Chung Quanh Vấn Đề Nhận Thức Và Đánh Giá Hồ Chí Minh Hiện Nay

Chung Quanh Vấn Đề Nhận Thức Và Đánh Giá Hồ Chí Minh Hiện Nay

Lê Kỳ Sơn /NCLS

Nguồn http://nghiencuulichsu.com Tháng Năm 19, 2015

Link http://sachhiem.net/THOISU_CT/ChuN/NghiencuuLS.php

27-Jun-2017

...Đánh giá vai trò của một học thuyết hay một vĩ nhân cần đứng vững trên quan điểm lịch sử cụ thể. Lịch sử không đứng yên, mà luôn luôn vận động, biến đổi. Chủ nghĩa tư bản ở thời kỳ hoang dã, đi xâm chiếm thuộc địa, thì từ đầu đến chân nó đều thấm bùn và máu; khác với chủ nghĩa tư bản hiện đại, biết phát huy sức mạnh của văn hóa, khoa học-công nghệ, dân chủ, pháp quyền,…để dần dần lột xác, trở thành văn minh. Cũng như vậy, chủ nghĩa cộng sản đầu thế kỷ XX và Quốc Tế 3 thời Lênin cũng khác với chủ nghĩa cộng sản đã bị Stalin hóa, Mao-ít hóa sau này. Nếu Quốc Tế 3 không công khai ủng hộ các dân tộc thuộc địa – nếu cũng chỉ như Quốc Tế 2 – chắc gì Nguyễn Ái Quốc đã ngả theo chủ nghĩa cộng sản?

Mục Lục:

- Dẫn Nhập:

I. Ai là người đầu tiên đưa chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam?

II. Đảng CS Việt Nam thành lập, có phải do Nguyễn Ái Quốc chủ xướng?

III. Hồ Chí Minh tái hòa nhập với Moscow và phe xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh nào?

IV. Vai trò và trách nhiệm của Hồ Chí Minh giai đoạn sau 1954.

Dẫn Nhập:

Bốn mươi lăm năm đã qua kể từ ngày Hồ Chí Minh qua đời, lịch sử dân tộc và nhân loại đã trải qua bao biến thiên dữ dội, sự kiện lớn nhất là sự sụp đổ nhanh chóng, bất ngờ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới từng tồn tại hơn 70 năm – như một cuộc động đất chính trị, có thể sánh ngang với sự sụp đổ của đế chế La Mã hồi đầu công nguyên.

Việt Nam giành được thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp thống nhất đất nước với cái giá máu xương phải trả được coi là chưa từng có trong lịch sử kháng chiến của dân tộc. Nhưng thắng lợi quá lớn đã làm cho những người chiến thắng say sưa, sinh ra chủ quan, kiêu ngạo; thiếu tinh thần khoan dung của người thắng cuộc để chủ động thực hiện hòa giải, hòa hợp dân tộc ; ta cũng đã không biết tận dụng sức mạnh của niềm vui, niềm tự hào chiến thắng, sự yêu mến, cảm phục và sẵn sàng viện trợ của bạn bè quốc tế để tranh thủ đưa cả nước chuyển sang một thời kỳ mới: chung tay hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng lại Tổ quốc, sớm đi tới phồn vinh, thịnh vượng.

Trái lại, cũng do chủ quan, hẹp hòi, tầm nhìn thiển cận, chúng ta đã liên tiếp mắc phải những sai lầm nghiêm trọng trong chính sách đối nội và đối ngoại. Tiếng súng vừa mới im được vài năm, ta đã phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh Tây Nam và chiến tranh biên giới phía Bắc; việc đem quân vào Campuchia, rồi sa lầy ở đó hơn 10 năm; vụ ‘nạn kiều” và hàng triệu người Việt ồ ạt bỏ nước ra đi,…dẫn đến Việt Nam bị thế giới bao vây, cấm vận, làm cho nền kinh tế đất nước và đời sống của nhân dân lâm vào hoàn cảnh khó khăn chưa từng thấy. Gỡ ra được cũng đã bị chậm đi mất vài chục năm.

Hiện nay, nền kinh tế thị trường “định hướng xã hội chủ nghĩa”, với những cơ chế bất cập do “lỗi hệ thống” gây ra, đã tạo điều kiện cho các “nhóm lợi ích” trong bộ máy công quyền lợi dụng thao túng, nền kinh tế đất nước ngày càng suy thoái, tụt hậu, thua kém cả Lào và Campuchia. Nạn tham nhũng lan tràn từ trên xuống dưới, quan to ăn to, quan nhỏ ăn nhỏ, đám thư lại thả sức hạch sách, nhũng nhiễu dân đen, không chuẩn mực đạo đức và pháp lý nào tiết chế nổi. Dân oan khiếu kiện mất đất, mất nhà,… diễn ra hàng ngày ở huyện, ở tỉnh, không ít đoàn kéo lên ăn chực, nằm chờ ở cổng phủ Chủ tịch,…Tiếng kêu than vang vọng đến cả trời xanh, nhưng không vụ việc nào được giải quyết triệt để. Trí thức lên tiếng góp ý, phê phán, đấu tranh, chính quyền đã không chiụ nghe, lại còn bị đe dọa, bắt bớ. Chưa bao giờ phản ứng của người dân lại trở nên công khai, gay gắt, quyết liệt như hiện nay. Phải chăng đó là những nhân tố đang tạo nên những “tổ mối hổng” có thể dẫn đến “sụt toang đê cũ”?

Điều gì đã gây ra bi kịch này, nguyên nhân sâu xa là từ đâu? Ai sẽ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về sự trì trệ, suy thoái nghiêm trọng của đất nước và nguy cơ sụp đổ của chế độ?…Trả lời những câu hỏi đó không tránh khỏi ít nhiều có liên quan đến vấn đề đánh giá vai trò và trách nhiệm cá nhân của Hồ Chí Minh.

Trong bối cảnh lòng dân ly tán hiện nay, sự đánh giá Hồ Chí Minh đang diễn ra theo hai chiều đối nghịch, vậy cần có nhận thức và đánh giá như thế nào để đạt tới sự chính xác, công bằng, khách quan, phù hợp với thực tế lịch sử?

Công lao to lớn của Cụ Hồ đối với sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc là điều không ai có thể phủ nhận. Từ đưa Yêu sách 8 điểm gửi Hội nghị Versailles đến Tuyên ngôn Độc lập, rồi chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu,…chặng đường đấu tranh nửa thế kỷ ấy gắn liền với tên tuổi huyền thoại của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, Cụ vẫn được coi là người Cha tinh thần đã khai sinh ra chế độ này, vậy Cụ có thể có những liên đới trách nhiệm gì với thực trạng đáng buồn hiện nay không?

Những người phê phán Hồ Chí Minh thường cho rằng mọi tai họa mà dân tộc và đất nước phải gánh chịu hơn nửa thế kỷ qua, phải được xét từ gốc, từ nhân tố khởi nguyên: ấy là do Hồ Chí Minh đã du nhập chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam! Sự thật là như thế nào rất cần được làm rõ.

Đánh giá vai trò của một học thuyết hay một vĩ nhân cần đứng vững trên quan điểm lịch sử cụ thể. Lịch sử không đứng yên, mà luôn luôn vận động, biến đổi. Chủ nghĩa tư bản ở thời kỳ hoang dã, đi xâm chiếm thuộc địa, thì từ đầu đến chân nó đều thấm bùn và máu; khác với chủ nghĩa tư bản hiện đại, biết phát huy sức mạnh của văn hóa, khoa học-công nghệ, dân chủ, pháp quyền,…để dần dần lột xác, trở thành văn minh. Cũng như vậy, chủ nghĩa cộng sản đầu thế kỷ XX và Quốc Tế 3 thời Lênin cũng khác với chủ nghĩa cộng sản đã bị Stalin hóa, Mao-ít hóa sau này. Nếu Quốc Tế 3 không công khai ủng hộ các dân tộc thuộc địa – nếu cũng chỉ như Quốc Tế 2 – chắc gì Nguyễn Ái Quốc đã ngả theo chủ nghĩa cộng sản?

Thứ hai, cũng cần phân biệt điều mà Hồ Chí Minh tự giác, chủ động lựa chọn với điều mà tình thế bắt buộc ông phải chấp nhận (khi không còn con đường nào khác), lại càng khác xa với những điều người khác nhân danh Hồ Chí Minh đã làm!

Vai trò của vĩ nhân là ở chỗ có biết nắm bắt thời cơ và tận dụng được thời cơ do thời cuộc mang lại để thành đạt mục tiêu độc lập, thống nhất hay không; còn cá nhân một lãnh tụ, dù lỗi lạc đến đâu – nhất là lãnh tụ của một nước thuộc địa nghèo nàn, lạc hậu như nước ta – làm sao có thể vượt qua được vị thế yếu kém của mình, để tác động vào thời đại, nhằm thực hiện thắng lợi lý tưởng, hoài bão mà mình theo đuổi?

Người viết thử mạo muội góp phần đưa ra mấy kiến giải sau đây.

I. Ai là người đầu tiên đưa chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam?

Chủ nghĩa cộng sản là một trào lưu tư tưởng, một khuynh hướng chính trị hình thành từ nửa cuối thế kỷ XIX; khi chủ nghĩa tư bản đã hiện nguyên hình tàn bạo, đáng nguyền rủa của nó, thì chủ nghĩa cộng sản đang là một khuynh hướng chính trị-xã hội cấp tiến, có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với phần đông trí thức Châu Âu thời bấy giờ. Sang đầu những năm 20 của thế kỷ XX, nó bắt đầu được truyền tới Trung Quốc bởi những trí thức Tây học như Trần Độc Tú, Lý Đại Chiêu, Cù Thu Bạch,…dẫn tới việc thành lập Đảng CS Trung Quốc năm 1921.

Ở Việt Nam, vào thời điểm đó, Nguyễn Ái Quốc là người dân đầu tiên của một nước nô lệ, sau những thất bại của lớp chí sĩ cha anh, đã rời nước ra đi tìm một con đường mới cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Cái khó của Hồ Chí Minh là cái khó của người đi trước thời đại. Vào đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ thống thế giới, làm thế nào để giải phóng các dân tộc thuộc địa, vẫn còn là một vấn đề quá mới, chưa có lời giải. Chính Engels đã từng viết (đại ý): Các dân tộc thuộc địa rồi sẽ được giải phóng, khi một dân tộc này đi áp bức một dân tộc khác, dân tộc đó không có tự do. Nhưng “quá trình ấy sẽ phát triển như thế nào, điều này thật là khó nói”; “về điều này, tôi nghĩ rằng hiện nay chúng ta chỉ có thể đề ra những giả thuyết khá bâng quơ mà thôi”[1] .

Vào thời điểm Nguyễn Tất Thành ra đi khảo sát thế giới, từ Á sang Âu, chưa có dân tộc bị áp bức nào đấu tranh giành được tự do, chưa có tấm gương thắng lợi nào để soi vào. Ở phương Tây, các đảng Xã hội thuộc Quốc tế II, sau chiến tranh thế giới 1914-1918, do chủ nghĩa dân tộc bản vị, về cơ bản họ vẫn ủng hộ chính sách thuộc địa của các chính phủ tư sản nước mình, họ cũng “đề ra những nghị quyết rất hay (về vấn đề thuộc địa) nhưng để sau đó đưa vào các viện bảo tàng”!

Chỉ duy nhất có Đảng CS Nga, với Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, công khai tuyên bố ủng hộ và giúp đỡ thiết thực cuộc đấu tranh của các dân tộc phương Đông bằng những việc làm cụ thể. Nguyễn Ái Quốc đã từng đặt chân tới nhiều nước phương Tây, từng chìa bàn tay hữu nghị ra với họ, nhưng không được ai nắm lấy! Chính lúc ấy, ông đã tìm thấy ở Luận cương của Lênin một chỗ dựa, một hướng đi mới, nên đã ngả theo Quốc tế 3, gia nhập hàng ngũ cộng sản, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đó là một thực tế ai cũng đều đã biết.

Nhưng Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa cộng sản không phải với động cơ của một người đi tìm chủ thuyết, như một bộ phận trí thức cấp tiến phương Tây thời bấy giờ, chán ghét bất công của chế độ tư bản, họ đã tìm thấy ở chủ nghĩa cộng sản một viễn cảnh đầy hy vọng về một “mùa xuân mới của nhân loại”. Còn ông Nguyễn đến với Quốc Tế 3 từ một nhu cầu cấp bách của dân tộc là đi tìm một phương sách, một con đường cứu nước mới, sau khi các phong trào Đông du và Duy tân đã hoàn toàn thất bại, chứ không phải ông đến với Quốc Tế 3 từ sự giác ngộ sâu sắc về lý tưởng cộng sản. Vào thời điểm ấy, ông chưa có điều kiện nghiên cứu chủ nghĩa Mác một cách hệ thống, nên đã không được thừa nhận là một người cộng sản thuần thành, vì người ta thấy ông rất ít trích dẫn kinh điển mácxít, màchỉ chú trọng vào vấn đề dân tộc thuộc địa.

Nói Nguyễn Ái Quốc là người cộng sản Việt Nam đầu tiên có thể đúng, nhưng là người đầu tiên truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam lại là một nhận định cần được xem xét kỹ. Hãy nhìn lại, từ bài phát biểu ở Đại hội Tours, đến các bài báo trên Le Paria, rồi tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp xuất bản tại Pháp năm 1925,… không có bài viết nào trực tiếp tuyên truyền cho chủ nghĩa cộng sản, tất cả đều đứng trên lập trường người dân thuộc địa mất nước mà tố cáo tội ác cai trị tàn bạo, cướp bóc man rợ của chủ nghĩa thực dân; kêu gọi đồng bào thức tỉnh, đứng dậy, đoàn kết đấu tranh giành lại độc lập, tự do.

Giữa năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô lần đầu tiên để tham dự Hội nghị Quốc tế Nông dân, tiếp theo là Đại hội V Quốc tế Cộng sản, rồi Đại hội các tổ chức quần chúng như Thanh niên Quốc tế, Phụ nữ Quốc tế,…Nội dung các bài phát biểu của Nguyễn Ái Quốc tại các diễn đàn này nói chung đều không đề cập đến những vấn đề đang đặt ra trong phong trào cộng sản bấy giờ, mà chỉ tập trung vào một chủ đề duy nhất: “Tôi đến đây để không ngừng thức tỉnh các đồng chí về vấn đề thuộc địa”! Điều này đã gây cho Staline ấn tượng không mấy thiện cảm về Nguyễn Ái Quốc, coi ông “không phải một người cộng sản chân chính mà là một người còn mang nặng tinh thần dân tộc chủ nghĩa ít có[2] .


Nguyễn Ái Quốc giảng bài tại lớp huấn luyện cán bộ cách mạng
Việt Nam tại Quảng Châu, Trung Quốc. Ảnh tinhdoan.angiang.gov

Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu, với danh nghĩa thành viên trong phái bộ của Borodine, để xúc tiến công tác tổ chức và huấn luyện, ươm mầm những hạt giống cho cách mạng Việt Nam, sau đó lập ra Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng (chứ chưa phải lập Đảng cộng sản). Theo Trần Dân Tiên viết trong “Hồ Chí Minh truyện” thì từ tôn chỉ, mục đích đến điều lệ của Hội đều được ông mô phỏng theo chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Dật Tiên là dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.[3]

Trong nội dung các bài giảng cho các lớp huấn luyện chính trị tại đây (sau được tập hợp thành cuốn “Đường cách mệnh” ) cũng như trong các bài viết của ông trên báo Thanh Niên, chưa thấy nói gì đến mục tiêu thực hiện chủ nghĩa công sản ở Việt Nam, tất cả chỉ chú trọng nói đến nội dung của dân tộc cách mệnh(như khẳng định: dân tộc cách mệnh thì chưa phân chia giai cấp, sĩ nông công thương đều nhất trí chống lại cường quyền); cách mệnh muốn thành công phải có đảng cách mệnh, đảng phải có chủ nghĩa làm cốt, phải đoàn kết, lấy công nông làm gốc, vì họ là số đông nhất và bị áp bức nặng nề hơn cả; muốn làm tròn nhiệm vụ cách mệnh, người cách mệnh phải có đạo đức cách mệnh, phải bền gan, phải hy sinh,…

Nói chung, nội dung lý luận của những sách báo đó đều còn sơ giản, để phù hợp với trình độ của phần đông hội viên thanh niên lúc bấy giờ, nên sau này đã bị Hà Huy Tập – người thấm nhuần lý luận “giai cấp chống giai cấp” của Đại Hội VI Quốc tế Cộng sản – phê phán là “cực kỳ sơ đẳng, mang dấu ấn của thứ lý luận hợp tác giai cấp, không xác định động lực của cách mạng Đông Dương, và không hiểu đúng vai trò độc quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản,…”[4] .

