VATICAN:CH8- Hủy Diệt Nền Văn Minh Nhân Loại (Nguyễn Mạnh Quang)

GIÁO HỘI LA MÃ:

LỊCH SỬ VÀ HỒ SƠ TỘI ÁC

- Nguyễn Mạnh Quang -

http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH08.php

16 Feb, 2008

CHƯƠNG 8


HỦY DIỆT NỀN VĂN MINH NHÂN LOẠI VÀ
NHỮNG THÀNH TÍCH TÀN SÁT LƯƠNG DÂN


Chương sách này nói về chủ trương và thành tích hủy tích diệt nền văn minh nhân loại cùng với thành tích tàn sát lương dân thuộc các tín ngưỡng khác và những người bị Giáo Hội nghi ngờ là không tuyến đối tin tưởng vào hệ thống tín lý Ki-tô và tuân hành lệnh truyền của Giáo Hội.

A case of throat cutting, which took place in Croatia in 1943, source: http://www.reformation.org/holoc7.html

Trường hợp cắt đầu xảy ra ở Croatia năm 1943 (hình tài liệu trong http://www.reformation.org/holoc7.html, CATHOLIC FRIARS, PRIESTS, EXECUTIONERS, BISHOPS AND MURDERERS

I.- CHỦ TRƯƠNG HỦY DIỆT CÁC NỀN VĂN MINH
VÀ CÁC TÔN GIÁO KHÁC

Chủ trương của Giáo Hội La Mã là hủy diệt nền văn minh nhân loại và tàn sát những người thuộc các tín ngưỡng khác để thay thế vào đó bằng cái mà Giáo Hội gọi là “Nền Văn Minh Thiên Chúa Giáo” trong đó tất cả mọi người phải được“Ki-tô hóa” và nằm dưới quyền chỉ huy của Tòa Thánh Vatican. Chủ trương này bắt ngưồn từ các sách Phục Luật, Xuất Hành, Leviticus (26:1-18), v.v..trong Cựu Ước Kinh. Thí dụ như sách Phục Luật và sách Xuất Hành đều ghi rõ những điều dưới đây:

"Phá sạch những nơi thờ thần của họ (Thánh Kinh Tin Lành dùng cụm từ “chúng nó” thay cho “họ") trên núi cao, trên đồi, dưới bóng cây xanh. Đập tan bàn thờ, đâp vụn cột đền, lấy lửa đốt rụi hết các tượng của họ. Đục khoét cho mất hết mọi hình chạm trổ các tượng thần của họ, * và xóa tên những thần ấy ở những nơi đó." (Phục Luật 12:2-3). "Phải giết những kẻ tiên tri nào dám nhân danh các vị thần khác mà nói (Phục Luật 18:20). Chớ theo những vị thần của các dân tộc ở chung quanh các ngươi (Phục Luật 6:14). Phải dứt khoát giết những người đi lễ (bất kỳ) vị thần nào khác ngoài Giê-hô-va (Xuất Hành 22:20).

Và trong sách Leviticus (26:1):

"Các ngươi không được tạo ra những hình tượng nào để sùng bái cho chính các ngươi; các ngươi cũng không được khắc chạm một hình ảnh nào hay dựng nên một trụ cột thiêng liêng nào để nâng cao cho chính các ngươi; ở trong vùng các ngươi cư ngụ, các ngươi cũng không được dựng nên một hòn đá nào có khắc chạm để cúi đầu nghiêng mình trước nó; vì rằng Ta là Thượng Đế của các ngươi.” (You shall not make idols for yourselves; neither carved image nor sacred shall you rear up for yourselves; nor shall you set up an engraved stone in your land, to bow down to it; for I am the Lord you God).

Xin xem lại Chương 1.

Ông Charlie Nguyễn viết về chủ trương hủy diệt nên văn minh nhân lọai của Giáo Hôi La Mã như sau:

