Đặc Tính Nghịch Thường của Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ (Nguyễn Mạnh Quang)

ĐẶC TÍNH NGHỊCH THƯỜNG

CỦA CHÍNH QUYỀN QUỐC GIA

VÀ LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ

Nguyễn Mạnh Quang

http://sachhiem.net/NMQ/NMQ003.php

1 tháng 3, 2008

Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có một là cờ gọi là quốc kỳ và thường thường có hai đặc tính:

Đặc tính thứ nhất: Quốc kỳ là biểu tượng của một quốc gia và cũng là nói lên sự xuất hiện của nó vào một thời điểm đất nước trở mình, toàn dân đồng lòng đứng lên làm lịch sử, quyết tâm liều chết chiến đấu cho lý tưởng cao đẹp là phục vụ cho quyền lợi tối thượng của tổ quốc và dân tộc, phục vụ cho phúc lợi của con người ở trong cõi đời này. Quốc kỳ cũng là biểu tượng cho những trang sử oai hùng của dân tộc với những chiến tích hoàn thành được nhiệm vụ lịch sử: hoặc là đánh tan được quân cướp xâm lăng, hoặc là đạp đổ chế độ đương quyền tham tàn bạo ngược để thiết lập một chế độ chính trị mới thể theo nguyện vọng của toàn dân (hay ít ra cùng là tuyệt đại khối dân tộc), thích hợp với trào lưu tiến hóa của nhân loại.

Đặc tính thứ hai: Quốc kỳ và quốc ca của một quốc gia gần như là một cặp song sinh như bóng với hình. Nhìn thấy quốc kỳ là người ta nhớ đến quốc ca, và nghe thấy quốc ca là người ta hình dung đến quốc kỳ. Thông thường quốc kỳ có trước rồi mới có quốc ca.

Thế nhưng là cờ vàng ba sọc đỏ của những người tự nhận là "Người Việt Quốc Gia" lại có một sự nghịch thường giống như sự nghịch thường của cái gọi là "chính quyền Quốc Gia" do Liên Minh Pháp - Vatican thành lập với chủ trương đưa ông Bảo Đại Làm quốc trưởng được cho ra đời vào ngày 2/6/1948 (có sách ghi là ngày 5/6/1948) và bị khai từ vào buổi sang ngày 30/4/1975.

Bài viết này có mục đích trình bày về :

1.- Hai đặc tính thông thường của quốc kỳ và quốc ca của các quốc gia đã từng là những thế lực chủ chốt trong hai cuộc chiến 1945-1954 và 1954-1975, và

2.- Tính cách nghịch thường của chính quyền Quốc Gia Việt Nam và của lá cờ vàng ba sọc

NHỮNG ĐẶC TÍNH THÔNG THƯỜNG

CỦA QUỐC KỲ VÀ QUỐC CA

I.- Đặc tính quốc kỳ là biểu tượng cho quốc gia và cũng là nói lên thời điểm xuất hiện của nó...- Kinh nghiệm lịch sử cho thấy rằng khi một quốc gia bị áp đặt phải sống dưới ách thống trị của một đế quốc thực dân xâm lược, hoặc một liên minh đế quốc (trường hợp Đông Dương trong những năm 1885-1945) hay của một chế độ chính trị tham tàn bạo ngược, thì các nhà ái quốc của quốc gia đó sẽ phải vùng lên phất cờ kêu gọi toàn dân cùng nhau chung lưng góp sức chiến đấu đánh đuổi quân cướp ngoại thù hay đập tan chế độ bạo ngược đương quyền để thiết lập một chế độ chính trị mới đúng theo nguyện vọng của toàn dân. Ở vào trường hợp này, khi phát khởi cuộc chiến, họ đều chọn một kiểu mẫu của lá cờ có kích thước, mầu cờ và hình tượng ở trong đó phải là (1) biểu tượng cho khát vọng hay lý tưởng mà họ đang theo đuổi, và (2) biểu tượng cho chủ trương phải dứt khoát khử diệt tận gốc cái chế độ đương quyền và quét sạch những tàn tích của nó. Cũng nên biết một chế độ chính trị tham tàn bạo ngược có thể là chính quyền của một đế quốc xâm lược tại một quốc gia bị chinh phục (trường hợp Việt Nam trong những năm 1885-1945), cũng có thể là một chính quyền quân chủ chuyên chính bạo ngược (như các chính quyền của vua Kiệt, vua Trụ ở Trung Hoa, vua Lê Long Đĩnh (1005-1009) ở Việt Nam), và cũng có thế các chế độ đạo phiệt Ca-tô tham tàn man rợ tay sai của Vatican (như triều đại Louis XVI (1774-1789) ở Pháp, chế độ Ante Pavelich (1941-1945) ở Croatia, chế độ Ngô Đình Diệm (1954-1963) ở miền Nam Việt Nam, chế độ Augustin Misago (1994) ở Rwanda, v.v...)

A.- Biểu tượng cho lý tưởng mà họ đang theo đuổi .- Biểu tượng cho lý tưởng mà họ dang theo đuổi có nghĩa là khi thành công họ phải thết lập một chế độ chính trị mới, hoàn toàn mới với những nhận sự mới, hiến pháp mới, những luật pháp mới thích hợp với khát vọng của toàn dân hay tuyệt đại khối nhân dân để mang lại cho người dân một luồng sinh khí mới với những nếp sống hay sinh hoạt mới. Ta gọi chế độ chính trị mới như vậy là chính quyền cách mạng. Đây là các chính quyền Cách Mạng Anh 1688, Cách Mạng Hoa Kỳ 1776, Cách Mạng Pháp 1789, Cách Mạng Mễ Tây Cơ 1857, Cách Mạng Ý Đại Lới 1870, Cách Mạng Nga 1917, Cách Mạng Trung Hoa 1911 và 1949, Cách Mạng Thổ Nhĩ Kỳ 1923, Cách Mạng Tây Ban Nha 1936, Cách Mạng Việt Nam 1945, Cách Mạng Cuba 1959, v.v..., Cách Mạng Nicaragua 1979, v.v....

B.- Khử diệt tận gốc tất cả những tàn tính của chế độ cũ.- Ngay sau khi lật đổ được chế độ cũ, chính quyền cách mạng có nhiệm vụ phải ban hành những biện pháp mạnh để:

1.- Khử diệt tất cả những gì nặng tính cách phong kiến, lạc hậu làm mất phẩm giá con người, những gì làm cho con người hèn hạ và mất hết liêm sỉ (như phủ phục gục mặt xuống ôm hôn bàn chân của giáo chủ, gục mặt xuống ôm hôn giầy dép của các nhà truyền giáo, gục mặt xuống ôm hôn cái nhẫn của giám mục);

2.- Khử diệt tất cả những gì hoang đường và phi lý nặng tính cách phỉnh gạt và lừa dối nhân dân để thủ lợi,

3.- Truất bỏ hết cả đặc quyền đặc lợi dành cho một nhóm người gây nên cảnh bất công trong xã hội. Thí dụ như tình cảnh nước ta trong mùa xuân năm Ất Dậu 1945 trong khi dân ta chết đói đầy đường, con số nạn nhân lên hai triệu người thì tất cả nhà thờ Ca-tô vẫn thản nhiên bình chân như vại, vẫn chất chứa thóc lúa đầy kho, đầy vựa không cần quan tâm hay động lòng giúp đỡ những nạn nhân khốn cùng, không tìm đâu ra chén cơm để sống cho qua ngày.

4.- Tách rời chuyện thờ phượng và cũng lễ ra khỏi chính quyền khiến cho bọn lưu manh buôn thần bán thánh không còn có cơ hội mượn danh tôn giáo, lũng đoạn chính quyền để mưu đồ trục lợi.

5.- Nâng cao dân trí bằng chính sách giáo dục tự do khai phóng, nâng cao môn học Sử Ký, Địa Lý và Công Dân lên ngang hàng với các môn học chính như Việt Văn, Toán, Lý , sinh ngữ chính về thời lượng cũng như về hệ số. Đưa toàn bộ bài học lịch sử thế giới từ và toàn bộ bài học quốc sử A đến Z vào trong chương trình học để:

a.- Làm cho mọi người đều biết rằng (1) các giải ngân hà và tinh tú đã xuất hiện cách đây 15 tỉ năm, (2) trái đất đã có cách đây trên 600 triệu năm, (3) thủy tổ loài người đã có cách đây vào khoảng 40 triệu, (4) con người hiện đại (modern man) đã xuất hiện trên trái đất này ít nhất là 50 ngàn năm, chứ không phải mới có vào khoảng cách đây trong khoảng từ 6 dến 10 ngàn năm như Cựu Ước của đạo Ca-tô đã nói.

b.- Làm cho mọi người đều phải ý thức được rằng trong suốt chiều dài lịch sử, tiền nhân ta đã tốn không biết bao nhiêu mồ, nước mắt và xương máu trong các công cuộc dựng nước, mở nước và giữ nước mới có được giang sơn như ngày nay. Do đó tất cả mọi người đều phải có bổn phận đối với đất nước (quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách), phải tuân hành luật pháp quốc gia, thi hành nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc, CHỨ KHÔNG PHẢI "chỉ biết tuân lệnh ông giáo hoàng ở La Mã" mà cúi đầu gục mặt xuống (1) tổ chức đại lế vô cùng long trọng đem dâng nước Việt Nam cho Vatican như Ngô Đình Diệm đã làm vào tháng 12/1959, và (2) hè nhau đem kìm, đem búa và xà beng đến phá cổng đập tường xông vào trụ sở của một cơ quan công quyền tại số 42 Phố Nhà Chung, Hà Nội làm trò hề thắp nến cầu nguyện trong những ngày từ 18/12/2007 đến ngày 30/1/2008 để đòi tái chiếm thửa đât này dâng cho Vatican, một thế lực đã từng cấu kết với đế quốc thực dân xâm lược Pháp trong thời đánh chiếm và thống trị nước ta trong những năm 1958-1954.

c.- Làm cho mọi người hiểu rằng (1) chỉ có thể tin được những gì thuận lý (logic), hợp với lẽ phải, hợp với công lý (common sense), (2) phải loại bỏ những gì nhảm nhí, hoang đường, những gì nghịch lý, không hợp với lẽ phải, không đúng với công lý, (3), không thể dùng cục đất sét nặn thành hình người rồi hà hơi biến thằng người đất sét đó thành con người với đủ cả thất tình lục dục được, không thể có chuyển ma quỉ hay thiên thần đến làm tinh hay hiếp dâm một trinh nữ đến độ mang thai rồi để ra ông Jesus, không thể có chuyện cion người đã chết rồi lại có thể sống lại và bay như loài chim để bay về trời được, và cũng không thể có chuyện một bà già xế đã có chồng và có tới 7 hay tám người con như bà Maria mà lại có thể gọi Đức Mẹ Đồng Trinh Được. Những chuyện hoang đường phi lý này hoàn toàn là do bọn lưu manh buôn thần bán thánh mượn danh tôn giáo bia đặt ra để lường gạt người đời hầu thủ lợi, giống như bọon thày cúng ở trên bờ sông Chương Thủy ở nước Ngụy (Trung Quốc) trong thời tiền Tần cấu kết với bọn cường hào ác bá địa phương bịa đặt ra chuyện ông thần hà bá ở khúc sông này đòi phải mỗi năm phải cưới cho ông ta một cô vợ trẻ đẹp, nếu không, thì ông ta thì ông sẽ dâng nước làm ngập lụt gây nguy hiểm đến sinh mạng và tàn phá nhà cửa cùng mùa màng của nhân dân trong vùng.

d.- Giải trừ cho người dân thoát người tệ nạn mê tín dị đoan làm mê hoặc lòng người khiến cho nạn nhân rơi vào tình trạng mông muội, rồi sa vào cái bẫy phỉnh nịnh và lừa gạt của bọn lưu manh mượn danh tôn giáo để lừa gạt người đời.

e.- Làm cho người dân thấu hiểu rằng "chưa biết được sự sống ở trên cõi đời này, thì làm sao biết được sự chết? Làm sao biết được quỉ thần hay thần thánh? Làm sao biết được có thiên đường, có hỏa ngục?"

f.- Làm cho người dân hăng say tìm cơ hội đến nói chuyện trực tiếp với bọn người làm nghề rao giảng về thế giới thần linh và thiên đường để đặt vấn đề với họ rằng, "Các ông chưa hề sống trong thế giới thần linh và cũng chưa hề bao giờ lên thiên đường hay xuống hỏa ngục, tức là không biết gì hết về thế giới thần linh, ma quỉ, không biết gì hết về những gì các ông rao truyền. Ấy thế mà các ông cứ nói khơi khơi như là người đã gặp và đã sống với quỉ thần, như là người đã lên tới thiên đường và đã xuống tới hỏa ngục! Như vậy thì có phải là lừa bịp người đời không?"

g.- Làm cho mọi người ý thức được rằng chế độ quân chủ dù là trung ương tập quyền dù là quân chủ lập hiến cũng đều là phi lý, bất công, cho nên nó đã trờ thành lỗi thờt, không còn thích hợp với trào lưu tiến hóa của nhân loại. Cũng vì thế mà từ khi Cách Mạng Pháp bùng nổ vào năm 1789, cái chế độ chính trị này đã bị xếp xó cho vào viện bảo tàng hoặc là đào sâu chôn chặt hay liệng vào sọt rác rồi. Chỉ có những quân phong kiến phản động hay những hạng người ngu si không biết sử dụng lý tri để suy luận mới vẫn còn nằm mơ bơi ngược dòng lịch sử, hy vọng tái lập nó để phục hồi cái quyền hét ra lửa, mửa ra khói, cái quyền ăn trên ngồi trốc và cưỡng bách nhân dân phải làm trâu ngựa cho chúng sai khiến và bóc lột.

h.- Làm cho mọi người ý thức được rằng họ là công dân (citizen) của một quốc gia độc lập, có văn hiến, có lịch sử, chứ không phải là thần dân (subject) của một ông vua (monarch) của thời quân chủ phong kiến và cũng không phải là một tên nô lệ, tôi đòi hèn mọn của Tòa Thánh Vatican hay của ông Chúa Bố, Chúa Con nào cả. Do đó, phải làm cho tất cả mọi người dân hiểu rằng bổn phận của họ là phải tuyệt đối trung thành với tổ quốc, trung thành với dân tộc, phải triệt để vâng phục và tuân hành hiến pháp và luật pháp của đất nước, CHỨ KHÔNG PHẢI tuyệt đối trung thành với ông giáo hoàng ở La Mã, CHỨ KHÔNG PHẢI triệt để vâng phục và tuân hành những lời dạy, những lệnh truyền của Tòa Thánh Vatican hay của Giáo Hội La Mã như các ông truyền giáo Ca-tô đã dạy dỗ tín đồ Ca-tô người Việt rằng:

"Người Công Giáo Việt Nam đừng thừa nhận quyền lực của Nhà Vua (nhà Nguyễn - NMQ) và luật pháp nước họ. Họ nói với con chiên (rằng): Đức Giáo Hoàng ở La Mã (Rome) mới là vị vua tối cao duy nhất của họ. Họ chỉ tuân phục quyền lực của Tòa Thánh Vatican." Nguyễn Xuân Thọ, Bước Mở đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp ở Việt Nam 1858-1897 (Saint Raphael, Pháp, 1995), tr. 17.

i.- Làm cho những kẻ còn kẹt cứng trong cái tròng Ca-tô (Catholic loop) thức tỉnh, thoát ra khỏi cơn mộng du "mơ về nước Chúa" để họ quyết tâm dứt bỏ cái tinh thần hèn hạ khiếp nhược, đến độ mất hết cả liêm sỉ, cam tâm làm tôi đòi hèn mọn cho tập đoàn lưu manh buôn thần bán thánh tự phong là "Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền". Họ hèn hạ và khiếp nhược đến độ khi phải viết hay nói điều gì với bọn thày cúng mà cũng khiếp đảm run sợ như trường hợp ông Ca-tô Nguyễn Mậu đã viết:

Vấn đề được nêu lên ở đây với tất cả mạo muội và run sợ vì có thể bị xem như là vô lễ phạm thượng. Chúng tôi trông vào sự độ lượng của hàng giáo phẩm cũng như hy vọng rằng sự trưởng thành của giáo dân ở thời đại này sẽ giúp thật nhiều cho sự thể hiện lý tưởng Ki tô hữu”. Nguyễn Mậu: "Thời Sự Trong Tuần" Chính Nghĩa - Bộ Mới Số 251 [San Jose, California] ngày 03/12/1994.

j.- Làm cho mọi người cảm thấy hãnh diện về đất nước và dân tộc của mình. Chính quyền cách mạng nào cũng cố gắng làm cho người dân biết hãnh diện là con dân của đất nước có những trang sử oai hùng với những truyền thống bất khuất nhất định không chịu cúi đầu làm nô lệ người ngoại bang và cũng nhất định không chịu cúi đầu làm nô lệ cho bọn lưu manh buôn thần bán thánh tự phong là "Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền" và nói láo rằng "Ngoài Giáo Hội không có cứu rỗi".

k.- Làm cho mọi người ý thức được rằng, thượng đế hay ông trời, nếu có, thì phải là những đấng có khả năng tột đỉnh thông minh và có những đức tính vô cùng cao quý. Những đức tính đó là chí công vô tư, cực kỳ quang minh chính trực, không thiên vị ai, không thù ghét ai, không ưa nịnh, không thích nghe những lời cầu khấn nhảm nhí, không thích nghe những lời tôn vinh phỉnh nịnh, bợ đỡ nhàm tai (giống như những lời cầu khấn của tín đồ Ca-tô trong các buổi lễ ở trong các nhà thờ của họ), không nhận của hối lộ hay lễ vật hoặc tiền bạc dâng cúng. Vậy thì nếu có ác tâm hại người khác hay đã phạm một tội ác nào thi dù có dâng lễ vật hậu hĩ đến bao nhiêu đi nữa và cầu khấn bao nhiêu đi nữa thì cũng là vô ích. Ngược lại, nếu không có ác tâm đối với người nào, không gian dối, không làm gì có hại đến quyền lợi, danh dự hay sinh mạng của người khác, thì dù cho không bao giờ đến dự lễ ở nhà thờ hay ở bất cứ nơi đâu, không bao giờ mang lễ vật hay tiền bạc đến nhà thờ để dâng cúng, không bao giờ đọc kinh cầu khấn, thì thượng đế hay ông trời cũng vẫn ban thưởng cho được sống thoải mái, lúc nào cũng cảm thấy phơi phới thành thơi và lương tâm thanh thản.

Do đó việc dâng lễ vật và cầu khấn với hy vọng được thượng đế hay ông trời ban cho những ân sủng đặc biệt hay Hồng Ân Thiên Chúa đều là vô ích.

l.- Làm cho họ thức tỉnh để nhìn ra sự thật là cái tục lệ đem lễ vật đến nhà thờ dâng cúng này là do bọn lưu manh làm nghề thày cúng người Do Thái mượn danh thần thánh bày đặt ra để trục lợi mà thôi. Tục lệ này được gọi là luật cung phụng giáo sĩ và được ghi lại trong Cựu Ước, sách Deuteronomy = Phục Luật (18:3-4):

"Dân dâng cúng Thiên Chúa bò hay cừu thì phải dâng cho giáo-sĩ, cái vai, cái hàm, cái bụng. Dân vừa mới thu được phẩm vật canh nông là phải biếu giáo sĩ của đầu mùa, từ rượu cho họ uống, gạo ho cho họ ăn đến lông chiên cho họ làm áo." (The priests shall have a right to the following things from the people: from those who are offering a sacrifice, whether the victim is from the herd or from the flock, the priest shall receive the shoulder, the jaws and the stomach. You shall also give the first fruits of your grain and wine and oil as well as the first fruits of the shearing of your flock."

Rồi những luật cực kỳ quái đản này dần dần biến thành những thói quen, những tục lệ cho nhà thờ Ca-tô làm tiền tín đồ một cách vô cùng trắng trợn, trắng trợn đến độ dâ Ái Nhĩ Lan vốn là những tín đồ thuần thành của Vatican cũng phải khinh bỉ và mỉa mai bằng mấy câu ca dao nổi tiếng "Nhiều tiền lễ lớn, ít tiền lễ nhỏ, không tiền không lễ." Sự kiện này được học giả Ca-tô Charlie Nguyễn ghi nhận như sau:

"Việc thu tiền lễ cầu hồn là một thủ đoạn làm tiền trắng trợn của bọn cha cố lưu manh. Tại Ái Nhĩ Lan là nước toàn tòng Công Giáo có câu ca dao nổi tiếng như sau: "High money high Mas; low money low Mass; no money no Mass" (Nhiều tiền lễ lớn, ít tiền lễ nhỏ, không tiền không lễ!" Charlie Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001), tr. 257

Ngoài ra, lại còn có hàng rừng luật cung phụng Thiên Chúa nữa. Những luật này thật là khủng khiếp và hết sức dã man. Học giả Trần Quý ghi một vài luật quái đản này như sau:

"Môi-se ra lệnh cho đám dân Do Thái giặc cướp rằng phải giết hết người nam, giết hết đàn bà, con gái đã ăn nằm với đàn ông, chỉ giữ gái trinh thôi (Dân Số 31:17-18) Gehovah đòi dân đi ăn cướp về phải chia của cướp được cho mình. Của này phải giao cho giáo sĩ giữ từ cừu, bò tới những người con ái trinh ấy (Dân Số 31: 28 và 40).... Phải dứt khoát giết đi những người lễ một vị thần nào khác ngoài Jehovah (Xuất Hanh 22: 20). Phải giết đi những kẻ tiên tri nào dám nhân danh các thần khác mà nói (Phục Luật 18:20). V.v..." Trần Quý, Lòng Tin Âu Mỹ Đấy! (Wesminster, CA: Đồng Thanh & Văn Nghệ, 1996), tr. 125.

Trên đây chỉ là một vài tội ác nhỏ nhoi khởi đầu đưa đến những rặng núi tội ác của Giáo Hội La Mã trong gần hai ngàn năm qua.