Năm 1927, Quảng Châu khởi nghĩa thất bại, Nguyễn Áí Quốc phải theo phái bộ Borodine trở về Moscow, sau đó cả phái bộ đều bị Staline cách chức, rồi lần lượt bị thanh trừng. Nguyễn Ái Quốc bị bỏ rơi, phải tự tìm đường về Xiêm để hoạt động. Năm 1928, Đại hội QTCS lần thứ VI khai mạc, Nguyễn Ái Quốc không được triệu tập về dự.

II. Đảng CS Việt Nam thành lập, có phải do Nguyễn Ái Quốc chủ xướng?

Đầu năm 1930, trước sự xuất hiện và chia rẽ của ba nhóm cộng sản ở trong nước (điều này ngoài dự kiến của Nguyễn Ái Quốc, vì theo ông, điều kiện ở Việt Nam chưa chín muồi cho việc thành lập ĐCS); song với vai trò, trách nhiệm của mình, ông vẫn đứng ra triệu tập Hội nghị hợp nhất, lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, vì vậy ông được suy tôn là người sáng lập. Các văn kiện do ông thảo ra, như Chính cương, Sách lược vắn tắt, Điều lệ Đảng, Lời kêu gọi, dưới ký tên: Nguyễn Ái Quốc: Thay mặt QTCS và Đảng CS Việt Nam, đều thấm nhuần những quan điểm của Lênin đã nêu ra trong Luận cương. Nhưng khi gửi sang Liên Xô báo cáo, đã bị QTCS bác bỏ, bởi vì lúc này họ đã xa rời những quan điểm ấy của Lênin, chỉ nhấn mạnh một chiều lý luận “giai cấp chống giai cấp” theo tư tưởng chỉ đạo của Staline tại Đại hội VI Quốc tế Cộng sản 1928.

Tượng đài cố Tổng Bí thư Trần Phú thuộc khu đô thị Bắc thành phố Hà Tĩnh

Sau đó, Trần Phú được cử về, triệu tập Hội nghị T.Ư. tháng 10-1930, phê phán Hội nghị hợp nhất “chỉ lo đến việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp đấu tranh, ấy là một sự rất nguy hiểm”, lại còn “chia địa chủ ra làm đại, trung và tiểu địa chủ”, lại nói “phải lợi dụng bọn tư bản mà chưa rõ mặt phản cách mạng” cùng một số “sai lầm” khác, rồi ra nghị quyết thủ tiêu các văn kiện của Hội nghị hợp nhất, thông qua Luận cương Chính trị 1930, đổi tên đảng thành Đảng CS Đông Dương, bầu ra BCH TƯ mới, do Trần Phú làm Tổng Bí thư. Cương lĩnh, Điều lệ mới đều quán triệt quan điểm “giai cấp chống giai cấp”. Phải chăng, chính khuynh hướng “tả” của Luận cương Trần Phú, sau khi được phổ biến xuống tới các địa phương, đã là một trong những tác nhân góp phần thổi bùng lên phong trào Xô viết ở Nghệ-Tĩnh?

Cần nói thêm rằng, phong trào đó có thể còn bị ảnh hưởng bởi một tổ chức mácxít khuynh tả nữa là Liên Đoàn CS Nam Dương – một chi nhánh của Đảng CS Trung Quốc đã hiện hữu tại Đông Nam Á và Nam Việt Nam từ những năm 1928-1930. Ta được biết, sau Đại hội VI QTCS, Lý Lập Tam, nguyên là đại diện của ĐCS Trung Quốc bên cạnh QTCS, một nhân vật cực tả, đã được Staline chú ý, đưa vào Ban Chấp Hành QTCS, rồi trở thành người đứng đầu Đảng CS TQ. Chính nhân vật này đã đưa Đảng CS TQ đi vào con đường phiêu lưu tả khuynh trong một thời gian dài, gây nên những tổn thất to lớn cho Đảng của họ. Chính họ Lý đã chỉ đạo đẩy mạnh việc tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản, xây dựng và phát triển tổ chức CS trong người Hoa ở Thái Lan, Mã Lai, Nam Việt Nam ,…( trụ sở đặt tại Singapore, nên tổ chức này còn có tên gọi là Liên Đoàn Tân Gia Ba), nhằm phát huy ảnh hưởng của ĐCS Trung Quốc tại Đông Nam Á. Khi Đảng CS Đông Dương thành lập, cử ra Ban TƯ lâm thời gồm bảy người, theo quan điểm quốc tế, họ đã mời một đại diện của tổ chức CS người Hoa ở Sài-Gòn-Chợ Lớn tham gia BCH, đó là Lưu Lập Đạo (tức “A Lầu”). Phải chăng, khẩu hiệu cực tả “trí, phú, địa, hào-đào tận gốc, chốc tận rễ” là do ảnh hưởng từ Liên đoàn này? (Đây là vần đề cần được nghiên cứu thêm).

Những sự việc nói trên đều diễn ra ngoài ý muốn của Nguyễn Ái Quốc , vì lúc này, ông vẫn đang ở nước ngoài và đã hoàn toàn bị vô hiệu hóa, chỉ còn là “cái thùng thư” chuyển tiếp giữa Quốc tế CS và Ban TƯ trong nước. Góp phần tuyên truyền cho chủ nghĩa CS ở Đông Dương còn phải kể đến báo chí công khai ở Việt Nam thời bấy giờ. Năm 1926, Phan Văn Trường, lần đầu tiên ở Việt Nam, đã cho đăng toàn văn Tuyên ngôn đảng cộng sản của Marx-Engels trên tờ La Cloche Féléecủa ông, từ số 53 đến số 60 (bằng tiếng Pháp). Báo chí của chính quyền thuộc địa, lo sợ trước nguy cơ bùng phát mạnh mẽ của phong trào cộng sản, cũng cho đăng nhiều bài xuyên tạc, nói xấu chủ nghĩa cộng sản để cảnh giới, răn đe, vô tình cũng đã làm một việc tuyên truyền không công chủ nghĩa CS. Đó là chưa nói đến hoạt động và sách báo tuyên truyền của nhóm đệ tứ của Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm,…và nhà xuất bản Hàn Thuyên trong những năm 1930 sau này. Trong khi đó, Chính cương, Sách lược vắn tắt,…do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, gửi đi Moscow, bị coi là không quán triệt đường lối “giai cấp chống giai cấp”, nên đã bị thủ tiêu ngay từ trong trứng, chưa mấy ai được biết đến các văn kiện này (cho tới khi lần đầu tiên được đưa vào Hồ Chí Minh Toàn tập, t.1, xuất bản lần đầu năm 1980).

Để hiểu được Hồ Chí Minh, cần thiết phải nhận thức trong sự so sánh quan điểm, đường lối của ông với đường lối tả khuynh của Staline và QTCS sau khi Lênin qua đời, nhất là từ sau Đại hội VI 1928. Đặc điểm của chủ nghĩa tả khuynh dưới sự áp đặt của Staline là nhấn mạnh độc quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản, nôn nóng thực hiện ngay cách mạng vô sản khi các điều kiện kinh tế-xã hội chưa chín muồi, đề cao chuyên chính vô sản và bạo lực cách mạng, sử dụng guồng máy chuyên chính để đàn áp, sẵn sàng bắt bớ, thủ tiêu những người có ý kiến khác biệt; mang nặng chủ nghĩa biệt phái, đề cao công nông nhưng không trọng dụng trí thức; không cho phép các ĐCS được liên minh tạm thời với các Đảng Dân chủ Xã hội, không đánh giá đúng mức sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc ở thuộc địa, không cho phép người cộng sản hợp tác tạm thời với các đảng phái yêu nước và dân chủ ở các nước họ…Nói chung là Staline đã từ bỏ những quan điểm đúng đắn của Lênin mà Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu và kiên trì bảo vệ.

Quan điểm, đường lối chính trị của Hồ Chí Minh hình thành từ nền tảng văn hóa phương Đông của ông. Sớm đi sang phương Tây, văn hóa Hồ Chí Minh còn là sự chưng cất tinh hoa văn hóa ÂuTây, đặc biệt là lý tưởng Tự do-Bình đẳng-Bác ái của cách mạng Pháp, vì vậy, tư tưởng chính trị của ông cũng không đóng khung trong một học thuyết duy nhất nào. Hồ Chí Minh từng viết: “Khổng tử, Jésus, Marx, Tôn Dật Tiên,…đều có những điểm chung giống nhau, đó là cùng mưu cầu hạnh phúc cho loài người. Tôi cố gắng là người học trò nhỏ của các vị ấy[5] . Như vậy, mọi lý thuyết, chủ nghĩa đối với ông đều có cái hay, đều cần phải nghiên cứu, tham khảo, học lấy cái đúng, cái tốt, nhưng tất cả đều chỉ là phương tiện để đạt mục đích là giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Đó là tóm tắt học thuyết “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh.

Nói cách khác, tư duychính trị Hồ Chí Minh luôn phấn đấu hướng theo những giá trị chung của nhân loại. Cuốn sách đầu tiên mà Nguyễn Ái Quốc dịch sang tiếng Việt không phải “Tuyên ngôn đảng cộng sản” mà là “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu!

Do đó, tuy đã gia nhập hàng ngũ cộng sản, nhưng trong căn cốt, ông vẫn là người yêu nước, ông dám vượt qua một số nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản ngay cả khi đang sống giữa trung tâm của nó ở Moscow. Sau khi phân tích những đặc điểm kinh tế-xã hội-văn hóa-lịch sử của các dân tộc Viễn Đông, ông khẳng định:“Cuộc đấu tranh giai cấp ở đó (tức Đông Dương) không diễn ra giống như ở phương Tây”, “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước…,người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên cái động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hội của họ”[6] .

Ông không coi đấu tranh giai cấp là động lực duy nhất mà lấy đại đoàn kết dân tộc làm trọng; không nhấn mạnh chuyên chính vô sản mà đề cao nhà nước dân chủ; đề cao và tin dùng trí thức, kể cả trí thức cũ. Ông chủ trương lấy dân làm gốc, lúc nào cũng tâm niệm: Tổ quốc trên hết, dân tộc trên hết, nhân dân trên hết; lợi ích của giai cấp, của bộ phận phải phục tùng lợi ích chung của cả quốc gia, dân tộc. Học thuyết của ông có thể tóm tắt trong 9 chữ “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”.

Dựa theo những cứ liệu đó, nhà sử học Pháp Pierre Brocheux – người đã dành cả cuộc đời nghiên cứu về Hồ Chí Minh – từng đưa ra ý kiến riêng: “Tôi cho rằng ông Hồ Chí Minh về bản chất thực ra là một người theo Khổng giáo. Ông luôn cố gắng kết hợp những ý tưởng của Khổng giáo – một truyền thống ý thức hệ Đông Á – với các dòng tư tưởng châu Âu, từ chủ nghĩa Mác đến chủ nghĩa Lênin…Theo tôi, trước sau ông là một người tốt, một người Khổng giáo. Những gì người ta nói về ông ở Việt Nam hiện nay, chỉ đúng một phần thôi. Ông đã cố gắng đưa vào thực tế tính nhân văn và tính công bằng xã hội theo kiểu Khổng giáo”[7] . Đó là một ý kiến được nhiều học giả trong, ngoài nước chú ý và chia sẻ.

Sau những trải nghiệm đau buồn riêng của Nguyễn Ái Quốc qua hai thời kỳ sống, hoạt động, học tập ở Liên Xô, niềm tin của ông vào Liên Xô và QTCS như là chỗ dựa duy nhất cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam, không còn nguyên vẹn như xưa. Ông nhận thấy cách mạng Việt Nam có thể và cần phải có thêm nhiều chỗ dựa khác, do đó cần chủ động tìm ra những phương thức liên minh tạm thời, hợp tác rộng rãi (theo tinh thần của Lênin) nhằm tranh thủ mọi sự giúp đỡ có thể và có lợi cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập của Việt Nam.

Sau khi Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô cuối năm 1938, tình hình thế giới đã có những biến chuyển lớn: chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Liên Xô đã hợp tác với Anh, Mỹ , Pháp,…hình thành phe Đồng minh chống phát xít; năm 1943, QTCS tuyên bố tự giải tán, để các ĐCS được quyền chủ động hơn, phù hợp với điều kiện của mỗi nước. Ở Trung Quốc, hai phe Quốc-Cộng lại hợp tác với nhau lần thứ hai để cùng chống Nhật. Sau khi bắt được liên lạc với tổ chức Đảng trong nước, Nguyễn Ái Quốc lập tức tranh thủ về nước chỉ đạo phong trào.

Lúc này, Ban TƯ cũ chịu ảnh hưởng của xu hướng Trần Phú, Hà HuyTập hầu hết đã bị bắt và hy sinh, Ban TƯ lâm thời được thành lập trên cơ sở Ban lãnh đạo Xứ ủy Bắc Kỳ- gồm những người vốn có quan điểm “ôn hòa” hơn (Ban Xứ ủy Bắc Kỳ thời kỳ Trịnh Đình Cửu làm bí thư, vẫn cho rằng đường lối của QTCS mà Trần Phú là đại diện, không phù hợp với thực tế Việt Nam, nên không tán thành, không tích cực thực thi, thường bị Trần Phú nhắc nhở, phê phán, đe dọa kỷ luật). Nguyễn Ái Quốc trở về trong hoàn cảnh Ban TƯ lâm thời tự lập, do Trường Chinh đứng đầu, đang cần được thừa nhận chính thức, nên đã xem Nguyễn Ái Quốc như là đại diện của Quốc tế và suy tôn như là lãnh tụ tối cao của Đảng. Có thể coi đây là cuộc gặp gỡ lịch sử, nếu không có cơ sở quần chúng cách mạng do Xứ ủy Bắc Kỳ gây dựng, không có sự suy tôn và nhất trí hợp tác của Trường Chinh, chưa chắc Cách mạng tháng Tám 1945 đã có thể bùng nổ thuận lợi và thành công như đã diễn ra!

Dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị TƯ 8 – 1941 đặt lên hàng đầu nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc; còn nhiệm vụ chống phong kiến, đem lại ruộng đất cho dân cày sẽ thực hiện từng bước và phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc. Nghị quyết Hội nghị vạch rõ: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải được đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc; không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được[8] . Nghị quyết Hội nghị TƯ 8 – 1941 thực chất là sự trở lại với đường lối, quan điểm đã được Nguyễn Ái Quốc vạch ra trong Chính cương, Sách lược vắn tắt từ Hội nghị hợp nhất đầu năm 1930.

Sau Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc viết thư kêu gọi: “Hỡi đồng bào! Hỡi các bậc phụ huynh! Hỡi các bậc hiền huynh chí sĩ! Hỡi các bậc phú hào yêu nước, thương nòi! Hỡi các bạn công, nông, binh, thanh niên, phụ nữ, công chức, tiểu thương! [9] , nghĩa là nhằm vào mọi tầng lớp nhân dân, chứ không phải chỉ chú ý kêu gọi Hỡi công nông như Trần Phú ngày trước. Ta hiểu vì sao, sau năm 1945, Hồ Chí Minh đã thực tâm dùng Cựu hoàng Bảo Đại làm Cố vấn tối cao, đã mời các trí thức, quan lại trong chính quyền thực dân, phong kiến cũ, tham gia vào Chính phủ mới sau cách mạng; đã trả lại tự do cho Ngô Đình Diệm, cũng như sau này đã không loại trừ khả năng sẵn sàng đàm phán với ông ta để tìm ra một giải pháp cho công cuộc hòa bình, thống nhất đất nước…

Việc ông Nguyễn chủ động liên hệ với Tướng Claire Chennault-Tư lệnh không đoàn 14 của Mỹ mang tên “Cọp bay” đóng ở Côn Minh và với đơn vị OSS (Cơ quan phục vụ chiến lược Mỹ)- nhân vụ trao trả trung úy phi công Shaw cho họ – là một cơ hội để tuyên truyền, giới thiệu, nêu cao thanh thế của phong trào Việt Minh, nhằm tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của lực lượng Đồng minh – ít nhất là trên danh nghĩa – cho cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam. Việc ông lên đường đi Trùng Khánh năm 1942 để tìm gặp Tưởng Giới Thạch, cũng là nhằm tìm kiếm sự hợp tác chống kẻ thù chung của hai dân tộc Hoa-Việt là phát xit Nhật,…Tất cả những việc làm đó đều nằm trong chiến lược tranh thủ liên minh, hợp tác quốc tế rộng rãi của Hồ Chí Minh, nhất là trong điều kiện Quốc tế 3 đã tuyên bố tự giải tán.

Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập nhưng không được một quốc gia nào công nhận. Quá khứ cộng sản của Hồ Chí Minh đã làm các nước Đồng minh e ngại. Tình báo Xô viết thừa biết Hồ Chí Minh là ai, nhưng Kremlin vẫn giữ thái độ im lặng, thực tế như đã bị bỏ rơi. Lúc này, để vượt qua nguy cơ mất còn, Hồ Chí Minh đã khôn khéo thi hành một đối sách hòa hoãn cực kỳ mềm dẻo mà cũng phi thường dũng cảm, đó là:

Đối với Tầu Tưởng, ông tuyên bố Đảng CS Đông Dương tự giải tán, thực chất là rút vào hoạt động bí mật. Hai là, chấp nhận cải tổ Chính phủ, rút bớt các thành viên cộng sản ra ngoài, lui ngày Tổng tuyển cử, tạo điều kiện cho các đảng đối lập có thêm thời gian chuẩn bị tham gia; sau bầu cử, lại chấp nhận cho họ thêm 70 ghế đại biểu không qua bầu cử; trên cơ sở đó Quốc hội cử ra Chính phủ liên hiệp gồm 10 bộ, trong đó Việt Minh 2, Dân chủ 2, Việt quốc 2, Việt cách 2, không đảng phái 2 (vẻ như Việt Minh chỉ là thiểu số).

Đối với thực dân Pháp, Hồ Chí Minh biết rõ người Pháp chưa chịu từ bỏ chính sách tái thuộc địa hóa Đông Dương, họ đàm phán với Tưởng rồi ký Hiệp định Pháp-Hoa ngày 28-2-1946, bằng cách trả lại những tô giới thuộc Pháp trên đất Tàu, bán lại đường sắt Lào Cai-Vân Nam, cho phép Tưởng dùng cảng Hải Phòng để vận chuyển hàng hóa quá cảnh miễn thuế qua đường Việt Nam, …Đổi lại quân đội Pháp được phép đem quân ra miền Bắc thay thế quân Tưởng. Nhưng muốn đem quân ra Bắc êm thấm, không gặp đụng độ quân sự, Pháp buộc phải điều đình với Chính phủ Hồ Chí Minh. Tình thế trên đây đặt ra câu hỏi: ta phải quyết đánh hay tạm hòa với Pháp?

Cân nhắc tương quan lực lượng, Cụ Hồ chọn giải pháp tạm hòa. Từ cuối tháng 2-1946, hai bên xúc tiến đàm phán. Điều khoản gay cấn nhất là ta đòi Pháp phải thừa nhận quyền độc lập và thống nhất của Việt Nam; còn Pháp chỉ muốn công nhận Việt Nam là một quốc gia tự trị. Nếu Hiệp định Pháp- Việt chưa được ký kết thì quân Tưởng chưa thể rút đi, quân Pháp chưa được phép đổ bộ vào Hải Phòng, xung đột đổ máu giữa các bên sẽ vẫn tiếp tục nổ ra. Để tháo gỡ tình hình, Hồ Chí Minh đưa ra giải pháp nhân nhượng:

– Nước Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do (état libre, thay cho từ indépendance, độc lập) có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng, ở trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên hiệp Pháp. Chính phủ Pháp phải cam đoan thừa nhận kết quả của cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề thống nhất ba kỳ.

– Nước Việt Nam thuận để 15.000 quân Pháp được vào Bắc Việt Nam thay thế quân đội Trung Hoa và sẽ phải rút hết sau thời hạn 5 năm.

Đây là một giải pháp “Câu Tiễn”, nhờ đó, Hiệp định sơ bộ 6-3 đã được ký kết. Nhưng các đảng phái đối lập lại muốn phá, vì nếu đánh nhau, Việt Minh sẽ thua, họ sẽ được lợi, nên đã ra sức vu cáo Hồ Chí Minh là “bán nước”. Nhưng đại đa số dân chúng Việt Nam lại chấp nhận một thỏa hiệp tạm thời với Pháp cốt để đuổi được gần 20 vạn quân Tầu về nước, bởi chính họ mới là kẻ thù truyền kiếp của dân ta, đã mấy ngàn năm nay, chưa bao giờ họ từ bỏ dã tâm xâm lược và đồng hóa dân tộc ta. Vì vậy, ở thời điểm này, Hồ Chí Minh đã phải nói ra một câu – mà báo chí “lề phải” ở Việt Nam chưa bao giờ dám nhắc lại:“Thà chịu ngửi phân của người Pháp trong 5 năm còn hơn là phải ngửi phân của người Tầu trong hàng nghìn năm!”[10] . (Điều này chứng tỏ Hồ Chí Minh không mơ hồ gì về kẻ thù truyền kiếp của dân tộc).

Nếu Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 được Pháp nghiêm chỉnh thực hiện thì Việt Nam đã không phải tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm gian khổ và chủ nghĩa thực dân Pháp đã không bị chôn vùi ở Điện Biên Phủ; Việt Nam sẽ ở trong Khối Liên hiệp Pháp (Union Français) và biết đâu, chắc gì Việt Nam đã buộc phải ngả theo CS Tàu sau năm 1949, trong khi Staline vẫn ngoảnh mặt làm ngơ? Là một nhà chính trị thực tiễn, Cụ Hồ đã nhận thấy mục tiêu cộng sản là điều còn rất xa vời, nên từng nhiều lần tuyên bố: “Tôi là người cộng sản, nhưng điều quan tâm lớn nhất của tôi là nền độc lập của Việt Nam. Tôi bảo đảm với các ngài rằng sau 50 năm nữa, chủ nghĩa cộng sản vẫn sẽ chưa được thực hiện ở Việt Nam !”[11] .

Do thái độ không thức thời của giới cầm quyền Pháp lúc đó, tiêu biểu là De Gaulle, nên cơ hội này đã bị tuột mất. Hai mươi năm sau, chính De Gaulle đã có sự nhìn nhận muộn màng về trách nhiệm của ông ta trong chính sách của Pháp ở Đông Dương thời đoạn 1945-1946. Trong thư gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 8-2-1966, ông viết: “ Giá có một sự hiểu biết nhau tốt hơn giữa người Việt Nam và người Pháp ngay sau Đại chiến thế giới 2 thì đã có thể tránh được những sự biến tai ác đang giày xéo đất nước Ngài hôm nay[12] .

Đối với Mỹ và phương Tây: Sự kiện Tổng thống F. Roosevelt tuyên bố sau chiến tranh kết thúc sẽ không trao trả các thuộc địa cũ ở Đông Dương cho Pháp, mà sẽ cho các nước này được hưởng chế độ “ủy trị” của Liên Hiệp quốc; rồi người Mỹ đã đi trước thực hiện trao trả độc lập cho Philippines ngay sau chiến tranh kết thúc,… Những sự kiện đó đã có sức hấp dẫn rất lớn đối với Hồ Chí Minh, nên thông qua mấy nhân vật quen biết trong nhóm OSS, Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ đối với nền độc lập của Việt Nam .

Trong 2 năm 1945-1946, Hồ Chí Minh đã viết 8 bức thư gửi tới Tổng thống Harry Truman và 3 thư gửi Bộ trưởng Ngoại giao James Byrnes, nhằm kêu gọi Mỹ, với tư cách một quốc gia bênh vực và bảo vệ Công lý thế giới, sẽ có những bước đi mạnh mẽ trong việc ủng hộ nền độc lập của Việt Nam; đồng thời bày tỏ nguyện vọng của Việt Nam muốn được hợp tác toàn diện với Mỹ, muốn được gửi 50 thanh niên Việt Nam sang Mỹ học tập, nhằm tiếp thu thành tựu kỹ thuật hiện đại của Mỹ. Ông cũng tuyên bố sẵn sàng để cho Mỹ đặt căn cứ hải quân tại Cam Ranh,…Chính Hồ Chí Minh đã sớm chủ động cho thành lập Hội hữu nghị Việt-Mỹ, và tham dự lễ ra mắt của Hội này tại Hà Nội, cùng với sự có mặt của tướng Mỹ Gallagher, v.v..

Từ trái qua phải: Nguyễn Văn Tố, Gallagher, Vĩnh Thụy (Bảo Đại, hàng sau), Hồ Chí Minh, Ngô Tử Hạ  trong một sự kiện tại Hà Nội - Ảnh: T.L/ThanhnienVN

Đầu tháng 12-1946, Hồ Chí Minh đã tiếp Abbott Low Moffatt, giám đốc Vụ Đông Nam Á Bộ Ngoại giao Mỹ, được cử sang Đông Dương tìm hiểu tình hình. Sau buổi tiếp, Moffatt đưa ra nhận xét: “Hồ Chí Minh trước hết là một người yêu nước, nhiệt tình đấu tranh cho nền độc lập của Việt Nam, ông có thể được coi như là một Titô ở châu Á”[13] .

Những ứng xử trên cho thấy Hồ Chí Minh là một nhà yêu nước thức thời, ôn hòa, giỏi ứng biến, chứ đâu phải là một người cộng sản cứng nhắc, cực đoan! Nếu những nỗ lực trên của Hồ Chí Minh được phía Mỹ tiếp nhận thì Việt Nam đã là một nước cộng hòa dân chủ không bị chia cắt, đã mở cửa, sớm phát triển nền kinh tế thị trường, Mỹ đã không phải đổ của, đổ người vào cuộc chiến tranh Việt Nam, rồi sa lầy tại đây trong khoảng hơn 20 năm! Tiếc thay, lịch sử lại không hề biết đến chữ “nếu”!

Bên cạnh đó, Cụ Hồ còn cử nhiều phái đoàn thân thiện của Việt Nam đi thăm các nước khác: Phạm Văn Đồng dẫn đầu Đoàn đại biếu Quốc hội Việt Nam đi thăm hữu nghị nước Pháp; cử Thứ trưởng Ngoại giao Nghiêm Kế Tổ (là đại biểu của Việt Nam Quốc dân đảng trong Chính phủ Liên hiệp) dẫn đầu Đoàn ngoại giao, trong đoàn có Cố vấn tối cao Vĩnh Thụy, sang Trùng Khánh để xin tiếp kiến Tưởng Giới Thạch; cử Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch-với tư cách đại diện đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh – sang Pháp gặp M. Thorez, sang Ý gặp Đại sứ Liên Xô Koulajenkôp, đến Ấn Độ gặp J. Nehru, để thông báo về tình hình Việt Nam và đề nghị giúp đỡ vật chất, tinh thần cho cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam. Tiếc rằng các hoạt động đó đều không đạt kết quả mong muốn.

III. Hồ Chí Minh tái hòa nhập với Moscow và phe xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh nào?

Do đánh giá sai tình hình, Pháp muốn đánh nhanh, thắng nhanh vào lúc lực lượng vũ trang của Việt Nam vừa thành lập, số lượng nhỏ, trang bị kém, khó có thể chống lại một quân đội nhà nghề được trang bị tối tân như quân đội Pháp, giỏi lắm cũng chỉ tồn tại được trong vài ba tuần lễ! Họ ra sức khiêu khích, gây ra những vụ tàn sát đẫm máu đối với đồng bào ta ở nhiều nơi, buộc ta phải chống lại. Chiến tranh đã nổ ra. Để bảo toàn lực lượng, ta phải bỏ thành phố, rút về nông thôn, lên miền núi, xây dựng căn cứ địa, thực hiện phương châm “kháng chiến trường kỳ”.

Thu-Đông 1947, ta bẻ gãy được cuộc tiến công 2 gọng kìm của Pháp lên chiến khu Việt Bắc, địch tổn thất nặng nề, nhưng xuýt nữa, quân nhảy dù của họ bắt được cơ quan đầu não của ta! Nếu họ đủ sức mở tiếp cuộc tiến công thứ 2, liên minh được với Tưởng, thực hiện dưới đánh lên, trên đánh xuống, thì cuộc kháng chiến của quân dân ta có nguy cơ bị dập tắt hoàn toàn! Bởi lấy gì mà chống lại, khi số vũ khí, đạn dược ít ỏi ta lấy được của Nhật, mua lại của Tầu, đã được dùng hết! Ta lại đang trong thế bị bao vây tứ bề, thoát ra bằng cách nào? Tình hình đó buộc Cụ Hồ phải tìm cách cầu hòa với Chính phủ Tưởng Giới Thạch, nếu không được giúp đỡ thì cũng phải trung lập hóa vai trò của họ. Một phái đoàn được cử sang Nam Kinh, với lễ vật hậu hĩnh, để thuyết phục Tưởng tuân theo tôn chỉ “phù nhược, ức cường” của Tôn Trung Sơn, ủng hộ các dân tộc nhược tiểu đang đấu tranh chống các cường quốc thực dân, giành lại độc lập dân tộc.

Chuyến đi chưa được giải mã, chỉ biết rằng sau đó tình hình quốc tế có những chuyển biến rất nhanh chóng: Giải phóng quân Trung Quốc “thần tốc Nam hạ”, buộc quân Tưởng phải bỏ chạy ra Đài Loan; tháng 10-1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập, rồi nước CHDC Đức cũng ra đời, hình thành nên hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới từ Tây sang Đông.

Thắng lợi của cách mạng Trung Quốc khiến cho Mỹ lo ngại: nếu Pháp thất bại ở Đông Dương, dưới ảnh hưởng của Trung Quốc, một số nước Đông Nam Á có khả năng ngả theo con đường cộng sản hóa, Mỹ thấy đã đến lúc phải can thiệp vào Đông Dương. Một mình ta đánh nhau với Pháp đã khó, nay lại có thêm sự can thiệp của Mỹ, ta sẽ đối phó thế nào, phải hành xử ra sao?

Nhẫn nại, kiên trì hòa hoãn mãi với phương Tây mà không thành, để thoát khỏi nguy cơ xấu nhất, Hồ Chí Minh chỉ còn một con đường duy nhất: bắt mối quan hệ với Đảng CS Trung Quốc, thông qua họ để nối lại quan hệ với Kremli, tái hòa nhập phong trào cộng sản quốc tế.

Mao hưởng ứng ngay, vì phù hợp với ý đồ của họ: cần có một “phên dậu” ở phía Nam, giúp Trung Quốc tránh phải đụng độ trực tiếp với đế quốc – điều kiện cần để họ tập trung vào xây dựng và phát triển trong hòa bình.

Song việc thuyết phục Staline đồng tình lại không đơn giản. Thứ nhất, Việt Nam là một nước nhỏ, lại ở quá xa Liên Xô, chưa có vai trò gì trong chiến lược đối ngoại của Liên Xô lúc bấy giờ. Hai là, Việt Nam vốn là thuộc địa cũ của Pháp, mà Pháp hiện đang là đối tác chiến lược Liên Xô cần tranh thủ ở Tây Âu, hai nước đã ký với nhau Hiệp định hợp tác,bất tương xâm Pháp-Xô (1944-1964) hiện vẫn đang còn giá trị; đối với Staline, Việt Nam không quan trọng bằng Pháp. Ba là, bản thân Staline vốn từ trước đã không mấy tin tưởng vào Hồ Chí Minh; nay theo báo cáo của KGB thì Hồ Chí Minh có vẻ như đang muốn ve vãn phương Tây, nhất là qua hai bức thư của Trần Ngọc Danh (em trai Trần Phú) gửi Staline, phê phán Hồ Chí Minh đang đi theo con đường của chủ nghĩa dân tộc tư sản, từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ chủ nghĩa quốc tế vô sản và học thuyết đấu tranh giai cấp của Mác,…Vì vậy, ban đầu Staline đã từ chối không nhận tiếp Hồ Chí Minh. Sau nhờ sự kiên trì thuyết phục của Mao và Chu, Staline đồng ý tiếp, nhưng không công khai, mà tiếp trong phòng làm việc riêng của mình, với sự có mặt hạn chế của vài nhân vật lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Chính phủ Liên Xô.