"Thực chất Công Giáo cũng không phải là Ki-tô Giáo (Christianity) vì đế quốc La Mã đã ra sức tiêu diệt Ki-tô Giáo rất ác liệt trong hơn 3 thế kỷ đầu Công Nguyên. Từ năm 325 đến cuối thế kỷ 4, đế quốc La Mã lập ra đạo mới là đạo Công Giáo (Catholicism) trên xác chết của Ki-tô Giáo nguyên thủy bằng cách tiêu diệt các giáo phái Ki-tô còn sót lại dám chống Công Giáo. Đồng thời chúng hủy diệt các dấu tích thật về Chúa Jesus còn sót lại ở Jerusalem, ngụy tạo Thánh Kinh, xuyên tạc lịch sử, đốt phá các thư viện và đốt các sách thuộc văn minh nhân bản Hy Lạp. Sỡ dĩ đế quốc La Mã phải diệt nền văn hóa nhân bản Hy Lạp vì nền văn hóa này hoàn toàn đi ngược lại bản chất phi nhân bản (inhumanity) của Công Giáo La Mã do chúng mới thành lập. Tội ác tiêu diệt văn hóa Hy Lạp của đế quốc La Mã đã làm cho nền văn minh của nhân loại bị chậm lại cả ngàn năm. Từ năm 325 trở đi, đế quốc La Mã không hề ngược đãi Công Giáo mà chỉ lo củng cố và bành trướng tôn giáo này mà thôi vì Công Giáo là con đẻ của đế quốc. Đến thế kỷ 5, sự tiêu diệt nền văn hóa nhân bản cổ xưa của Hy Lạp gần như hoàn toàn đến nỗi tổng Giám mục Chrysotom phải khoe rằng: "Mọi dấu vết về triết học và văn chương của thế giới cổ đã bị xóa sạch khỏi mặt đất" (Every trace of the old philosophy and literature of the ancient world has vanished from the face of the earth – Bible Myths by Doane p. 436)." [1]

Trên đây là nói về chủ trương, tức là cái tư tuởng huỷ diệt các nên văn minh và tôn giáo khác cùng những nhóm dân dân không phải là Ki-tô giáo. Phần dưới đây sé nói về những rặng núi tộ ác của Giáo Hội trong nỗ lực huỷ diệt các nền văn minh và các tôn giáo khác.

II.- THÀNH TÍCH HỦY DIỆT NỀN VĂN MINH NHÂN LOẠI

Tư tưởng biến thành hành động. Phần trình bày trong Mục I trên đây là nói về cái tư tưởng độc ác của Giáo Hội La Mã muốn “diệt tận gốc, trốc tận rễ” tất cả các nền văn minh và các tôn giáo không phải là Ki-tô giáo để nắm quyền bá chủ toàn cầu hầu cưỡng bách tất cả các dân tộc trên trái đất này phải theo đạo Ki-tô và nằm dưới ách thống trị của Tòa Thánh Vatican. Mục II này sẽ nói về những nỗ lực Giáo Hội La Mã để thể hiện cái chủ trương (tư tưởng) độc ác trên đây thành những hành động cụ thể với những thành tích hủy diệt tất cả các công trình kiến trúc cùng tất cả các di sản văn hóa của các nền văn minh và các tôn giáo khác không phải là Ki-tô giáo.

Nói đến thành tích hủy diệt nền văn minh nhân loại và thành tích giết người cướp của của Giáo Hội La Mã, có thể nói là phải dùng đến mấy chục ngàn trang giấy cũng chưa đủ để viết cho hết. Vì giới hạn của chương sách này, người viết chỉ nêu lên một số tài liệu nói về một số những trường hợp mà Giáo Hội đã tàn phá các công trình kiến trúc và các di sản văn hóa của các dân tộc chẳng may bị quân đội thập ác của Giáo Hội tiến đến. Hy vọng rằng, sau khi đọc những tài liệu lịch sử này, độc giả có thể căn cứ vào đó mà suy ra và nhìn ra bộ mặt thật ghê tởm của Tòa Thánh Vatican.

Một trong những trường hợp này được sách The Dark Side Of Christian History ghi lại sự kiện này với nguyên văn như sau:

Giáo Hội đốt không biết bao nhiêu là tác phẩm văn chương. Năm 391, tín đồ Ki-tô giáo đã đốt những thư viện lớn nhất trên thế giới ở Alexandria (Ai Cập) trong đố có tới 7000 ngàn cuốn sách. Tấc cả những sách này là của Gnostic Basilides, 36 quyển của Porphtry rất nhiều cuộn của 27 trường phái Mysteries và 270 ngàn tài liệu do Ptolemy Philadelphus thâu thập được cũng đề bị đốt hết. Những hàn lâm viện cổ xưa để học hỏi đều bị đóng cửa. Mọi vấn đề giáo dục cho những người ngoài Giáo Hội đều bị chấm dứt. Nguyên văn: “The Church burned enormous amounts of literature. In 391, Christians burned down one of the world’s greatest libraries in Alexandria, said to have house 700,000 rolls. All the books of the Gnostic Basilides, Porphtry’s 36 volumes, papyrus rolls of 27 schools of Mysteries, and 270, 000 ancient documents gathered by Ptolemy Philadelphus were burned. Ancient academies of learning were closed. Education for anyone outside of the Church came to and end.”[2]

Trong cuốn Công Giáo Chính Sử, Giáo sư Trần Chung Ngọc dịch nguyên vản mấy đọan văn trong cuốn Deceptions And Myths Of The Bible (Secaucus, N.J: Carol Publishing Group, 1975) nơi trang 444-447) nói về thành tích của Giáo Hội La Mã về việc tàn sát hàng triệu người thuộc các tôn giáo khác và hủy diệt công trình văn hóa và văn minh của các dân tộc nạn nhân này ở Âu Châu và ở vùng Trung Đông trong thời Trung Cổ như sau:

