự sợ hãi của Dupré về vấn đề nầy như sau :
“Những biến cố tại Pháp, bức thư viết, đã vang dội ảnh
hưởng đến đây, và các đau khổ của tổ quốc chúng ta đã làm phừng phừng nổi
hận thù và nổi hy vọng của kẻ thù chúng ta,. Vua Tự Đức tìm cách lợi dụng
mọi cơ hội để khôi phục lại sáu tỉnh bị Pháp chiếm đóng, rồi tự hẹn là sẽ
thanh toán nợ nần với con chiên, ông ta tin rằng là đã tìm ra người giúp đở
mạnh mẽ : nước Phổ .
Một tàu chiến nước này neo trong vịnh đã được đón tiếp
nồng nhiệt, các sĩ quan nhận nhiều tặng phẩm của vua. Người ta loan truyền
khắp nơi là nước Phổ hứa ủng hộ đánh đuổi người Pháp với một số điều kiện
nào đó””[3]
Bô ngoại giao dù thứa nhận rằng điều rất quan trọng cho
nước Pháp là không có một cường quốc nào, và nhất là nước Đức, chiếm đóng
một nơi nào tại Việt Nam, nhưng lại cho rằng các tin tức của Đô đốc Dupré và
Giám mục Nam Bắc kỳ còn quá mơ hồ để biện minh cho kế hoạch như chiếm đóng
Bắc kỳ. Bộ trưởng Rémusat viết : “Dù việc chiếm đóng xứ đó có quý giá đến
đâu , dù vị trí địa lý của nó có thuận tiện như thế nào đi chăng nữa, tôi
vẫn phân vân không tin rằng trong tình thế hiện tại chúng ta cần phải đề cập
đến hành động thuộc loại đó, vì chưa thấy hoàn toàn cần thiết để bảo vệ
quyền lợi hiện hữu của chúng ta”[4].
Bộ trưởng Hải Quân và Thuộc Địa, Đô đốc Pothuau cũng
ngả theo thái độ dè dặt của Rémusat, dù y bị đề nghị của toàn quyền Nam kỳ
hấp dẫn mạnh mẽ. Thật vậy, Y đã bày tỏ ý muốn trông thấy thế lực Pháp lan
tràn đến miền Bắc Việt Nam trong một văn thư gởi cho đồng nghiệp ở Bộ ngoại
giao, Y viết: “chắc chắn, hoặc sớm hoặc chậm chính sách của chúng ta ở Nam
kỳ đưa đến những sự bành trướng. Chúng ta phải tiên liệu sự tiêu diệt trong
tương lai một quyền bính không có yếu tố lâu dài. Chúng ta phải là kẻ thừa
kế, khi cơ hội đến không để cho bất cứ nước Âu Châu nào và chúng ta phải cẩn
thận đề phòng, ngăn ngừa việc chiếm đóng một phần nước An Nam ; sau rốt
chúng ta cũng phải đề phòng chống lại các kế hoạch có thể tạo cho chúng ta
một sự tranh chấp đáng sợ cộng thêm vào những nổi bối rối sẵn có của chúng
ta. Có thể một điều khôn ngoan khi vội giải quyết xong một vấn đề mà có lẽ
chúng ta quá chần chừ trước khi biến thành một mối tranh chấp lớn lao cho
chúng ta … Tôi xin lập lại, đó là những vấn đề rất quan trọng …”[5]
Sự dè dặt của Bộ Ngoại giao do các lý do khẩn thiết
quyết định. Người Phổ vẫn còn chiếm một phần đất đai của Pháp, nước Pháp
không có lính, không có tiền trong khi phải trả tỷ bạc cuối cùng cho Đức
ngày 5-9-1873 . Nhất là sau các tàn phá của chiến tranh 1870 và những mầm
mống chia rẻ sau Công Xã, nước Pháp thấy cần tập trung lực lượng để lập lại
nền thống nhất và chuẩn bị phục thù. Nhưng Dupré tin chắc rằng cuộc viễn
chinh y dự trù không tốn kém gì cho Pháp cả. Để yên tâm Paris, y đề nghị một
công thức can thiệp mới để đặt chân lên Bắc kỳ mà không hề gây hấn với triều
đình Huế. Pháp sẽ đồng minh và giúp triều đình Huế khôi phục lại quyền bính
ở Bắc kỳ. Y hy vọng việc can thiệp bằng quân sự nầy vào vấn đề Việt Nam sẽ
là bước đầu đưa đến cuộc bảo hộ, vì lẽ không có gì dễ cho bằng kéo dài việc
chiếm đóng . Với nửa tá đại đội lính Pháp, một đội pháp binh dã chiến, một
đội sung liên thanh, cùng 1.000 hay 1200 lính bản xứ, y tin tưởng đủ sức đẩy
lui các toán quân Trung Hoa đang quấy nhiểu miền thượng du Bắc kỳ và giữ các
tỉnh ven biển.[6]
Cũng như bao giờ, Bộ thuộc địa hoặc ít hoặc nhiều tán
thành kế hoạch Dupré. Bộ nầy cho rằng, quả thật quyền lợi Pháp ở Đông Á tùy
thuộc vào những tài nguyên mà Pháp sử dụng được trong tình thế khó khăn lúc
đó. Nhưng lại cũng không kém khẩn cấp phải có những cố gắng cần thiết để
“loại trừ mối đe dọa của sự can thiệp bên ngoài vào những vấn đề của vương
quốc An Nam và để đưa đến một giải pháp cho tình trạng hiện thời”[7]
Như thường lệ, Bộ Ngoại giao khuyên phải thận trọng.