Trong cuộc tiếp, Staline đã thẳng thắn phê bình Hồ Chí Minh ba điều: vấn đề tự ý giải tán Đảng, vấn đề thành phần Chính phủ (lắm nhân sĩ, trí thức, quan lại cũ, …ý nói không phải chính quyền công nông), việc không chịu tiến hành cải cách ruộng đất. Sau đó, yêu cầu Hồ Chí Minh phải viết một bài tự phê bình về các vấn đề trên, để đăng trên tờ báo của Cục thông tin Quốc tế Cộng sản (Kominform) “Vì một nền hòa bình lâu dài, vì một nền dân chủ nhân dân[14] . Còn vấn đề viện trợ cho cuộc kháng chiến của Việt Nam, Staline phân công cho Trung Quốc đảm nhiệm, vì ở ngay sát Việt Nam, đồng thời nhắc nhở Việt Nam phải ra sức học tập kinh nghiệm của Trung Quốc. Rõ ràng là Liên Xô không muốn công khai dính líu đến vấn đề Việt Nam ở thời điểm nhạy cảm này.

Dù chỉ được đón tiếp lạnh nhạt, chuyến đi của Hồ Chí Minh đến Liên Xô đã giúp Việt Nam thoát ra khỏi thế cô lập, tái hòa nhập với phong trào CSQT, mở ra hậu phương lớn, nhờ đó đưa cuộc kháng chiến của ta đi đến thắng lợi ở Điện Biên Phủ. Nhưng cũng từ đây sẽ phát sinh những hệ lụy phức tạp mà Hồ Chí Minh phải gánh chịu về sau này. Sự viện trợ về quân sự và kinh tế đi liền với những áp đặt về quan điểm chính trị, về cơ chế, tổ chức,…theo mô hình của Trung Quốc. Từ đây, Hồ Chí Minh rất khó có thể giữ được hoàn toàn độc lập, tự chủ như ở giai đoạn trước.

Mặc dù có sự thúc ép rất mạnh của Trung Quốc, Hồ Chí Minh vẫn nấn ná, trì hoãn trong thực hiện các chỉ thị của Staline. Phải sang đầu năm 1951, ông mới tiến hành Đại hội toàn quốc lần thứ II, đưa Đảng CS ra công khai, nhưng đổi tên thành Đảng Lao Động Việt Nam; năm 1953 mới phát động quần chúng thực hiện giảm tô, năm 1954 mới thí điểm cải cách ruộng đất ở một vài vùng trung du; sau hòa bình 1955-56 mới triển khai rộng rãi trên toàn miền Bắc. Đặc biệt, họ đòi ta phải cải tổ quân đội, đặt ra hệ thống chính ủy, ép ta phải thay thế những tướng tá, cán bộ chỉ huy các cấp có nguồn gốc xuất thân trí thức, tiểu tư sản bằng những cán bộ gốc gác công nông! (thực ra là muốn tạo ra một đội ngũ tướng tá mới để dễ bề thao túng hơn). Vị tướng phụ trách Tổng cục cán bộ đã trình lên Hồ Chí Minh một danh sách hàng trăm người phải thay thế, trong đó có cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp! Song Cụ Hồ đã kiên quyết phản đối: “Gạt ra một lúc từng này người, lấy ai mà chỉ huy? Phải đốt ngay danh sách đó đi!”. Nhưng rồi có điều Cụ cũng phải nhượng bộ, chấp nhận đề bạt thêm một đại tướng xuất thân công nông, phụ trách chính trị để cân bằng với Võ Nguyên Giáp! (mà theo lý thuyết của Mao thì chính trị vẫn cao hơn quân sự).

Dưới sức ép của các cố vấn Trung Quốc, hàng loạt sai lầm tả khuynh đã diễn ra sau đó, đau đớn nhất là sai lầm trong cải cách ruộng đất; là không khí đấu tố căng thẳng trong chỉnh huấn, chỉnh quân, có người đã phát điên, có người phải tự vẫn! Nhiều văn nghệ sĩ, trí thức, xuất thân gia đình lớp trên, lo sợ, đã từ bỏ kháng chiến về thành. Sau Hiệp định Giơ-ne 1954, hàng chục vạn đồng bào đã bỏ quê hương di cư vào Nam. Cụ Hồ rất đau đớn trước những tổn thất đó, Người đã phải khóc, nhận lỗi trước Quốc hội và thực tâm Cụ muốn điều chỉnh lại chính sách. Nhưng phía Trung Quốc đã có phản ứng tiêu cực. Chu Ân Lai từng phát biểu thẳng với ta (đại ý): Thắng lợi trong cải cách là cơ bản, còn oan sai-dù có lên tới ngàn vụ- nếu so với cải cách ruộng đất ở Trung Quốc liệu có thấm thá gì mà phải làm ầm ỹ đến như thế! Lưu Thiếu Kỳ thì đã phát biểu trong Hội nghị TƯ Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày 25-03-1963 rằng: “Hồ Chí Minh xưa nay vẫn là tay hữu khuynh…Sau chiến cuộc 1954, ông ta vẫn còn chần chừ, không dứt khoát chọn chế độ tư bản hay xã hội chủ nghĩa. Chính chúng ta (tức ĐCS Trung Quốc) đã phải quyết định cho ông ta”[15] !.

https://www.youtube.com/watch?v=9C19AtuhoxE

Một dân tộc nhược tiểu muốn đánh thắng một đế quốc hùng mạnh, không thể không tranh thủ liên minh, liên kết quốc tế, lợi dụng sức mạnh thời đại để chiến thắng kẻ thù, theo sách lược phù hợp với từng giai đoạn cụ thể. Mặc dù đã rất khôn khéo điều chỉnh và chấp nhận thỏa hiệp nhất định với thực tế cay nghiệt của hoàn cảnh nhằm đạt được mục tiêu cao cả nhất là độc lập, thống nhất cho dân tộc, song Hồ Chí Minh đã không thể dự kiến hết được mọi diễn biến phức tạp về sau, nên đã phải gánh chịu những điều tiếng nặng nề, nhất là về sau này, khi “người đồng chí quốc tế vô sản” đã hiện nguyên hình là “kẻ thù xâm lược bành trướng Đại Hán”!

Nhưng không thể vì những éo le đó của lịch sử, mà đi đến quy kết những nhân nhượng của Cụ Hồ khi phải ký Hiệp định sơ bộ 6-3hữu khuynh; không thể coi việc từng bước phải chấp nhận những áp đặt đường lối của Mao sau 1950, là đã rơi vào “tả” khuynh; cũng như không thể cho là đã mắc sai lầm khi phải chấp nhận ký vào bản Hiệp định Genève 1954 mà kết quả của nó không phản ánh đúng tương quan lực lượng trên chiến trường, …Đơn giản vì xưa nay một nước nhỏ, trong thế phụ thuộc vào những nước lớn, khó có thể tự quyết định được số phận của mình. Đó là những ràng buộc khắc nghiệt của hoàn cảnh mà Hồ Chí Minh và Đảng CS Việt Nam đã không thể vượt qua. Chân lý “không gì quý hơn độc lập, tự do” được Cụ đúc kết từ những trải nghiệm qua nhiều mối quan hệ, trong đó có cả quan hệ với ông bạn “vàng” từng được coi “vừa là đồng chí, vừa là anh em”. Cảm quan về nỗi “cay đắng” này từ sớm đã được Cụ viết ra thành thơ:

Trên đời ngàn vạn điều cay đắng,

Cay đắng chi bằng mất tự do.

Mỗi việc, mỗi lời không tự chủ,

Để người ta dắt tựa trâu bò.

(“Nhật ký trong tù”)

IV. Vai trò và trách nhiệm của Hồ Chí Minh giai đoạn sau 1954.

Chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu được coi là một trong những sự kiện lớn nhất của thế kỷ XX, nó đã đào mồ chôn chủ nghĩa thực dân Pháp đồng thời mở đầu cho sự sụp đổ không gì cứu vãn nổi của hệ thống thuộc địa trên phạm vi toàn thế giới, làm cho tên tuổi Việt Nam –Hồ Chí Minh được cả loài người biết đến và hết lòng khâm phục. Nhân loại đã nhất trí suy tôn Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà yêu nước vĩ đại của Việt Nam , đồng thời là chiến sĩ tiên phong của phong trào giải phóng các dân tộc thuộc địa”! Có lẽ, đây là sự vinh danh cao cả nhất, đúng đắn nhất, xứng đáng nhất với Hồ Chí Minh – một người đã nửa thế kỷ không ngừng đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình và cho sự nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức. Một cuộc đời như thế, tuy chưa thật trọn vẹn, nhưng có thể nói là đã hoàn toàn xứng đáng đứng vào hàng các vĩ nhân của nhân loại trong thế kỷ XX.

Nhưng khi đất nước chuyển sang thời kỳ hòa bình, xây dựng, thực hiện thống nhất nước nhà, vai trò của Hồ Chí Minh như thế nào, Cụ có những nhược điểm, hạn chế gì không?

Như một tấm huân chương có mặt phải, mặt trái; con người cũng có mặt ưu, mặt nhược, mà như người ta thường nói: có khi nhược điểm lại là cái bóng nối dài của ưu điểm. Vĩ nhân cũng chỉ là một con người, mà con người nào chẳng bị giới hạn bởi đời sống trần thế. Hồ Chí Minh là một nhân vật lịch sử nên cũng chịu sự ràng buộc của điều kiện lịch sử. Ông là người Việt Nam nên cũng chung đúc cả tinh hoa lẫn nhược điểm của dân tộc Việt Nam. Từ buổi đầu dựng nước, dân tộc ta đã phải liên tục đứng lên chống giặc ngoại xâm, những nhân vật được nhân dân phong “thánh”, từ Thánh Gióng, Đức thánh Trần, đến Hồ Chí Minh,…đều là những anh hùng chống ngoại xâm. Trí tuệ dân tộc dồn tất cả cho sự nghiệp giữ nước, nên thành tựu dựng nước không mấy dồi dào, lịch sử nước ta thiếu những nhân vật “kinh bang, tế thế” lỗi lạc, mở ra cho dân tộc những thời kỳ phát triển rực rỡ về kinh tế, văn hóa, tư tưởng,… Do bị ngoại thuộc sớm ngay khi vừa lập quốc, trong hàng ngàn năm Bắc thuộc, ta chưa kịp sáng tạo ra chữ viết riêng, nên cũng không có triết học riêng, tôn giáo riêng,… nói chung là đều du nhập,vay mượn từ nước ngoài, mà ta cũng không tiếp thu cái gì cho thật hoàn chỉnh, sâu sắc, hệ thống để từ đó vượt lên, sáng tạo ra cái riêng, với tư cách là sản phẩm của Việt Nam.

Vì vậy, các nhà nghiên cứu suy tôn Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng, nhà lý luận, hay nhà văn hóa,…kèm theo những tính từ rất cao, cũng chỉ là một cách bồi dưỡng niềm tự hào cho nhân dân mình, còn Hồ Chí Minh – với bản chất khiêm nhường – ngay từ lúc còn sống, Cụ đã khước từ mọi danh hiệu người đời gán cho. Ví như Cụ từng nói: Nhà thơ gì tôi? Trong tù, đi ngang được ba bước, đi dọc được sáu bước, không biết làm gì thì làm thơ, thế thôi! Tôi chỉ là người có chút duyên nợ với báo chí, gọi tôi là nhà cách mạng chuyên nghiệp là đúng nhất.

Để góp phần đánh giá khách quan về Hồ Chí Minh ở thời kỳ sau hòa bình, ta hãy thử xét qua một vài phương diện cơ bản:

A. Về xử lý mối quan hệ giữa đức trị và pháp trị:

Hồ Chí Minh vốn là một môn đệ của Nho giáo, nên rất coi trọng đức trị, lấy đức làm gốc; bản thân suốt đời nêu gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư,…Trong kháng chiến, Cụ chưa có điều kiện chăm lo đến xây dựng nền pháp trị. Dù đã từng lập ra Bộ Tư pháp ngay từ năm 1945, song chịu sức ép của quan điểm mao-ít, lại giải thể nó đi trong hơn 10 năm, nên đến lúc qua đời năm 1969, Cụ Hồ cũng chỉ mới thông qua được có 16 đạo luật, còn lại, toàn là sắc lệnh.

Song không phải Cụ coi nhẹ vai trò của pháp luật, khi cần nghiêm khắc, Cụ vẫn rất nghiêm khắc để giữ vững kỷ cương, phép nước, như đã từng ký lệnh xử tử hai cán bộ cao cấp (Đại tá Trần Dụ Châu và Thứ trưởng Trương Việt Hùng), điều mà những người kế tục ông sau này chưa ai theo được tấm gương ấy – mặc dù mức độ tham nhũng và sa đọa của những kẻ phạm pháp hiện nay còn lớn gấp trăm nghìn lần hơn so với hai nhân vật được nhắc đến ở trên.

Không hình thành được ý thức và tập quán “sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”trong cán bộ và nhân dân, có nguyên nhân sâu xa từ trong truyền thống “phép vua thua lệ làng” của xã hội phong kiến-tiểu nông ngày xưa (có lúc còn được ta đề cao như là biểu hiện của tinh thần phản kháng). Dù sao Cụ Hồ cũng phải chia sẻ một phần trách nhiệm trong vấn đề này, vì chưa nhận thức được nhược điểm cố hữu của dân tộc, để sớm xử lý đúng đắn mối quan hệ tương hỗ giữa pháp trị với đức trị.

Người ta thường nói: pháp luật là đạo đức tối thiểu, đạo đức là pháp luật tối đa. Trong môi trường làng xã nhỏ hẹp ngày xưa, các gia đình, dòng họ sống với nhau nhiều đời, hiểu biết về nhau rất kỹ, chỉ làm một việc xấu, dù nhỏ, cũng lan đi rất nhanh, cả làng đều biết. Sống ở làng, dư luận có vai trò điều tiết đạo đức rất lớn, nên ai cũng phải giữ gìn. Nhưng đi vào xã hội đô thị hiện đại, chỉ riêng đạo đức thôi không đủ, phải tăng cường vai trò của pháp luật, phải luật hóa những chuẩn mực đạo đức tối thiểu, buộc ai cũng phải tuân theo, để từ cưỡng chế trở thành thói quen tự giác của toàn xã hội.

Đạo đức cách mạng không phải là những chuẩn mực bình thường, mà là những yêu cầu đạo đức rất cao, không thể đạt được chỉ bằng kêu gọi và nêu gương, mà phải được quán triệt vào trong cơ cấu, thể chế, tổ chức, biến nó thành pháp luật,…buộc ai cũng phải thực hiện, nếu không muốn bị pháp luật trừng trị hay đào thải. Do những chuẩn mực đạo đức không sớm được thể chế hóa thành luật, nên bản thân tấm gương đạo đức của Cụ Hồ cao đẹp, hấp dẫn đến như thế mà vẫn không đủ sức ảnh hưởng, thấm sâu vào ngay các đồng chí, học trò gần gũi chung quanh mình, thì làm sao ảnh hưởng tới được đông đảo cán bộ và nhân dân bên dưới?

Ở phương Tây, người ta đâu có rao giảng nhiều về đạo đức, kể cả Mác, nhưng họ lại rất coi trọng xây dựng thể chế, tổ chức, pháp luật, khép con người vào quy củ, dùng cưỡng chế của pháp luật, biến đạo đức thành tập quán, thành nếp sống tự nhiên của toàn xã hội. Ai làm trái đều bị công luận lên án, pháp luật xử trí, từ đó mà dẫn đến sự hình thành văn hóa tự xử: Quan chức có sai lầm thì lập tức tự nguyện xin từ chức, thậm chí có người còn đi đến tự vẫn (do xấu hổ, không chịu nổi áp lực phê phán của xã hội). Một xã hội hình thành được những thể chế và tập quán như thế sẽ “làm cho những lời kêu gọi về đạo đức trở nên thừa”.