Cũng vì thế chúng ta không lấy gì làm ngạc nhiên khi thấy lịch sử ghi nhận rằng, ở bất cứ nơi nào có quyền lực của Giáo Hội La Mã vươn tới là ở đó (1) có tôn vinh Thiên Chúa, (2) có thần thánh hóa bọn thày cúng lưu manh của Giáo Hôi, (3) có cưỡng bách tín đồ và nhân dân dưới quyền phải phục vụ Chúa với những đòi hòi (a) phải tuyệt đối tin tưởng vào tín lý Ki-tô hoang đường nặng tính cách bịp bợm và hù dọa, (b) phải triệt để tuân hành những giáo luật, những lời dạy phi lý và phỉnh gạt của Giáo Hội, (c) phải tuân thủ những tập tục hay truyền thống quái đản cực kỳ phong kiến, (4) có áp bức và bóc lột bằng trăm phương ngàn kế hết sức tinh vi. Phương cách bóc lột đã ghi rõ trong các sách trích dẫn ở trên đã trở thành tục lệ, thành truyền thống trong đạo Ca-tô. Tục lệ hay truyền thống quái đản này chỉ là một trong những phương cách móc túi tín đồ và được triệt để thi hành ở bất cứ nơi nào có quyền lực của Giáo Hội vươn tới.

Nếu chỉ có thế thì cũng không có gì đáng nói. Điều đáng nói là tục lệ hay truyền thống quái đản này không dừng lại ở đó. Vì rằng tất cả những tục lệ trong Giáo Hội La Mã đều trở thành nếp sống trong cộng đồng Ca-tô. Trong xã hội đóng kín này, tất cả mọi người trong cộng đồng (xóm đạo, làng đạo, họ đạo, giáo khu hay giáo phận) bắt buộc phải sống theo nếp sống chung của cộng đồng và không được phép có một ngôn từ nào bị coi như là bất kính hay đàm tiếu đến bọn thày cúng của Vatican vì đàm tiếu hay nói hành nói tỏi đế bọn người "untouchables" này của Vatican là nói xấu Chúa và sẽ bị coi như là báng bổ thần thánh. Kẻ nào không tuân thủ bất kỳ tục lệ nào của Giáo Hội, tức là không chịu sống theo nếp sống của họ đạo, sẽ bị coi như là phần tử lạc đạo (phản loạn), chống lại nhà thờ, chống lại các ngài tu sĩ, tức là chống lại Giáo Hội La Mã, mà chống lại Giáo Hội La Mã có nghĩa là chống Chúa. Đây là sự thật lịch sử. Sự thật này cũng đã xẩy ra cả vào thời hậu Cách Mạng Pháp 1789, sau kh Liên Minh Thánh Áo - Phổ - Nga - Anh - Vatican đánh bại chính quyền của Hoàng Đế Napoleson I vào năm 1815 để phục hồi vương quyền cho dòng họ Bourbons và tái lập chế độ đạo phiệt Ca-tô. Bản văn sử dưới đây cho chúng ta thấy rõ sự thật này:

"Trong thời gian hai ông Villele và Polignac giữ chức vụ thủ tướng chính phủ, những mối oán thù chất chứa trong lòng từ trước thì bây giờ được giới qúi tộc và Giáo Hội tha hồ phóng tay rửa hận. Bất cứ chuyện gì họ cũng nhớ đến để trả thù và rất khó cho họ thông cảm cho bất kỳ một chuyên gì. Họ mua chuộc, đút lót trong các thủ tục tiến hành bầu cử để loại bỏ những người thuộc thành phần tư sản (ra khỏi danh sách ứng cử viên); họ gia tăng gấp bội ngân khoản ngành cảnh sát để ngăn cản tự do báo chí và tự do tư tưởng. Họ bổ nhậm một ông giám mục làm viện trưởng viên đại học để lọai bỏ các tư tưởng tiến bộ. Họ tài trợ cho những chiến dịch ồn ào gọi là "sứ mệnh" để tu bổ và đi trồng cây chữ thập (thánh giá) khắp trong toàn quốc, mà có một số vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Họ dám ban hành một đạo luật trừng phạt những người bị kết tôi là "phạm thượng" hay "xúc phạm thần thánh" với những hình phạt hết sức là tàn ác dành cho những người nào bị cho là làm rối lọan hay phá vỡ các cuộc lễ lạc tôn giáo hay báng bổ thần thánh, ..." Nguyên văn: Under the governments of Villele and Polignac, the delayed rancor of aristocracy and Church were unleashed. They had forgotten nothing and understood hardly anything. They tampered with electoral procedures to exclude the bourgeois; they multiplied the financial and police obstacles freedom of the press and expression. They appointed bishop to head the state university in order drive out lively minds; the sponsored loud compaign called "missions" of reparation and planted crosses all over the countryside, some still visible today. They dared to promulgate a law against "sacrilege" that fixed harsh penalties for anyone who disrupted religious ceremonies or profaned "sacred vessels." Pierre Goubert, The Course of French History ,Trans. by Maarten Ultee (New York: Franklin Watts, 1988), pp.. 370. ,

Trong một quốc gia bị áp đặt sống dưới chế độ giáo hoàng (papacy) hay đạo phiệt Ca-tô như các nước Âu Châu trong thời Trung Cổ hay nước Pháp trong thời Louis XIV (1643-1715), Louis XV (1715-1774), Louis XI (1774-1792), Louis XVIII (1815-1824), Charles X (1824-1830), Croatia trong thời bạo chúa Ante Pavelich (1941-1945), miền Nam Việt Nam trong thời bạo chúa Ngô Đình Diệm (1954-1963) những kẻ dám công khai không tuân thủ bất cứ tục lệ nào của Giáo Hội La Mã, tất nhiên là nếu không bị túm cổ đưa lên giàn hỏa thiêu như thời Trung Cổ thì cũng bị mật vụ đển hỏi thăm và sẽ bị biến mất, không còn hiện diện ở trên cõi đời này nữa. Đạo luật trừng phạt những người bị kết tội báng bổ thần thánh trong những năm hai ông Villele và Polignac giữ chức vụ thủ tướng chính phủ thời chế độ đạo phiệt Ca-tô Charles (1824-1830) như đã nêu lên ở trên là một trong những bằng chứng bất khả phủ bác cho những sự thật lịch sử này.

Đây là nguyên nhân TẠI SAO chế độ đạo phiệt Ca-tô của bạo chúa Ante Pavelich chỉ tồn tại có 4 năm mà con số nạn nhân bị sát hại lên đến hơn 700 ngàn người trong một quốc gia mà dân số chưa tới 3 triệu người, chế độ đạo phiệt Ca-tô của bạo chúa Ngô Đình Diệm chỉ tồn tại có 9 năm mà con số nạn nhân ở miền Nam cũng lên tới hơn ba trăm ngàn người, mặc dù quan thày của chế độ này là người Mỹ đã cố gắng ngăn chặn rất nhiều, và chế độ đạo phiệt Ca-tô của Giám Mục Augustin Misago ở Rwanda chỉ trong vòng có hơn ba (3) tháng trong 1994 cũng đã tàn sán tới 800 ngàn (800.000) người.

Vì cái bản chất của các chế độ đạo phiệt Ca-tô dã man như vậy, cho nên:

1.- Nhân dân Âu Châu thù ghét Giáo Hội La Mã và bọn tu sĩ Ca-tô đế tận xưong tận tủy:

a.- Sách Vatican Thú Tội và Xin Lỗi viết:

Giáo Hội Công Giáo Roma La-tinh trong thời cực thịnh kinh bang tế thế, đội vương miện cho các hoàng đế, tung hoành dọc ngang, làm mưa làm gió, thâu tóm cả thiên hạ trong tay, tiền rừng bạc biển, đã không biết tự chế, không học bài học rửa chân, tự cao tự đại, coi bàn chân thiên hạ như cỏ rác… Hôm nay hối bất cập, lịch sử còn nằm trơ ra đó. Người Âu Châu sợ Giáo Hội và tránh xa như tránh hủi! Người Á Châu có thành kiến ghép Giáo Hội vào ông Tây thực dân! Người Mỹ Châu La-tinh đồng hóa Giáo Hội vài đại họa diệt chủng! Và người Trung Đông làm sao quên được 250 cuộc thánh chiến tàn bạo hãi hung! v.v… Trọng tội của Giáo Hội là Giáo Hội không phải là nguồn gốc phúc lộc bình an dưới thế! Ngược lại, và riêng tại Việt Nam, Giáo Hội chống phá đạo hiếu, phế bỏ bàn thờ tổ tiên, chà đạp văn hiến dân tộc Đại Việt, gọi tôn giáo bản địa là thờ Bụt Thần Ma Quỷ… Giáo Hội chia hai dân tộc Việt Nam thành dân có đạo là dân riêng của Giáo Hội, và dân vô đạo là dân ngoại đạo theo tà thần, tạo dựng thành kiến kỳ thị rất sâu đậm và thô bạo. Đức Hồng Y Phạm Đình Tụng xác minh trọng tội này của Giáio Hội trong bài tham luận đọc tại Roma năm 1988, có Đức Giáo Hoàng đương kim ngồi dự thính.” Nhiều tác giả, Vatican Thú Tội Và Xin Lỗi? (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2000), tr. 145-146.

b.- Ngày 28/11/1790, nhà báo Hebert (người Pháp) viết:

“Tôi đang sôi máu. Các bạn người Pháp, các bạn hãy nói cho tôi nghe xem có được không. Nếu cái người mà các bạn gọi là Đức Thánh Cha cướng quyết chống lại luật pháp của các bạn, các bạn có ngu xuẩn và hèn hạ đến độ phải từ bỏ luật pháp của các bạn. Các bạn hy vọng gì ở một ông Giáo Hoàng. Đ.M Giáo Hoàng, hãy tin ở tôi đi, bây giờ là đến lượt các bạn; cả trong mười thế kỷ qua, Giáo Hoàng đã áp bức các bạn quá nhiều rồi.". Nguyên văn: “My blood boils, he wrote on 28 November 1790, for instance. “Tell me, Frenchmen, is it possible? if that man you call the Holly Father takes it into his head to oppose your laws, do you dare, are you stupid and base enough, to give them up? What do you expect from a Pope? Screw the Pope, believe me; it is your turn at last; for ten centuries the Pope has screwed you." (J. E. Bosher, The French Revolution (New York, W.W. Norton Company, 1988), p. 155.

c.- Văn hào Voltaire gọii đạo Ca-tô là "cái tôn giáo ác ôn" Bùi Đức Sinh, Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo - Phần Nhì (Sàigòn: Chân Lý, 1972), tr, 165.

d.- Học giả Henri Guillemin gọi Giáo Hội La Mã là "Cái Giáo Hội Khốn Nạn" [Malheureuse Église]. Nhiều tác giả, Vatican Thú Tội và Xin Lỗi? (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2000), tr. 92.

e.- Nhà cách mạng Thomas Paine nói "Một ông thày giáo giỏi có ích hơn một trăm linh-mục." Nguyên văn: "One good schoolmaster is of more use than a hundred priests." Trần Chung Ngọc, Đức Tin Công Giáo (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2000), tr. 291.

f.- Hoàng Đế Napoléon I nói: "Ở bất kỳ nơi nào và vào bát kỳ thời đại nào, bọn linh mục đều gian trá và nói láo." Nguyên văn: "Priests have everywhen and everywhere introduced fraud and falsehood." Trần Chung Ngọc, Sđd., tr. 292.

g.- Nhân dân Pháp gọi bọn linh-muc là "lũ quạ đen" (les corbeux noirs").

h.- Học giả Charlie Nguyễn gọi đạo Ca-tô là "đạo bịp", "đạo máu", ông viết trong cuốn Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm:

"Hầu hết các tu sĩ là kẻ đại gian đại ác ngụy trang dưới những lớp áo đen, áo đỏ, áo trắng đóng vai đạo đức giả để phỉnh gạt tín đồ. Bề ngoài, họ làm ra vẻ thuận thảo với nhau, thật sự bên trong nội bộ, họ ganh tị, tranh đua nhau và sẵn sàng hạ thủ nhau để tranh quyền đoạt thế. Họ dùng đủ mọi thủ đoạn để bòn rút tiền bạc, xương máu của giáo dân, để xây nhà thờ nguy nga đồ sộ chỉ cốt để được vênh vang với đời. Mái nhà thờ của họ càng rộng lón bao nhiêu, càng che khuất ánh sáng mặt trời chân lý bấy nhiêu. Các bức tường của nhà thờ càng cao bao nhiêu càng ngăn cách con người với nhau bấy nhiêu. Giáo sĩ là những con ký sinh trùng vừa ăn bám, vừa phá hoại xã hội. Họ tội lỗi cùng mình lại nắm quyền tha tội cho đám tín đồ vô tội hoặc ít tội hơn họ. Họ thực sự là bọn cướp nguy hiểm hơn bọn cướp thường vì những kẻ cướp thường đều bị luật pháp trừng trị. Trái lại, bọn cướp đội lốt giáo sĩ lại được giáo dân tôn kính, đi lại tự do vênh váo và được xã hội tâng bốc là "những vị lãnh đạo tinh thần". Tất cả các tệ nạn này đều xuất phát từ sự thiếu hiểu biết của đại đa số giáo dân. Do vậy, việc giáo dục khai sáng tâm linh là vô cùng cần thiết để cứu nước và bảo vệ nền văn hóa nhân bản rất cao đẹp của dân tộc ta mà tuyệt đối đa số giáo dân không hề biết tới." Charlie Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001), tr. 63-64.

Những hành động của những tên tu sĩ Ca-tô xúi giục gáo dân nổi loạn chống chính quyền đương thời của nhân dân Việt Nam như Linh-muc Nguyễn Quang Minh chỉ huy vụ giáo dân nổi loạn vào năm 1976 tại nhà Thờ Vinh Sơn tại Đường 3 tháng 2, Thành Phố Hồ Chí Minh, Linh-mục Nguyễn Văn Lý chỉ huy giáo dân nổi loạn ở nhà thờ Nguyệt Biều vào năm 2001, Linh-mục Phan văn Lợi, tên đầu nậu của cái gọi là "Khối 8406 Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ Cho Việt Nam" (Bloc 8406 of "Manifesto on Freedom and Democracy for Vietnam 2006) khởi lập ngày 8/4/2006 có mục đích chính là chống chính quyền và phá rối an ninh trật tự theo kế sách "quậy cho ao nước Việt Nam đục ngầu lên để tạo cơ hội cho Vatican nhẩy vào thả câu", rồi gần đây nhất Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt và đồng bọn xúi giục giáo dân đem kìm, búa và xà beng đến phá cổng, đập tường tòa nhà công sở tại số 42 Phố Nhà Chung, Hà Nôi rồi thắp nến cầu nguyện bất hợp pháp ở đây trong thời gian từ 18/12/2007 cho đến ngày 30/1/2008, tất cả là những bằng chứng rõ ràng nhất và hùng hồn nhất cho chúng ta thấy câu nói "Giáo sĩ là những con ký sinh trùng vừa ăn bám, vừa phá hoại xã hội" của học giả Charliie Nguyễn và cũng là bằng chứng xác nhận rõ ràng nhất cho những lời nói của các danh nhân và vĩ nhân mà người viết đã trích dẫn ở trên.

2.- Cũng vì thế mà hầu hết tất cả các chính quyền cách mạng ở trên thế giới đều phải ban hành những biện pháp mạnh để đối phó với "cái tôn giáo ác ôn" này. Điển hình là chính quyền Cách Mạng Anh 1688 đã phải hành động để giải thoát cho nhân dân Anh cái ách thống trị bạo tàn của "Cái Giáo Hội Khốn Nạn" vẫn thường lớn tiếng cao rao tự phong là "Hội Thánh duy nhất thánh thiện, công giáo và tông truyền".

Năm 1689, Quốc Hội Anh công nhận những quyền tự do căn bản của người dân bằng vịêc ban hành Bản Dân Quyền (the Bill of Rights) bảo đảm (1) quyền tự do ngôn luận tại diễn đàn quốc hội, (2) quy định các phiên họp thường xuyên của cơ quan này,(3) cấm nhà vua không được can thiệp vào các cuộc bầu cử quốc hội, (4) bảo đảm cho người dân có quyền được gửi thỉnh nguyện thư lên chính quyền để trình bày những điều phiền muộn về những hành động lạm quyền của các viên chức chính quyền và chính sách sai lầm của nhà nước, (5) cấm, không cho (hành pháp) đặt ra các khoản tiền ký qũy tại ngoại hầu tra cho các nghi can một cách quá đáng, (6) cấm, không cho chính quyền được sử dụng quân đội một cách bất hợp pháp. Nguyên văn: “In order to safeguard the results of the Glorious Revolution, Parliament passed several important measures, usually called the Revolution Settlement. One of these, the Bill of Rights of 1689, guaranteed freedom of speech in Parliament, provided for frequent meetings of that body and forbade the king to interfere with the election of its members. Other clauses guaranteed the right of the people to petition the government , forbade excessive bail, and protected the nation from the illegal use of the army.” Arnold Schrier & T. Walter Wallbank, Living World History (Glenview, Illinois: Scott Foresman and Company, 1974), p. 398.

Cũng vào năm 1689, chính quyền lại ban hành Luật Khoan Dung (the Toleration Act) bảo đảm quyền tự do tôn giáo cho các hệ phái Tin Lành không nằm trong Anh Giáo. Nguyên văn: “Another part of the Revolution Settlement, also passed in 1689, was the Toleration Act, which granted religious freedom to various Protestant groups, although those who were not members of the England Church could not hold public office.” Ibid., p. 398.

Năm 1691, Quốc Hội Anh lại ban hành một biện pháp khác nữa nghiêm khắc hơn. Đó là Đạo Luật Ổn Định năm 1691 cấm, không cho người Anh là tín đồ Ca-tô của Giáo Hội La Mã lên cầm quyền (the Act of Settlement of 1691). Đạo luật này quy định rằng:

Không có một tín đồ Ki-tô La Mã nào có thể trở thành nhà lãnh đạo nước Anh. Như vậy là luật này loại hẳn tất cả những người con và cháu của vua James Đệ Nhị với người vợ thứ hai của nhà vua, không cho họ lên cầm quyền.” Nguyên văn: “A third measure, the Act of Settlement of 1691, provided that no Roman Catholic could be ruler of England, automatically excluding the descendants of James II by his second wife.” Ibid.,p. 398.

Theo gương chính quyền Cách Mạng Anh, chính quyền Cách Mạng Pháp 1789 cũng thi hành những biện pháp mạnh để đối phó với "cái tôn giáo ác ôn" này. Dưới đây là những biện pháp mạnh này:

1.- Thiết lập chính quyền dân chủ do dân, bởi dân và vì dân.

2.- Tịch biên toàn bộ tài sản của Giáo Hội La Mã tại nước Pháp.

3.- Tước bỏ tất cả mọi đặc quyền đặc lợi dành cho Giáo Hội La Mã và giai cấp tu sĩ Gia-tô.

4.- Tách rời giáo quyền (tôn giáo) ra khỏi thế quyền (chính quyền).

5.- Ban hành một hiến chế dân sự cho giới tu sĩ, trong đó tu sĩ được coi như là bình đẳng với tất cả người dân khác và phải có nghĩa vụ đối với đất nước, phải trung thành với hiến pháp và nước Pháp, chứ không phải trung thành với Tòa Thành Vatican hay Giáo Hội La Mã. Việc này đưa đến việc thiết lập một giáo hội Pháp tách rời khỏi Giáo Hội La Mã giống như Giáo Hội Anh được thành lập vào 1534.

6.- Tước bỏ hết tất cả mọi đặc quyền đặc lợi dành cho giới tu sĩ và qúy tộc,

7.- Xòa bỏ tất cả mọi tục lệ phong kiến.

8.- Xóa bỏ tất cả mọi bất công trong xã hội để thực thi lý tưởng bình đẳng (trong xã hội) tự do (cho nhân dân) và bác ái đối với tất cả mọi người, chứ không phải chỉ đối với “dân Chúa” mà thôi.

9.- Công bố Bản Tuyên Ngôn Dân Quyền vào ngày 26/8/1789 long trọng xác nhận:

a.- Quyền lực của nhà nước vì nhân dân mà có. (The authority of a government is derived from the people.)

b.- Mọi người dân phải bình đẳng trước pháp luật. (All citizens should be equal before the law.)

c.- Tất cả mọi người dân đều có quyền ảnh hưởng vào việc làm luật. (All should have the right to influence the making of the law.)

d.- Mục đích của chính quyền là để bảo vệ những quyền tự nhiên của con người. Đó là quyền tự do, quyền có tài sản, quyền sống trong an ninh và quyền chống lại áp bức. (The purpose of government should be the preservation of the natural rights of men to “liberty, property, security, and resistance to oppression.”

e.- Quyền tự do tư tưởng và tự do hành xử tín ngưỡng của mọi người phải được bảo đảm. (Freedom of thought and religion should be guaranteed to all.) Carlton J. H. Hayes, Modern Times: The French Revolution to the Present (New York: Macmillan Publishing Co., Inc., 1983), p.35.

10.- Thẳng tay trừng trị những giáo sĩ và tín đồ Ca-tô có những hành động phản quốc và chống lại Cách Mạng. Con số giáo sĩ, nữ tu và tín đồ Ca-tô bị đưa ra pháp trường đền tội phản quốc được cựu giáo sĩ Malachi Martin ghi nhận trong sách The Decline And Fall Of The Roman Church như sau:

"Trước hết, nước Pháp mà Giáo Hòang Pius VI (1775-1799) thường gọi là "người trưởng nữ của Giáo Hội" xóa bỏ toàn thể tôn giáo, đưa nhà vua lên đọan đầu đài, chính thức tôn vinh thần Lý Trí lên ngôi chí tôn, tàn sát 17 ngàn linh mục, 30 ngàn nữ tu và 47 giám mục, tất cả các tu viện, các dòng tu và các trường học của Giáo Hội đều bị giải thể, tất cả các thư viện của Giáo Hôi đều bị thiêu rụi, chính quyền Paris còn ban hành quyết định ra lệnh cho Tướng Bonaparte (Sau này là Hòang Đế Napoléon I) "đem quân đi "giải phóng nước Ý", "có toàn quyền hành động" "hủy diệt Rome và chế độ Giáo Hòang". Tháng 5 năm 1796, trước khi tiến vào kinh thành Rome, Tướng Bonaparte tuyên bố, "Chúng tôi là những người bạn của con cháu Brutus (một anh hung củ dân tộc La Mã) và dân Scipios.... Chủ định của chúng tôi là phục hồi điện Capitol và giải phong nhân dân La Mã thóat khỏi thân phận nô lệ tôi đòi."