“quả thật là rất khó, Bá tước De Broglie viết cho đồng nghiệp ở Bộ thuộc
địa, mà định trước được các diển biến tiếp theo của một sự can thiệp như
thế, cũng như những gánh nặng nó đè lên đất nước. Đằng khác, khi kích thích
tính dễ giận của Trung Quốc, hay các cường quốc khác thấy khó chịu khi thấy
địa vị ưu thắng của chúng ta tại Bắc kỳ, chúng ta sẽ gây nên những rắc rối
tai hại, và những nhận xét đó cũng khuyên chúng ta đừng có dấn thân vào một
việc thuộc loại đó trong lúc nầy, trừ phi bị bức bách vì một sự cần thiết
tuyệt đối”[8].
Trong khi ấy, tình trạng Bắc kỳ ngày càng xấu đi, Các
báo cáo của những vị truyền đạo gởi cho Dupré trình bày những thất bại nhục
nhã của quân đội chính phủ trước các người nổi loạn ở Bắc kỳ “cuộc chiến nầy
làm hao mòn tài chánh và tàn sát giới thượng lưu”, Giám mục Gauthier đã viết
như thế và còn than phiền về những việc sách nhiểu con chiên. Giám mục viết
tiếp “theo tôi, khi nói đến triều đình Huế và quan lại, các người đó chỉ
nghe theo tiếng gọi của đại bác, còn thì điếc hẳn không nghe gì khác”[9].
Tình hình ngoài Bắc càng xấu, Dupré càng sốt ruột,
trong thư từ với Bộ trưởng, y không che dấu nổi bất bình trước đường lối
thận trọng của chính phủ và công khai tuyên bố việc nước Pháp chiếm “xứ giàu
có nầy tiếp giáp với Trung quốc và là cửa ngỏ thiên nhiên vào các tỉnh giàu
có ở miền Tây nam của nó” là một “vấn đề chết sống cho tương lai nền thống
trị của Pháp ở viễn đông. Chúng ta phải ở đó, y xác nhận, hoặc như là đồng
minh của Vua Tự Đức, để tái lập uy quyền của ông ta khiến mọi người phải
nghe theo, hoặc bằng cách chiếm đóng quân sự”.[10]
Cuộc chiếm đóng quân sự có giới hạn : Pháp chỉ chiếm Hà
nội- kinh thành- vùng đồng bằng sông Hồng Hà và vùng thượng lưu sông này ở
phía trên kinh thành. Bốn đại đội bộ binh, một đội pháo binh dã chiến, một
tàu tuần hạng nhất hoặc hạng nhì, một vài pháo hạm nhỏ và một xà lúp là đủ-
theo Đô đốc- để thực hiện kế hoạch.[11]
Lần nầy câu trả lời của Bộ Hải quân và thuộc địa rất
cương quyết : “tình thế chúng ta ở Châu Âu tuyệt đối buộc chúng ta đừng gây
bất cứ rắc rối nào ở bất cứ ở đâu”, chúng ta thấy những dòng chử đó trong
một điện tín gởi cho Dupré ngày 26-7-1873
[12] Chính lúc vụ Dupuis xảy ra.