Ở ta hiện nay, tuy văn bản pháp luật không thiếu, nhưng đang bị vô hiệu hóa, người ta xét xử không nhân danh Công Lý, mà nhân danh Nhà nước, nên xét xử như thế nào đều ở trong sự dàn xếp giữa các “nhóm quyền lực”, Thần công lý chỉ còn là một anh hề, vì vậy chưa thể nói đến bao giờ ta mới có văn hóa tự xử! Các quan chức tham nhũng, tha hóa, đồi trụy vẫn cứ nhơn nhơn, đâu biết xấu hổ là gì mà phải tự vẫn! Trong bối cảnh ấy mà cứ kêu gọi “đẩy mạnh học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” một cách hình thức và nhàm chán, một khi “trái núi chỉ đẻ ra những con chuột” tham nhũng thì dễ biến thành một trò hề, hơn nữa còn là một sự nhạo báng đối với Cụ.

B. Về đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc:

Vào những năm 60 thế kỷ trước, tâm trí Cụ Hồ có phần dành nhiều hơn cho miền Nam và sự nghiệp thống nhất đất nước, song đây vốn là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng cả nước; có lẽ do thiếu cả lý luận lẫn thực tiễn, Đại hội III (1960) của Đảng vẫn chưa thể vạch ra được một chiến lược rõ ràng và đầy đủ cho một “tổng lộ tuyến” đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội có nội dung quan trọng hàng đầu là kinh tế, đây lại là mặt yếu của nhà chính trị Hồ Chí Minh. Theo đuổi mục tiêu cứu nước, Cụ Hồ chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu các học thuyết kinh tế của A. Smith, D. Ricardo, kể cả Tư bản luận của Marx, chưa nói gì đến các học thuyết kinh tế hiện đại. Nho giáo xưa vốn rất ít bàn về sản xuất và kinh tế. Vì vậy, chưa thể nói đến tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh một cách đầy đủ và hệ thống, bản thân Cụ cũng chưa từng một lần nhắc đến khái niệm kinh tế thị trường.

Hồ Chí Minh sống đến 1969, khi đó Quốc tế xã hội chủ nghĩa, sau chiến tranh, đã phục hồi và phát triển, tới Đại hội thứ 23, đã có 170 tổ chức thành viên từ 126 nước tới dự, trong đó có 29 đảng đang cầm quyền, 23 đảng tham gia liên minh cầm quyền. Chủ nghĩa xã hội dân chủ kiểu Bắc Âu ngay từ sinh thời Cụ đã có những thành tựu được cả thế giới biết đến. Hồ Chí Minh do bị chi phối bởi tư tưởng đối đầu thời kỳ chiến tranh lạnh, chưa có điều kiện tìm hiểu, nên chưa biết đến những thành tựu này của chủ nghĩa xã hội dân chủ.

Tuy sinh thời, Hồ Chí Minh từng nói: Việt Nam chúng ta không giống với Liên Xô và Trung Quốc, ta cần thiết phải tìm ra con đường khác để đi lên chủ nghĩa xã hội. Song đây chỉ có ý nhấn mạnh là phải biết xuất phát từ đặc điểm riêng của mỗi nước, chưa phải do đã nhận thức được những nhược điểm, sai lầm, khuyết tật trong mô hình chủ nghĩa xã hội cực quyền của Staline – cái mà ngày nay chúng ta gọi là “những lỗi của hệ thống”! Vì vậy, trong các phát biểu, cả trong Di chúc, chưa thấy Cụ Hồ có cảnh báo nào phải đề phòng, để tránh không mắc vào những khuyết tật ấy. (Di chúc có nói đến “phải chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”, nhưng chưa đề cập tới hai chữ “đổi mới” với hàm nghĩa như là phải cải tổ).

Nhận thức về vai trò và sức mạnh của khoa học và công nghệ:

Nếu so sánh có thể thấy: sinh thời Marx còn chưa biết đến đèn điện, thời Engels chưa có máy bay, thời Lênin đã có điện ảnh, vô tuyến điện, nhưng chưa có vô tuyến truyền hình,… sinh thời Hồ Chí Minh đã được chứng kiến những thành tựu khoa học-công nghệ làm thay đổi thời đại: sức mạnh năng lượng nguyên tử, máy điện toán, công nghệ thông tin, công nghệ biến đổi gien, con người đã bay vào vũ trụ,… Tuy nhiên, Hồ Chí Minh còn ít nói về vai trò và sức mạnh của khoa học-công nghệ, có nói, nhưng chưa đủ, chưa đến độ, nhất là chưa ráo riết trong tổ chức, đào tạo, nghiên cứu, vận dụng, phát triển khoa học-công nghệ , để nhanh chóng đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu.

Có thể đổ tại hoàn cảnh chiến tranh, đất nước bị chia cắt,…nhưng nếu so với Bắc Triều Tiên cùng hoàn cảnh như ta, mà từ lâu họ đã chế tạo được vũ khí hạt nhân, tên lửa đạn đạo, đã có nền công nghiệp quốc phòng hiện đại, khiến cho các cường quốc láng giềng phải vì nể. Trong khi đó, đến nay ta vẫn chưa có một nền công nghiệp cơ khí chế tạo đủ sức tự sản xuất hoàn chỉnh một chiếc ôtô, một cái máy chuyên dùng cho công nghiệp hay nông nghiệp,… thế mà cứ “hồn nhiên, vô tư” nói rằng đến năm 2020 (tức là chỉ 5 năm nữa) nước ta sẽ trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại!

Hiện nay, ta đã có hai viện hàn lâm khoa học nhưng lại không có những “viện sĩ” đúng nghĩa; có nhiều giáo sư, tiến sĩ nhưng lại không có phát minh, sáng chế được quốc tế biết đến và công nhận,…Đó không phải là lỗi của cá nhân mà thuộc lỗi của đường lối, của tầm nhìn lãnh đạo, chưa vạch ra được một chiến lược quốc gia về phát triển khoa học-công nghệ với những định hướng mục tiêu cơ bản cần đạt trong các kế hoạch trung hạn và dài hạn.

Con người Việt Nam vốn thông minh, năng động, khéo tay nhưng cũng mang những hạn chế của một cư dân nông nghiệp sản xuất nhỏ (giỏi bắt chước nhưng kém độc lập, sáng tạo) lại cộng thêm di chứng của Nho giáo, trọng danh hơn trọng thực, nên mới có tình trạng thừa thầy mà thiếu thợ, thừa quan chức mà thiếu chuyên gia, như Cụ Hồ nói: thừa người đi tuyên truyền mà thiếu người giỏi quản trị hành chính; sính làm thơ, sáng tác “văn chương” hơn là say mê, tìm tòi, phát minh khoa học-kỹ thuật,…(Vì vậy, đã có người phải loa lên rằng “Toàn dân yêu thơ, sơn hà nguy biến!). Trong hoàn cảnh đó, những anh “Hai Lúa” chế ra được máy bay trực thăng, tàu ngầm mini, cải tiến xe bọc thép,…đáng phong anh hùng lao động sáng tạo, lại không được Nhà nước tuyên truyền, đề cao, nên ta mới chỉ có loại anh hùng “sao văn tế”!

Khoa học-công nghệ của ta muốn phát triển, giáo dục-đào tạo phải khắc phục được những nhược điểm cố hữu nói trên của con người Việt Nam, nhất là Nhà nước phải tháo gỡ những vướng mắc trong cơ chế, chính sách đang là rào cản sự phát triển của khoa học-công nghệ hiện nay:

– một là, lựa chọn, cắt cử người lãnh đạo khoa học-công nghệ phải là những nhà khoa học tâm huyết, có thực tài, có khát vọng sáng tạo, tìm tòi cái mới và truyền được khát vọng đó cho đồng nghiệp và học trò (như thế hệ các giáo sư Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu,… thời Cụ Hồ ngày xưa). Muốn thế, phải biết quý, biết trọng những người có bộ óc lỗi lạc, có tầm vóc khoa học, chứ không phải coi họ như những “sai nha” quen xun xoe, nịnh hót quanh mình.

– hai là, phải hình thành đồng bộ một đội ngũ các nhà khoa học đầu ngành có trí tuệ, có sức sáng tạo mạnh, có công trình nghiên cứu được thế giới biết đến, có quan hệ rộng rãi với các nhà khoa học nước ngoài, có khả năng đào tạo được các nhà khoa học trẻ, đảm bảo tính kế thừa và phát triển tiếp nối ở mỗi chuyên ngành nghiên cứu. Đáng tiếc, ở ta hiện nay đang có sự đứt gãy, hụt hẫng giữa các thế hệ, lớp sau không kế thừa được lớp trước.

– ba là, phải làm trong sạch môi trường học thuật đang bị ô nhiễm nặng: các chuẩn mực khoa học không được triệt để tôn trọng; nạn “học giả, bằng thật”, nạn mua bằng, bán điểm; nạn lũng đoạn, tham nhũng đáng xấu hổ trong việc giành giật các chương trình, đề tài nghiên cứu, …Muốn thế, phải trả lương cho các nhà khoa học đủ sống để họ có thể theo đuổi lý tưởng sáng tạo khoa học, biết đứng cao hơn mọi cám dỗ vật chất, danh vị, tiền tài; phải tiến tới xóa bỏ “nền khoa học bao cấp”, bỏ “cơ chế xin cho” trong nghiên cứu khoa học!

Không coi trọng chỉ đạo và đầu tư tương xứng cho khoa học-công nghệ, tức là không quán triệt trong thực tế quan điểm coi cách mạng khoa học-công nghệ là then chốt, đó là lỗi của Đảng và Nhà nước, trong đó có phần nào trách nhiệm của người đặt nền móng, là Cụ Hồ.

-- o0o --

Lịch sử dân tộc ta đã ghi lại không ít tên tuổi sáng chói của những anh hùng cứu nước, chống ngoại xâm, như hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,…GS Hoàng Xuân Hãn, trong một thư gửi Đại tướng Võ Nguyên Giáp, có đoạn viết: tuy nước ta có nhiều cuộc chiến thắng ngoại xâm, nhưng “chỉ có hai cuộc giải phóng mà thôi: thời 1416-1427 với Lê Lợi cùng Nguyễn Trãi và thời 1945-1975 với Bác Hồ cùng các Anh” [16] . Ý GS Hãn muốn nói: cần phân biệt giữa chiến thắng chống ngoại xâm với sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước, một bên có sẵn một hệ thống nhà nước với quân đội hùng hậu được trang bị và tổ chức chặt chẽ, được nhân dân cả nước sẵn sàng góp người, góp của để bảo vệ Tổ quốc; với bên kia là cuộc đấu tranh giải phóng đất nước (đang bị ngoại bang thống trị với hệ thống cảnh sát, máy chém, nhà tù), phải khởi sự từ hai bàn tay trắng, phải bí mật nhen nhóm, thức tỉnh lòng yêu nước và căm thù của nhân dân, phải rất giỏi tổ chức quần chúng, từ nhen từng đốm lửa nhỏ đến đốt cháy cả đồng cỏ rộng…Muốn thế, người lãnh tụ phải có đạo đức rất cao mới hấp dẫn được quần chúng đi theo mình; lại phải rất trí tuệ, rất tài năng trong phân tích tình hình, khéo liên minh, liên kết, biết thêm bạn, bớt thù, giỏi nắm bắt thời cơ, chớp thời cơ để giành lấy thắng lợi cuối cùng.

Nếu kể từ ngày Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, đến 1941 trở về gây dựng và làm cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, rồi lãnh đạo cuộc kháng chiến 9 năm, kết thúc vẻ vang với Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 1954, là gần trọn 45 năm! Đó là một sự nghiệp vô cùng gian nan, cực khổ nhưng cũng vô cùng vinh quang. Vào nửa đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam không một nhân vật lịch sử nào có thể so sánh với tầm vóc của Cụ được!

Lịch sử rất công minh trong phán xét ai là kẻ có tội, ai là người có công. Chúng ta vững tin rằng năm tháng qua đi, hận thù được xóa bỏ, dân tộc hòa hợp lại, lịch sử sẽ đánh giá đúng công lao, sự nghiệp của Hồ Chí Minh: “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà yêu nước vĩ đại, chiến sĩ tiên phong của phong trào giải phóng các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”./.

Tháng 5-2015

Lê Kỳ Sơn

__________

Chú Thích:

[1] Thư Enghels gửi Karl Kautsky ở Viên. Xem Mác-Ănghen Tuyển tập, t. V, nxb Sự Thật, Hà Nọi, 1983, tr. 684-85

[2] Dẫn lại theo A. Schenalder, trong sách Chủ thuyết của chúng ta, ấn hành tại CHDC Đức 1981, tr. 83.

[3] Xem Trần Dân Tiên giả, Hồ Chí Minh truyện, Trương Niệm Thức dịch, Bát nguyệt xuất bản xã ấn hành 6-1949, bản Trung văn, tr. 90.

[4] Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 4, tr. 367.

[5] Xem Hồ Chí Minh truyện, sđd, tr. 90.

[6] Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Hồ Chí Minh Toàn tập, xb lần thứ 2, t. 1, tr. 464-466.

[7] Bài nói chuyện của ông về cuốn sách mới có tựa đề “Việt Nam Exposé and New biography of Hồ Chí Minh “, tại Toronto, Canada, ngày 29-10-2003. Dẫn lại theo bản tin BBC, Ban Việt ngữ.

[8] Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 7 (1940-1945), Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, năm 2000, tr. 113.

[9] Hồ Chí Minh Toàn tập, t. 3, tr. 198.

[10] Dẫn lại theo P. Messmer, trong cuốn Les blans s’en vont, Albin Michel, 1998, p. 35. Nguyên văn tiếng Pháp: “Plutôt flairer la crotte des Français pendant cinq ans, que flairer celle des Chinois pendant mille ans”!

[11] Ý này Hồ Chí Minh nói 2 lần, lần đầu với Trương Phát Khuê tại Liễu Châu 1944, lần 2 với các ký giả Pháp tại Paris 1946. TBT Nguyễn Phú Trọng nay còn có tầm nhìn xa hơn: “Chưa biết đến cuối thế kỷ này (21), chúng ta đã có chủ nghĩa xã hội đích thực hay chưa!”.

[12] Dẫn theo Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2002, tr. 91.

[13] Dẫn lại theo Tucker, Spencer ed., The Encyclopedia of the Vietnam War, NY, Oxford University Press, 2000, p. 422.

[14] Xem bài Thư từ Việt Nam, ký tên LIN, trong Hồ Chí Minh Toàn tập, t. 7, tr. 100.

[15] Trich tham luận của Yang Kuisong “Mao Zedong and the War in Indochina” (Mao Trạch Đông và chiến tranh Đông Dương), đọc tại Hội tháo Khoa học tại Hong Kong ngày 11,12 tháng 1 năm 2000. Dẫn lại theo P. Brocheux, trong cuôn tiểu sử của ông về Hồ Chí Minh , Nxb Biographie Payot, Paris, 2003, p. 245.

[16] Thư của GS Hoàng Xuân Hãn gửi Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ngày 2 tháng 1 năm Bính Tý 1996.

 


Nhận xét của bạn đọc

85 thoughts on “Chung quanh vấn đề nhận thức và đánh giá Hồ Chí Minh hiện nay”

● CNH nói:

Tháng Năm 20, 2015 lúc 9:28 sáng

Bài viết rất công phu vừa bao hàm và xuyên suốt giai đoạn lịch sử vừa lý giải được các sự kiện diễn ra trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của lịch sử cách mạng giải phóng dân tộc VN. Thể hiện được tư tưởng của HCM trong quá trình lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Đánh giá được công lao, tài năng của cụ HCM trong quá trình giải phóng dân tộc thống nhất đất nước cũng như những hạn chế của Cụ trong xây dựng và phát triển đât nước. Nêu lên tình trạng thối nát đáng báo động của xã hội hiện nay, đòi hỏi phải cải cách, đổi mới thậm chí thay đổi lớn trong toàn xã hội để xây dựng, phát triển một nước VN giầu mạnh, dân chủ, văn minh.

Cảm ơn tác giả Lê Kỳ Sơn. Tôi rất thích bài viết này.

● le van vinh nói:

Tháng Mười Hai 2, 2015 lúc 6:45 sáng

Người lãnh đạo đăt nước giỏi là người đem lại bình yên thịnh vượng cho đất nước họ chứ không phải dùng xương máu nhân dân và tài sản của đất họ vào trò chơi chiến tranh dưới bất kỳ hình thức nào.