Quân Cách Mạng Pháp tiến chiếm kinh thành Rome và nước Ý. Hòa Ước Tolentino được ký kết giữa Tướng Bonaparte và Giáo Triều Vatican. Đây là một sự sỉ nhục cho Tòa Thánh Vatican. Giáo Hội phải nộp cho nước Pháp một khoản tiền là 46 ngàn đồng scudi (tiền Vatican) trả làm ba hạn kỳ (Giáo Hòang Pius VI phải đem các đồ trang trí bằng vàng và bằng bạc ra đúc tiền để trả cho Pháp), 100 món đồ nghệ thuật và 500 tác phẩm hiếm bị tịch thu mang về Pháp; tất cả các hải cảng nằm trong lãnh thổ của Tòa Thánh Vatican phải mở cửa cho hậm đội Pháp làm căn cứ trú quân, phải từ bỏ tất cả tài sản của Giáo Hội ở trong lãnh thổ các nước Ý, Pháp, Naples, và Sicily ... tất cả mọi nơi. Giáo Hoàng Pius VI (1775-1799) than thở, "Hòa Ước! Tệ quá đi! Quân đội Pháp chiếm đóng Vatican và Quirinal, truất phế Giáo Hoàng Pius VI và thiết lập nước Cộng Hòa La Mã...."

Nguyên văn: ("First, France, "eldest daughter of the church "he used to call it, abolished all religion, beheaded its king, enthroned Reason officially as supreme deity, massacred over 17,000 priests and over 30,000 nuns as well as forty-seven bishops, abolished all seminaries, schools, religious orders, burned all churches and libraries, then sent the Corsian Bonaparte to liberate Italy and Rome" "Just as you please," wrote the Paris government to the Corsian. "Destroy Rome and the papacy utterly " "We are the friends of the descandants of Brutus and the Scipios... Our intention is to restore the Capitol to free the Roman people from their long slavery," The Corsian declared in May 1796, just before taking Rome.

Then the capture, and the humiliation of the Peace of Tolentino between the papacy and the Corsian: a ransom of 46,000 scudi in three installement (Pius melted down all available siver and gold ornaments); 100 objects d'art and 500 rare manuscripts from Vatican; the opening of all papal harbors to the French fleet; renunciation of all property in Italy and France and Naples and Sicily - everywhere. "They made us their prisoner Spina," mutters Pius. "Peace treaty! Bah!" The Vatican and Quirinal were occupied by French troops. They deposed Pius, and created the republic of Rome...."Malachi Martin, The Decline And Fall Of The Roman Church (New York: G.P. Putnam's Sons, 1981), pp. 232-233.

Kể từ đó, nhân dân Pháp được tự do sử dụng thành ngữ "les corbeaux noirs" mà không còn sọ bị trừng phạt vì "phạm tội báng bổ thần thánh."

Nhờ vậy mà Cách Mạng Pháp 1789 mới được nhân dân thế giới hết lòng khâm phục. Cũng từ đó, mỗi khi nhìn thấy lá cờ tam tài là người ta nhớ ngay đến cái hào hùng hiên ngang của nước Pháp đã giơ cao ngọn cờ tự do phất lên cho các dân tộc khác noi theo vùng lên đạp đổ bạo quyền, khử diệt cái ách độc Ca-tô khốn nạn này để đòi lại quyền làm người cho nhân dân.

Theo gương nước Pháp, các nước Mễ Tây Cơ, Ý Đại Lợi, Tây Ban Nha, Liên Sô, Trung Quốc, Cuba, Nicaragua,v.v.. lần lượt vùng lên làm lịch sử giải trừ cho dân tộc họ thoát khỏi cái ách thống trị bạo ngược của cái tôn độc thần giáo ác ôn này.

Giống như Cách Mạng Pháp 1789, chính quyền Cách Mạng Việt Nam 1945 cũng làm đúng theo lý tưởng đã nêu lên trong chính cương của Đảng Cộng Sản Việt Nam và Mặt Trận Việt Minh để theo đuổi và họ đã hoàn thành được những nhiệm vụ cao cả của lịch sử:

1.- Đánh tan Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp - Vatican để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc.

2.- Đánh tan Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican để đòi lại miền Nam của tổ quốc đem lại thống nhất cho đất nước vài vinh quang cho giống nòi.

3.- Tịch thu toàn bộ tài sản của thực dân xâm lược Pháp và của Giáo Hội La Mã, ngoại trừ các ngôi nhà thờ của tín đồ Ca-tô.

4.- Ban hành những đạo luật pháp nhằm tước bỏ mọi đặc quyền đặc lợi của giai cấp tu sĩ Ca-tô mà trước kia chế độ bảo hộ Pháp - Vatican đã dành riêng cho họ.

5.- Giúp đờ tín đồ Ca-tô còn triền miên trong cơn mộng du mơ về nước Chúa sớm quay về với dân tộc để họ thức tỉnh trút bỏ cái tinh thần nô lệ làm tôi tớ hèn mọn cho Vatican, tẩy xóa cái tinh thần "thà mất nước, chứ không thà mất Chúa" hầu có thể cùng với đại khối dân tộc "khóc cười theo mệnh nước" và "chìm nổi với quê hương".

6.- Thực hiện một cuộc cách mạng ruộng đất đem lại công bằng về kinh tế ở trong nông thôn.

7.- Mở mang giáo dục để nang cao dân trí, đưa toàn bộ những bài học về quốc sử và lịch sử thế giới vào học đường, giáo dục cho người dân thấu hiểu thế nào là tình tự dân tộc, thấu hiểu được công lao dựng nước, mở nước và giữ nước của tiền nhân, hiểu rõ được những bước tiến của nhân loại từ cái thưở hồng hoang, cái thưở loài người còn sống trong hang trong hốc, chưa biết dùng lửa để nấu chín miếng ăn, chưa biết sản xuất bông vải, tơ lụa để may mặc, v.v... cho đến thời đại văn minh tin học như ngày nay.

8.- Phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của người dân để sống xứng đáng với mức sống và nếp sống của con người trong thời đại văn minh điện tử.

9.- Mở rộng nền ngoại giao, kết thân với tất cả quốc gia trên thế giới để cùng sánh vai nhau chung lưng góp sức cải tiến đời sống con người ở trên trái đất này cho càng ngày càng thêm tốt đẹp hơn. Nhờ vậy mà Việt Nam đã được bầu làm hội viên của Hội Đồng Bảo An trong tổ chức Liên Hiệp Quốc trong nhiệm kỳ hai năm 2007-2009.

Do những thành tích rực rỡ trên đây mà nhân dân khắp nơi trên thế giới, mỗi khi nhìn thấy lá cờ đỏ sao vàng là người ta nghĩ ngay đến người Việt Nam anh hùng, nghĩ đến một dân tộc đáng kính phục, và ngược lại, mỗi khi người nước ngoài gặp người Việt Nam là nghĩ ngay đến nước Việt Nam kiên cường và anh dũng với lá cờ đỏ sao vàng.

II.- Đặc tính quốc kỳ và quốc ca của một quốc gia gần như là một cặp song sinh như bóng với hình.-Có người đã đặt ra câu hỏi tại sao quốc kỳ phải có trước quốc ca?

Người viết không biết phải trả lời thế nào cho nó đúng với câu hỏi trên đây. Có thể các nhà ái quốc khi tham gia vào các phong trào chiến đấu đánh đuổi quân xâm lăng vì quá xúc động trước những chiến sĩ kiên cường quyết tâm liều chết dưới lá cở biểu tượng cho đại cuộc cứu nước nên người ta đã sáng tác ra được bài quốc ca có giá trị thích hợp với hoàn cảnh lịch sử và trở thành linh hồn cho lá quốc kỳ mà tác giả thực sự là một thành phần đang chiến đấu cho cái lý tưởng họ hằng ước ao khao khát và đang theo đuổi. Đây là trường hợp quốc kỳ và quốc ca của nước Pháp, của nước Mỹ và của nước Việt Nam hiện nay. Người viết đem những trường hợp này ra làm tiêu biểu vì là những lá cờ quen thuộc với dân Việt Nam từ thời Pháp thuộc cho đến nay.

Về trường hợp quốc kỳ và quốc ca của nước Pháp hiện nay.- Lá cờ hiện nay của nước Pháp xuất hiện vào mấy ngày sau khi Cách Mạng Pháp bùng nổ vào ngày 14/7/1789. Nói về sự xuất hiện là cờ tam tài của Pháp hiện nay, sách "Cách Mạng và Hành Động" viết:

Sau khi nghe ngục Bastille thất thủ, nhiều người trong hoàng tộc bỏ Vua Louis XVI để xuất ngoại. Bị cô lập trong điện Versailles, Louis XVI đành chịu đầu hàng. Ngày 15/7 vua ra mắt Quốc Hội chính thức báo tin rằng sẽ giải tán những quân đội tập trung gần điện Versailles. Tới ngày 17/7 (1789), vua ngự giá tới Ba Lê, và chấp nhận lá cờ cách mạng; cờ này gồm ba mầu, xanh và đỏ là màu của Ba Lê, và mầu trắng tượng trưng cho nhà vua.” Nghiêm Xuân Hồng, Cách Mạng và Hàng Động (Sàigòn: Quan Điểm, 1964), tr. 34.

Một nguồn tài liệu khác cũng ghi nhận như vậy:

“The colours are those of Paris (blue and red) combined with the Royal white (the dispossession and execution of the King still lay in the future when the tricolore was first used). http://www.languedoc-france.info/06141201_tricolore.htm

Cho tới khi nước Pháp bị Liên Minh Thánh của Vatican tràn vào lãnh thổ với dã tâm hủy diệt chính quyền cũng những công trình Cách Mạng 1789 để tái lập vương quyền cho vua Louis XVI và phục hồi quyền lực cho Vatican, thì bản quốc ca Pháp mới ra đờ. Khi đó, đoàn dân quân cách mạng trên đường từ Marseilles tiến về Paris đồng ca bản Marseillaise. Cụ Nghiêm Xuân Hồng ghi lại sự kiện này như sau:

Chưa bao giờ cuộc khởi loạn lại được chuẩn bị một cách công khai như thế. Dân chúng đều gần như biết trước nhật kỳ khởi loạn. Trong thời gian đó, một số tình nguyện quân của các tỉnh đã tới Ba-lê. Khi đí đường đám quân tình nguyện Marseillais đã đặt một bản hành khúc lấy tên là “La Marsaillaise” để cổ võ dân chúng đầu quân chống xâm lăng. Khi các tình nguyện quân tới Ba-lê, Robespierre yêu cầu họ ký kiến nghị truất phế nhà vua. Tới đêm 9/8/(1792), 48 khu phố Ba-lê bầu cử những đại diện mới tới tòa Thị Chính để thay thế nhân viên của của Ba Lê Công Xã mà họ cho là thiếu cương quyết. Nhóm Ba Lê Công Xã Mới được mệnh danh là Công Xã Khởi Nghĩa.” Nghiêm Xuân Hồng, Sđ d., tr. 49.

Wikipedia, the free encyclopedia, viết:

“Bản nhạc La Marseillaise do Claude Joseph Rouget de Lisle thuộc phe bảo hoàng ở Strasbourg sáng tác vào ngày 25/4/1972. Nguyên thủy, tên của bản nhạc này là “Khúc Ca Quân Hành” của đạo quân Rhin”. Tác giả viết bài ca chiến tranh của quân đội xứ Rhin để tặng Thống Chế Nicolas, vị tướng lãnh Pháp gốc ở Cham sinh tại Bavarian. Bài ca này là tiếng gọi dân Pháp vùng lên theo Cách Mạng Pháp và trở thành quốc ca vì được quân lính cách mạng hát lên trên đường từ Marseille tiến tới Kinh Thành Paris.” Nguyên văn: "La Marseillaise" is a song written and composed by the Royalist citation needed Strasbourg on April 25, 1792. Its original name was "Chant de guerre de l'Armée du Rhin", "Marching Song of the Rhine Army” and it was dedicated to Marshal Nicolas Luckner a Bavarian born French officer from Cham. It became the rallying call of the French Revolution and received its name because it was first sung on the streets by troops (fédérés) from Marseille upon their arrival in Paris

”Quốc Ước Hội Nghị chấp thuận bài ca này làm bài quốc ca bằng một quyết định vào ngày kỷ niệm phá ngục Bastille năm 1795, nhưng sau đó bị cấm trong thời các chính quyền của Hoàng Đế Napoléon I, Vua Louis XVIII và Hoàng Đế Napoléon III, chỉ được sử dụng lại trong thời kỳ Cách Mạng tháng 7/1830, rồi tới năm 1879 mới được sử dụng liên tục cho đến ngàn nay.” Nguyên Văn: The Conventiion accepted it as the French national anthem in a decree passed on Bastiile Day 1795, but it was then banned successively by Napoléon I, Louis XVIII, and Napoléon III, only being reinstated briefly after the July Revolution of 1830 and then permanently in 1879.

Về trường hợp quốc kỳ và quốc ca của nước Mỹ hiện nay.- Giống như trường hợp quốc kỳ và quốc ca của Pháp, lá quốc kỳ của nước Mỹ đã có từ thời chiến tranh Cách Mạng 1776-1783, nhưng mãi tới khi đang tiến hành cuộc chiến Anh - Mỹ 1812, bản quốc ca Hoa Kỳ mới ra đời. Bản quốc ca này do một sĩ quan Hải Quân Mỹ sáng tác và sau đó được Quốc Hội Mỹ chấp thuận. Về lá cờ Mỹ hiện nay, The Intenet Archive viết:

Lá cờ sao sọc được Hội Nghị Đại Lục chính thức công nhận là quốc kỳ vào ngày 14/6/1777, một năm sau khi Hoa Kỳ tuyên bố độc lập.” Nguyên văn: “Well, the Stars and Stripes came to be regarded as the national flag with the official recognition of the Continental Congress on June 14, 1777. This was the year following our nation's independence.”)

Năm 1818, có thêm 5 tiểu bang mới được thâu nhận vào Liên Bang Hoa Kỳ. Năm đó Quốc Hội ban hành luật quy định số sọc vẫn là 13 sọc, số sao là số của số của các tiểu bang trong Liên Bang. Luật này cũng quy định rằng khi Liên Bang có thêm một tiểu bang mới, thì quốc kỳ sẽ có thêm một ngôi sao nữa và ngôi sao mới này sẽ được thêm vào quốc kỳ vào ngày lễ Độc Lập 4/7 kế tiếp của ngày tiểu bang đó được thâu nhận vào Liên Bang. Kể từ đó cứ theo quy luật này.” Nguyên văn: “In 1818, with five more states being admitted, the Congress enacted legislation. This stated that henceforth the stripes should remain 13, whereas the number of stars should always match the number of states. It was also decided that any new star should be added on the July 4 following a state's admission. This has been the system ever since.”

Về bản quốc ca Hoa Kỳ, Wikipedia, the free encyclopedia viết:

Bài hát the Star Spangled Banner là quốc ca của Hoa Kỳ, với bài thơ tình cảm do Francis Scott Key sáng tác vào năm 1814. Tác giả vốn là một luật sư, lúc đó ở vào tuổi 35 và là một thi sĩ tài tử (không chuyên nghiệp). Ông viết bài ca này như một bài thơ vào sau khi ông nhìn thấy cảnh Đồn McHenry ở Baltimore, Maryland bị các chiến tàu Anh từ Vịnh Chesapeake trong cuộc Chiến 1812 bắn phá dữ dội. Bài thơ này có tựa đề là “Bảo Vệ Đồn McHenry” và được hát theo giọng của bài dân ca uống rượu có tên là "The Anacreontic Song" của người Anh , dòng thơ đầu tiên “Cho Anacreon ở Thiên Đường” được nhiều người biết và trở thành bài ca yêu nước nổi tiếng của người Hoa Kỳ. Với âm giai một và một rưỡi rất khó hát. Bài ca này được chính thức công nhận là Hải Quân Hành Khúc của Hải Quân Hoa Kỳ vào năm 1889, năm 1916 được Tổng Thống (Woodrow Wilson) [đề nghị Quốc Hội chấp nhận] và vào ngày 3/3/1931 được Quốc Hội quyết định chọn làm quốc ca. Mặc dầu bài ca này có 4 đoạn, những chỉ có đoạn thứ nhất là thường được hát với đoạn thứ 4 ("O thus be it ever when free men shall stand ...") được hát thêm vào những trường hợp trang trọng.”. Nguyên văn: "The Star-Spangled Banner" is the national anthem of the United States, with lyrics written in 1814 by Francis Scott Key. Key, a 35-year-old lawyer and amateur poet, wrote them as a poem after seeing the bombardment of Fort McHenry in Baltimore, Maryland, by Britishships in Chesapeake Bay during the War of 1812.The poem, titled "Defense of Fort McHenry," was set to the tune of the popular British drinking song "The Anacreontic Song", more commonly known by its first line, "To Anacreon in Heaven", and became a well-known American patrotic song. With a range of one and a half octaves, it is known for being difficult to sing. It was recognized for official use by the Navy in 1889 and the President in 1916, and was made the national anthem by a Congressional resolution on 3 March 1931 (46 Stat. 1508, codified at 36 USC §301). Although the song has four stanzas, only the first is commonly sung today, with the fourth ("O thus be it ever when free men shall stand ...") added on more formal occasions.”

Về quốc kỳ và quốc ca Việt Nam hiện nay.- Tương tự như quốc kỳ và quốc ca của nước Pháp và nước Mỹ, quốc kỳ Việt Nam hiện nay cũng ra đời trước, rồi sau đó bản quốc ca mới xuất hiện và mới được quốc hội chấp thuận. Nói về lịch sử quốc kỳ và quốc ca Việt Nam hiện nay, Báo Nhân Dân Việt Nam số ra ngày 27/6/06 trình bày khá đầy đủ với nhiều chi tiết. Để tránh cho bài viết này khỏi quá dài, chúng tôi chỉ ghi lại một vài đoạn để độc giả nhìn thấy rõ cái điều quan trọng ở đây là quốc kỳ có trước quốc ca. Dưới đây là những đoạn quan trọng nói về quốc kỳ Việt Nam hiện nay:

Lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện lần đầu tiên trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ chống thực dân Pháp (23/11/1940). Tác giả sáng tạo ra lá cờ nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh này là đồng chí Nguyễn Hữu Tiến (sinh ngày 5/3/1901 tại Hà Nam, hy sinh ngày 28/8/1941). Tâm huyết của tác giả khi sáng tạo ra lá cờ tổ quốc được khắc họa rõ nét trong bài thơ của ông:

Hỡi những ai máu đỏ da vàng

Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc

Nền cờ thắm máu đào vì nước

Sao vàng tươi, da của giống nòi

Đứng lên mau hồn nước gọi ta rồi

Hỡi sỹ nông công thương binh

Đoàn kết lại như sao vàng năm cánh.

Tháng 5/1941 tại Khui Nậm, Cao Bằng, Lãnh tụ Hồ Chí Minh chủ trì hội nghị Trung ương VIII quyết định thành lập tổ chức Việt Nam Độc Lập đồng minh - đoạn mở đầu chương trình Việt Minh ghi rõ: "Sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp, Nhật, sẽ lập nên Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, lấy cờ đỏ sao vàng 5 cánh làm Quốc kỳ". Đây là văn bản đầu tiên, chính thức quy định Quốc kỳ của nước Việt Nam là cờ đỏ sao vàng.

Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào, Tuyên Quang đã quyết định Quốc kỳ Việt Nam là nền đỏ. ở giữa có một sao vàng năm cánh.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Quốc hội khóa đầu tiên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa năm 1946 đã ghi vào Hiến pháp: "Quốc kỳ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh".

Bài hát "Tiến quân ca" được nhạc sỹ Văn Cao (1923-1995) sáng tác vào cuối năm 1944. Ngay sau khi ra đời, bài hát đã được các chiến sỹ cách mạng tiếp nhận và trở thành bài hát chính thức của Mặt trận Việt Minh. Quốc hội khóa đầu cuả nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã quyết định lấy bài "Tiến Quân Ca" làm quốc ca Việt Nam.

(Theo Nhân Dân hàng tháng, số 4/8 – 1997)

Trích NDVN, ngày 27/6/06

TÍNH CÁCH NGHỊCH THƯỜNG CỦA CHÍNH QUYỀN QUỐC GIA, QUỐC KỲ VÀ QUỐC CA

I.-TÍNH CÁCH NGHỊCH THƯỜNG CỦA CHÍNH QUYỀN QUỐC GIA

Chính quyền Quốc Gia Việt Nam thoát thai từ Giải Pháp Bảo Đại do Liên Minh Thánh Pháp – Vatican. Giải Pháp Bảo Đại là do sáng kiến của Tòa Thánh Vatican đã được Tổng Giám Mục Antoni Drapier, khâm sứ đại diện Tòa Thánh Vatican tại Hà Nội, công khai tuyên bố vào ngày 28/12/1945. Lời tuyên bố này được sách sử ghi lại như sau:

“28/12/1945: Huế: Tổng Giám Mục Antoni Drapier, đại diện Roma tuyên bố: Gia đình Bảo Đại là “gia đình thân Pháp bậc nhất trong dân chúng Việt Nam (la plus francophilende tous les annamites) , và theo ý ông ta, nên cho Bảo Đại lên ngôi như trước ngày 9/3/ (1945) (À mon avis, il serait avantageux pour le calm de rétablir le Roi come le chef regulier avant le mars; DOM [Aix], CP 125).

Drapier cũng đưa ra giải pháp là có thể sau đó sẽ cho Bảo Long lên kế vị, và Nam Phương là Giám Quốc [Phụ Chính].” Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu (Houston, TX: Văn Hóa 1996), tr. 295.