Nguyên là một con buôn khí giới ở Thượng hải trong giai
đoạn viễn chinh tấn công Trung quốc và cuộc cách mạng Thái Bình, kế đến tại
Vân Nam, y hội kiến với tướng trung quốc Ma-To-Gen đang dẹp cuộc nổi loạn
của người Hồi tại đó, Y đề nghị bán khí giới và mua thiết. Cuối năm 1872, dù
hoàn toàn trái ngược với hiệp ước 1862, y băng qua Bắc kỳ để lên Vân Nam và
dẩn đầu lối mấy trăm lính đánh thuê Châu Á và 23 tên phiêu lưu da trắng mà
tư cách không có gì bảo đảm, nhưng người ta ràng buộc danh dự nước Pháp vào
đó.
Các quan Bắc kỳ đã có một thái độ hòa hoản với Dupuis
trong chuyến đi đầu tiên của y
[13]. Nhưng khi y muốn trở lại Vân Nam và mang theo muối gạo, các
quan bao vây đoàn người vì những hàng hóa đó đang bị cấm xuất khẩu. Dupuis
bèn dùng vũ lực đóng tại một đường phố Hà Nội, cầm giữ mộ ít viên chức Việt
Nam, dọa bắn phá thành phố, trương cờ Pháp lên trên những pháo hạm và phái
tên phụ tá Millot của y vào cầu cứu Sài Gòn.
Đô đốc Dupré liền chụp lấy cơ hội. Đang ở sâu trong
Trung quốc, y triệu viên sĩ quan rành nhất về vấn đề Việt Nam là Trung tá
hải quân Francis Garnier và gởi một bức điện về Paris khẩn thiết yêu cầu
chiếm Bắc kỳ : “Nhờ thành công của thí nghiệm Dupuis mà Bắc kỳ đã mở cửa.
Ảnh hưởng lớn lao trong thương mại Anh, Đức, Mỹ, tuyệt đối cần thiết chiếm
lấy Bắc kỳ và dành cho nước Pháp con đường độc nhất đó. Không yêu cầu sự
giúp đở nào, chiếm bằng phương tiện riêng của tôi chắc chắn thành công”[14].
Thật vậy, người ta sợ gì một xứ mà 23 tên Pháp và một
nhóm người Á châu đã đi băng qua mà không bị trừng trị gì cả ? Kinh nghiệm
nầy há không đủ cho mọi người thấy sự bất lực cùng cực của triều đình Huế
sao ? và làm sao quên được sự giúp đở của “500.000 con chiên” sốt ruột chờ
người Pháp đến ?
“ Tôi chỉ nói theo trí nhớ, Dupré viết cho viên Bộ
trưởng, 500.000 con chiên đó chiếm 1/20 dân số cả nước mà các giám mục đã
hứa với tôi về sự giúp đở tích cực của họ. tôi biết có những ước tính sai
lầm quan trọng về điểm này khi chúng ta tuyên chiến tại Nam kỳ ; có lẽ vẫn
còn sai lầm nữa nhưng chắc chắn là nhỏ hơn và có lẽ không nên xem thường sự
giúp đở của các con chiên đông đảo tại một vài tỉnh, trong đó có một số ít
người có kiến thức, giàu có, thế lực. Chúng ta có thể dùng một cách có ích
sự hiểu biết sâu xa xứ sở của các giám mục và các nhà truyền giáo đã ở đó
lâu năm, tự do đi lại khắp nước từ ngày họ không bị đàn áp, trong khi các
nhà truyền đạo tại các tỉnh miền Nam bắt buộc phải trốn tránh ban ngày và
chỉ xuất hiện ban đêm trong các ghe mở trống và không biết xứ này hơn chúng
ta”[15]
Phái đoàn Pháp tại Quảng Đông đã có những liên lạc chặc
chẽ với phái đoàn Thiên Chúa giáo tại Hương Cảng biện hộ cho kế hoạch Dupré.
Viên lãnh sự Chappedelaine viết cho ông Quai d’Orsay “ không cần đến 2000
người và 4 tàu tuần như ông Senez đã nói, mà chỉ cần một vài pháo hạm nhỏ đã
giải giới tại Sài Gòn và một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ được phái ra cửa
sông Cấm là đủ biến Bắc kỳ thành thuộc địa, 6000 tín đồ Thiên Chúa Giáo mà
giám mục Puginier chịu giúp cho và được một vài huấn luyện viên hướng dẫn là
đủ bảo vệ cả xứ chống lại người An Nam từ Huế kéo ra, họ chỉ có thể theo một
ngã đèo mà một số ít người cũng có thể giữ được dễ dàng … Nếu bằng một ít
tài nguyên nhỏ bé mà có thể mang lại cho Pháp một thuộc địa gồm 15 triệu dân
có 500.000 con chiên, chúng ta không đáng chịu sự trách móc là quá e dè sao
? .. Đây không phải là một cuộc viễn chinh có chuẩn bị trước, mà là một trận
đánh chỉ dùng đến tài nguyên ở thuộc địa và có thể với sự giúp đỡ của một
phần hạm đội nhỏ của hải quân.