● le o na nói:

Tháng Năm 20, 2015 lúc 2:20 chiều

Rất đồng ý với ý kiến của bạn CNH.

● Khánh nói:

Tháng Năm 21, 2015 lúc 7:14 sáng

Tôi rất cảm động và thấy khâm phục tác giả bài phân tích trên. Nếu Việt Nam mình có thêm được người lãnh đạo như Lý Quang Diệu trong những năm tới thì tương lai sẽ rực rỡ thế nào. Việt Nam sẽ không chỉ có niềm tự hào đấu tranh giải phóng dân tộc với lãnh tụ Hồ Chí Minh, mà còn có thể tự hào là biết xây dựng một đất nước phồn vinh, thịnh vượng, một nền pháp trị tiên tiến.

● Đỗ Thành Đồng nói:

Tháng Năm 22, 2015 lúc 8:48 sáng

Một bài viết trí thức, khách quan, và tâm huyết với dân tộc!

● Qui Nguyen nói:

Tháng Năm 22, 2015 lúc 9:25 sáng

trích dẫn “Công lao to lớn của Cụ Hồ đối với sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc là điều không ai có thể phủ nhận”.Trong thời gian đó có rất nhiều đảng phái chống Pháp dành độc lập nhưng tất cả bị chính đảng ông Hồ (đảng cộng sản) tiêu diệt, việc này là tội ác , ông Hồ học đúng bài bản của cộng sản Liên Xô và Trung Cộng.

Còn nói ông Hồ theo chủ nghĩa dân tộc thì càng không đúng vì có hình ảnh nào ông Hồ mặc quần áo quốc phục mà chỉ mặc quần áo “đại cán” như Mao trạch Đông mà thôi, cho đến trước khi chết cũng không muốn nghe 1 bài hát dân tộc như dân ca miền bắc hay 1 bài cải lương miền nam mà chỉ nghe nhạc Tàu. Ông ta có giỏi mồm miệng như hành đông ông ta không phải là 1 nhà chinh trị dân tộc mà chỉ là 1 nhà cộng sản nòi.

Alobooks.vn nói:

Tháng Năm 22, 2015 lúc 1:32 chiều

Trong suốt thời kì đó vẫn có Đa Đảng thì sao bị nói là tiêu diệt hay là tội ác. Và việc theo chủ nghĩa nào phụ thuộc vào quần áo mặc à? Lí luận của bạn hay ghê. Và trước khi chết cụ đã nghe dân ca thật, lại nghe bọn cờ vàng ba que xuyên tạc rồi nói chỉ nghe nhạc Tàu.

Tìm hiểu cho kĩ trước khi nói bạn nhé.

Thang nói:

Tháng Năm 24, 2015 lúc 9:36 sáng

Hay nhỉ mặc quần áo tầu nên theo tầu? Thế ko nghĩ đó là sự hiếu khách của bác ah?

● congthang nói:

Tháng Năm 27, 2015 lúc 9:27 sáng

Cảm phục trước những đánh giá của bạn….không lẽ ăn mặc theo mốt Tây thì là theo Tây à

● Vũ nói:

Tháng Sáu 23, 2015 lúc 5:19 chiều

Cụ Hồ không cấm cản việc đa đảng, nhưng những đảng phái kia không đóng góp được gì cho dân tộc ( có những cá nhân lúc nguy biến còn xin rút lui), vậy bản thân nó không có “sứ mệnh lịch sử” để tồn tại thì đương nhiên bị tiêu vong. Giả sử ĐCS muốn tiêu diệt các Đảng phái khác, hãy thử hỏi tại sao các họ dễ dàng bị sụp đổ như vậy? Tại sao không có sức mạnh chính trị để chống lại?

● Tony nói:

Tháng Sáu 3, 2017 lúc 7:08 sáng

Việt Minh đã tiêu diệt toàn bộ các đảng phái khác bạn nhé. Năm 1946, Hồ Chí Minh đi Pháp, toàn quyền được giao cho Võ Nguyên Giáp. Khi 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch vừa rút, Võ Nguyên Giáp đã sử dụng Công An và Quân đội nhanh chóng tiêu diệt các đảng phái đối lập

● thanhnguyen nói:

Tháng Sáu 24, 2015 lúc 10:56 sáng

biet thi noi ,khong biet dung noi cang

● thanhnguyen nói:

Tháng Sáu 24, 2015 lúc 11:00 sáng

Qui Nguyen.biet thi noi khong biet dung noi. chu noi cang

● Vien Tran nói:

Tháng Bảy 15, 2015 lúc 8:05 sáng

Vậy thời đại bây giờ đất nước không bị cô lập, bạn có nhiều điều kiện thuận lợi trong tay, bạn bằng được 01 phần nhỏ của Cụ chưa mà bày đặt phán xét vớ vẩn. Muốn nhận xét đánh giá người khác, có giỏi thì viết một bài như tác giả có bằng chứng, dẫn chứng lịch sử rõ ràng đi. Như bạn mà vào thời đó thì chắc cũng chỉ biết ngồi mà phán những việc người khác làm chứ cũng chẳng được tích sự gì đâu.

● Tuan nói:

Tháng Mười Hai 3, 2015 lúc 2:47 sáng

Nói thực Bạn mới là người phản động đó

● Thuyettruongdung nói:

Tháng Sáu 3, 2017 lúc 4:16 chiều

Thực sự những phát biểu này hoàn toàn sai lầm cả về Logic lẫn thực tế

● Ngô Mạnh Hùng nói:

Tháng Năm 22, 2015 lúc 3:30 chiều

Nội dung bài viết có một số chi tiết đáng tham khảo, song tác giả rất lẫn lộn giữa học thuyết cộng sản của Mac với chủ nghĩa Mac-Lenin, từ đó dẫn đến nhiều nội dung mang tính xét lại.

rooif từ những nội dung đó để đánh giá hiện tại, không rõ tác giả muốn nói gì?

● Ltg nói:

Tháng Mười Hai 3, 2015 lúc 9:26 sáng

Ờ, đồng ý với ý kiến này.

● GDCN nói:

Tháng Năm 22, 2015 lúc 5:52 chiều

Một cách nhìn khách quan

● Dugtus Nguyen nói:

Tháng Năm 23, 2015 lúc 12:02 sáng

Tấm màn bưng bít Lịch sử sẽ từ từ được hé lộ sau khi đảng CSVN sụp đổ. Đó là điều chắc chắn xảy ra! Người VN sẽ biết rõ chân tướng nhân vật Hồ Quang (HCM) và cờ đỏ sao vàng tỉnh Phúc Kiến (TQ)

● tuan nói:

Tháng Một 10, 2016 lúc 2:31 sáng

Có bưng bít để tuyên truyền, nhưng tôi tuyệt đối không tin vào thuyết HCM là HQ. Chả lẻ thế giới phương Tây KGB, CIA..bị mù hết sao?

● Filip nói:

Tháng Năm 23, 2015 lúc 11:02 chiều

Truoc kia chua co che do Viet Nam cong hoa va My chua vao Vn thi bao my khong ung ho. Nhung khi co VN cong hoa roi, My vao roi sao khong bat tay voi mien nam tong tuyen cu thong nhat va dua dat nuoc di theo xu huong Dan chu?

Nguyễn Dũng nói:

Tháng Năm 24, 2015 lúc 10:07 sáng

Năm 1956 chính Ngô Đình Diệm đã hủy bỏ tổng tuyển cử cả nước theo hiệp định Geneve bạn ạ. Ngô Đình Diệm không có công lao đưa đất nước thoát khỏi gọng cùm nô lê của Pháp, đấy là lý do họ Ngô hủy tổng tuyển cử.

● DF.thangld nói:

Tháng Sáu 15, 2015 lúc 12:10 chiều

Điện Biên Phủ rồi Mỹ mới vào ăn hôi thì còn nói làm gì nữa

● Sơn nói:

Tháng Mười Hai 2, 2015 lúc 8:02 sáng

Chính quyền miền Nam không chịu tổng tuyển cử, Ngô Đình Diệm dở quẻ mà bạn còn nói gì nữa?

● Thuyettruongdung nói:

Tháng Sáu 3, 2017 lúc 4:18 chiều

Mỹ không dám tổ chức Tồng tuyển cử vì theo CIA, nếu tổ chức Tồng tuyển cử, 80% cử tri sẽ bầu cho Hồ Chí Minh!

● Filip nói:

Tháng Năm 23, 2015 lúc 11:53 chiều

Toi cho rang ong Ho khi ma danh Phap giai phong dan toc la OK it nguoi phe phan viec nay, tham tri la da so ung ho. Nhung khi co quyen trong tay lanh dao mien bac roi neu khong muon theo cong san thi bat tay voi ong Diem dua dat nuoc di theo con duong Dan chu co My ung ho la xong.

Toi khong hieu 2 ong Ho va Diem tai sao khong bat tay duoc voi nhau de dua dat nuoc toi dan chu?????????????????

Neu bat tay duoc thi se co 2 dang chinh tri lon song song, ton tai va tranh cu voi nhau.Neu gia su bau cu ong Ho thua thi den luc nao do ong Diem lanh dao khong tot thi ong Ho lai thang va nguoc lai. Cac ong thuc su vi nuoc, vi dan thi phai san sang chap nhan nhuong quyen lanh dao neu thua cu va tim cach lam tot hon nguoi kia de roi chien thang khoa sau chu. Viec nay cho thay ca 2 ong Ho, Diem chua chac da dat quyen loi to quoc len tren quyen loi ca nhan nhu cac ong tu khoe.

De danh gia chinh xac cong, toi cua ong Ho hoac ong Diem thi nen nghien cuu ky giai doan 2 mien danh nhau.

Co hoi vo cung qui bau ngan nam co 1 de thoat khoi su kim kep cua Trung Quoc, dua dat nuoc di theo con duong dan chu chinh la thoi ky nay, nhung khong tan dung duoc. Vo cung dang tiec, dang tiec.

Than oi!!! dau buon cho dan toc Viet Nam qua.

● VP nói:

Tháng Sáu 23, 2015 lúc 5:25 chiều

Ông Hồ muốn nhưng ông Diệm có đồng ý đâu, ông đòi quyền lực lớn ngay từ đầu dù chưa đóng góp được gì cho CM, nếu muốn thì sinh mạng ông Diệm có lúc nằm trong tay CS, nhưng ông ta vẫn được an toàn để sang nước ngoài đấy thôi.

● Kevin Trần nói:

Tháng Sáu 26, 2017 lúc 4:19 chiều

Năm 1963, Diệm (do Nhu chỉ đạo) muốn bắt tay với miền Bắc KHÔNG phải vì thật sự muốn thống nhất và hợp tác phát triển mà vì 4 lý do nột tại của miền Nam: (1) Diệm hoàn toàn mất hết hậu thuẫn ở miền Nam, thậm chí còn bị cả quân lẫn dân chống đối (7 lần chống đối chính trị, vũ lực trong 8 năm cầm quyền); (2) Diệm muốn tháu cáy với Mỹ vì Mỹ đã thấy Diệm không còn khả năng chống Cọng (Phúc trình Mansfield); (3) Nhu bị bệnh cuồng vỹ, muốn thay Diệm để cùng ông Hồ làm lãnh tụ toàn Việt Nam (chi tiết bằng chứng và nhân chứng rất rõ trong FRUS 1961-1963); và (4) Vatican và Pháp muốn trở lại trên cả hai miền Bắc nam VN.

Bất chấp Hiến Pháp 1956 đặt CS ngoài vòng pháp luật, bất chấp gần 700.000 Giáo dân chống Cọng di cư vào Nam, bất chấp quân đội đã chết vì chống Cọng để bảo vệ chế độ Cọng hòa chống Cọng, … Diệm-Nhu thoả hiệp với Hà Nội nên cuối cùng bị quân dân miền Nam lật đổ. Đơn giản thế thôi, chứ một mình Mỹ, một mình Phật giáo, một mình mấy vị Tướng quân đội … thì làm gì được. Nhưng tàn dư Cần lao cứ xuyên tạc lịch sử để chạy tội cho chủ bằng cách đổ tội cho PG “chống Diệm nên làm mất miền Nam” hoặc/và :tướng lãnh làm tay sai cho Mỹ để lật Cụ”!!!

● D.N.L. nói:

Tháng Năm 24, 2015 lúc 4:41 sáng

Đây là bài viết “logic”(hợp lý luận) theo quan điểm giai cấp của người CS.,tức là nếu chính phủ nào không được Llên Xô hay Trung Cộng hậu thuẫn và yểm trợ thì đều là bù nhìn,bán nước cả.

Từ chính phủ Trần Trọng Kim (thân Nhật) đến Ngô Đình Diệm (thân Mỹ) dều bị gán tội như trên vì họ không theo chủ nghĩa CS.

Khuôn mẫu lý luận quen thuộc của người CS.là “đẽo chân cho vừa giày” !

Ông Hồ Chí Minh lúc sinh thời cũng như gần chết,đều quan tâm đến cái gọi là “sự nghiệp cách mạng toàn thế giới” và mong uớc 2 đảng CS.Liên Xô và Tàu đoàn kết Bằng chứng quan trọng nhất là ông còn mong đi gặp các tổ sư CS.thay vì tổ tiên mình trước khi qua thế giới bên kia !

● Vũ nói:

Tháng Sáu 23, 2015 lúc 5:23 chiều

Đoàn kết là để nước ta được yên ổn, hãy nhìn vào sự tranh đấu của Liên xô và TQ và chúng ta ở thế chết chẹt, dẫn đến chiến tranh biên giới năm 1979 chẳng hạn.

● VĂN THÀNH.HN nói:

Tháng Ba 27, 2017 lúc 3:10 sáng

Bạn DNL xem voi sờ mông làm sao mà đúng được. Muốn đánh giá HCM cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể. HCM từ năm 1918 đã có thư thỉnh nguyện đến hội nghị Vec-xay Pháp yêu cầu trả tự do cho VN. Nhưng các nước tư bản lờ tịt đi. Năm 1946 HCM chấp nhận VN là nước tự do, nằm trong Liên Hiệp Pháp. HCM gửi thư cho TT Mỹ Truman tha thiết đề nghị ủng hộ VN độc lập. Tất cả thiện chí của HCM đều bị Pháp, Mỹ từ chối. Năm 1954 sau Hiệp Định Giơ ne vơ người Mỹ đã cùng với Ngô Đình Diệm ngăn cản VN thống nhất. Đó là nguyên nhân HCM phải cần đến TQ và Liên Xô để có được sự ủng hộ quốc tế cho việc giành độc lập cho Tổ Quốc. Hai nước LX và TQ đoàn ết có lợi cho cuộc chiến chống Mỹ của VN, và đây cũng là thước đo tình cảm của TQ và LX với VN. Chính vì thế sau này HCM hoàn toàn biết dã tâm của TQ, nhưng hoàn cảnh Lịch sử bắt buộc VN phải dành toàn lực đánh Mỹ Ngụy giải phóng Miền nam. Bạn nên nhớ từ năm 1967 nhà thơ Tố Hữu từng viết : Chuyện cô du ích xóm Lai Vu, Rắn quấn bên chân vẫn bắn thù…” “rắn ” quấn bên chân cô gái Lai Vu đó chính là TQ. Người Bắc Việt nói xa xôi, người TQ hiểu, nhưng người Việt chẳng phải ai cũng hiểu điều này đâu.

Oanh nói:

Tháng Năm 24, 2015 lúc 6:16 sáng

Tôi đã khóc vì xúc động ! thương Bác biết bao nhiêu !

● Phạm đức Hoàn nói:

Tháng Năm 24, 2015 lúc 7:48 sáng

Tôi thì hiểu Hồ chí Minh ở hai cái tên : Tên nước Việt nam dan chủ cộng hoà, Tên Đảng: Đảng lao động Việt nam!Đó là tư tưởng Hồ Chí Minh!

Thang nói:

Tháng Năm 24, 2015 lúc 9:31 sáng

Tôi chưa đọc hết, nhưng nghe một số chí thức trong nước và hải ngoại phê phán bới móc nói xấu bác, nói thật các ông ấy mà sống ở thời của bác thì vãi cả đái chứ ở đó mà đòi làm cách mạng, một lũ ăn hại.