Sáng kiến (ý đồ) này phải trải qua một thời kỳ bàn luận giữa Vatican và Pháp cùng với thời kỳ cho người đi móc nối với ông Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (Bảo Đại) lúc bấy giờ đang lưu trú ở Hông Kông. Sau một thời gian cò cưa mà cả giữa sứ giả Cousseau của Liên Minh Thánh Pháp – Vatican và Bảo Đại, tới cuối tháng 5 năm 1948, thì mọi việc coi như đã xong xuôi. Tuy là đã xong xuôi, nhưng Liên Minh Thánh Pháp – Vatican cũng vẫn không thể lôi cuốn được những người có uy tín với nhân dân và bất mãn với Mặt Trận Việt Minh để thành lập một chính quyền cho Giải Pháp Bảo Đại này. Những người có uy tín hay có thành tích cách mạng chống Liên Minh Thánh Pháp – Vatican trước tháng 8/1945 như các ông Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Nhượng Tống, Nguyễn Tiến Hỷ, v.v… đều lánh xa, không tham dự. Trong khi đó, tình hình chiến sự ở Đông Dương càng ngày càng trở nên bất lợi cho Liên Minh Thánh Xâm Lăng Pháp - Vatican. Vì tình huống này, Vatican và Pháp mới hối hả đồng thuận biến chính phủ Việt gian “Cộng Hòa Nam Kỳthànhchính phủ quốc gia” với toàn bộ nội các gồm toàn những Việt gian hoặc là mang quốc tịch Pháp, hoặc là mang quốc tịch Vatican, hoặc là trong giới quan lại trong thời “Trăm năm nô lệ giặc Tây” (như các ông Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, Phan Văn Giáo, Nghiêm Xuân Thiện, Nguyễn Hữu Trí, Đặng Văn Trí, v.v… ) và cho ra mắt vào ngày 5/6/1948. Có sách ghi là ngày 2/6/1948. Danh xưng “Quốc Gia” hay “Quốc Gia Việt Nam” xuất hiện kể từ đó. Sự kiện này được ông Lê Xuân Khoa ghi lại trong cuốn Việt Nam 1945-1995 - Tập I với nguyên văn như sau:

Danh hiệu “Quốc Gia Việt Nam” (QGVN) được sử dụng từ ngày 5 tháng Sáu 1948, sau khi Cao Ủy Pháp tại Đông Dương Émile Bollaert và Thủ Tướng Chính Phủ Trung Ương Lâm Thời Nguyễn Văn Xuân ký bản thông cáo chung tại Vịnh Hạ Long nhìn nhận nền độc lập của Việt Nam…” Lê Xuân Khoa, Việt Nam 1945-1995 - Tập I (Bethesda, MD: Tiên Rồng, 2004), tr. 161.

Thực trạng của sự thành hình và ra đời của cái gọi là "Chính quyền Quốc Gia Việt Nam" nghịch thường là như vậy! Thiết tưởng cũng cần nên nói cho rõ về tính cách nghịch thường của cái chính quyền Quốc Gia quái đản này.

Tính cách nghịch thường của chính quyền Bảo Đại (1948-1955) cũng như chính quyền Ngô Đình Diệm và các chính quyền khác ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1955-1975 là ở chỗ những thành phần lãnh đạo, các viên chức cao cấp và nhân viên thừa hành trong các bộ, các nha, các sở cũng như trong quân đội và các tổ chức phụ thuộc của các chính quyền này đều do các thế lực ngoại bang nặn ra, nuôi dưỡng, trả lương và trang bị bằng đồng tiền của người ngoại bang, được bảo vệ bằng quân đội của người ngoại bang để thi hành những lệnh truyền của người ngoại bang với mục đích phục vụ cho quyền lợi của người ngoại bang. Những sự kiện này cho chúng ta thấy rõ: "Các chính quyền được mệnh danh là "chính quyền Quốc Gia" trong thời gian 5/6/1948-23/10/1955 do ông Bảo Đại làm Quốc Trưởng và các chính quyền miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 dù là mang danh xưng hay danh nghĩa gì đi nữa thì cái bản chất của nó vẫn là chính quyền Việt gian được hai Liên Minh Đế Quốc Xâm Lược Pháp - Vatican và Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican dựng nên để phục vụ cho quyền lợi của các đế quốc xâm lươc Vatican, Pháp và Mỹ, chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam."

Cũng vì các chính quyền này được dựng nên để phục vụ cho quyền lợi của các đế quốc xâm lược Vatican, Pháp và Mỹ, cho nên:

1.- Tất cả các nhân vật được quân giặc đưa lên đứng đầu các chính quyền bù nhìn này đều bị nhân dân khinh bỉ và nguyền rủa. Năm 1922, nhân dịp Khải Định đi Pháp tham dự cuộc đấu xảo ở đây, Cụ Phan Chu Trinh chỉ thẳng vào mặt thằng vua Việt gian này và kể ra bảy tội ác: (1) Tôn bậy quân quyền, (2) Lạm hành thưởng phạt, (3) Thích chuộng những sự quỳ lạy, (4) Xa xỉ quá độ, (5) Ăn bận không phải lối, (6) Chơi bời vô độ, và (7) Chuyến đi Tây này có một sự ám muội.

2.- Khi các đế quốc xâm lược này bị đánh đuổi ra khỏi lãnh thổ Việt Nam thì các chính phủ này không còn lý do để tồn tại, và những thằng Việt gian được các đế quốc này đưa lên điều khiển các chính quyền Việt gian này nếu không bị nhân dân ta đập chết như trường hợp tên bạo chúa phản thần tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm (bị đập chết vào lúc hơn 7 giờ sáng ngày 2/11/1963 ở Sàigòn), thì cũng phải cuốn gói chạy theo quan thày đi sống lưu vong và chết bỏ thây ở nơi nước mẹ (mẫu quốc).

Trước khi Liên Quân Pháp - Vatican bị thảm bại tại Điện Biên Phủ, ông Ca-tô Việt gian Bảo Đại đã đi sống lưu vong ở Pháp, rồi chết ở Pháp. Khi chết và tổ chức đám táng, thân nhân của ông ta lại không dùng cờ vàng ba sọc đỏ phủ lên quan tài, mà lại dùng lá cờ tam tài của mẫu quốc Pháp. Thật là khôi hài đến cực điểm của khôi hài! Ông Bảo Đại là nhân vật lãnh đạo đầu tiên điều khiển "chính quyền Quốc Gia" đầu tiên và cầm lá cờ vàng ba sọc đỏ phất lên hô hào mọi người theo ông ta để chiến đấu cho cái gọi là "chính nghĩa Quốc Gia" nhưng khi nhắm mắt lìa đời lại không sử dụng lá cờ này phủ lên quan tài trong những ngày tổ chức lễ mai táng. Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia viết về đám táng của ông vua Việt gian này như sau:

"Tang lễ: ... Ông mất ngày 31/7/1997 tại Quân Y Viện Val de Grace, hưởng thọ 83 tuổi... Đám tang Bảo Đại được chính phủ Pháp tổ chức với một tiểu đội lính Lê Dương và sĩ quan mang quốc kỳ Pháp, quân phục trắn, gù đỏ trên vai, bồng súng đi bên linh cữu. Ông được an táng tại nghĩa trang Passy, quận 16, Paris, khá gần tháp Eiffel. Bộ Ngoai Giao Việt Nam đã gửi điện chia buồn đến tang quyến và Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam đã gửi vòng hoa viếng." Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia. Ngafy22/3/2008.

Những người đã từng theo dõi các đài truyền hình truyền tin tức và hình ảnh của lễ chôn cất ông ta đều có thể xác nhận việc này. Tiếc là hình ảnh này không ai muốn lưu trữ, hoặc có cũng đem giấu đi.

TẠI SAO lại như vậy?

Phải chăng trước khi nhắm mắt đi vào cõi chết, chính bản thân ông Bảo Đại cũng cảm thấy rằng lá cờ vàng ba sọc đỏ không những đã không mang lại một chút gì vinh hạnh hay hãnh diện cho cá nhân ông và cho gia đình của ông, mà nó còn là biểu tượng cho một vết nhơ của một thời mà ông đã phạm tội phản quốc bán nước cho quân cướp ngoại thù, rồi lại bị quan thày người Mỹ và thằng tôi thần họ Ngô phản bội?

Phải chăng ông đã hối hận về việc đã nghe lời xúi giục của các quan thày Vatican, Pháp và Mỹ mà ký sắc lệnh số 38/QT ngày 19/6/1954 bổ nhậm thằng phản thân tam đại Việt gian Ca-tô Ngô Đình Diệm làm thủ tướng trao cho nó toàn quyền quyết định về dân sự và quân sự cho nên ông mới bị phản bội như vậy?

Phải chăng vì hối hận như vậy, cho nên trước khi lâm chung, ông đã trối lại với thân nhân rằng đừng có dùng lá cờ vàng ba sọc đỏ do quan thày Vatican chế ra để phủ lên quan tài của ông trong những ngày làm lễ chôn cất?

Trước khi quân đội miền Bắc tiến vào Sàigòn, ông Ca-tô Việt gian Nguyễn Văn Thiệu được quan thày bốc đi đưa sang sống lưu vong ở Anh một thời gian, rồi lại chạy sang sống và chết ở Mỹ. Khi chết và lúc cử hành lễ chôn cất, ông Ca-tô Việt gian này được đồng bọn Việt gian phủ lá cờ vàng ba sọc đỏ lên quan tài khi đưa về nước Chúa.

Không hiểu TẠI SAO gia đình ông Ca-tô Nguyễn Văn Thiệu lại không theo gương gia đình ông Ca-tô Bảo Đại, dùng lá cờ của nước mẹ (mẫu quốc) Hoa Kỳ hay nước mẹ Vatican để phủ lên quan tài trong khi tiễn đưa ông ta về ... về đâu? nước Chúa hay cõi Phật?

Phải chăng ông Nguyễn Văn Thiệu không bị quan thày Vatican phản bội cho nên ông không có hành động như ông Bảo Đại?

Với thực trạng như vậy, các chính quyền Quốc Gia do ông Bảo Đại làm Quốc trưởng cũng như các chính quyền miền Nam Việt Nam do hai ông Ca-tô Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng Thống quả thật là một vết nhơ lớn lao trong lịch sử cận và hiện đại Việt Nam.

II.- LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ VÀ TÍNH CÁCH NGHỊCH THƯỜNG CỦA NÓ

Thực ra, trong thời cận và hiện đại, Việt Nam có tới hai lá cờ vàng ba sọc đỏ:

1.- Lá cờ vàng ba sọc đỏ thứ nhất được sử dụng khởi đầu vào năm 1890 trong thời vua Thành Thái cho đến khi vua Duy Tân bị chính quyền Liên Minh Pháp - Vatican truất phế vào năm 1916 thì bị thay thế bằng lá cờ Long Tinh . Như vậy tuổi thọ của lá cờ này chỉ có 26 năm. Vào năm này, chính quyền Bảo Hộ đưa Nguyễn Phuc Bửu Đảo lên ngai vàng. Bửu Đảo lấy vương hiệu là Khải Định và dùng cờ Long Tinh làm cờ hiệu.

Nói về lá cờ vàng ba sọc đỏ thời Thành Thái và Duy Tân, Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia viết:

"Năm 1890, vua Thành Thái đổi sang dùng lá cờ có nền vàng ba sọc đỏ vắt ngang. Lá cờ này tồn tại qua các đời vua Thành Thái và Duy Tân, những ông vua chống đối Pháp, và do đó cũng được coi là biểu tượng chống Pháp. Sau khi Thành Thái và Duy Tân bị Pháp bắt đi đày, Khải Định lên ngôi theo quan điểm thân Pháp đã thay đổi cờ. Ông dùng cờ nền vàng và một sọc đỏ lớn vắt ngang, và cũng gọi cờ này là cờ long tinh."

2.- Lá cờ vàng ba sọc đỏ thứ hai là lá cờ thời Bảo Đại được Liên Minh Pháp đưa lên làm Quốc Trưởng của cái gọi "chính quyền Quốc Gia Việt Nam. Tuổi thọ của lá cờ này là 27 năm 15 ngày (5/6/1948 -30/4/1975).

Nhân chuyện nói về ông Vua Thành Thái chống Pháp, thiết tưởng cũng nên biết sơ qua về:

a.- Tư cách bất xứng của ông vua gỗ này.

b.- Thực trạng của một số các đảng phái chống Pháp từ cuối thập niên 1930.

Về tư cách bất xứng của ông vua gỗ Thành Thái, có nhiều điều đáng nói. Điểm đáng nói nhất là ông ta là một người mất hết tư cách vì có hành động phạm tội loạn luân. Tội này được sách Việt Sử Khảo Luận - Cuốn 4 ghi nhận như sau:

"Hoàng Tử Vĩnh San chỉ được cấp dưỡng "một số tiền chết đói là 35.000 quan một năm.". Bà vợ trẻ là Hoàng Quý Phi Mai Thị Vàng "không chịu nổi cuộc sống xa quê hương cũng như khí hậu của đảo (Réunion) và cuộc đời nghèo khó. Ngài xin cho vợ, mẹ và em gái (tức Mệ Cười) được hồi hương (HtThược, 1984 tr. 196).

Sự thực khác: Hoàng Quý Phi bị chồng đuổi về nước năm 1917 vì tội "loạn luân" với cha chồng là vua Thành Thái - có bệnh bạo dâm; còn mẹ và em gái Vĩnh San chỉ hồi hương 3 năm sau (Vũ Ngự Chiêu, tập san Đường Mới Số 1 năm 1983 tr. 100). Nói bà "bị hiếp dâm" có lẽ đúng hơn." Hoàng Cơ Thụy, Sđd., tr. 1925

Còn một điều đáng nói nữa là khi viết lá thư (viết tay) đề ngày 17/11/1914 gửi cho Toàn Quyền Đông Dương, ông vua bạo dâm loạn luân này đã sử dụng những ngôn từ làm mất phẩm giá con người. Người viết xin ghi lại phần chót cua lá thư này để làm bằng chứng sống động nhất cho sự kiện mất tư cách của ông vua gỗ Thành Thái:

".... vậy xin Đức dám quốc ra lòng công bình nhơn đức tha tội cho tôi đặn[g] về xứ sở tôi kẻo tôi bị đầy biệc xứ đã tám năm rồi mà tôi vẫn giữ phép tắc luôn luôn trung [thành] với mẫu quốc luôn luôn, trăm lạy quan lớn xin quan lớn làm cái ơn mọn này cho tôi với thì tôi cảm ơn quan lớn vô cùng. Theo đây tôi cũng có nhờ quan lớn làm phước trao dùm cái phong thơ chữ như mà tôi gửi cho triều đình Annam đặn[g] tôi xin về Huế. Trăm lạy quan lớn

(Để nhìn thấy bản chụp của lá thư viết tay trên đây cũng như biết thêm về tư cách tồi tệ và những hành động làm mất phẩm giá con người của ông vua bạo dâm loạn luân này, xin quý vị đọc các 678-684 trong sách Thực Chất của Giá Hội La Mã (Tacoma, TXB, 1999) của tác giả Nguyễn Mạnh Quang.

Về chuyện ông vua bạo dâm và loạn luân này chống Pháp, nếu có, thì cũng chỉ là chống Pháp cho Vatican giống như Đảng Việt Nam Quang Phục (còn gọi là Đại Việt Phục Hưng Hội) của ông Ca-tô Cường Để và ông Ca-tô Ngô Đình Diệm (sẽ được trình bày ở dưới).

Cũng nên biết, Pháp và Vatican tuy rằng đã cấu kết với nhau thành một Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican đánh chiếm và thống trị Đông Dương, nhưng hai thế lực này là những kẻ đồng sàng và dị mộng, luôn luôn hục hặc với nhau và muốn hất cẳng nhau để nắm độc quyền cai trị Đông Dương.

Sự kiện này được sử gia Vũ Ngự Chiêu ghi nhận trong bài viết Sự Hình Thành Phong Trào Quốc Gia Mới: Từ Trung Quân Đến Ái Quốc (tiểu mục C: Sự Chuyển Hướng Của Hội Truyền Giáo) như sau:

"Từ năm 1890, nếu không phải sớm hơn, một hiện tượng đặc thù xảy ra là sự rạn nứt giữa Hội truyền giáo và chính quyền thực dân Pháp, đưa đến những tranh chấp không ngừng, có thể gọi là “chiến tranh lạnh.”

Cuộc chiến tranh lạnh này đã khởi đầu từ ngày chủ nghĩa Cộng Hòa và khuynh tả thống trị chính giới Pháp, và chỉ tạm hòa hoãn trong giai đoạn 1895-1899, thường được biết như thời kỳ “ralliement” – tức chiêu hồi hay liên kết giữa hai phe Ki-tô và Cộng Hòa trung dung, để ngăn chặn ảnh hưởng phe tả khuynh. Từ năm 1899, Quốc Hội Pháp trực diện tấn công Giáo hội bằng các Sắc luật năm 1901, 1904 và 1905, chính thức giải thoát xã hội Pháp khỏi sự kềm tỏa của thần quyền Ki-tô từ nhiều thế kỷ. Dưới thời chính phủ Emile Combes (1902-1904) của Khối Tả phái (Bloc des Gauches), tinh thần chống Giáo hội ngày càng mạnh.

Tại Ðông Dương, những nhân vật Cộng Hòa hay tả khuynh cũng không ngừng đả kích Hội truyền giáo cùng chủ trương thống trị, “Ki-tô hoá và đồng hoá.” Ðối lại, Hội truyền giáo, giới quân sự và các nhóm viên chức thuộc địa bảo thủ cũng tạo thành một liên minh đánh phá Jean de Lanessan, đưa đến việc triệu hồi viên Toàn quyền này, dù thái độ của de Lanessan với Hội Truyền giáo khá thân mật. Năm 1893, chẳng hạn, khi tờ Le Courrier d'Haiphong cho đăng một loạt bài có vẻ đả kích chủ trương thống trị và đồng hoá mà Hội truyền giáo theo đuổi, các giáo sĩ không chịu yếu thế. Họ quyết dùng báo chí để phản công, xuất vốn mua tờ L'Avenir du Tonkin (Tương lai Bắc Kỳ) ở Hà Nội. Ngày 18/7/1893, de Lanessan phải viết thư cho Giám mục P. Gendreau–mới thay Puginier ở Tây Ðàng Ngoài–khuyên Gendreau đừng nên dính líu vào những cuộc bút chiến trên báo chí. Trong thư trả lời ngày 23/7/1893, Gendreau khẳng định rằng báo chí là phương tiện duy nhất để tự vệ.

Ít lâu sau, tới cuộc bút chiến giữa Linh mục J. B. Guerlach và Camille Pâris, một cựu viên chức bưu điện ở Tourane, sau chuyển sang khai thác đồn điền ở cao nguyên Trung Kỳ thuộc khu vực dân Sê-đăng. Pâris tố cáo Hội truyền giáo đã che chở cho tay phiêu lưu “Hầu tước de Mayréna” chiếm đoạt đất của dân Sê-đăng để thành lập một vương quốc với Giáo sĩ Ki-tô làm quốc sư.(118) Guerlach– một trong những cựu thủ lãnh “thập tự quân” – truy tố Pâris ra tòa về tội mạ lÿ. Tuy nhiên, Pâris được trắng án. Cuộc tranh chấp chỉ chấm dứt sau cái chết bí ẩn năm 1908 của Pâris tại đồn điền.

Các báo thuộc nhóm “Radical” (Cấp tiến) hay “Lodge” (Tam Ðiểm) khác như L'Indépendence tonkinoise (Ðộc Lập của Bắc Kỳ) của Alfred Levasseur, và Le Mékong (Cửu Long) của Ulysse Leriche cũng mở nhiều đợt tấn kích Hội truyền giáo. Trong số báo ra ngày 22/5/1897, chẳng hạn, Le Mékong loan tin một trong 10 nữ tu y tá đã bỏ tu hành nghề mãi dâm. Ngày 12/6/1897, Jean Marie Depierre, Giám mục Tây Ðàng Trong–người đã tổ chức quyên góp dựng tượng Pigneau de Béhaine ở Sài Gòn–khởi tố với Tổng Biện lý Assaud ở Sài Gòn. Trước đó, ngày 25/5/1897, Depierre còn viết thư cho Leriche, cáo buộc Le Mékong dối trá khi bình luận rằng Hội truyền giáo là “ổ chống đối sự thống trị của Pháp.”

Ngoài ra, các nhà in Rey, Curiol, và Francois H. Schneider cũng có lập trường chống Hội truyền giáo, đặc biệt hai tờ L'Univers (Vũ Trụ) và La Croix (Thập Tự Giá), cơ quan ngôn luận của Giáo hội.

Các nhóm tả khuynh còn vận động việc ban hành nghị định áp dụng ba đạo luật 1901, 1904 và 1905 tại Ðông Dương; nhưng Beau – trước sự đe dọa của các Giáo sĩ, và vì quyền lợi thuộc địa – không dám trực diện Hội truyền giáo." Vũ Ngự Chiêu.“Sự Hình Thành Phong Trào Quốc Gia Mới: Từ Trung Quân sang Ái Quốc.” chuyenluan.net Tháng 6/2006.

Thực ra, phe thực dân Pháp thì muốn nắm toàn quyền làm chính sách cai trị Đông Dương, muốn xóa bỏ luôn triều đình bù nhìn Huế để biến toàn lãnh thổ Việt Nam thành một chế độ thuộc địa trực tri như Nam Kỳ, và chỉ để cho Vatican một số đặc quyền về kinh tế và giúp Pháp cung cấp nhân sự cho bộ máy đàn áp nhân dân trong đó có sở mật thám là quan trọng nhất. Điều quan trọng khác nữa là hầu hết những chính khách nắm quyền chính trị ở chính quốc Pháp cũng như ở Đông Dương đều có tinh thần Cách Mạng Pháp 1789. Họ rất thù ghét và ghê tởm Giáo Hội La Mã. Vatican thì muốn duy trì triều Huế với dã tâm sẽ biến ông vua bù nhìn nhà Nguyễn thành người của Giáo Hội bằng cách hoặc là hứa hẹn sẽ bảo vệ đến cùng và tranh đấu để có thêm quyền hành, hoặc là biến ông vua gỗ này thành tín đồ Ca-tô, rồi sử dụng vua này làm phương tiện Ki-tô hóa nhân dân theo kế sách từ trên xuống dưới (ban hành đạo dụ, dụ dỗ và cưỡng bách các triều thần, các quan đầu tỉnh, đầu phủ, đầu huyện theo đạo). Công việc này được ủy thác cho các tín đồ đặc trách một chức vụ quan trọng trong triều đình Huế hay một chức vua gần như thường trực kế cạnh ông vua bù nhìn do Liên Minh Pháp - Vatican dựng nên. Đây là kế sách của Vatican. Trong thời gian Thành Thái, Duy Tân và Khải Định tại vị, những tín đồ được trao cho nhiệm vụ này là Ngô Đình Khả và Nguyễn Hữu Bài. Cả hai người này đều được Vatican đưa sang Trung Tâm Huấn Luyện Điệp Viên và Thông Ngôn ở Pinang thuộc đảo Paulo Pinang (Malaysia ngày nay) học hỏi kỹ thuật gián điệm và làm thông ngôn.