“Không thiếu gì lý do để bào chửa cho cuộc viễn chinh,
không nói đến các tổn hại trước đây, có gì tự nhiên hơn phái một tàu chiến
và một ít người đổ bộ lên chiếm thành phố Hà nội để bảo đảm các cuộc thương
thuyết lở dở ở Sài Gòn ? Nếu sự việc không đúng như ông Dupuis, bạn bè ông
cùng những giám mục trình bày, việc chiếm chốc lát một điểm ven biển Bắc kỳ
sẽ không có ai để ý đến …”[16]
Cả Bá tước De Bruglie, Bộ trưởng Ngoại giao, ngày 24
tháng 5, cũng như đồng nghiệp hải quân của ông, Đô đốc Dompiere d’Hornoy,
không ai chịu nhượng bước trước đề nghị của Dupré. Vì thế Đô đốc Hornoy viết
cho y : “tình thế tại Âu Châu buộc chúng ta tuyệt đối tránh các rắc rối bên
ngoài dù với những nhận xét để điều khiển chính sách và những cuộc hành quân
mà ông đề nghị là gì đi nữa. Vì thế tôi lập lại chỉ thị, ông hãy tránh mọi
biểu dương tại Bắc kỳ trong lúc này”[17].
Ngoài các khó khăn nội bộ, Bộ Ngoại giao còn sợ hành
động của Pháp tại Bắc kỳ sẽ làm các nước khác, nhất là Anh, bất bình. Theo
Quai d’Orsay, những cố gắng mà nước Anh cố làm để thiết lập giao thông với
Vân Nam qua ngã Diên Điện cho thấy eõ là muốn bảo đảm cho các nhà buôn được
tự do đi vào tỉnh này để từ đó đến các nơi, D’Orsay nghĩ, vì thế không thể
nghi ngờ là nội các Luân Đôn đã tức giận về việc Pháp chiếm đóng Cambodge,
không thể không lo âu khi thấy pháp lại làm chủ Bắc bộ được.[18]
Mặc khác, chắc chắn là một khi dấn thân thì không có thể dừng lại và vì Nghị
viện Pháp bất bình trước cuộc viễn chinh đầy hao tốn, chính phủ chắc chắn
không sẵn sang chịu những hy sinh cần thiết để rút tĩa những gì có ích trong
sự chiếm đóng đầu tiên đó.[19]
Dupré cúi đầu trước mệnh lệnh của chính phủ nhưng vẫn
cho họ biết rằng nếu chính triều đình Huế yêu cầu can thiệp, y nhật định
không bất động. “Trong trường hợp đó sự từ khước của chúng ta sẽ là bằng cớ
cho sự bất lực gây nên một sự nguy hại không thể sửa chữa được cho quyền lợi
hiện tại và tương lai của chúng ta”[20].
Đúng như y mong đợi, triều đình huế quá lo tôn trọng
các điều khoản hiệp ước 1862 đã viết cho y một văn thư đề ngày 22-9 để yêu
cầu y hoặc ra lệnh bảo Dupuis rời khỏi Bắc kỳ hoặc phái một sĩ quan với một
vài cận vệ thôi ra để giải quyết vấn đề. Ngoài ra huế có tiếp xúc nữa chính
thức với giới chức Anh ở Hồng kông để yêu cầu trục xuất Dupuis ra khỏi bắc
kỳ.
Không đợi lệnh Ba lê. Dupré lập tức chuẩn bị cuộc xuất
chinh, y nói, lời yêu cầu của Huế cùng việc xảy ra ở Hồng kông đặt y trong
tình thế vô cùng cấp thiết mà các chỉ thị của bộ đã tiên liệu.