● Minh nói:

Tháng Sáu 22, 2015 lúc 6:24 sáng

Thích nhất comment này haha

● Anh nói:

Tháng Sáu 23, 2015 lúc 6:54 sáng

Mình cũng đồng tình với ý kiến của bạn. Lời bình quá đúng!

● AAAA nói:

Tháng Sáu 23, 2015 lúc 1:50 chiều

hay

Nguyễn Dũng nói:

Tháng Năm 24, 2015 lúc 10:10 sáng

Trong sự nghiệp phát triển đất nước không tránh khỏi những sai lầm. Nhưng công lao Người là không thể phủ nhận. tác giả cũng đã phân tích những mặt hạn chế của Người. Nhân bất thập toàn. Không thể đòi hỏi hơn ở Người. Trọn đời với tâm huyết đưa đất nước ra khỏi vũng bùn nô lệ.

● hoanganh nói:

Tháng Năm 24, 2015 lúc 11:12 sáng

Một bài viết tuy chưa phải toàn vẹn, nhưng đáng đọc và suy nghĩ. Cảm ơn tác giả.

● Filip nói:

Tháng Năm 24, 2015 lúc 11:27 sáng

1- Ong Ho la nguoi ai quoc:

Dieu nay khong phai ban cai.

2- Lam cuoc cach mang giai phong dan toc thoat khoi ach thong tri cua thuc dan Phap:

Dieu nay cung la tot, khong can phai ban cai.

3- Dua dat nuoc tien len chu nghia xa hoi:

Viec nay ro rang la khong tot bang di theo con duong dan chu Tu ban. Tuy nhien phai tim hieu nguyen nhan tai sao lai di theo con duong nay???

Muon tra loi cau hoi nay thi can tap trung nghien cuu ky lich su giai doan noi chien Nam- Bac tu do danh gia khach quan nhat ve ong Ho va ca ong Diem.

Toi thay tac gia Le Ky Son khong phan tich ky ve van de nay do do danh gia ong Ho giai doan sau 1954 la chua day du, chua chinh xac.

● Vien Tran nói:

Tháng Bảy 15, 2015 lúc 7:53 sáng

vậy bạn thử tìm hiểu về lịch sử thời điểm đó rồi phân tích thêm một cách thuyết phục thử xem?

● Nguyen Do nói:

Tháng Năm 24, 2015 lúc 12:09 chiều

Một tác giả có nhiều bài ở trang này, cung cấp cho tôi:

– Thực dân Pháp đã kết án tử hình (vắng mặt) Nguyễn Ái Quốc. Hãy tìm hiểu, coi thử tội của Nguyễn Ái Quốc (đối với Pháp) to đến đâu?

– Bộ quần áo Hồ mặc năm 1945 (hiện còn nhiều ảnh tư liệu) gọi là bộ “Tôn Trung Sơn”. Hãy tìm ảnh chân dung nhà cách mạng Tôn Trung Sơn. Hồ bao năm ở ngoại quốc, khi về nước không thể ăn mặc như cụ Huỳnh Thúc Kháng (áo dài, khăn xếp), cũng không thể mặc complet như ông Phan Anh.

Nhiều người không biết và không phân biệt nổi điều này. Người sáng lập đảng CS gọi là “chủ tịch đán”, quyền như vua. Đó là Lenin, Stalin, Dimitrop, Mao, Kim… Khi bộ chính trị bỏ phiếu, phải nhìn chủ tịch đảng. Thậm chí, chủ tịch đáng có ý kiến quyết định. Khi chết được xây lăng. Thời kỳ 1941-1952 Hồ là chủ tịch đảng, dám quyết định giải thể (giả) đảng. Sau đó, khi đảng Lao Động ra đời, Hồ lép vế, chỉ còn là “chủ tịch ban chấp hành TƯ”, phiếu của Hồ chỉ là “một phiếu”. Từ đó, nói chung, Hồ luôn luôn ở nhóm thiểu số. Vẫn không yên, năm 1968 ông Thọ, ông Duẩn còn muốn gây tai nạn máy bay để ám sát Hồ.

Nghiencuulichsu nên đăng bài nói về sự kiện này (tác giả là Vũ Kỳ)

● D.N.L. nói:

Tháng Năm 25, 2015 lúc 9:26 sáng

Xin được góp ý thêm.

Muốn đánh giá cho thật công bình,người ta phải dựa vào thành qủa cuối cùng mà đối tượng (được phê phán ở đây) đã mang lại trong THỰC Tế,chứ không thể căn cứ vào bất cứ cái gì khác cả.

Một đất nước như thế này thì nhà lãnh đạo đó có đáng ca tụng hay không ?

Một dân tộc mà trong đó giới phụ nữ đi làm dâu thiên hạ,thậm chí làm nô lệ tình dục ở xứ người và nam giới trở thành lao nô thế giới thì tự hào nỗi gì mà trái lại phải ý thức đó là quốc nhục và quốc sỉ !

Nếu ông HCM.đáng cho cả nước tung hô vạn tuế thì ông ta phải có viễn kiến, nhìn xa trông rộng,nhất là biết nước Tàu ở sát nách là vô cùng nguy hiểm,do đó không thể “thân cận” qúa đáng với Tàu như thế được,trừ ra ông ta đã qúa cuồng tín với cách mạng vô sản !

● Nguyen Do nói:

Tháng Năm 25, 2015 lúc 11:26 sáng

Nè, bác ẩn danh DNL

Ông Hồ chết năm 1969, cách nay đã 46 năm. Định bắt ông này chịu trách nhiệm chuyện gì vậy?

Chuyện phụ nữ đi làm nô lệ tình dục… Liên quan gì tới ông Hồ?

Nếu bác D.N.L có người nhà trên 60 tuổi hãy hỏi han để biết rằng thời ông Hồ không có nạn mại dâm đâu.

Đang bàn chuyện Lịch Sử, nói gì hãy dẫn tư liệu lịch sử ra.

● D.N.L. nói:

Tháng Sáu 1, 2015 lúc 9:50 sáng

Nếu ông HCM.không chịu trách nhiệm thì nhờ bác “lên giọng” can ngăn tổng bí Trọng đừng ba hoa về di sản ông HCM.mới đây.

Chẳng lẽ người có nhiều quyền lực nhất được quyền nói gì cũng được, còn dân đen như tôi phải câm họng thì có hợp lý và công bằng không ?

Bác muốn dẫn tư liệu ư ? Xin bác hãy đọc Di chúc của HCM.và nhân đây xin dẫn câu của HCM.”Nếu nước được độc lập mà nhân dân không được tự do hạnh phúc thì độc lập ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì” !

Trân trọng.

● Abc12345 nói:

Tháng Tư 9, 2016 lúc 1:37 chiều

dANG LAF ME BAC LAF CHA

● Kim nói:

Tháng Sáu 22, 2015 lúc 1:27 chiều

Nếu suy diễn như vậy phải đổ trách nhiệm lên đầu các Vua Hùng và các vị tiền nhân mới đúng. Vì họ đã tạo ra và ráng giữ gìn mảnh đất Việt này cho những kẻ hậu sinh ngu dốt có chỗ dung thân và không bị ngoại bang đồng hóa. Hồ chí Minh chỉ là người tiếp tục sự nghiệp đó mà thôi.

Tôi không suy tôn Cụ Hồ là Thánh sống như nhiều người, nhưng tôi nghĩ những việc Người làm VAO THỜI ĐIỂM ĐÓ LÀ ĐÚNG! Nếu không hành xử khôn ngoan như vậy, VIỆT NAM đã có thể là thuộc địa của Pháp hoặc tệ hơn là thành một tỉnh của lũ Tàu khựa rồi. Những thất bại trước đó của cụ Phan Bội Châu và cụ Phan Châu Trinh chứng minh điều này.

Khởi đầu không một tấc sắt trong tay mà giữ được Quốc hiệu VIỆT NAM cho đến giờ này thì CHẮC CHẮN phải là một người giỏi.

Chỉ là một nhà nho bình thường mà tập hợp được quanh mình nhiều cá nhân ưu tú từ nhiều thành phần, trong đó có cả những người xuất thân là giai cấp đối lập như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng cùng nhau lập Quốc khi tương lai hoàn toàn mù mịt thì KHÔNG THỂ là một người dở.

Tầm nhìn của Người về quan hệ Quốc tế và quan điểm trong quan hệ với Tàu khựa thì tác giả đã dẫn chính xác, tôi không cần nói thêm. Các bạn có thể tim xem thêm video trả lời phỏng vấn PV Pháp bằng tiếng Pháp trên Youtube của Hồ chủ tịch để thấy thái độ cương quyết của Người về vấn đề này.

Nói tóm lại, chế độ hiện nay có thể là thối nát, “một phần không nhỏ” – có nghĩa là phần lớn, đa số – cán bộ lãnh đạo là những kẻ bất tài, tham nhũng : đúng! Nhưng nói Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã gây ra tình cảnh này thì đó là một sự XÚC PHẠM.

Tran Toan nói:

Tháng Mười Hai 2, 2015 lúc 3:23 sáng

Lý luận “Hay” thế nhỉ? Có não không D.N.L? Tiêu cực đổ hết lên đầu 1 người nào đó là cách để xã hội tốt hơn à? Thời điểm khác nhau sẽ dẫn đến cách quyết định hay cách đánh giá khác nhau. Nếu muốn xét để phán thì phải xét ở nhiều mặt rồi mới đưa ra lời phán chứ. Cứ có hiếp dâm, đi làm thuê thì là do các bậc tiền bối ngu à? Thế vai trò của chính những người đang sống trong hiện tại là chỉ có mỗi một việc là đổ lỗi cho tiền nhân thôi à?

● Kevin Trần nói:

Tháng Sáu 26, 2017 lúc 4:28 chiều

@D.N.L.: Tại sao nói chuyện con người, chuyện lịch sử mà lại có những người “có đầu mà không có óc” phát ngôn bừa bải thế nhĩ. Người Mỹ có một câu rất hay: “Mọi người đều có quyền tự do, kể cả tự do ngu đần!”

● Nguyen Do nói:

Tháng Năm 25, 2015 lúc 11:44 sáng

Có hai loại người đánh giá ông Hồ khách quan nhất.

Vì đó là nghề nghiệp của họ.

Hai loại người này làm khoa học, lấy khách quan khoa học làm lẽ sống.

Họ không làm chính trị, không có mưu đồ gì về chính trị. Không đứng ơ phe nào.

Đánh giá của hai loại người này là những công trình khoa học mà họ bỏ mọi công sức để hoàn thành.

Sự nghiệp cả đời của hai loại người này chính là các công trình.

Họ là ai?

1) Đó là các nhà Sử Học (VN và quốc tế). Các nha sử học dính líu chính trị thì “xin đủ”.

2) Đó là các nhà biên soạn Từ Điển Bách Khoa

Xem các cuốn sử học và các mục từ liên quan ông Hồ, sẽ thấy kết quả không giống như bác D.N.L nghĩ.

Một dư luận viên từng viết bài chửi ông Hồ, sau khi tốn công đọc sách Lịch Sử thế giới và tra cứu Đại Từ Điển, đã có bài viết ở địa chỉ dưới:

https://www.danluan.org/tin-tuc/20100713/thao-thao-phe-phan-ong-ho-the-nao-cho-thuyet-phuc

Trần Đốc nói:

Tháng Năm 25, 2015 lúc 1:26 chiều

Chính xác

● Minh nói:

Tháng Năm 25, 2015 lúc 2:33 chiều

– Trần Hưng Đạo cướp vợ người khác. Clinton ngoại tình. Ông Hồ xin học trường Thuộc Địa… Những “chứng cứ” đó nếu lải nhải cả tháng, làm sao đánh quỵ được danh nhân Lịch Sử? Họ có là thánh đâu? Họ là người, có khuyết, có nhược, nhưng họ là “người có danh”.

– Tôi đồng ý hai loại người đánh giá khách quan, công bằng về các nhân vật lịch sử (kể cả Hitle, Tần Thủy Hoàng, Việt Gian):

1) Các nhà sử học muốn để các công trình cho hậu thế;

2) Những người soạn Đại Từ Điển.

Họ cóc sợ ai, chỉ sợ công trình không khách quan, không khoa học. Họ muốn để lại một sự nghiệp.

– Tuy vậy, ngoài 2 loại trên, vẫn có nhiều người có năng lực này, vì họ có trình đô, trung lập, không thiên vị, dám nói quan điểm của mình sau khi đã suy nghĩ.

Ngay trong nghiencuulichsu.com cũng có nhiều người như vậy, mặc dù họ không thuộc 2 loại trên.

Để khỏi mất công tìm kiếm, tôi xin đưa ra 2 bài làm ví dụ:

1) Bài chúng ta đang đọc đây: nhan đề: Chung quanh vấn đề nhận thức và đánh giá Hồ Chí Minh hiện nay.

2) Các bài về Việt Gian.

Ai muốn nói ngược lại 2 bài trên, xin cứ tha hồ, nhưng viết cho khách quan, trung lập và có lý lẽ, chứng cứ. Tôi rất mong được đọc bài phản biện như vậy. Tôi cũng rất chán các bài “chửi bới”.

Đã có người đề ra các nguyên tắc phê phán người chết (ví dụ, phê phán các Việt Gian trong lịch sử).

– Còn các vị chống cộng tuyệt đối, các vị trong ban Tuyên Giáo và bộ chính trị, các dư luận viên… xin đừng vào đây.

Có vô số diễn đàn thích hợp với quý vị đấy.

Son Minh nói:

Tháng Sáu 22, 2015 lúc 8:23 sáng

quan diem cua Ban tring bai viet nay rat dung .

● C.B.L nói:

Tháng Sáu 9, 2015 lúc 8:21 chiều

đọc bài xong, đọc bình luận bên dưới xong. có người chửi có người khen ông Hồ, riêng tôi chỉ đang tự hỏi chúng ta ngồi đây khen và chửi một người đã nằm xuống, đã ra đi bao lâu nay thì mấy quan chức CS thế kỉ 21 này sẽ thôi tham nhũng, sẽ ngừng lấy tiền dân biến thành tiền nhà à?! đọc để hiểu được tình hình trong quá khứ như thế nào mà thôi, còn chuyện phán xét lịch sử, hành động lịch sử, con người lịch sử, sự kiện lịch sử…liệu ta có đủ tầm?! điều cần thiết là chúng ta cần nói ở ngoài thực hay không kia kìa…

có một câu nói của cựu lính VNCH: “VN bây giờ không như những gì VNCH thời đó muốn, và càng không như những gì mà bộ đội cụ Hồ muốn”…

● Hoang Kim Duong nói:

Tháng Sáu 22, 2015 lúc 6:35 sáng

Tôi nghĩ mỗi người chúng ta đều cần fải trân trọng những công lao của các bậc tiền bối. Mình là j mà dám đánh giá một vị vỹ nhân đã được thế giới công nhận?? Một nhà lãnh đạo đã cùng bao thế hệ ông cha đi trước cho ta cuộc sống hôm nay?? Con đường cách mạng có j không đúng chứ, thực tế là cũng chính lý tưởng đó, con đường đó đã là ngọn đuốc cho dân tộc ta làm kim chỉ nam giành độc lập, tự do..mọi nhận xét, đánh giá phiến diện chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Tôi nghĩ, tác giả bài viết đánh giá về Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta có phần quá đáng..

● Thanh Tâm nói:

Tháng Tám 11, 2015 lúc 2:33 sáng

Tôi thấy tác giả đánh giá rất khách quan (cũng như nhiều bài phân tích lịch sử khác) chứ không có gì là quá đáng cả. Hay phải tâng bốc HCM lên tận mây xanh thì bạn mới thỏa lòng? Thực tế thì vĩ nhân nào cũng là người, đều có những sai lầm và không nước nào trên thế giới lại tôn thờ lãnh tụ như thánh sống giống như các nước CS cả. Bạn thử nghĩ xem vì sao lại thế? Chúng ta là thế hệ sau thì nên luận đúng và rạch ròi công và tội của các vị. Riêng HCM thì thế giới chỉ công nhận là tội nhiều hơn công

Danver nói:

Tháng Sáu 22, 2015 lúc 9:35 sáng

Chu nghĩa CS hay tb chu nghĩa luc thoi Hcm kg co lua tron khác du sao Hcm cung thanh cong mo mot trang moi cho lịch su Vietnam ket thuc vietnam bi ngoai xam hoac tu tang sát lan nhau ,tu the ky nay sang the ky khác ,khác voi cau noi cua Dang tiểu binh bat ke meo trang hay đen chi can bat đuoc Chuoc la meo tot,cau nay co van de dao duc va chu nghĩa ca nhan ,Hcm vi dan tóc Phan dau ca cuộc doi cong lao rat lon ,ve thong nhat đat nuoc kg the bo quen mot nhan vat rat quan trong Du thich hay kg Le duan cung la nguoi co cong hien cho su nghiệp giai phong mieng nam neu Hcm co cong lao giao phong mieng bac.