Vai trò của các tín đồ Ca-tô tin cẩn này khá phức tạp. Thí dụ như trường hợp của ông Ca-tô Ngô Đình Khả: Đối với người Pháp, thi ông Ngô Đình Khả là một tên mật vụ được gài vào triều đình Huế để dò xét nhà vua. Sự kiện này được ông sử nô Ca-tô Lữ Giang ghi lại trong cuốn Những Bí Ẩn Lịch Sử Đàng Sau Cuộc Chiến Việt Nam như sau:

"Khi đưa cụ Ngô Đình Khả vào làm phụ đạo cho vua Thành Thái người Pháp muốn cụ theo dõi các hoạt động của vua và báo cáo cho Pháp biết những ý định phản nghịch của vua để có biện pháp kịp thời. Nhưng cụ Ngô Đình Khả đã hướng dẫn Thành Thái đi một hướng khác." Lữ Giang, Những Bí Ẩn Lịch Sử Đàng Sau Cuộc Chiến Việt Nam (Garden Grove, CA: TXB, 1999), tr. 395.

Nhưng đối với Vatican, thì ông Ngô Đình Khả có nhiệm vụ phải biến ông vua gỗ Thành Thái thành người của Giáo Hội La Mã. Câu nói "Nhưng cụ Ngô Đình Khả đã hướng dẫn Thành Thái đi một hướng khác" có nghĩa là hướng dẫn Thành Thái đi theo con đường chống Pháp dưới sự điều khiển của các ông truyền giáo (quan thày của Ngô Đình Khả). Vì vậy mà khi Pháp quyết định truất phế Thành Thái thì bọn truyền giáo Ca-tô ra lệnh cho Ngô Đình Khả phản đối. Cũng vì thế mới có câu vè "Bài vua không Khả".

Về thực trạng của một số các đảng phái chống Pháp từ cuối thập niên 1930: Trong thời nước ta nằm dưới ách thống trị của Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican, có rất nhiều phong trào, tổ chức hay đảng phái cách mạng chống chính quyền Bảo Hộ được gọi là chống Pháp. Hầu hết những phong trào, tổ chức và đảng phái này đều có mục đích chung là đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc. Tuy nhiên, trong số các phong trào, tổ chức và đảng phái này, có một số tổ chức hay đảng phái nói rằng chống Pháp nhưng trong thực tế là tranh đấu cho quyền lợi riêng của một nhóm hay giới người của họ, chứ không phải tranh đấu cho quyền lợi tối thượng của tổ quốc và cũng không phải là tranh đấu cho phúc lợi của đại khối nhân dân Việt Nam. Ta gọi những đảng phái này là các "đảng xôi thịt" của bọn chính trị phòng trà. Bộ máy tuyên truyền của Vatican và các chính quyền Việt Nam làm tay sai cho Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican và Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican gọi các đảng này là "các đảng phái Quốc Gia". Điển hình nhất cho các đảng phái xôi thịt này là Đảng Lập Hiến của các ông Bùi Quang Chiêu (1872-1945) và Nguyễn Phan Long (1889-1960) được cho ra đời vào năm 1919 và Đảng Việt Nam Quang Phục (còn gọi là Đại Việt Phục Hưng Hội) của ông Ca-tô Cường Để và ông Ca-tô Ngô Đình Diệm trong những năm trước ngày 9/3/1945.

1.- Về Đảng Lập Hiến của các ông Bùi Quang Chiêu (1872-1945) và Nguyễn Phan Long (1889-1960), Tài liệu của BBC Vietnamese.com viết:

"đại biểu cho một tầng lớp tư sản tại miền nam mới xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ 20. Tầng lớp này bao gồm những công chức người Việt trong chính quyền Pháp, những địa chủ giầu có thôn quê và một số những nhà kinh doanh tây học."

Cũng theo nguồn tài liệu này, thì đảng trưởng của đảng này là ông Bùi Quang Chiêu có thái độ "khinh rẻ anh em nông dân và công nhân ít học" và "chỉ chấp nhận cho họ được cái quyền độc nhất là quyền sinh tồn". Đây là nguyên nhân khiến ông có chủ trương duy trì tình trạng bất công trong xã hội. Trong một bài phỏng vấn được đăng trên Phụ Nữ Tân Văn năm 1929, ông tuyên bố:

Trên đời này làm gì có bình đẳng? Tôi xin kể ra một thí dụ, giả như một người nhờ vào những trường hợp ngẫu nhiên nào đó, hoặc nhờ vào tài sản, nhờ vào những thành công của mình mà lên được hàng lãnh đạo trong giới thượng lưu; đương nhiên người đó có quyền hưởng thụ nhiều ưu đãi hơn là một anh phu quét đường. Anh phu quét đường thì ngu dốt, anh ta không làm được nghề gì khác ngoài việc quét đường. Thành ra anh ta chỉ có được một quyền là quyền được sống. Đó là lẽ tự nhiên.” Theo BBC Vietnamese.com.

Có nguồn tin nói rằng một trong những mục tiêu tranh đấu của đảng này là đòi chính quyền Pháp nới lrộng quy chế cho người Việt Nam nhập Pháp tịch.

Cũng nên biết là:

a.- Dân ta đang bị Thực dân Pháp Và Giáo Hôi La Mã áp bức vô cùng tàn ngược, bị bóc lộ đến tận xương tận thủy bằng những chính sách thuế khóa cực kỳ dã man nhất trong lịch sử nhân loại (thuế thân, thuế muối và hàng trăm thứ thuế khác đổ lên đầu người dân) bằng chính sách sưu dịch vô cùng man rợ cưỡng bách người dân phải đi làm lao nô không công phục dịch tại các công trường xây cất hàng ngàn ngôi dinh thự ngu ngay của nhà nước, hàng ngàn những ngôi nhà thờ to lớn cùng với hành ngàn tháp chuông sừng sững vươn lên bên cạnh nhữ ngôi nhà thờ vĩ đại này, hàng trăm các cở sở khác như chủng viện, tu viện, nhà thương, trường học và các xí nghiệp nghiệp kinh tài của Giáo Hội La Mã.

b.- Ruộng đất canh tác của dân ta bị Giáo Hội La Mã cướp đoạt. Chỉ riêng ở Nam Kỳ, con số ruộng đất Giáo Hội La Mã đã cướp đoạt của dân ta tới trên 25% số diện tích ruộc đất trồng trọt. Ấy là chưa nói đến con số ruộng đất bị Giáo Hội cướp đoạt ở miền Trung và miền Bắc.

c.- Chùa chiền Việt Nam bị đập phá lấy đất để xây nhà thờ Ca-tô. Ngôi Chùa Bảo Thiên ở Hà Nôi chỉ là một trong số hàng ngàn ngôi chùa bị đập pháp để lấy đất xây nhà thờ như Giáo Hội đã làm ở Châu Mỹ La-tinh trong thế kỷ 16 và ở Algerie từ năm 1830 cho đến khi Liên Minh Pháp - Vatican bị nhân dân quốc gia này đánh đuổi ra khỏi lãnh thổ Algerie.

d.- Văn hóa Việt Nam bị chà đạp, tôn giáo cổ truyền của dân tộc trong đó có đạo thờ cúng tổ tiên bị sỉ vả, và dân tộc Việt Nam bị khinh rẻ là dân tà đạo, dân mọi rợ.

Xin xem Mục X nói về thành tích của Vatican cướp đoạt tài sản và bóc lột nhân dân Việt Nam trong thời 1862-1945. Mục này nằm trong Phần III, bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ấc của Giáo Hội La Mã.đã được đưa lên sachhiem.net, giaodiemonline.com từ tháng 1/2008, sẽ được in trong sách Từ Chùa Bảo Thiên Đến Tòa Khâm Sứ do sachhiem.net và giaodiemonline.com chủ trương và sẽ phát hành trong một ngày gần đây.

Với thảm cảnh và mang mối nhục vong quốc như trên, thiết tưởng rằng, ngoại trử nhóm thiểu số tín đô Ca-tô vong bản phản quốc và nhóm tư sản giàu có ăn no rửng mỡ như trên, đại khối dân tộc Việt Nam ta không hề và không bao giờ cần đến cái điều đòi hỏi "nới rộng quy chế nhập Pháp tịch" này của Đảng Lập Hiến xôi thịt này của các ông Bùi Quang Chiêu và Nguyễn Phan Long.

Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy Đảng Lập Hiến của ông Bùi Quang Chiêu và Nguyễn Phan Long nói là chống Pháp mà bản chất chỉ là đảng xôi thịt tranh đấu cho nhóm người thiểu số vốn đã được ưu đãi trong xã hội.

2.- Về Đảng Việt Nam Quang Phục còn gọi là Đại Việt Phục Hưng Hội của ông Ca-tô Cường Để và ông Ca-tô Ngô Đình Diệm trong những năm trước ngày 9/3/1945: Đảng này được Vatican sử dụng để giành lại ngai vàng cho cá nhân ông Cường Để (thuộc dòng Hoàng Tử Cảnh, đã theo đạo Ca-tô từ đời Hoàng Tư Cảnh) để phục vụ cho mưu đồ riêng của Vatican. Từ thập niên 1890, sự tranh chấp để giành chiếm ưu thế trong chính quyền tại Đông Dương càng trở nên mãnh liệt giữa một bên là phe Cấp Tiến (Radical) hay Tam Điểm (Lodge) và một bên là Vatican mà đại diện là các nhà truyền giáo ở Việt Nam. Càng về sau phe Cấp Tiến càng thắng thế ở cả chính quốc Pháp cũng như ở Đông Dương và muốn loại bỏ hết quyền lực của Vatican ra khỏi sân khấu chính trị tại Đông Dương. Vì thế đảng Việt Nam Quang Phục (cũng có thể do bàn tay Vatican lập nên) được Giáo Hội La Mã và các nhà truyền giáo ở Việt Nam triệt để ửng hộ và kêu gọi giáo dân tích cực tham gia. Sự kiện này được sử gia Vũ Ngự Chiêu ghi nhận trong bài viết Sự Hình Thành Phong Trào Quốc Gia Mới: Từ Trung Quân Đến Ái Quốc (tiểu mục C: Sự Chuyển Hướng Của Hội Truyền Giáo) như sau:

"Thời gian này (từ 1890 trở về sau),Hội truyền giáo đã phát triển và củng cố tổ chức chặt chẽ theo hàng dọc, từ các giáo phận xuống giáo xứ, họ đạo. Hầu hết các họ đạo tại các xã thôn đều do các giáo mục (curé) bản xứ trông nom. Mỗi giáo phận là một tiểu vương triều tự trị, với những luật lệ riêng. Dưới sự hướng dẫn của các linh mục, giáo dân trở thành kiêu dân, hoành hành bất kể luật pháp. Alphonse Louis Klingler ở Nghệ An và Martin ở Thanh Hoá chỉ là những thí dụ tiêu biểu.

Không những chỉ lấn áp dân chúng, đập phá chùa chiền, cướp đoạt ruộng đất, công điền công thổ tại các xã lẫn lộn người Lương và giáo dân, “thập tự quân” còn kéo nhau đi làm tiền cả thân nhân Từ Dụ Thái Hoàng Thái hậu, hay cựu Phụ chính Ðại thần Trương Quang Ðãn, vì tư gia họ đã dùng gỗ lim, mới bị ra lệnh cấm đẵn để dành độc quyền cho các nhà khai thác.

Các quan lại chẳng ai dám phản ứng, vì phạm lỗi với các giáo sĩ hay linh mục bản xứ sẽ lập tức bị cách chức, hay quở phạt.

Trước viễn ảnh rạn nứt khó tránh giữa chế độ Bảo hộ Pháp và Hội truyền giáo–đồng thời, để tạo áp lực với các viên chức “rối đạo”– các giáo sĩ tìm cách móc nối, ăn rễ vào Hoàng tộc và những phong trào kháng Pháp. Một mặt, giới quan lại xuất thân thông ngôn được yểm trợ ngày một thăng tiến nhanh trong triều đình, hầu gây ảnh hưởng với vua và Hoàng tộc. Mặt khác, một số tìm cách liên kết với tổ chức Duy Tân Hội của Phan Bội Châu và Cường Ðể, dòng dõi duy nhất của Hoàng tử Cảnh. Sự ủng hộ của số giáo sĩ, giáo dân từ Vinh tới Quảng Nam–kể cả nhóm Ngô Ðình Khả, Nguyễn Hữu Bài, Mai Lão Bạng, v.. v...– liên hệ không nhỏ với bối cảnh cuộc chiến tranh lạnh giữa Giáo hội và phe tả khuynh Pháp.

Tuy nhiên, tưởng cũng cần nhấn mạnh, khối giáo dân – hoặc ít nữa các nhóm thiểu số giáo sĩ và giáo dân tham vọng– không đoàn kết, nhất trí như có thể ngộ nhận. Ðường nứt rạn lớn nhất là giữa hai giáo phận gốc Espania – có liên hệ chặt chẽ với Manila (Philippines), và Roma – và các giáo phận của Hội Truyền giáo Pháp. Thêm nữa, ý thức chủng tộc cũng tách biệt dần giáo dân Việt và giáo sĩ ngoại quốc–đặc biệt là các giáo sĩ Pháp. Sau gần nửa thế kỷ được Pháp “giải phóng” (nói theo ngôn ngữ của Petrus Key năm 1859), giáo mục và giáo dân Việt vẫn bị xếp loại tín hữu hạng nhì. Triều đình Ki-tô Ðông Dương vẫn do các “cha triều” Pháp thống trị. Chưa một “linh mục triều” người Việt nào được lên chức Giám mục. Nói cách khác, Hội truyền giáo Pháp tự nó cũng là một tiểu vương triều “trắng” bảo hộ tiểu vương quốc Ki-tô “vàng.” Hội truyền giáo cũng không chỉ có con chiên người Việt. Các giáo sĩ bắt đầu mở mang họ đạo tới những vùng sơn cước ở Trung và Bắc Kỳ. Từ thập niên 1900, toàn thể Ðông Dương đã chia làm 7 giáo phận. Tại Bắc Kỳ, thêm giáo phận “Haut Tonkin” (Ðàng Ngoài Cao), để lo việc Ki-tô hoá dân thiểu số. Tại Trung Kỳ, hai giáo phận Ðông Ðàng Trong và Tây Ðàng Trong nỗ lực Ki-tô hoá các sắc tộc Ê-đê, Gia-rai, Sê-đăng, v.. v... trên cao nguyên.” Vũ Ngự Chiêu.“Sự Hình Thành Phong Trào Quốc Gia Mới: Từ Trung Quân sang Ái Quốc.” chuyenluan.net Tháng 6/2006.

Như vậy, Đảng Việt Nam Quang Phục hay Đại Việt Phục Hưng chỉ là công cụ của Vatican dùng Cường Để để thiết lập chế độ đạo phiệt Ca-tô rồi Ki-tô hóa Việt Nam từ trên xuống dưới bằng bạo lực của chính quyền. Cũng vì chủ trương Ki-tô hóa từ trên xuống dưới bằng bạo lực của nhà nước cho nên khi thất bại không người Nhật cho làm thủ tướng, Ngô Đình Diệm đòi nắm giữ Bộ Nội Vụ để có thể bổ nhậm bộ bọn đàn em (cũng là tín đồ Ca-tô) làm tỉnh trưởng. Thế nhung, "già néo thì đứt giây". Sự kiện này được Cụ Hoàng Cơ Thụy ghi ljai trong Việt Sử Khảo Luận - Cuốn 4 như sau:

"Đại Việt Phục Hưng Hội của nhóm Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm (ông Diệm sinh ngày 3/1/1901) thành lập từ năm 1942 liên lạc với Hoàng Thân Cường Để ở bên Nhật (coi VSKL/8 tr. 1842).

Sau vụ làm thủ tướng hụt cuối tháng 3/1945, một phái đoàn 5 người của "Ủy Ban Kiến Quốc" là Vũ Văn An, Vũ Đình Dy, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Xuân Chữ, Lê Toàn sang Nhật tham dự Hội Nghị Đại Đông Á tại tỉnh Kudan hồi đầu tháng 5/1945. Cuối tháng ấy và hai tháng 6 và 7/1945, có tin đồn rằng Cường Để sắp được Nhật đưa về nước để giúp cháu là vua Bảo Đại và sẽ giữ chức vụ chủ tịch Hội Đồng Tư Vấn đang dự bị thành lập.

Theo lời bác sĩ Hồ Tá Khanh kể với chúng tôi (tháng 3/1992) thì hồi cuối tháng 7/1945, Vũ Văn An có vào Huế đề nghị với cụ Trần Trọng Kim để cho Ngô Đình Diệm tham gia nội các. Khi ấy còn khuyết mấy bộ trưởng là các bộ Công Chính (Lưu Văn Lang từ chối, Hoàng Xuân Hãn tạm kiêm nhiệm) và Y Tế (Vũ Ngọc Anh vừa chết vì bom Mỹ hôm 23/7/1945), nên cụ Kim đề nghị (cho ông Diệm giữ) một trong hai bộ đó. Song Vũ Văn An đòi cho ông Diệm (giữ) bộ Nội Vụ để có thể bổ báng bọn đàn em làm tỉnh trưởng. Vì bộ này đã có Trần Đình Nam (năm giữ), nên cụ Kim không thể nhận lời." Hoàng Cơ Thụy, Sđ., tr. 1963.

Thiết tường dân Việt Nam ta chỉ cần giải thoát được cái ách thống trị hết sức tham tàn và cực kỳ bạo ngược của Liên Minh Pháp - Vatican như đã trình bày trong phần cuối trong mục nói về Đảng Lập Hiến của các ông Bùi Quang Chiêu và Nguyễn Phan Long ở trên. NẾU Nhật hất cảng Liên Minh Pháp - Vatican mà đưa ông Ca-tô Cường Để lên làm vua thay thế ông Bảo Đại và đưa ông Ca-tô Ngô Đình Diệm lên làm thủ tướng, THÌ ĐÚNG LÀ Việt Nam ta rơi vào tình trạng "tránh vỏ dưa gặp vở dừa", tức là "đuổi con Cọp Liên Minh Xâm Lược Pháp- Vatican ra khỏi cửa trước thì lại rước con beo Liên Minh Xâm Lược Nhật - Vatican vào cửa sau". Cũng vì thế mà cụ Phan Bội Châu đã phải xa lìa ông Ca-tô Cường Để từ giữa thập niên 1910, và nhân dân Việt Nam không những không tham gia mà còn tích cực chống lại cái đảng xôi thịt khốn nạn này và chống lại đến cùng.

Xin xem chương sách nói về Thực Trạng Các Đảng Phái Quốc Gia Chống Liên Minh Pháp - Vatican (Mục XIII, Phần IV trong bộ sách Lịch Sử và Hồi Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã) để biết thêm về cái đảng Ca-tô xôi thịt này.

3.- Về các dảng phái Quốc Gia khác.- Vào cuối thập niên 1930 và đầu thập niên 1940 cho đến khi Nhật đầu hàng Đồng Minh vào ngày 15/8/1945, tại Việt Nam có một số đảng phái gọi là Đảng Cách Mạng. Ngoại trừ Đảng Cộng Sản và Mặt Trận Việt Minh, hầu hết các thành phần lãnh đại và đảng viên của các tổ chức gọi là các "đảng phái Quốc Gia" đều là những người xuất thân từ giới tư sản giầu có và những nhân viên làm việc trong chính quyền Bảo Hộ hoặc là thuộc các già đình hào phú trong nông thôn. Tất cả đều là những chính khách "phong trà" (chính khách salon). Nó cho rõ hơn, họ là những nhà cách mạng tài tử, mang nặng tính cách lãng mạn, quen với nếp sống phong lưu mưa không đến mặt, nắng không tới đầu, luôn luôn có hạ nhân hầu hạ, lúc nào cũng lè phè, khệnh khạng, quan liêu phong kiến, sợ khó ngại khổ, dốt nát về lịch sử. Tệ hơn nũa là họ không có khả năng về chính trị và cũng không có kiến thức về kỹ thuật làm cách mạng. Vì những nhược điểm này mà họ không chịu dấn thân lăn lộn đi sâu vào đại khối nông dân và công nhân lao động nghèo khổ để hòa mình với họ, tìm hiểu tình cảnh của họ, giác ngộ họ để lôi cuốn, thu hút họ vào đảng của mình hầu tổ chức họ thành những đội ngũ cách mạng, những lực lượng xung kích tại các địa phương làm hạ tầng cơ sở nằm tiềm phục chờ giờ hành động. Đây là những yếu kém chung của các "đảng phái Quốc Gia" mà điển hình là Đảng Việt Quốc và Việt Cách. Sách Việt Nam Khảo Luận - Cuốn 4 ghi nhận:

"Với thành phần phức tạp, tổ chức lỏng lẻo, Việt Nam Quốc Dân Đảng để cho bọn chỉ điểm Pháp chui vào đảng không ít... Lúc đầu không có tổ chức quần chúng...Không có một chương trình huấn luyện đào tạo cán bộ và huấn luyện đảng viên." Hoàng Cơ Thụy, Việt Sử Khảo Luận Cuốn 4 (Paris: Nam Á, 2002), tr. 1937.

Về mục tiêu tranh đấu, họ chỉ học lóm được những danh từ rỗng tuếch lấy từ cương lĩnh của Quốc Dân Đảng Trung Hoa, giống như những lời nói suông, nói cho sướng miệng. Trong thực tế, họ chằng bao giời đề ra những phương pháp hay kế sách hành động cho có hiệu quả để đạt được mục đích.

Có một số người trong các đảng phái này có bằng cấp đại học, nhưng kiến thức của họ chỉ là thứ kiến thức chuyên môn được các trường học của chính quyền Bảo Hộ đào luyện. Họ không có những kiến thức cần thiết cho một nhà cách mạng kiêm chính trị gia vì rằng họ không được học toàn bộ những bài học lịch sử thế giới, không được học đầy đủ những bài học lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại một cách trung thực do những nhà viết sử chân chính biên soạn. Vì không được học toàn bộ các bài học lịch sử thế giới, cho nên họ không biết gì về những bước tiến của loài người và cũng không biết gì về những rặng núi tội ác của Giáo Hội chống lại nhân loại trong gần hai ngàn năm qua. Vì những lý do này, họ hoàn toàn không biết rằng Giáo Hội La Mã mới là thế lực chủ động đánh chiếm Việt Nam làm thuộc địa rồi mới cho người đi vận động chính quyền Pháp liên kết với Giáo Hội và xuất quân đánh chiếm Việt Nam để cùng thống trị và cùng chia nhau lợi nhuận.