Quyết định thình lình này của Dupré đã làm cho viên Bộ
trưởng hải quân và thuộc địa hết sức lo âu, y đặc biệt lo sợ về các khó khăn
tài chánh mà việc làm của Thống đốc Nam kỳ có thể kéo theo, Chúng ta thấy
nổi lo lắng đó trong thư dài dẫn sau đây :
“Có thể đang lúc tôi viết đây, ông đã phái Garnier
cùng với lực lương mà ông muốn cử theo. Tôi hết sức lo về quyết định đó của
ông …. Nhưng nếu đoàn quân đã lên đường , ông đừng quên rằng ý muốn dứt
khoát của chánh phủ là dù thế nào cũng chỉ thực hiện một hành động tạm thời
rất hạn chế. Không vì bất cứ cớ gì mà ông được quyền chiếm một điểm trong xứ
như ông nói. Lại càng không được liệu trước một sự chiếm đóng vĩnh viễn.
trong hiện tại cũng như trong tương lai. Cả trong trường hợp nền bảo hộ được
chấp thuận và thừa nhận, chúng ta cũng đừng nghĩ đến việc chiếm Bắc kỳ. Nếu
trong trường hợp giúp triều đình Huế quét sạch hết các tên cướp biển, và về
sau nầy trừ tuyệt các tên trộm cướp tàn phá xứ sở, hành động chúng ta phải
gần tuyệt đối, bằng hàng hải và chỉ thực hiện trong những khi tuyệt đối cần
thiết, bằng các cuộc chinh phục chớp nhoáng và mạnh mẽ mà không cần đến sự
trú đóng thường xuyên hay gia tăng lực lượng, nhất là gia tăng phí tổn.
Tôi không cần phải lưu ý ông là chiếm một điểm ở Bắc
kỳ với số binh sĩ đi theo ông Garnier là đưa đoàn quân ra cho người ta tấn
công một cách không cần thiết, rồi sớm hay muộn ông cũng phải tăng cường,
thế là đi vào con đường chiếm đóng vĩnh viễn mà ông tuyệt đối không được
nghĩ đến. Thế là đưa chính phủ vào trong vòng khớp mà họ muốn xa lánh với
bất cứ giá nào. Quốc hội lúc nào cũng sợ hãi về các chi phí mà các sự chiếm
đóng ở hải ngoại gây ra. Họ than phiền là không được đền bù lại bằng các lợi
ích buôn bán và bằng các điểm tựa cho hải quân chúng ta.
Chắc chắn Nam kỳ đem lại cho chúng ta các hy vọng
chính đáng. Nhưng việc cai tri 5 xứ này lại khiến chính quốc tốn thêm
5.000.000. Tôi biết lợi ích gia tăng lớn lao, nhưng chúng ta đừng gây ảo
tưởng cho mình. Thịnh vượng do tiến bộ về buôn bán đem lại không phải là
nguyên nhân duy nhất cho sự gia tăng đó, việc thiết lập các sắc thuế mới đã
đóng góp vào rất nhiều và chính ông cũng thừa nhận rằng thuế quá nặng. Ông
còn phải đợi lâu nữa đễ cho việc phát triển sản xuất, đưa đến việc gia tăng
thu hoạch mới. Vì thế chúng ta lại phải xin tiền ở ngân sách chính quốc, nếu
chính sách chúng ta ở Bắc kỳ cần gia tăng chi phí. Về điểm này, ông nên biết
rõ, chúng ta nhất định bị thất bại. Ông không biết được các cố gắng mà tôi
phải vận động với Ủy Ban Ngân sách Quốc hội, để gởi nguyên cho ông số tiền
hiện giờ mà tôi cho là cần thiết cho thuộc địa. Tôi nghĩ cần bảo vệ quyền
lợi bằng tất cả nghị lực mà lòng tin sâu xa vào các nhu cầu của chúng ta đem
lại. Tôi không tránh được thất bại trước sự chống đối quyết liệt của Ủy ban
và của Quốc hội trước mọi yêu cầu đóng góp mà lý do là sự gia tăng thuộc địa
ở ngoại quốc của chúng ta”[21].