Kim Tran nói:

Tháng Sáu 22, 2015 lúc 9:58 sáng

Nguoi co tu cach khong viet sach tu de cao minh , lai con lay but hieu khac de dau mat.

● Hải Ly nói:

Tháng Sáu 22, 2015 lúc 8:14 chiều

Mỹ là bọn có lỗi lớn nhất trong sự suy thoái kinh tế chính trị của VN hiện nay. Năm xưa lúc bác ra đi tìm đường cứu nước có xin vào Mỹ học tập nhưng bị chính phủ Mỹ từ chối làm Bác ôm hận chạy sang Liên Xô. Nếu lúc đó tụi nó cấp cho Bác cái Visa nhập cảnh thì sau đó sẽ không có 20 năm nội chiến và VN bây giờ chắc đã khác rồi.

Muốn hỏi tội thì phải tìm ra cái thằng Mỹ năm đó đã từ chối cấp visa cho Bác.

● tong van binh nói:

Tháng Sáu 23, 2015 lúc 1:54 sáng

Một bài viết hay, một tài liệu nghiên cứu công phu và có sức thuyết phục

Trung Nguyen nói:

Tháng Sáu 23, 2015 lúc 3:28 sáng

HCM nó là một biểu tượng đặc thù CS giồng Mao trạch Đong, Stalin, Kim nhật Thành, Ceaucescu, Polpot …

● Binh nói:

Tháng Sáu 23, 2015 lúc 6:09 sáng

Sau chiến tranh thế giới thứ 2 những nước không đi theo CNCS, đươc độc lập không đổ máu trong thời gian ngắn. Viêt Nam theo CNCS đã gây ra bao nhiêu chiến tranh. Viêt Nam là nước bât hạnh.

● Anh nói:

Tháng Sáu 23, 2015 lúc 1:36 chiều

Bác là vị thánh sống. Cả cuộc đời vì nước, vì dân. Dù bất cứ lý do gì cũng đừng đổ lỗi cho người đã chết. Người đã hy sinh quá nhiều, chúng ta là những người tiếp bước cha anh làm không tốt thì phải xem xét lại mình!

Nguyễn Tấn Hợp nói:

Tháng Sáu 24, 2015 lúc 3:40 sáng

Tôi đọc và nghiên cứu bài viết này 3 ngày liền (vì bận làm công tác chuyên môn nên kg có thời gian đọc liên tục). Khi đọc xong mới thấy thắm thía bài viết rất sâu sắc, phân tích đúng sai, mạnh dạn chỉ rõ những khuyết điểm, yếu kém và tồn tại của từng thời kỳ. Giá như Bác Hồ còn sống tiếp thu bài viết này…sửa sai những chổ khiếm khuyết cộng với bản chất thanh liêm chính trực và uy tín của Bác…. thì đất nước ta tới năm 2020 mới trở thành “công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước”.

Yêu cầu TW phải cho và lắng nghe phản biện xã hội. Theo nhận thấy tình hình hiện nay kg phải yên ổn đâu: vấn đề biển Đông, tham nhũng, tiêu cực xã hội,…làm mất lòng tin ở dân. Mà mất dân là mất nước!

● QA nói:

Tháng Bảy 8, 2015 lúc 1:11 chiều

Đọc hồi ký của giáo sư Trần Đức Thảo là hiểu rõ được phần nào về con người ông HCM. Có công hay tội thì phải thật sự khách quan mới nhận ra được.

● Vũ nói:

Tháng Bảy 13, 2015 lúc 12:59 chiều

Nên nhìn nhiều tài liệu, từ nhiều phía hơn là chỉ một cuốn hồi kí của triết gia Trần Đức Thảo. Có thể như đã phân tích trên bài, do phụ thuộc vào sự trợ cấp của TQ, mà Hồ Chí Minh phải chịu những ràng buộc nhất định, TĐT sống trong môi trường ấy, bị đối xử tệ bạc, sinh ra những suy luận, cảm giác mang mang tính cá nhân khá tiêu cực về HCM.

● Xuân Thìn nói:

Tháng Tám 5, 2015 lúc 1:40 chiều

Nghiên cứu của các nhà sử học thế giới trong mấy chục năm nay đều khẳng định trước sau Hồ chí Minh cũng chỉ là một nhà nho yêu nước,có một phần nào đấy tư tưởng “Tự do bình đẳng bác ái ” của Montesquieux,của tinh thần cách mạng Pháp và một phần nhỏ đường lối sách lược Lenin trong đấu tranh giải phóng dân tộc.Có thể nói Hồ Chí Minh hoàn toàn xứng đáng với danh xưng:”Anh hùng giải phóng dân tộc,nhà yêu nước vĩ đại của Việt Nam,đồng thời là chiến sĩ tiên phong của phong trào giải phóng các dân tộc thuộc địa ” Như phân tích của bài viết trên,Bác hồ đã không có chọn lựa nào khác là phải làm theo chủ trương đường lối cách mạng Tàu của chủ nghĩa phản động Mao Trạch Đông,điều kiện để được viện trợ quân sự,kinh tế trong thời kháng chiến chống Pháp. Đó là điều dể hiểu.Tuy nhiên có vẽ những người học trò như ông Lê Duẩn,Lê Đức Thọ… không lảnh hội được tinh thần nhân đạo yêu nước thương nòi của Bác trong việc thực hiện các đường lối chính sách cải tạo xã hội sắt máu,phá nát Miền Nam sau ngày kết thúc chiến tranh,thống nhất đất nước.Phải chăng đây cũng là những chính sách thực hiện dưới sự chỉ đạo của nhà cầm quyền Đảng CS Trung Quốc ?Hay họ áp dụng đường lối đấu tranh giai cấp của Stalin mà đại diện là nhóm Trần Phú,hoặc vì những lý do nào khác ?Xin quý vị thức giả giải thích dùm !

● Vũ nói:

Tháng Tám 7, 2015 lúc 5:11 sáng

Lê Duẩn có nhiều chính sách cứng rắn (có thể nói là cực đoan) nhưng ông được chọn vì là người theo chủ nghĩa dân tộc (cực đoan), ông sẵn sàng làm mọi cách ( dù hi sinh máu xương là không nhỏ) để thống nhất đất nước. Điều này thể hiện ở việc ông ghét Trung Quốc xúc đất đổ đi (đảm bảo đất nước sau kháng chiến không bị Tàu thôn tính)

Không phải ngẫu nhiên ông Lê Đức Thọ sau khi vào Nam chấn chỉnh Xứ ủy Nam Kỳ vì đã có những hoạt động khác với đường lối chung của Trung ương Đảng chỉ thị. Và có thể sẽ thay ông Duẩn làm Bí thư Xứ ủy, lại vô cùng khâm phục ông ta, và cũng không phải ngẫu nhiên sau đó HCM quyết gọi Lê Duẩn ra Bắc bằng được làm Tổng Bí Thư, dù ông không phải người thân cận của Bác, có thể vẫn còn nhiều nghi vấn về việc không đồng quan điểm của 2 lãnh đạo họ Lê với chủ tịch HCM và đại tướng VNG, nhưng có thể nói Lê Duẩn đủ cứng rắn để hoàn thành sứ mệnh lịch sử, chính là người được Bác chọn để hoàn thành mục tiêu thống nhất non sông, “Nam – Bắc một nhà”.

● QT nói:

Tháng Mười Hai 2, 2015 lúc 1:30 sáng

Cơ sở nào để nói “thua kém Lào và Campuchia”??? Tôi làm việc ở Campuchia đã 4 năm, thấy Campuchia cùng lắm là bằng VN 20 năm trước trên mọi phương diện.

Lê Việt Hùng nói:

Tháng Mười Hai 3, 2015 lúc 5:44 sáng

Bài viết bổ ích cho sinh viên, nhất là sinh viên học ngành lịch sử chúng em ^^

leviethungdhkh nói:

Tháng Mười Hai 3, 2015 lúc 5:46 sáng

Cảm ơn bài viết bổ ích này ^^

● dgtuan nói:

Tháng Mười Hai 3, 2015 lúc 5:53 chiều

Tôi thấy bài này là một kiểu lý luận mới nhồi sọ của mấy anh đảng viên cộng sản cuồng hồ chí minh rồi. Các bạn không có kiến thức lịch sử với khả năng đánh giá chứng cứ vững vàng chắc chắn bị lừa ngay.

● Strizhie nói:

Tháng Mười Hai 4, 2015 lúc 10:30 sáng

Mời bạn viết bài phản biện. Chắc chắn là sẽ bổ ích hơn là nói suông như vậy.

● Hùng nói:

Tháng Ba 25, 2016 lúc 11:02 sáng

Mời bạn đọc Những sự thật không thể chối bỏ của Đặng Chí Hùng. Thân.

Cau Duong Nguyen nói:

Tháng Mười Hai 5, 2015 lúc 1:46 chiều

Tôi sinh năm 1949, sinh ra và lớn lên ở miền bắc VN, tham gia một phần nhỏ vào sự kiện thống nhất đất nước 30-4-1975, Tôi rất quan tâm và hứng thú với bài viết này, cám ơn.

● Tien Duc nói:

Tháng Mười Hai 7, 2015 lúc 9:27 sáng

Tôi thấy mọi tranh luận mang tính cảm xúc đều vô nghĩa, nó sẽ chẳng đi đến đâu cả ! Để có thể đánh giá khách quan, gần với sự thật nhất về một nhân vật lịch sử không bị ràng buộc bởi tình cảm yêu, ghét thì cần những cái đầu lạnh và nguồn thông tin nhiều chiều. Bài viết này của LKS có nhiều phần đạt được tới tiêu chí đó…

● HCMau nói:

Tháng Mười Hai 16, 2015 lúc 2:37 chiều

Quá hay, quá sâu sắc, quá đúng….nhận xét khách quan công bằng.

toancamera nói:

Tháng Một 9, 2016 lúc 6:43 sáng

Đừng đụng đến tượng đài, sự thật được chôn theo tượng đài, cảm xúc được dấu trong tượng đài.

Nhìn hiện tại biết quá khứ – qui luật trồng lúa ăn lúa , trồng chanh ăn chanh.

Hãy cho tôi biết những người bạn của anh, tôi sẽ biết anh là người thế nào.

● bích hà nói:

Tháng Năm 10, 2016 lúc 9:06 sáng

Bài viết công phu, tôi cho là đánh giá khách quan. Bây giờ chúng ta có thể xét công – tội cụ Hồ theo nhiều quan điểm khác nhau, nhưng có những thời điểm lịch sử, người đứng đầu đã ko thể có lựa chọn khác.

● Duy Tân nói:

Tháng Mười Hai 22, 2016 lúc 11:42 sáng

Đọc bài viết và xem các bình luận mình có nhận định thế này. Có 2 yếu khiến Bác chọn con đường xhcn dưới sự độc quyền của đảng cs Việt Nam khiến đất nước ta rơi vào tình trạng tồi tệ và thối nát như hiện nay:

+ o được sự ủng hộ của thời đại lúc đó như bài viết đã trình bày trên khi Mỹ o ủng hộ cho sự độclập của nước ta và để mặc pháp cầm súng quay lại nước ta khiến ta phải cầu viện liên xô và trung quốc.

+ thứ hai đó là do bác quá yêu nước, mong muốn dân tộc ta đọc lập nhanh và cộng thêm sự thiếu hiếu biết của bác về kiến thức kinh tế học và sức mạnh của khoa học kĩ thuật hiện thời….. Nếu bác biết dc về nguyên lý adam smith thì Bác thà để nước ta giống Nhật mà nhận sự bảo hộ của Pháp chứ o đưa đất nước theo con dg cộng sản

Tiếc là lịch sử o thể quay lại giờ đất nước ta đang lâm nguy mà tôi chả biết làm j bây giờ. Với nền kinh tế tham nhũng, cạy quyền chúng ta hiện nay thì sẽ o chống đỡ nổi cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu sắp tới mà sẽ rơi vào khủng hoảng kéo dài trên mọi vấn đề đạo đức, văn hóa, giáo dục, kinh tế….. Dự là khoảng 10 năm nuẵ là suy thoái kinh tế sẽ nổ ra

● Kevin Trần nói:

Tháng Sáu 26, 2017 lúc 4:45 chiều

@Duy Tân – Trích: “Nếu bác biết dc về nguyên lý adam smith thì Bác thà để nước ta giống Nhật mà nhận sự bảo hộ của Pháp chứ o đưa đất nước theo con dg cộng sản”. So sánh nầy có lẽ hơi khập khiểng. Quan hệ giữa ta và Pháp KHÁC với quan hệ giữa Mỹ và Nhật. Khác về bản chất, khác về cường độ, khác về thời đại. Viết như bác Duy Tân e rằng quá giản lược (simplistic)

● Quang nói:

Tháng Sáu 2, 2017 lúc 12:36 sáng

Hồ Chí Minh rất trọng trí thức. Thời Cụ sang Pháp với tư cách thượng khách của CP Pháp, Cụ đã tranh thủ tuyên truyền lôi kéo được một đội ngũ hùng hậu các nhà khao học đủ loại: Phạm Quang Lễ (Trần Đại Nghĩa, kỹ sư), Lê Văn Thiêm (nhà toán học lớn), Nguyễn Văn Huyên (nhà giáo dục học, bộ trưởng giáo dục không CS lâu đời nhất), Phạm Ngọ Thạch, Hồ Đức Di và Tôn Thất Tùng (bác sĩ nổi tiếng), Trần Đức Thảo (nhà triết học), … Trong lúc nước sôi lửa bỏng, Cụ đã dùng một trí thức không CS vừa mới chân ướt chân ráo về nước cử ngay làm Cục trưởng Quân giới giữ vai trò sống còn của cuộc kháng chiến chống Pháp. Còn chuyện xây dựng KT thì dù đang trong lúc “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”, Cụ vẫn viết di chúc dặn dò khoan sức dân để xây dựng đất nước “hơn mười ngày nay”. Trong lúc cao trào của cuộc kháng chiến CP của Cụ vẫn không quên KT, chủ trương “Phát triển công nghiệp nặng là then chốt trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”.

Muốn hiểu đúng Tư tưởng Hồ Chí Minh hãy nhìn những gì Cụ nói và làm những năm 1941-1949 khi Cụ là thống soái, không bị chi phối bởi LX và TQ CS.

● Trần Văn Toàn nói:

Tháng Sáu 3, 2017 lúc 3:06 chiều

Bài viết là một tư liệu quí, công bằng

Lịch sử có nhiều góc nhìn, phục vụ những mục đích chính trị khác nhau, nhưng ở đây tác giả cho ta một góc nhìn chân thực về con người Hồ Chí Minh, điều đó càng làm cho chúng ta trân trọng Bác hơn!

Thức Văn nói:

Tháng Sáu 26, 2017 lúc 6:49 chiều

Trong trào lưu mới, thê hệ trẻ bận bịu với sự cập nhật về kiến thức kỹ thuật để hội nhập với thế giới nên không còn thời gian để hiểu biết lịch sử của một thời đáng ghi nhớ nhất trong cuộc đời làm người Việt Nam. Bài viết này phân tích từng đường tơ kẻ tóc đã làm nên một nhân vật lịch sử mà cả thế giới đều thán phục.

Chẳng lẽ cả thế giới biết mà con dân Việt Nam lại không biết?

Vậy đề nghị tìm người có tài hùng biện cho vào học đường để giúp tuổi trẻ cùng hiểu biết tại sao người ta lại ca tụng bác Hồ của mình.

Cám ơn kỳ công của tác giả LÊ KỲ SƠN đã soạn một bài đặc sắc như thế này. Tán thán công đức.

Trang Thời Sự