Vì là những người xuất thân từ giới tư sản giấu có và là những nhân viên làm việc trong chính quyền Bảo Hộ, vốn liếng kiến thức của các nhà lãnh đạo và đảng viên các đảng phái Viêt Quốc, Việt Cách và các đảng khác (ngoài Đảng Cộng Sản) chỉ có một mớ kiến thức chuyên môn. Kiến thức tổng quát của họ không bằng một em bé học sinh hoàn tất đầy đủ chương trình trung học ở Hoa Kỳ. Tệ hơn nữa, họ là những người quen với nếp sống phong lưu, nhàn hạ, lè phè, không có kiên nhẫn tìm đọc những sách sử để tìm hiểu nguyên nhân:

1.- TẠI SAO nhân dân các nước Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Mễ Tây Cơ, Nga, v.v... phải vùng dậy làm cách mạng chống lại Giáo Hội La Mã?

2.- TẠI SAO các chính quyền cách mạng của các quốc gia trên đây phải dùng những biện pháp mạnh để đối phó với Giáo Hội La Mã?

3.- TẠI SAO Hoa kỳ và các nước đan chut tự do khác ở Bắc Mỹ cũng như ở Tây Âu đều ghi vào hiến pháp của họ điều khoản "tách rời tôn giáo ra khỏi chính quyền"?

4.- TẠI SAO vào năm 1867 Hoa Kỳ lại cắt đứt ngoại giao với Vatican?

(Tình trạng này kéo đến năm 1984 (117 năm). Trong thời gian này, mặc dù, hai quốc gia này đã kết hợp với nhau thành Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican để đưa tên Ca-tô Ngô Đình Diệm về Việt Nam cầm quyền và biến miền Nam Việt Nam thành tiền đồn chống Cộng, nhưng đó chỉ là một liên minh chính trị có tính cách giai đoạn để phục vụ cho nhu cầu "chiến lược be bờ" của Hoa Kỳ nhằm ngăn chặn làn sóng Cộng Sản từ miền Bắc tràn xuống mà thôi.

Cũng vì tình trạng dốt nát lịch sử thế giới, dốt nát về lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại, dốt nát về kiến thức chính trị, dốt nát về kỹ thuật làm cách mạng, cho nên cả hai đảng Việt Quốc và Việt Cách đều không có khả năng nhận diện được kẻ thù chính và kẻ thù phụ để đưa ra những đối sách thích hợp chống lại cả hai kẻ thù là Pháp và Vatican đã cấu kết với nhau trong việc đánh chiếm và biến Việt Nam thành thuộc địa của cả hai thế lực này. Vì vậy mới xẩy ra tình trạng cả hai đảng xôi thịt này đã có những hành động bênh vực và chạy tội cho Giáo Hội La Mã khi thấy rằng chính quyền Mặt Trận Việt Minh noi theo các chính quyền Cách Mạng Pháp 1789, Cách Mạng Ý 1870, Cách Mạng Mễ Tây Cơ 1857, Cách Mạng Nga 1917, Cách Mạng Tây Ban Nha 1936, dùng biện pháp mạnh đối phó với "cái tôn giáo ác ôn này"! Vì dốt nát về lịch sử giới, cho nên họ mới hành động ngây thơ về chính trị một cách đáng tội nghiệp như vậy. Đoạn văn do chính một nhân vật có thế giá trong Đảng Việt Quốc là ông Nghiêm Kế Tổ ghi lại trong cuốn Viêt Nam Máu Lửa là bằng chứng bất khả phủ bác cho sự kiện này. Dưới đây là đoạn văn này:

"Đối với Giáo Hội Gia-tô, lực lượng mạnh mẽ có tổ chức chặt chẽ, Việt Minh cũng không tha. Khẩu hiệu thì Lương giáo đoàn kết, nhưng được thực hiện bằng cấm mở trường thần học của Giáo Hội, bằng đổ lỗi cho các cha cố đã làm gián điệp cho ngoại bang, ép họ vào tội tàng trữ khi bất hợp pháp...." Nghiêm Kế Tổ, Việt Nam Máu Lửa (Los Alamitos, CA: Xuân Thu, 1989), tr. 89.

Bản văn trên đây là bằng chứng nói lên sự dốt nát về kiến thức lịch sử thế giới và cũng là dốt nát về kiến thức chính trị của cả cá nhân ông Nghiêm Kế Tổ và của cái đảng Việt Quốc. Cũng vì dốt nát về lịch sử thế giới và dốt nát về kiến thức chính trị, cho nên cả hai đảng Việt Quốc và Việt Cách đều không biết rằng Vatican và Pháp là hai thế lực cấu kết với nhau trong việc tái chiếm Đông Dương, nghĩa là cả hai thế lực này đều là kẻ thù chung của dân tộc Việt Nam. Vì không biết như vậy cho nên hai đảng chính trị này mới hăng say ủng hộ và tích cực cổ võ cho Giải Pháp Bảo Đại do Vatican với dã tâm dùng người Việt đánh người Việt và dùng tín đồ Ca-tô để cai trị đại khối nhân dân thuộc tam giáo cổ truyền. Vấn đề này đã được trình bày đầy đủ ở trong Mục A nói về tính cách nghich thường của chính quyền Quốc Gia Việt Nam ở trên. Đoạn văn sử dưới đây là bằng chứng bất khả phủ bác chứng đảng Việt Quốc hăng say ủng hộ và tích cực cổ võ cho Giáo Pháp Bảo Đại:

"Nhóm Quốc Dân Đảng (của Vũ Hồng Khanh, Nghêm Kế Tổ, Nguyễn Tường Tam, v.v...) đòi thành lập ngay một Chính Phủ Liên Hiệp Kháng Chiến với Vĩnh Thụy làm chủ tịch. Nhiều cuộc biểu tình được tổ chức trước nhà Vĩnh Thụy ở Đường Gambetta cũ, hoan hô cố vấn và đòi ông ra cầm quyền." Hoàng Cơ Thụy, Việt Sử Khảo Luận - Cuốn 5 (Paris: Nam Á, 2002), tr. 2076.

Tín đồ Ca-tô (bị điều kiện hóa chi biết nghe theo lệnh truyền của Vatican) hay những người ngu dốt ít học không biết gì trào lưu tiên hóa của nhân loại, không biết gì về tình trạng bất xứng của triều Đình Huế từ khi ký các Hiệp Định Nhâm Tuất 1862, Giáp Tuất 1874, Qúi Mùi 1883 và Giáp Thân 1884, và không biết gì về con người ông vua gỗ Bảo Đại mà hăng say ủng hộ va tích cực cổ võ cho Giải Pháp Bảo Đại, thì không nói làm chi. Nhưng đây là những nhà cách mạng, những chính trị gia lãnh đạo các đảng ái quốc như Việt Quốc, Việt Cách thường lớn tiếng cao rao là tranh đấu để đòi lại chủ quyền độc lập cho dân tộc từ trong tay Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican mà lại hành động như vậy thì quả thật họ cũng dốt nát như "đàn cừu", "đàn chiên" người Việt đã bị điều kiện hóa bới chính sách ngu dân của Vatican. Quả thật họ đã làm trò hề cho thiên hạ và hậu thế chê cười.

Với tình trạng như trên, ta có thể nói các ông trong các đảng Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt có quá nhiều nhược điểm không thích hợp với cuộc đời bôn ba lăn lộn vào sinh ra tử của những người dấn thân vào đại cuộc cứu nước như các chiến sĩ cách mạng hay những người nghĩa quân kháng chiển đuổi giặc xâm lăng để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc. Ngoài những nhược điểm này, họ còn có những nhược điểm quan trọng khác nữa như là không thân dân, không gần gũi với đại khối nhân dân nghèo khổ là anh em nông dân và công nhân lao động, lè phè, khệnh khạng, quan liêu phong kiến, sợ khó ngại khổ, dốt nát về lịch sử, vừa có khả năng về chính trị, đặc biệt là không có kiến thức về kỹ thuật làm cách mạng.

Cũng vì thế mà họ không thể chịu đựng được những khó khăn, gian khổ, cực nhọc, gian truân của những người nghĩa quân kháng chiến như các tổ chức nghĩa quân của các cụ Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Mai Xuân Thưởng, Nguyễn Thiện Thuật, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, v.v... Vì thế, các "đảng phái ái quốc" này không có những tổ chức hạ tầng cơ sở tại các địa phương trên toàn lãnh thổ. Với thực trạng như vậy, tất nhiên là không có lực lượng xung kích nằm tiềm phục tại các địa phương để chờ thời cơ hay khi được lệnh thì nổi lên cướp chính quyền. Cũng vì thế mà khi Nhật đầu hàng Đồng Minh vào ngày 15/8/1945, các đảng cách mạng này không có một đội quân xung kích nào nhẩy lên cướp chính quyền dù rằng tình hình Việt Nam ở vào thời điểm này là cơ hội bằng vàng để chớp lấy mà xông lên giành lấy thắng lợi về cho họ. Trong khi đó thì Mặt Trận Việt Minh đã tổ chức được những đội quân xung kích rải rác ở khắp mọi nơi trên toàn quốc. Nhờ vậy mà họ đã làm nên lịch sử.

Vì không có lực lượng xung kích để chuẩn bị cướp chính quyền, cho nên các đảng phái xôi thit này mới thi hành sách lược chính trị "há miệng chờ sung rụng" và "cáo đội lốt hùm" theo kiểu Lê Chiêu Thống và kiểu của tên bạo chúa tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm, nghĩa là kết thân vơi chính quyền Nhật hay chính quyền Quốc Dân Đảng Trung Hoa với hy vọng các thế lực quan thày lật đổ chính quyền đương thời rồi đưa họ lên cầm quyền. Đây là trường hợp của Đảng Việt Nam Quang Phục còn gọi là Đại Việt Phục Hưng Hội của ông Ca-tô Cường Để và ông Ca-tô Ngô Đình Diệm trong những năm trước ngày 9/3/1945 và các đảng Việt Quốc và Việt Cách hoàn toàn trông cậy vào các vị tướng lãnh Tàu chỉ huy các đoàn "Hoa Quân nhập Việt" của" Quốc Quân Trung Hoa. Hậu quả của sách lược chính trị "há miệng chờ sung rụng" của các đảng phái Quốc Gia này tức là làm cái chuyện "đuổi cọp cửa trước, rước beo vào cửa sau". Đây là sự thật lịch sử không ai có thể phu bác được.

Vì trông cậy vào Quốc Quân Trung Hoa của chính quyền Tưởng Giới Thạch lật đổ chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa dưới quyền lãnh đạo của Cụ Hồ Chí Minh rồi được đưa lên cầm quyền, hai đảng Việt Quốc và Việt Cách cũng rơi vào tình trạng thảm thương giống y như Đảng Việt Nam Quang Phục tức Đai Việt Phục Hưng Hội của hai ông Ca-tô Cường Để và Ngô Đình Diệm. Nói về tình trạng thê thảm của Quốc Dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Cách, sách Việt Sử Khảo Luận - Cuốn 4 ghi nhận như sau:

"Về kinh tế, QDĐ không có một nguồn lợi kinh tế nào... Về võ khí được Trùng Khánh điện cho biết đến Bộ Tổng Tham Mưu của Lư Hán mà lãnh số võ khí của Nhật, nhưng "Tàu phù" lánh mặt... Đến khi họ sắp rút lui, mới gọi đến lãnh thì chỉ toàn là quần áo, giày, bít tất đã rách nát của quân Nhật bỏ lại mà thôi." Hoàng Cơ Thụy, Sđd., tr. 2029.

"Các ông Việt Cách (Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội) ở Hoa Nam - mà ở rất xa cách nhau, tổ chức thì lỏng lẻo, tiền nong võ khí thì không, cũng như Sainteny ở Côn Minh, De Gaulle ở Paris, Tưởng Giới Thạch ở Trùng Khánh, Mountbatten ở Kandy đều không kịp trở tay. Chỉ có Hồ Chí Minh đang chiếm vùng Việt Bắc, là có thể nhanh chân, với sự ủng hộ của OSS Mỹ, chớp thời cơ về Hà Nội trước cướp được chính quyền." Hoàng Cơ Thụy, Sđd., tr. 1964.

Cụ Nguyễn Tường Bách ghi nhận như sau:

“Tháng 8.1945, Việt Minh cướp chính quyền. Cùng với VN Cách Mệnh Đồng Minh Hội, VN Quốc Dân Đảng xuất hiện đấu tranh công khai. Tôi là ủy viên trung ương, phụ trách tờ Việt Nam để tuyên truyền chống CS. Mặt khác, tôi tổ chức Quốc gia Thanh niên Đoàn. Tháng 6/1946, Việt Minh tăng cường áp lực. Sau khi cầm cự lối nửa năm, đảng trưởng Vũ Hồng Khanh, tôi và Lê Khang, trong Bộ Chỉ huy, phải rút lên Việt Trì, rồi Yên Báy và Lào Kay. Lực lượng Đệ tam khu lúc đó gồm có lối một nghìn người: hai, ba trăm chí nguyện quân từ Trung Hoa về, cộng với một số cựu lính khố xanh của Pháp, võ trang khá thô sơ. Thành phần kể sau không có ý chí tranh đấu mạnh. Phía ta không có đài phát thanh, thiếu phương tiện quảng bá, chỉ có tờ báo Việt Nam. Quân ta đóng chốt tại các tỉnh lỵ nên bị Việt Minh bao vây.

Việt Minh không đông nhưng có ảnh hưởng mạnh quần chúng vi họ có tổ chức, biết đoạt thời cơ, tuyên truyền sâu rộng và lôi cuốn đồng bào với các chiêu bài ăn khách như đả thực, chống đế quốc và áp bức. Phía quốc gia xích mích nội bộ, chủ quan, coi thường đảng CS và đặt hết niềm tin vào sự hỗ trợ của quân đội Trung hoa nên thua là phải. Tháng 7/1946, khi hay tin Việt Minh nhóm đại hội tại Thái Nguyên và Nhật bản sắp đầu hàng, cánh quốc gia đã không tổng hành động kịp thời, tiến tới khởi nghĩa. Bị kẹt giữa Pháp và Việt Minh, các đảng quốc gia không chiếm được địa bàn đủ rộng và không có đủ sức chống lại hai thế lực đó từ Nam ra Bắc.” Nguồn: Tạp Chí Cách Mạng Số 52 Của Đại Việt Cách Mạng Đảng (www.daiviet.org) Ngày 29/6/2006,

Giáo-sư Lê Xuân Khoa viết trong cuốn Việt Nam 1945-1995 như sau:

”Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội là những đảng cách mạng đã có nhiều kinh nghiệm hoạt động với Hồ Chí Minh và các đảng viên Cộng Sản Việt Nam ở Trung Hoa. Bởi vậy, khi theo đoàn quân Quốc Dân Đảng Trung Hoa trở về nước năm 1945, hai đảng quốc gia này đã tin tưởng có thể giành được chính quyền và cương quyết không chịu hợp tác với Việt Minh. Tuy nhiên, do những nhược điểm về tổ chức và lãnh đạo và cũng do áp lực của tướng lãnh Trung Hoa, cả hai đảng này rốt cuộc vẫn phải chấp nhận tham gia vào chính phủ liên hiệp và quốc hội của Việt Minh. Trong cuộc tranh chấp quyền hành với Việt Minh, các đảng phái quốc gia hiểu biết khá rõ về khả năng và kế hoạch nguy hiểm của đối thủ nhưng không có điều kiện và phương tiện để đối phó.

Trước hết, không ai thấy rõ lực lượng quân sự của VNQDĐ và VNCMĐMH như thế nào. Lực lượng này chắc không quá mấy trăm đảng viên đã được huấn luyện quân sự ở Trung Hoa cùng với một số chí nguyện quân mới tuyển mộ trước và sau ngày trở về nước. Kinh nghiệm tổ chức và chiến đấu chưa có, kinh nghiệm hành chánh cũng không, tài chánh và vũ khí cũng chẳng có được bao nhiêu. Một số cơ sở địa phương chiếm giữ được trên đường từ biên giới Việt Hoa về Hà Nội và một số chiến khu lập được sau này đều còn lỏng lẻo sơ sài, không đủ sức chống chọi với lực lượng Việt Minh. Thiệt thòi nhất là vũ khí đáng lẽ được các tướng lãnh Trung Hoa cung cấp như đã sắp đặt trước thì lại bị họ đem bán cho Việt Minh.

Ngòai ra, VNQDĐ và VMCMĐMH là những đoàn thể cách mạng lưu vong ở Trung Hoa lâu đời và không có cơ sở họat động ở trong nước, do đó không có hậu thuẫn nhân dân. Riêng việc đi theo quân Tầu về để giành lấy chính quyền đã là một bất lợi chính trị rất lớn cho hai đảng này. Hồ Chí Minh trước đó cũng đã nhờ Trương Phát Khuê và Tiêu Văn giúp cho về nước với danh nghĩa VNCMĐMH mà Việt Minh là một thành viên, nhưng ông đã tẩy xóa được hình tích đó. Tổ chức chính trị đáng kể họat động ở trong nước lúc bấy giờ là Đảng Đại Việt lại chia thành hai ba nhóm và không có thực lực để tiếp tay cho hai đảng quốc gia từ hải ngoại. Tất cả những đảng phái này, mặc dù hợp tác với nhau để cùng đối phó với đảng cộng sản, vẫn có những tị hiềm giữa cá nhân các lãnh tụ, vì vậy không có được một bộ máy chỉ đạo nhất trí và có kỷ luật như Mặt Trận Việt Minh. Chính vì sự chia rẽ giữa các lãnh tụ quốc gia mà VNCMĐMH đã gần như tan rã từ khi còn ở Liễu Châu, Trung Quốc, để cho Hồ Chí Minh được Trương Phát Khuê giao cho tổ chức lại VNCMĐMH và có cơ hội củng cố lực lượng Việt Minh ở trong nước.

Lòng yêu nước của các lãnh tụ quốc gia thực sự rất cao, thể hiện tinh thần độc lập truyền thống của dân tộc. Dưới thời Pháp thuộc, trước và sau khi cộng sản ra đời, đã có biết bao nhiêu nhà cách mạng yêu nước bị tù đày, hành hạ và xử tử. Nhiều nhà trí thức đáng lẽ dùng mảnh bằng của mình để hưởng vinh hoa phú quý thì lại chọn con đường gian khổ tranh đấu cho quyền làm dân của một nước độc lập và tự do. Tuy nhiên, chính các đặc tính tự do và đa nguyên (nhưng lại thiếu dân chủ) của những tổ chức cách mạng không cộng sản đã khiến các lãnh tụ không thể kết hợp thành một lực lượng có đủ khả năng đối phó với đảng cộng sản về cơ sở lý thuyết và phương pháp hành động. Các lãnh tụ của hai đảng nòng cốt hồi đó là VNQDĐ và VNCMĐMH đều ở Trung Hoa đã quá lâu, khả năng và tầm nhìn chính trị rất giới hạn và lệ thuộc vào Trung Quốc, nên khi cơ hội đến tay thì chỉ biết trông cậy vào sự giúp đỡ của đám tướng lãnh tham nhũng Tiêu Văn và Lư Hán. Một thí dụ điển hình là Nguyễn Hải Thần, người được Quốc Dân Đảng Trung Hoa giúp cho về nước để lãnh đạo một nước Việt Nam không cộng sản. Mọi người Việt Nam yêu nước năm 1945 đều thất vọng đối với nhà cách mạng lão thành này qua hình ảnh của một ông già không nói rành tiếng Việt và bị đồn là hút thuốc phiện. Không còn mấy ai biết đến một Nguyễn Hải Thần anh dũng đã từng ám sát hụt Tòan Quyền Albert Sarraut bằng lựu đạn năm 1912.

Trong khi đó, Hồ Chí Minh đã bôn ba nhiều nước trên thế giới, được huấn luyện ở Nga, tranh đấu lâu năm với các đảng Xã Hội và Cộng Sản Pháp, rồi lại đại diện cho Ban Phương Đông của Nga để tổ chức và phối hợp các họat động cộng sản ở Đông Nam Á và Trung Hoa, thường xuyên điều động các hoạt động ở Việt Nam và đã trở về nước lập cơ sở cho Mặt Trận Việt Minh từ năm 1941. Trong thời gian một năm ở Liễu Châu, từ sau khi được Trương Phát Khuê thả tự do cho đến ngày trở về Việt Nam nhân danh VNCMĐMH (tháng Chín năm 1944), Hồ Chí Minh lại thường lui tới Phòng Thông Tin Chiến Lược (OWI) của Hoa Kỳ để tham khảo sách báo và bắt liên lại với cơ quan tình báo OSS. Nhờ thành tích và kinh nghiệm quốc tế cùng với việc lấy được lòng tin của Trương Phát Khuê và móc nối được với OSS, Hồ Chí Minh đã có một lợi thế vượt xa các nhà cách mạng đương thời. Lực lượng quân sự của Việt Minh tuy chưa mạnh, nhưng có tổ chức, có kỷ luật, được hỗ trợ bởi các đòan thể quần chúng và nhất là được lãnh đạo bởi những đảng viên sẵn sàng sống chết với chủ nghĩa cộng sản.

Sự so sánh trên đây cho thấy các lực lượng quốc gia có quá nhiều nhược điểm nên đã không thể giành được chính nghĩa và vai trò lãnh đạo nhân dân. Ưu điểm lớn nhất của Việt Minh là khả năng tuyên truyền và vận động quần chúng. Việt Minh đã khéo che đậy được lai lịch cộng sản dưới hình thức một mặt trận đoàn kết toàn dân với mục tiêu duy nhất là chống Pháp để đem lại độc lập, tự do và hạnh phúc cho dân tộc. Nhờ có thành tích chống cả Pháp lẫn Nhật, nhất là biết khai thác tối đa các quan hệ hợp tác với OSS, chủ thuyết Roosevelt và triển vọng hỗ trợ của Hoa Kỳ, Việt Minh đã dễ dàng đem lại cho mọi người niềm tin tưởng là có sự ủng hộ của Hoa Kỳ. Đó cũng là một trong những lý do khiến chính phủ Trần Trọng Kim không dám chống lại Việt Minh và vua Bảo Đại sẵn sàng thoái vị. Hồ Chí Minh đã tự chứng tỏ là một lãnh tụ có tài tổ chức, một chính trị gia đầy mưu lược và một nhà ngoại giao uyển chuyển biết lợi dụng thời cơ nên đã tạo được cho mình hình ảnh của một nhà cách mạng suốt đời hy sinh cho đất nước. Vì thế, đa số dân chúng và nhiều trí thức yêu nước đã ủng hộ Mặt Trận Việt Minh. Ngay cả trong đảng phái hàng ngũ quốc gia cũng có một số người bị Việt Minh thuyết phục. Ưu điểm này đã giúp cho các nhà lãnh đạo cộng sản nắm được chính nghĩa và động viên được đại khối nhân dân trong suốt cuộc chiến tranh chống Pháp cho đến hoàn toàn thắng lợi.” Lê Xuân Khoa, Việt Nam 1945-1995 - Tập I (Bethesda, MD, Tiên Rồng, 2004)., tr. 71-74.