Ngày 10-10-1873, Garnier nhận được các chỉ thị đầu
tiên. Hôm sau, Dupré gửi cho Thượng thư lo việc ngoại giao ở Huế một thư
than phiền về thái độ giới chức Bắc kỳ đối với con chiên và đề nghị thay thế
các quan căm thù đạo Thiên Chúa và nước Pháp bằng các quan sẵn sàng cộng tác
với Pháp hơn. “Làm sao họ cả gan dám làm việc đó, Dupré đặt câu hỏi khi nói
đến các quan Bắc kỳ, nếu họ không cảm thấy được sự ủng hộ bởi các người có
thế lực trong nội các Hoàng thượng, chống đối mọi liên minh với chúng tôi và
sôi sục lòng căm thù đối với các người theo đạo vô tội, nếu các giới chức
cao cấp địa phương che chỡ họ, không bảo đảm là không trừng phạt họ ? Chắc
chắn bước đầu tiên phải làm để đi đến sự tin cậy lẫn nhau là thay thế các
viên chức cao cấp của Huế và Bắc Kỳ đã công khai thù địch nước Pháp bằng
những người sáng suốt, chủ trương đồng minh với chúng tôi hay ít nhất cũng
bằng những người mà thái độ trước kia không cho thấy là kẻ thù công khai,
quyết liệt của chúng tôi”[22].
Các dòng trên được khởi hứng từ sự lo lắng chuẩn bị
khung cảnh thuận lợi cho pháo bộ Garnier. Chúng nhắm vào nguyên soái Nguyễn
Tri Phương, Tổng đốc Hà Nội, nhà ái quốc vĩ đại, chủ trương kháng chiến, mà
thái độ cương quyết trong vụ Dupuis không làm vui lòng giám mục Puginier,
đại diện Tòa thánh tại Tây Bắc kỳ, người đóng vai trò đầu não trong các biến
cố 1873.
Mục đích của phái đoàn Garnier là gì ? và Garnier là ai
?
II. CÁC CHỈ THỊ CỦA GARNIER.
Viên trưởng của phái bộ gọi là trọng tài được lệnh trục
xuất Dupuis, mở sông Hồng Hà cho việc buôn bán và kéo dài sự chiếm đóng.
Về điểm 1, Garnier lo tìm một vị trí vững chắc mà y xem
như là thích hợp nhất để hoàn thành công tác, lo chọn một cảnh dùng làm căn
cứ hoạt động sau nầy khi hữu sự, lo mở một cuộc điều tra về các điều mà
triều đình Việt nam trách móc Dupuis cùng các lời khiếu nại của tên này, và
lo tìm cách sử dụng mọi thế lực của mình khiến cho Dupuis cùng các người của
y rút khỏi Bắc kỳ.
Về điểm 2, Garnier phải làm mọi cách để ngay sau khi
Dupuis đi rồi, sông Hồng Ha tạm thời mở cửa cho tàu bè Việt Nam, Pháp, Trung
hoa với tiền quan thuế vừa phải (50%). Khi ngược cũng như khi xuôi giòng
sông, theo Dupré,Hà Nội nằm trên chổ tàu bè phải đi qua, việc thu thuế rất
dễ và số tiền thu được sẽ quá số tiền chi cho việc chiếm đóng hạn chế.
Về điểm 3, là điểm quan trọng nhất, Garnier phải kéo
dài việc chiếm đóng cho đến lúc thuận tiện,- việc này tùy thuộc vào các cuộc
thương thuyết ở Nam kỳ - tuyên bố duy trì việc chiếm đóng kinh đô và sông
Hồng. Việc chiếm đóng này được bảo vệ bằng hai đại đội từ Yokohama phái
sang, một ít pháo binh nhẹ và một vài pháo hạm nhỏ.
“ Không chinh phạt, không bạo hành, Dupré nói, nhờ đó
chúng ta làm chủ tình thế và tự do chờ đợi mà không phải di chuyển lực
lượng, không chi phí to lớn và chính phủ An Nam bất lực không tấn công được
chúng ta, sau cùng đành khuất phục”[23].
Cuối cùng, ngay khi đến, viên trưởng phái bộ Pháp phải
liên lạc với các giám mục Pháp và Tây Ban Nha để nhờ giúp đở : “Tôi đã chính
thức báo trước cho các Giám mục về công tác mà ông sẽ làm, Dupré viết cho
Garnier trong chỉ thị đầu tiên ngày 10-10-1873, tôi yêu cầy họ tân lực giúp
đở ông. Ông sẽ có những liên lạc mật thiết với các Giám mục Pháp cũng như
với Giám mục Colonier, ngoùi đã cho ông Senez thấy các bằng chứng rõ ràng về
thái độ sẵn sàng tuyệt hảo của mình. Ông yêu cầu họ khuyên những con chiên
hãy kiên nhẫn, tạm thời khuất phục hoàn toàn trước chính quyền, đừng ồn ào
phách lối, đừng phản ứng quá sớm, tóm lại, đừng có một hành động nào để
người ta phản đối tôi khi sau nầy tôi dành toàn quyền về cho họ. Ông sẽ gặp
ở các phái bộ một nguồn tin tức có ích về mọi vấn đề, và có thể, cả phương
tiện liên lạc chắc chắn với Sài Gòn nữa.”