Cái gương thảm họa làm chính trị theo kế sách "há miệng chờ sung rụng" như Lê Chiêu Thống trông cậy vào nhà Thanh hồi năm 1788-1789 và của Đảng Ca-tô Việt Nam Quang Phục của các ông Cat-tô Cường Để và Ngô Đình Diệm trong những năm trong thời Đệ Nhị Thế Chiến (1939-1945) trông cậy vào người Nhật còn ghi lại rõ ràng trong lịch sử cận đại và còn rõ mồn một trong trí người dân mà hai đảng Việt Quốc và Việt Cách vẫn không học được. TẠI SAO là như vậy?

Lời giải thích thích hợp nhất cho thắc mắc này là các thành phần lãnh đạo và đảng viên của hai đảng này đều:

1.- Nặng lòng vị kỷ, háo danh và thèm khát quyền lực, chỉ biết tranh đấu cho quyền lực và địa vị của cá nhân và phe đảng của họ. Lê Chiêu Thống chỉ có mục đích duy nhất là tranh đấu cho ngôi vua của ông ta. Cường Để và Ngô Đình Diệm thì tranh đấu để giành lại ngai vàng từ trong tay dòng vua Minh Mạng mà vào thời điểm lức đó đang nằm trong tay Bảo Đại và cũng là tranh đấu cho quyền lực của Giáo Hội La Mã.

2.- Dốt lịch sử thế giới và dốt luôn cả lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện Đại, cho nên họ đã không rút được những kinh nghiệm máu từ những bài học lịch sử làm chính trị theo kế sách "há miệng chờ sung rụng" của Lê Chiêu Thống và của mấy thằng Ca-tô vong bản phản dân tộc Cường Để và Ngô Đình Diệm trong hồi thánh 3/1945.

Cũng may là Lê Chiêu Thống, Việt Nam Quang Phục của Cường Để và Ngô Đình Diệm,Việt Quốc, Việt Cách và Đậi Việt đều thất bại. Nếu họ thành công, thì chắc chắn là dân tộc và tổ quốc Việt Nam lại rơi vào cái cảnh "tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa" và lịch sử sẽ kết án bọn người này vì quyền lợi riêng mà đã làm cái chuyện "đuổi cọp cửa trước rước beo vào của sau". Cái gương của thằng bạo chúa phản thần tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm thành công trong việc rước hai con voi Vatican và Hoa Kỳ về thay thế cho Liên Minh Pháp - Vatican để tiếp tục giày mả tổ Việt Nam trong những năm 1954-1975 là bằng chứng rõ ràng nhất cho sự kiện này. Chính vì thế mà sách sử mới khẳng định rằng thằng tam đại Việt gian họ Ngô này là một trong số 100 tên bạo chúa độc ác trong lịch sử nhân loại. Nigel Cawthorne, Tyrants History's 100 Most Evil Despots & Dictators (London" Arcturus, 2004),pp. 167-168.

III.- AI HAY THẾ LỰC NÀO ĐÃ HỌA KIỂU LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ?

Nói về tác giả hay thế lực nào đã hoạ kiểu hay chế ra lá cờ vàng ba sọc đỏ, có ba nguồn tin khác nhau:

1.- Theo tài liệu của Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia, lá cờ vàng ba sọc đỏ là do ông Lê Văn Đệ họa kiểu và đệ trình lên ông Bảo Đại ở Hồng Kông vào năm 1948. Dưới đây là bản văn của tài liệu này:

"Cờ vàng ba sọc đỏ được họa sĩ Lê Văn Đệ vẽ lại và đã được trình cho Bảo Đại trong một phiên họp ở Hồng Kông năm 1948. Nó có nền vàng với ba sọc đỏ và hai sọc vàng chen nhau nằm vắt ngang ở giữa, tượng trưng cho quẻ Càn trong Bát Quá, giống như cờ của An Nam trong thời gian từ 1890 đến 1920, có thông tin cho rằng ba sọc đỏ trên lá cờ còn tượng trưng cho dòng máu nhân dân ba miền của Việt Nam [cần dẫn chứng]. Bề ngang của mỗi sọc đỏ và vàng này bằng nhau và bề ngang chung của năm sọc bằng một phần ba bề ngang chung của lá cờ. Ngày 2 tháng 6, 1948, chính phủ lâm thời Nguyễn Văn Xuân chính thức dùng lá cờ vàng ba sọc đỏ làm quốc kỳ của Quốc Gia Việt Nam. Lá quốc kỳ vàng ba sọc đỏ sau này tiếp tục là quốc kỳ chính quyền Quốc Gia Việt Nam (1949-1955), và sau đó là quốc kỳ cho suốt thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa (1955-1975)."

2.- Trong bài viết Quốc Kỳ của Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa, ông John Phan ghi nhận là có nguồn tin cho rằng lá cờ vàng ba sọc đỏ "đã được toàn quyền Đông Dương và Khâm Sứ Huế LeMaitre cùng với một nhóm linh mục, đã cho vẽ ra, trong chiêu bài "Giải Pháp Bảo Đại", để làm lá cờ cho chính phủ "Quốc Gia Việt Nam". Sau đó chính phủ nầy đã được chuẩn thuận bởi Tổng Thống Pháp, Vincint Auriol." Phan@santa-ana.org.

3.- Theo sách Tâm Thư, của tác Đỗ Mậu, lá cờ này là do Linh-mục Trần Hữu Thanh họa kiểu. Dưới đây là bản văn nói về nguồn gốc của lá cờ này trích ra từ cuốn sách trên đây:

“Ai là tác giả lá cờ vàng ba sọc đỏ?

Đọc trong cuốn Việt Nam Nhân Chứng của Tướng Trần Văn Đôn, ở trang 74, ông có cho biết ông đã đề nghị thay lá cờ chữ Ly của chính phủ Trần Trọng Kim ra lá cờ vàng ba sọc đỏ.

Nhưng ai đã vẽ ra lá cờ đó?

Tình cờ tôi đọc được trong quyển: Giải Phóng: The Fall and Liberation of Saigon của Tiziano Terzani (St. Martin’s Press, New York, 1976), viết như sau:

With LeMaitre gone, relations improved between the new authorities and the Church, even the official one. Archbishop Nguyen Van Binh gave his support to Father Thi’s group and to the magazine Cong Giao va Dan Toc (“Catholics and People”), and participated along with 250 other prelates in a meeting organized at Doc Lap where members of the PRG explained their policy and reassured the Catholics.

Binh tried to bring Monseigneur Thuan along to the meeting, but the palace told him that his presence was not needed. When I left Saigon, Thuan was rumored to be negotiating his resignation in exchange for permission to leave Vietnam.

As a first concession to the new authorities the Church agreed to participate in a joint committee that quietly began studying the possibility of changing the wording of prayers.

“I don’t see what there is to change. Thousands of Vietnamese have gone to heaven with those prayers,” Father Tran Huu Thanh said acidly. Father Thanh had stayed in Saigon. He had not placed himself at the head of an armed band of Catholic resisters and he had not been imprisoned by the bo doi, as it was rumored after the liberation. Even he, one of the symbols of the most deepseated Catholic anti-Communism, was able to carry on with his life in the Redemptorist church on Ky Dong street. When I went to see him one Sunday in June he had just finished saying mass. The sacristy was full of people coming to confess or to ask advice, and in front of the gaudy Madonna there was the usual crowd of women praying and beggars holding out their hands.

Of all the parish priests who had fled from the North in 1954, he had been one of the most influential. An ideologue and adviser to Diem, it was who designed the “three banded” flag that flew over Saigon until the Liberation.

The three red stripes represent the three regions of Vietnam – Tonkin, Annam, and Cochin-China – but also the Trinity,” he once explained to me. (tr, 261).”

Tạm dịch: Với sự ra đi của Khâm-sứ LeMaitre, sự liên hệ giữa chính quyền mới và Nhà Thờ sẽ tốt hơn ngay cả với giới lãnh đạo. Được sự hậu thuẫn của nhóm Linh-mục Thi và tờ báo Công Giáo và Dân Tộc, Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình cùng với 250 tu sĩ cao cấp khác đến tham dự buổi họp với các thành viên của Ủy Ban Quân Quản Sàigon tại Dinh Độc Lập để họ giải thích chính sách của họ và để trấn an những người Thiên Chúa giáo.

Đức Cha Bình cố gắng đưa Đức Cha Thuận đi theo tới chỗ họp, nhưng Ủy Ban Quân Quản Sàigon bảo rằng sự hiện diện của Đức Cha Thuận là không cần thiết. Khi tôi rời Sàigon, có tin đồn rằng Đức Cha Thuận đã thương lượng xin từ chức để đổi lấy sự ra đi khỏi Việt Nam.

Sự nhượng bộ đầu tiên với chính quyền mới là Nhà Thờ đã đồng ý cộng tác với chính quyền để xem chỗ nào có thể thay đổi được trong những lời cầu nguyện.

Linh-mục Trần Hữu Thanh chua chát nói: “Tôi không thấy cần phải thay đổi điều gì. Hàng ngàn người Việt Nam đã lên thiên đường với những lời cầu nguyện đó.”

Linh-mục Thanh ở lại Sàigon. Ông ta không chịu làm lãnh tụ nhóm Da-tô vũ trang chống chính phủ, và ông cũng không bị bộ đội bắt bỏ tù như tin đồn sau Giải Phóng. Ngay cả ông ta, một trong những biểu tượng của Da-tô giáo chống Cộng mãnh liệt nhất, vẫn có thể tiếp tục cuộc sống trong Nhà Thờ Dòng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng.

Tôi đến gặp Linh-mục Thanh vào một ngày Chủ Nhật trong Tháng 6 (1975) khi ông vừa làm lễ xong. Nhà thờ đầy người tới xưng tội hay xin ý kiến, và ở trước tượng Đức Mẹ là đám đông đàn bà thường hay đến đó cầu nguyện và có những người ăn mày chìa tay ra xin.

Trong số các linh mục di cư từ Bắc vào Nam năm 1954, Linh-mục Thanh là một trong số những linh mục có nhiều ảnh hưởng nhất. Vừa là một người có ý thức hệ cực đoan vừa là cố vấn cho ông Diệm, chính ông là người vẽ ra lá cờ “ba sọc” bay phất phới tại Sàigon cho đến ngày Giải Phóng. Ba sọc đó tượng trưng cho ba miền của Việt Nam: Bắc, Trung, Nam – nhưng cũng là “Ba Ngôi” (Trinity, tam vị nhất thể, chúa cha, chúa con và Thánh thần), ông đã có lần giải nghĩa cho tôi nghe như vậy.”[iv]

Dưới đây là lời nhận xét của cụ Đỗ Mậu:

“Một linh mục đã nói ra tôi tin ông không nói dối và trong giai đoạn đó nói dối được cái gì. Linh-mục Thanh còn sống. Tác giả Terzani còn sống, chúng ta có thể kiểm chứng được. Như vậy, người vẽ ra lá cờ vàng ba sọc đỏ là Linh-mục dòng Tên Trần Hữu Thanh, người chấp nhận là Quốc Trưởng Bảo Đại, ông ta là con nuôi của Khâm-sứ Jean Charles. Bảo Đại sang Pháp đi học đã ở nhà bố nuôi từ năm 1922 đến năm 1932 (Bảo Đại còn sống có thể kiểm chứng). Người ký “Pháp Qui Tạm Thời” cho thi hành treo Quốc Kỳ vàng ba sọc đỏ và bài Quốc Ca của Lưu Hữu Phước vào ngày 1/6/1948 tức là ngày 24/4 năm Mậu Tý là Thủ Tướng dân Tây Nguyễn Văn Xuân có vợ đầm, có Đổng Lý Văn Phòng Phủ Thủ Tướng là ông Tây André Bauvais - Người đề nghị lấy lá cờ vàng ba sọc đỏ thay cho cờ quẻ Ly là André Trần Văn Đôn, từng xách cặp, tức “Aide de camp” của ông Xuân.

(Lại có tin ông Nguyễn Văn Tâm, Hùm Xám Cai Lậy, cũng tự nhận là tác giả lá cờ vàng ba sọc đỏ. Lịch sự hình thành lá cờ vàng ba sọc đỏ là như thế.).” [v]

Như vậy là có ba nguồn tin khác nhau về tác giả chế ra lá cờ vàng ba sọc đỏ. Tuy là ba những thực sự chỉ là hai vì rằng nguồn tin số 2 và nguồn tin số 3 trên đây đều ghi nhận tác giả vẽ ra lá cờ vàng ba sọc đỏ là một người hay một nhóm tu sĩ Ca-tô, có nghĩa là họ cùng có một nguồn gốc là Giáo Hội La Mã hay Tòa Thánh Vatican.

Thiết nghĩ rằng tác giả chế ra lá cờ vàng ba sọc đỏ là không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng là lá cờ này được dùng làm biểu tượng cho thế lực nào, và thế lực đó thực sự đã làm được gì cho đất nước và dân tộc?

Lịch sử và thực tế cho thấy rằng:

1.- Thế lực khai sinh ra chính quyền Quốc Gia do ông Bảo Đại làm Quốc Trưởng cũng là thế lực khai sinh ra lá cờ vàng ba sọc đỏ. Thế lực đó là Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp - Vatican. Người họa kiểu lá cờ vàng ba sọc đỏ cũng chỉ là người làm theo lệnh của quan thày là Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican. Vậy thì tác giả của lá cờ này là ông Lê Văn Đệ, hay Linh Mục Trần Hữu Thanh hoặc là một nhóm linh mục thì cũng là làm theo lệnh và làm theo ý muốn của quan thày là Pháp và Vatican mà thôi..

2.- Có chính quyền tất nhiên là phải có cờ hiệu. Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp - Vatican đã nặn ra được chính quyền Quốc Gia để làm tay sai cho họ, thì tất nhiên họ cũng phải tìm cách nặn ra lá cờ hiệu cho cái chính quyền bù nhìn này. Vatican là thế lực tiên khởi đưa ra Giải Pháp Bảo Đại vào ngày 28/12/1945, nghĩa là thiết lập chính quyền Quốc Gia để chống lại chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do Cụ Hồ Chí Minh lãnh đạo và đã long trọng công bố bản Tuyên Ngôn Độc Lập tại một cuộc mít tinh có cả hơn 500 ngàn người tham dự tại Quảng Trường Ba Đình, Hà Nội vào ngày 2/9/1945, tất nhiên Vatican cũng là thế lực đưa ra kiểu mẫu của lá cờ cho bọn tay sai thi hành. Người thi hành có thế là ông Lê Văn Đệ, cũng có thể là Linh Mục Tần Hữu Thanh. Chuyện này cũng giống như một kiến trúc sư phác họa kiểu mẫu một ngôi nhà cho một thân chủ rồi giao cho một chuyên viên dưới quyền thi hành và hoàn tất.

3.- Về ý nghĩa của lá cờ, nếu Vatican là thế lực chủ động đưa ra Giải Pháp Bảo Đại và cũng là thế lực chủ động họa kiểu là cờ vàng ba sọc đỏ thì cái ý nghĩa của lá cờ này phải đúng với tôn chỉ hoằng dương cái thủ thuyết Chúa Ba Ngôi của Giáo Hội La Mã mà Linh-mục Trần Hữu Thanh đã giải thích như trên.i

4.- Về mục đích, việc thiết lập chính quyền Quốc Gia Việt Nam và chế ra là cờ vàng ba sọc đỏ có mục đích là dùng mấy thứ này làm bức bình phong che đậy cho mưu đồ bất chính trong chính sách dùng người Việt đánh người Việt và dùng tín đồ Da-tô để cai trị đại khối dân tộc thuộc tam giáo cổ truyền. Đây là một đối sách của Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican để đánh phá và chống lại cuộc kháng chiến của nhân dân ta dưới quyền lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam và Mặt Trận Việt Minh. Do đó, chúng ta thấy rằng trước và sau khi khai sinh ra chính quyền Quốc Gia và lá cờ vàng ba sọc đỏ, bộ máy tuyên truyền của Vatican đã liên tục khua chiêng gióng trống tô vẽ cho ông vua gỗ Bảo Đại và bọn Việt gian phản quốc bán nước cho Pháp và Vatican bằng những luận điệu bịp bợm với những cụm từ “chính quyền quốc gia”, “chính nghĩa quốc gia”, “người Việt quốc gia” chiến đấu dưới “lá cờ vàng ba sọc đỏ”,

5.- Tháng 5/1954, tập đoàn cứ điểm của Liên Quân Pháp - Vatican tại Điên Biên Phủ bị thảm bại. Biến cố này khiến cho Pháp phải thương thuyết nghiêm chỉnh với phái đoàn Việt Nam Kháng Chiến tại Hội Nghị Genève 1954 đi đến việc công nhận chủ quyền độc lập của dân tộc Việt Nam và rút quân về Pháp. Sự kiện này làm cho Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican chính thức tan vỡ kể từ đó. Cũng từ đây, Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican thành hình, thay thế Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican làm chủ nhân ông ở miền Nam Việt Nam. Hậu quả là lá cờ vàng ba sọc đỏ được ông chủ mới là người Mỹ dùng làm biểu tượng cho chính quyền Việt Nam mới do ông Ca-tô Việt gian Ngô Đình Diệm làm thủ tướng để làm tay sai cho họ. Kể từ đó, giống như số phận của các chính quyền miền Nam Việt Nam, sự tồn tại của lá cờ này hoàn toàn tùy thuộc vào hiện diện của Tòa Đai Sữ Mỹ ở Sàigòn. Cái ngày mà Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sàigòn phải cuốn gói ra đi thì cũng là ngày cả chính quyền Miền Nam Việt Nam và lá cờ vàng ba sọc đỏ cũng bị khai tử. Ngày đó là ngày 30/4/1975.

Vì lá cờ vàng ba sọc đỏ được cho ra đời cùng với chính quyền bù nhìn Bảo Đại vào ngày 5/6/1948 (có tài liệu ghi là ngày 2/6/1948), cho nên, trong thời Kháng Chiến 1945-1954, người dân Việt Nam thường gọi lá cờ này là cờ Bảo Đại.

Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõlá cờ vàng ba sọc do chính Giáo Hội La Mã chủ động họa kiểu đưa ra với mục đích làm biểu tượng cho quyền lực của Vatican ở Việt Nam và được ngụy tạo làm biểu tượng cho chính nghĩa quốc gia của “những người Việt quốc gia”. Việc cho thành lập chính quyền Quốc Gia và việc chế ra là cờ vàng ba sọc đỏ có mục đích là để vừa làm bức bình phong che đậy cái bản chất Việt gian làm tay sai cho Pháp và cho Vatican của cái chính quyền do ông Bảo Đại làm quốc trưởng, vừa giúp cho những tên Việt gian trong hàng ngũ quan lại trong thời “trăm năm nô lệ giặc Tây” bấu víu lấy nó để trút được cái gánh nặng mặc cảm tội ác làm Việt gian của họ. Đồng thời, trong việc chế ra cờ này, Giáo Hội La Mã cũng có thâm ý là để vừa lạc dẫn (đánh lừa) những thị dân tiểu tư sản hay các thành phần phú hào sống trong vùng “tạm chiếm” nhằm lôi cuốn họ theo phe Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican mà họ lầm tưởng rằng họ sẽ không bị mang tiếng là Việt gian phản quốc, nhất là đối với những thị dân ngây thơ và ít học, không bao giờ được học lịch sử thế giới và cũng chẳng bao giờ được học những bài học lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại một cách trung thực. Do đó, họ không biết gì về vai trò của Giáo Hội La Mã trong chủ trương tấn chiếm thống trị Việt Nam từ hồi thế kỷ 19 cũng như trong mưu đồ tái chiếm Việt Nam vào giữa năm 1945.

Đối với đại khối nhân dân Việt Nam, nhất là những người đã hy sinh mồ hôi, nước mắt và xương máu trong hai cuộc chiến đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican (1945-1954) và Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican (1954-1975) để hoàn thành nhiệm vụ lịch sử giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc và đòi lại miền Nam đem lại thống nhân cho đất nước, thì lá cờ vàng ba sọc đỏ là một biểu tượng cho sự ô nhục của bọn người vong bản "thà mất nước, chứ không thà mất Chúa" cấu kết với bọn phong kiến phản động và bọn lưu manh xu thời đón gió đã cam tâm bán nước cho các thế lực ngoại xâm. Lá cờ này cũng là biểu tượng cho những hành động dã man của bọn người phản phúc đành lòng gục mặt phản lại dân tộc, tiếp tay cho quân cướp xâm lăng trong những chiến dịch tấn công, càn quét, truy lùng bắt bớ dân ta. Bàn tay máu của chúng đã gây nên không biết là bao nhiêu ngàn hay bao nhiêu triệu người bị tra tấn, bị giết hại và bị tàn sát. Chưa kể những con số lớn lao về những miếu đình, đền đài, chùa chiền và rất nhiều công trình kiến trúc bị phá hủy, chưa kể những con số tài sản khổng lồ bị cướp đoạt và bị hủy hoại, chưa kể con số những đàn bà con gái bị hãm hiếp, chưa kể những con số khổng lồ nạn nhân bị sát hại trong thời Kháng Chiến 1945-1954 bởi bàn tay máu của quân lính Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican và các đạo quân thập ác Việt Nam tại các xóm đạo, làng đạo, các giáo khu Phát Diệm và Bùi Chu (Xin xem chương sách nói về Những Hành Dộng Dã Man Của Quân Lính Liên Hiệp Pháp và Lính Đạo Việt Nam trong Mục XV, Phần IV của bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã), chỉ nói riêng những con số tài sản nguyên đất nước bị hủy hoại và con số nạn nhân bị tàn sát ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 bởi bàn tay máu của Quân Đội Liên Minh Mỹ - Vatican và Quân Đội miền Nam Việt Nam (còn gọi là Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa) cũng cho chúng ta thấy rõ tình cảnh đau thương của dân ta gây ra bởi liên minh xâm lươc cấu kết với chính quyền miền Nam Việt Nam và đạo quân đánh thuê của nó với những hành động cực kỳ dã man trong việc sử dụng:

a.- Số lượng "77 triệu lít chất độc da cam rải xuống miền Nam và Trung Việt Nam, gây ảnh hưởng và tác hại đến môi truờng của 2,630,000 mẫu Tây và gần 5 triệu người sống trong 35,585 thôn ấp.” (Nguyễn Văn Tuấn, Chất Độc Màu Da Cam và Cuộc Chiến Việt Nam (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2005), tr. 171.), và

b.- Số lượng "thuốc nổ thuộc loại tối tân được nhồi trong bom và đạn đại pháo do quân đội miền Nam và quân đôi Mỹ sử dụng trong những năm từ 1965 cho đến năm 1973 ở Việt Nam lên đến hơn 14 triệu tấn, và riêng vế số lượng bom do Không Quân sử dụng đã lên đến khoảng 7 triệu tấn, hơn ba lần toàn bộ số bom cả hai phe Trục và Đồng Minh sử dụng trong Thế Chiến Thứ Hai." Nguyên văn: "Between 1965 and 1973, the United States used more than 14 million tons of air – and artillery high explosives on the area. The bombing done accounted about 7 million tons or more than three times the tonnage used during World War II. Most of the bombs and artillery shells, and virtually all the defoliant (nearly 12 million tons), fell on the southern half of the country. The purpose to destroy the National Liberation Front revolutionaries’ infrastructure and to deprive them of popular support in the South by driving the population into areas controlled by the South Vietnamese government." Stanley I. Kutler (Ed.) Encyclopedia of the Vietnam War (New York: Simon & Schuster McMillan, 1996), pp. 591-592.

c.- Số lượng thuốc nổ tối tân nhất được biến chế theo những kỹ thuật hiện đại nhất để có thế hủy diệt được nhiều nhất và tàn sát được nhiều người nhất một cách hữu hiệu nhất bằng những phương tiện siêu việt nhất như B 52 và những loại vũ khí khủng khiếp nhất như "cluster bombs", "anti-personnel ammunition", "defoliants",và tấn công bằng những chiến lược tàn bạo nhất như "free fire zones", "carpet bombing"...

Với những hành động dã man như trên, ta có thể nói đây là những việc làm ô nhục của Liên Minh Mỹ - Vatican và bọn Ca-tô Việt Nam phản quốc đã nhẫn tâm làm như vậy. Những sự kiện này cho chúng ta thấy rõ ràng là lá cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng cho những việc làm ô nhục của nhóm thiểu số Việt gian bán nước cho quân cướp ngoại xâm mà đại đã số là tín đồ Ca-tô thuộc loại "thà mất nước, chứ không thà mất Chúa". Vì tính cách ô nhục của lá cờ này, cho nên suốt thời gian từ ngày nó được cho ra đời vào ngày 5/6/1948 cho đến khi nó bị khai tử cùng chung số phận với cái chính quyền Quốc Gia quái đản mà nó được dùng làm biểu tượng, không có một nhạc sĩ tìm thấy ở nơi lá cờ này một nguồn cảm hứng để sáng tác ra một bài quốc ca dù rằng trong thời gian từ ngày 5/6/1948 cho đến ngày 30/4/1975, có hàng trăm nhạc sĩ tài ba sống ở trong vùng do Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican kiểm soát và ở miền Nam vĩ tuyến 17. Vô kế khả thi, thế lực ĐEN ở hậu trường sân khấu chính quyền Quốc Gia quái đản này mới cuỗm bài hát Tiếng Gọi Thanh Niên do nhạc sĩ Lưu Hữu Phước đã sáng tác trước đó hơn 6 năm trời để làm quốc ca. Đây là một trong những đặc tính nghịch thường trong tiến trình hình thành quốc kỳ và quốc ca của cái gọi là "chính quyền Quốc Gia Việt Nam".

Vì được sử dụng làm biểu tượng cho các chính quyền Việt gian bán nước cho Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican và Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican với những tội ác chống lại tổ quốc và chống lại dân tộc như đã nói ở trên, cho nên, ngày nay, mỗi khi nhìn thấy lá cờ vàng ba sọc, người dân Việt lại nhớ đến những rặng núi tội ác của những quân vong bản phản dân tộc đã tiếp tay cho các đế quốc xâm lược Vatican, Pháp và Mỹ trong những hành động gây nên không biết bao nhiêu thảm họa đau thương cho dân tộc và đất nước thân yêu của chúng ta. Viết đến đây, người viết lại nhớ đến một bài hát do nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác trong đó có hai câu:

Trách ái bán nước cầu vinh,

Bán quê hương lại quên tình nước non.

D.- CÓ BAO NHIÊU LÁ CỜ BẢO ĐẠI?

Ông Bảo Đại sinh tại Huế vào ngày 22/10/1913, tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, con trai độc nhất của ông vua Việt gian Khải Định và Bà Hoàng Thị Cúc (sau gọi là Đoan Huy và cũng gọi là bà Từ Cung). Ngày 24/4/1922, chú bé Vĩnh Thụy được vợ chồng cựu Khâm Sứ Pháp tại Huế tên là Jean Francois Eugène Charles nhận làm con nuôi. Bốn ngày sau, ngày 28/4/1922, bé Vĩnh Thụy được đưa lên làm Đông Cung Thái Tử và ngày 15/5/1922 đươc đưa sang Pháp sống với gia đình cha mẹ nuôi (lúc đó, mới có 8 tuổi) và được gửi theo học trường Lycée Condorcet và École Libre Des Siciences Politiques tại Paris. Ngày 16/11/1925 Khải Định chết, ngày 31/12/1925, bé Vĩnh Thụy được đưa về tới Huế và chính thức lên ngôi lấy đế hiệu là Bảo Đại và lấy tên thánh là Nguyễn Phức Điện. Sau đó, ông vua nhi đồng này trở lại Pháp để tiếp tục việc học, giao cái triều đình bù nhìn cho Khâm Sứ Pháp và Hội Đồng Thượng Thư dưới quyền điều khiển của tên Ca-tô Việt gian Nguyễn Hữu Bài.

Ngày 6/9/1932, Bảo Đại từ Pháp trở về Huế, chính thức trực tiếp đảm nhiệm ngôi vua bù nhìn làm tay sai cho Liên Minh Pháp - Vatican và dùng lá cờ Long Tinh (nền vàng và một sọc đỏ nằm ngang) mà ông vua bố Việt gian Khải Định đã dùng làm cờ hiệu.

Chiều tối ngày 9/3/1945, Liên Minh Pháp - Vatican bị Nhật lật đổ. Lúc đó Bảo Đại đang đi săn ở Quảng Trị và được Nhật đưa về Huế. Kể từ ngày này, Đại Sứ Nhật Yokohama lên nắm chức vụ Toàn Quyền Đông Dương thay thế Toàn Quyền Pháp Jean Decoux.

Ngày 11/3/1945, Đại Sứ Nhật Yokohama đến gặp Bảo Đại và báo cho biết Việt Nam đã được độc lập. Bảo Đại như từ trên trời rớt xuống về lòng tử tế của người Nhật! Phải chăng trời đã ban cho ông phép lạ "bất chiến tự nhiên thành"? Nhưng, người Nhật cũng yêu cầu (hay ra lệnh) rằng nhiệm vụ của ông là phải thành lập chính phủ Việt Nam (nội các) để quản lý nhân dân. Vị đại sứ Nhật không nói ra cái chính phủ Việt Nam này phải như thế nào, nhưng khi Bảo Đại yêu cầu họ giúp đỡ để đưa ông Ca-tô Ngô Đình Diệm lên làm thủ tướng vì cho rằng ông Diệm thân Nhật, thì họ lại lờ đi, không cho Ngô Đình Diệm hay biết tin này, mặc dù ông Diệm là người đứng đầu tổ chức thân Nhật ở Việt Nam của ông Ca-tô Cường Để lúc đó đang lưu vong ở Nhật. Lý do: Từ thế kỷ 17, họ đã có kinh nghiệm máu với Giáo Hội La Mã, một thế lực ở đằng sau các ông Ca-tô Cường Để và ông Ca-tô Ngô Đình Diệm. Họ đưa cụ Trần Trọng Kim từ Tân Gia Ba về và yêu cầu Bảo Đại ủy thác cho cụ Trần thành lập nội các. Cùng ngày hôm đó, Bảo Đại cho công bố đạo dụ "Tuyên Cáo Việt Nam Độc Lập" và tuyên bố hủy bỏ các Hòa Ước Quý Mùi 1883 và Hòa Ước Giáp Thân 1884.

Ngày 17/4/1945, Cụ Trần Trọng Kiim thành lập xong nội các và bắt tay làm việc dưới quyền ông vua bù nhìn Bảo Đại để phục vụ cho quyền lợi của người Nhật và lấy lá cờ Quẻ Ly làm cờ hiệu cho tân chế độ. Đây cũng là thời điểm dân ta rơi vào thảm họa chết đói tới hai triệu người do chính sách bót lột cực kỳ dã man của Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican gây ra.

Nói về các lá cờ của chính quyền Pháp và triêu đình Huế trong những năm 1932-1945 và trong thời gian 10/3/1945-30/8/1945, sách Việt Sử Khảo Luận - Cuốn 4 viết:

"Thời Pháp thuộc (1900-1932) triều đình Huế được Pháp bảo dùng cờ màu vàng, góc bên trên phía trái có chiếc cờ nhỏ tam tài Pháp, dân chúng gọi là "cờ Bảo Hộ". Thời Bảo Đại thuộc Pháp (1932-1945), có "cờ Bảo Đại" nền vàng một sọc đỏ, lấy mẫu ở cái giải huy chương Long Bội Tinh.

Nay độc lập, nội các Kim chọn lá "cờ chữ Ly": màu vàng là màu "từ xưa nước ta vẫn dùng" (như bà Triệu "đầu voi phất ngọn cờ vàng"; quẻ ly (hai sọc đỏ liền là dương, ở giữa có một vạch đỏ đứt là âm" "chỉ phương Nam, lại có nghĩa là lửa, là văn minh, là ánh sáng phóng ra bốn phương".

Cụ Kim viết thêm năm 1949 rằng chữ LY này là một trong 8 quẻ "bát quái" của Kinh Dịch, chứ không phải chũ LY nghĩa là "lìa" mà có người cho là điềm xấu nên thất bại.". Hoàng Cơ Thụy, Sđd., tr. 1961

Ngày 15/8/1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh. Vai trò chủ nhân ông của người Nhật ở Đông Dương thực sự chấm dứt, và cũng là ngày cái thân phận bù nhìn làm tay sai cho Nhật của ông Bảo Đại cũng chấm dứt.

Ngày 19/8/1945, Mặt Trận Việt Minh lên nắm chính quyền tại Hà Nội. Ngày 23/8/1945, Chính Phủ Lâm Thời (của Mặt Trận Việt Minh tại Hà Nội) đánh điện yêu cầu Bảo Đại thoái vị. Ngày 24/8, Bảo Đại quyết định đồng ý thoái vị và gửi ông Phạm Khắc Hòe (chức vụ Ngự Tiền Văn Phòng Hoàng Đế) đến gặp đại diện Ủy Ban Hành Chính của Mặt Trận Việt Minh tại Huế là ông Tố Hữu để bàn luận việc làm thủ tục và tổ chức lễ thoái vị.

Ngày 30//8/1945, lễ thoái vị được cử hành tại Phú Văn Lâu. Bản tuyên chiếu thoái vị đề ngày 25/8/1945 được công bố. Lá cờ Que Ly cũng bi hạ xuống và bị khai tử.

Độc giả có thể tìm thấy nội dung của bàn tuyên chiếu thoái vị này ở nơi trang 2001 trong sách Việt Sử Khảo Luận - Cuốn 4 (Paris: Nam Á, 2002, trang 2001) của tác giả Hoàng Cơ Thụy, hoặc là nơi các trang 47-49 trong sách Việt Nam Máu Lửa (Los Alamitos, CA: Xuân Thu, 1989) của tác giả Nghiêm Kế Tổ.

Ngày 11/9/1945, Cụ Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 23 bổ nhậm ông (với cái tên là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, chứ không phảii là Bảo Đại) làm cố vấn chính phủ. (Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí (Houston, TX: Văn Hóa, 1997), tr. 39.

Ngày 16/3/1946, ông được chính phủ Việt Nam cử đi cùng với phái đoàn Việt Nam đến Trùng Khánh thăm viếng xã giao chính phủ Tưởng Giới Thạch. Nhân chuyến đi, ông ở lại sống lưu vong ở Trung Hoa. Ít lâu sau, ông di chuyển đến cư ngụ ở Hồng Kông.

Trước khi hết nhiiệm kỳ về nước, ngày 14/1/1947, Cao Ủy Đông Dương Thierry D' Argenieu (một cựu linh mục) chính thức đề nghị chính quyền Paris đưa Bảo Đại về nước thành lập một chính quyền Việt Nam để chống lại chính quyền Kháng Chiến Việt Minh. Đề nghị này là sáng kiến của Tòa Thánh Vatican và đã được vị Khâm Sứ đại diện của Tòa Thánh tại Hà Nội là Tổng Giám Mục Antoni Drapier tuyên bố công khai vào ngày 28/12/1945 như đã nói ở trên. Sách sử gọi đề nghị này là Giải Pháp Bảo Đại (The Bao Dai Solution).

Như vậy là ông Bảo Đại có ba thời kỳ làm vua bù nhìn cho các đế quốc xâm lược:

1.- Thời kỳ thứ nhất (31/12/1935-9/3/1945) làm vua bù nhìn cho Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican với là cờ hiệu là cờ Long Tinh có nền vàng và một sọc đỏ lớn vắt ngang. Đây là thời kỳ nối tiếp ông vua bố Việt gian Khải Định làm tay sai cho Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican của thời "Trăm năm nô lệ giặc Tây".

2.- Thời kỳ thứ hai (11/3/1945 - 15/8/1945) làm vua bù nhìn cho Đế Quốc Xâm Lược Nhật với là cờ hiệu là cờ Quẻ Ly. Cờ này có nền vàng và ở chính giữa có một Quẻ Ly màu đỏ (gồm một vạch liền, một vạch đứt và một vạch liền). Đây là thời kỳ bán nước cho giặc Nhật. Thời gian này tương đối ngắn ngủi, chỉ có 5 tháng 4 ngày.

3.- Thời kỳ thứ ba (5/6/1948 - 23/10/1955) làm vua bù cho Liên Minh Xâm Lược Phap - Vatican và Liên Minh Xâm Lược Mỹ- Vatican với lá cờ hiệu là cờ vàng ba sọc đỏ. Đây là thời kỳ làm việt gian bán nước cho Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican trở lại tái chiếm Đông Dương.

Nếu con tắc kẻ phải thay đổi mầu sắc vào những khi thời tiết thay đổi để thích nghi với cảnh sắc chung quanh, thi ông Bảo Đại cũng thay đổi hiệu kỳ mỗi khi được quan thày ngoại nhân mới sử dụng làm tay sai cho chúng.

E.- VỀ BÀI HÁT TIẾNG GỌI THANH NIÊN

Quốc ca của chính quyền quốc gia do Lỉên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican cho ra đời là bài Tiếng gọi Thanh Niên của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước sáng tác vào đầu năm 1942. Về bài hát này, ông Nguyễn Ngọc Huy ghi nhận như sau:

Bản quốc ca của chúng ta hiện nay có một lịch sử đặc biệt. Người sáng tác bản nhạc là Lưu Hữu Phước, một cựu học sinh trường trung học Pétrus Ký và cựu sinh viên Viện Ðại Học Hà Nội. Nếu tôi không lầm thì bản nhạc này đã được soạn ra lúc Lưu Hữu Phước còn học ở trường Pétrus Ký. Năm 1942, anh ta là sinh viên của Viện Ðại Học Hà Nội. Thời Thế Chiến II, Viện Ðại Học này là Viện Ðại Học duy nhứt của các nước Ðông Dương. Nó có khoảng 800 sinh viên trong đó phân nửa là người Việt Nam, còn lại là người Khmer, người Lào, người Pháp và ngay cả người một số nước láng giềng như Trung Quốc và các nước Ðông Nam Á Châu.

Vì là Viện Ðại Học duy nhứt của Ðông Dương nên Viện Ðại Học Hà Nội đã họp tập tất cả sinh viên Việt Nam thời đó. Các sinh viên ái quốc gia nhập các chánh đảng cách mạng tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam đã tổ chức những tổ bí mật tại đó. Ðặc biệt Ðại Việt Quốc Dân Ðảng có đảng trưởng Trương Tử Anh và một cán bộ nồng cốt là Anh Nguyễn Tôn Hoàn học tại Viện Ðại Học Hà Nội thời Thế Chiến II. Anh Nguyễn Tôn Hoàn là người giỏi về nhạc nên được bầu làm Trưởng Ban Âm Nhạc của Tổng Hội Sinh Viên Ðông Dương (Association Générale des Eùtudiants Indochinois) và anh đã lãnh nhiệm vụ bí mật hướng dẫn các sinh viên hoạt động về văn hóa theo chiều hướng tranh đấu chống thực dân.

Chiều ngày 15 tháng 3 năm 1942, Tổng Hội Sinh Viên Ðông Dương (THSVÐD) đã tổ chức tại Ðại Giảng Ðường của Viện Ðại Học Hà Nội một buổi hát để lấy tiền giúp các bịnh nhơn nghèo của các bịnh viện được dùng làm nơi thực tập cho các sinh viên Khoa Y Dược. Các sinh viên Việt Nam đóng vai tuồng chủ động trong Tổng Hội đã quyết định nhơn cơ hội này tung ra một bản nhạc đặc biệt là Sinh Viên Hành Khúc, tên Pháp là Marche des Étudiants. Anh Nguyễn Tôn Hoàn được ủy nhiệm chọn bản nhạc dùng vào công việc đó. Lúc ấy, Lưu Hữu Phước đã đưa cho anh một số bài nhạc do anh ta soạn. Anh Nguyễn Tôn Hoàn nhận thấy rằng trong tất cả các dự thảo của Lưu Hữu Phước, bản nhạc mà chúng ta hiện dùng làm quốc thiều có tánh cách khích động tinh thần tranh đau hơn hết nên đã chọn nó làm nhạc cho Sinh Viên Hành Khúc. Sau đó, một ủy ban soạn lời ca cho bản nhạc này đã được thành lập với Ðặng Ngọc Tốt, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng, Phan Thanh Hòa, Hoàng Xuân Nhị.

Buổi hát chiều ngày 15 tháng 3 năm 1942 đã đưa đến những kết quả mỹ mãn và bản Sinh Viên Hành Khúc tên Pháp là Marche des Étudiants đã được chánh thức công nhận là bản nhạc của THSVÐD. Mùa hè năm đó, Tổng Hội này lại tổ chức một buổi lễ mãn khoá tại Nhà Hát Lớn Hà Nội. Lần này, có Toàn Quyền Ðông Dương và nhiều viên chức cao cấp Pháp khác đến dự. Bản Sinh Viên Hành Khúc được dàn nhạc của Hải Quân Pháp trình tấu. Âm điệu hùng hồn của nó đã làm mọi người khích động và khi nó được trổi lên, tất cả mọi người tham dự lễ mãn khoá năm 1942 của Viện Ðại Học Hà Nội, kể cả các viên chức cao cấp Pháp, đều đã nghiêm chỉnh đứng dậy để chào nó. Sau đó, nó được phổ biến khắp nơi. Các sinh viên Pháp, Khmer và Lào dĩ nhiên là theo lời ca Pháp. Về phía Việt Nam thì các sinh viên chỉ lo đi học chớ không có nhiệt tâm tranh đấu chánh trị cũng chỉ biết có lời ca Pháp. Phần các sinh viên Việt Nam có nhiệt tâm tranh đấu cho nền độc lập của dân tộc thì đem ra phổ biến ở khắp cả ba kỳ trong kỳ nghỉ hè năm đó với lời ca tiếng Việt, nhứt là đoạn I nói trên đây. Vì thế, từ năm 1943, bài Sinh Viên Hành Khúc đã được người Việt Nam ở cả ba kỳ biết.” www.yahoo.com. “Tiếng Gọi Thanh Niên[ii]

Nói về bài hát Tiếng Gọi Thanh Niên này, ông Nguyễn Quang Minh nói rằng:

Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước làm bài hát này là để đánh Tây, đuổi Mỹ, chớ đâu để cho người miền Nam hát như con vẹt.” Nguyễn Quang Minh. “Chuyện Lá Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ.” NGUYENQUANGMINH1@aol.com, ngày Thứ Ba 9/8/2005 phổ biến rộng rãi trên các thư nhóm -mail groups[iii]

Để kết thúc bài viết này, người viết chỉ xin nhắc nhở những người Việt Nam nào ở hải ngoại còn có chủ trương tranh đấu để duy trì lá cờ vàng ba sọc đỏ tại các quốc gia mà họ định cư hay chọn là quê hương hãy nhìn nhận một số sự kiện mà tất cả nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới đều biết. Những sự thật đó là:

1.- Lá cá cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng cho quyền lực của Vatican ở Việt Nam và được ngụy tạo làm biểu tượng cho chính nghĩa quốc gia của “những người Việt quốc gia”. Việc cho thành lập chính quyền Quốc Gia và việc chế ra là cờ vàng ba sọc đỏ có mục đích là để vừa làm bức bình phong che đậy cái bản chất làm tay sai cho Pháp và cho Vatican của cái chính quyền do ông Bảo Đại làm quốc trưởng, vừa giúp cho những tên Việt gian trong hàng ngũ quan lại trong thời “trăm năm nô lệ giặc Tây” bấu víu lấy nó để trút được cái gánh nặng mặc cảm tội ác làm Việt gian của họ. Như vậy, nó trở thành một biểu tượng cho sự ô nhục của bọn người vong bản "thà mất nước, chứ không thà mất Chúa" cấu kết với bọn phong kiến phản động và bọn lưu manh xu thời đón gió đã cam tâm bán nước cho