“…nếu ngân quỷ ông hết trước khi nhận được số tiền mới,
tôi tin chắc rằng trong số các giám mục, ông sẽ tìm được những vị ứng trước
số tiền cần thiết rồi sẽ hoàn lại cho họ sau hoặc ở Bắc kỳ hoặc ở Sài gòn
ngay trong dịp đầu”.[24]
Từ lâu, Francis Garnier hoạt động trong tình trạng hơi
khó khăn. Quá nhiều tham vọng để kiên nhẫn theo đuổi thủ tục dài dòng và
nặng nề với đẳng cấp hải quân, y đã hăng hái vồ lấy con đường độc lập hơn,
lý thú hơn, được ban thưởng nhiều hơn, mở ra cho y trong các vấn đề bản xứ ở
Nam kỳ. Nhưng không được bao lâu, y thấy tiền đồ đụng vào ngỏ cụt và chỉ còn
muốn trở về ngạch sĩ quan chiến hạm bằng cách làm một vài việc cầu may, để
bù lại thời gian đã mất vô ích và thoát khỏi các công việc bạc bẽo của sĩ
quan trực trên một chiếc tàu, để đạt được tức thì cấp bậc, đem lại quyền uy
và đặc quyền về quyền chỉ huy. Trong khi chờ đợi và lo tìm một ngỏ thoát
khác, Garnier được nghỉ phép. Y lợi dụng thời gian này để tiếp xúc các nhà
buôn bán, quyết định sẽ theo đuổi sự nghiệp bằng đường lối này nếu chân trời
không mở ngã khác cho y.
Chính trong tình thế đó, Dupré, người biết được giá trị
của y, bèn tìm và giao cho Garnier “công tác trọng tài” mà không một lương
tâm nào có thể can thiệp vào ý nghỉ thầm kính của mỗi diển viên để đạt mục
đích ước mơ.”[25]
Việc Dupré chọn tên phiêu lưu có thực tài và thông minh
này nhưng lại cũng sẵn sàng đi đến bất cứ chổ cực đoan nào để thành công, đã
gây nhiều lo lắng cho viên Bộ trưởng Hải quân và thuộc địa, ông không che
dấu viên Thống đốc Nam kỳ điều đó :
“…Ông Thống Đốc, tôi xin nói thêm là tôi không mấy tán
thành về việc ông chọn Garnier, tôi không muốn hạ giá trị viên sĩ quan đó,
nhưng vì bản tính quyết liệt và phiêu lưu của ông ta, tôi tự hỏi đó có phải
là người thích hợp cho công tác không. Ông ta đã quá tin chắc vào quyền lợi
mà Pháp có thể có được khi mở con đường hướng đến các tỉnh Nam Trung quốc mà
ông ta đã viếng, đo đó, có lẽ những nhận xét khuyên chúng ta phải dè dặt
không đè nặng lên tư tưởng ông ta mà chính ông ta phải lo sợ về hậu quả lôi
kéo sau đó. Ông Senez cũng có thái độ như thế và đã đưa đi quá xa ngoài ý
muốn của ông và ông phải đề phòng mối hiểm nguy đó.”[26]
Về phần Garnier, say sưa trước viễn ảnh mở rộng cho y,
trước khi lên đường, y đã viết các dòng đầy hiếu chiến sau đây cho gia đình
:
“Đây là một viễn chinh nhỏ mà tôi thích, Tôi có khả
năng kêu gọi đến, nếu cần, đại đội đổ bộ của tàu D’Estrées, còn chỉ thị, một
cái phiếu trắng ! Đô đốc tin cậy ở tôi. Tiến lên, nước Pháp già nua này !.”[27]
Ngày 1-11 đến Bắc kỳ, Garnier liên lạc ngay với các
giám mục và trao thư của Đô đốc Dupré.
CHÚ THÍCH
[1]-
Dupré gởi cho Bộ trưởng hải quân và thuộc địa , 22-12-1872 . Thư
khố Bộ Pháp quốc hải ngoại A 30 (18) hộp 12
[2]
- cùng văn thư
[3]
- Thư khố bộ ngoại giao . Đông Dương 1871-1873, tập 31 tr 142
[4]
- Bộ trưởng Ngoại giao gởi Bộ trưởng hải quânà thuộc địa ngày
22-2-1873 , Thư khố bộ Pháp quốc Hải ngoại A 30 (18) hộp 12
[5]
- Thư khố Bộ Pháp quốc hải ngoại , cùng chỉ dẫn
[6]
- Dupré gởi Bộ trưởng Hải quân 17-3-1873, văn thư mà Bộ xem là quan
trọng . Thư khố Bộ Pháp quốc Hải ngoại , cùng chỉ dẫn
[7]
- Bộ trưởng thuộc địa gởi Bộ trưởng ngoại giao 8-5-1873. Thư khố bộ
Pháp quốc hải ngoại , cùng chỉ dẫn.
[8]
- Bộ trưởng ngoại giao gửi Bộ trưởng Thuộc địa 18-6-1872 . Thư khố
Bộ Pháp quốc hải ngoại , cùng chỉ dẫn.
[9]
- Giám mục Gauthier gởi Dupré 12-2 và 19-2-1873 cùng chỉ dẫn .
[10]
- Dupré gởi Bộ trưởng Bộ Thuộc địa 19-5-1873 cùng chỉ dẫn.
[11]
- như trên , ngày 7-7-1873 , cùng chi dẫn
[12]
- Thư khố Bộ Pháp quốc hải ngoại , cùng chỉ dẫn
[13]
- Trung tá hải quân Senez điều khiển tàu Bourayner, viết cho triều
đình Huế để gởi gấm Dupuis “ tôi được, y viết, thống đốc Sài Gòn
cho phép nói với quý vị rằng chính phủ Pháp sẽ rất hài lòng khi
thấy chính phủ An Nam cho phép ông Dupuis đi Vân Nam ngang qua lãnh
thổ để nối và thiết lập lại các liên hệ buôn bán mới” .Thư ngày
19-11-1872 . Thư khố Bộ Pháp quốc hải ngoại A 60 (1) hộp 24
[14]
- Điện tín ngày 28-7-1873 , trích trong kỷ yếu Hội nghiên cứu Đông
dương, tuần 2 1947
[15]
- Dupré gửi cho Bộ trưởng hải quân và thuộc địa 28-7-1873 ( văn thư
mật) . Thư khố Bộ Pháp quốc hải ngoại , cùng chỉ dẫn.
[16]
- Armand Rivière trích dẫn, Viễn chinh Bắc kỳ, những tráchnhiệm . tr
3,4 Paris E.Bloch , 1855
[17]
- Điện tín 8-9-1873 , thư khố Bộ ngoại giao , Châu Á , tập 31 tr
217, Thư khố Bộ Pháp quốc hải ngoại , A 30 (18) hộp 12
[18]
- Bộ trưởng ngoại giao gửi Bộ trưởng hải quân và thuộc địa
29-9-1873 .Thư khố Bộ Pháp quốc hải ngoại , cùng chỉ dẫn.
[19]
- Bộ trưởng hải quân và thuộc địa gửi Dupré , 8-1873 ( ngày không
rõ) . Thư khố Bộ Pháp quốc Hải ngoại , cùng chỉ dẩn.
[20]
- Dupré gởi Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa, 11-9-1873 . Thư khố Bộ
Pháp quốc Hải ngoại, cùng chỉ dẫn
[21]
- Thư bản chính của Bộ trưởng Hải quân gởi Dupré ( không đề ngày)
cùng chỉ dẫn.
[22]
- Văn thư của Dupré gửi cho Thượng thư lo về ngoại giao của Huế ngày
11-10-1873 , cùng chỉ dẫn
[23]
- Dupré gửi Bộ trưởng hải quân và Thuộc dịa , 7-10 và 8-11-1873 ,
cùng chỉ dẫn.
[24]
- Dupré gửi Garnier, cùng chỉ dẫn.
[25]
- Vấn đề Bắc kỳ và Nam kỳ . Thư khố Bộ Pháp quốc Hải ngoại . cùng
chỉ dẫn
[26]
- Bản thư chính không đề ngày , Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa gửi
Dupré . Thư khố Bộ Pháp quốc hải ngoại , cùng chỉ dẫn
[27]
- Garnier gửi cho anh, 8-10-1873 . Thư khố Bộ Pháp quốc Hải ngoại .
A 60 (3) hộp 24
Những bài cùng tác giả.