"Sự hủy diệt mọi chứng tích về phái Tự Ngộ và những nguồn tài liệu về đa thần là "việc làm đầu tiên" của Kitô Giáo. Chính các nhà truyền giáo đã khởi sự ở Antioch như được nói đến trong sách "Công Vụ Các Sứ Đồ" (Acts) Do lệnh của Giáo Hội Gia-tô La Mã, tất cả kinh sách của những người ủng hộ phải Tự Ngộ đều bị đốt, cũng như 36 cuốn của Porphyry (Porphyry là một triết gia (232-305) có chủ trương cho rằng triết lý là phương tiện giải thoát và nhấn mạnh đến lối tu khổ hạnh để tinh khiết hóa con người; TCN) Giáo Hoàng Gregory VII (1073-1085) đốt thư viện Apollo chứa đầy kiến thức cổ xưa. Hoàng Đê Theodosius [Roman Emperor (379-395)] đốt sạch 27 ngàn tài liệu về học phái huyền bí vì những tài liệu này chứa những căn bản giáo lý của Ngũ Kinh.

Sự hủy diệt văn hóa này vãn tiếp tục sau khi những nhà lập giáo đã qua đời. Những tín đồ cuồng tín mà họ đào tạo ra tiếp tục công việc này: Thập tự quân (trong các cuộc chiiến Thập Tự kéo dài từ năm 1095 đên năm 1291 - NMQ) đốt tất cả các sách vở mà họ có thể kiếm ra được, kể cả những cuốn nguyên bản thánh thư Do Thái. Năm 1233, những tác phẩm của Mainmonides (một triết gia Do Thái xuất sắc, 1135-1204; TCN) bị đốt cùng với 12 ngàn cuốn của Kinh Talmud (Thánh Kinh của Do Thái Giáo; TCN). Năm 1244, 18 ngàn cuốn sách đủ loại bị hủy. Theo Draper, Hồng Y Ximenes đã đốt 80 ngàn bản văn của Ả Rập ở Công Trường Granada. Ở Tân Thế Giới (Mỹ Châu), toàn bộ kiến thức cổ xưa bị người Kitô Tây Ban Nha phá hủy cùng với đền đài chứa đựng kiến thức này.

Sau khi phá hủy mọi chứng tích, các nhà lập giáo Kitô đầu tiên đã có thể thay thế những kiến thức cổ xưa này bằng những điều vô nghĩa của họ. Và để chứng minh những điều vô nghĩa này, họ đã thay đổi lời lẽ và gài vào đó những câu không có trong những nguyên bản, ... Về cùng một chủ đề này, Massey viết như sau:

"Trong bốn thế kỷ đầu, họ đã hủy bỏ những tài liêu quan trọng nhất về mọi sự hiểu biết trung thực về nguồn gốc thực của sự mê tín trong Kitô Giáo. Những huyền thoại được viết và in ra như là lịch sử nhân loại, mọi tư tưởng khác đều bị dẹp bỏ hay cưỡng bách phải chấp nhận sự gian dối." (Lloyd. M Graham, Deceptions And Myths of the Bible, trang 444-445)

"Theo giáo lý của họ thì "máu của Chúa Kitô đã rửa sạch tội lỗi của thế giới," nhưng tội lỗi vãn còn với chúng ta ngày nay. Cái mà thực sự bị rửa sạch chính là sự lành mạnh của thế giới. Với thời gian, giáo lý của họ đã làm tâm thức Tây Phương đau đớn đến nỗi Agibard ở Lyons phải viết như sau:"Cái thế giới bất hạnh này dưới sự chuyên chế điên rồ, những điều mà người Kitô giáo tin, thực ra là những điều vô nghĩa đến độ từ xưa tới nay không ai có thể làm cho người ngoại đạo tin được." Nếu độc giả không tin và muốn có một thí dụ thì chúng tôi xin cống hiến một chuyện trong Kitô giáo vè Thánh John trong Phúc Âm. Theo lịch sử các Thánh thì John, khi đã rất già, làm cho Hoàng Đế Domitian nổi giận. Để trừng phạt John, Domitian sai người ném John vào một cái vạc chứa dầu và nhựa thông. Và khi người ta châm lửa ,dầu bắt đầu sôi thì đám đông ở ngoài nghe thấy một tiếng hát trong ngọn lửa. Khi vạc dầu sôi cạn hết thì John vẫn còn sống và không hề hấn gì. Jerome, Eusebius, Tertullan, tất cả đều kể lại cái phép lạ này và những điều hoang tưởng trong đó. Và nay, nếu những tin đồ Kitô xuất sắc có thể tin được sự vô lý này thì họ có thể tin bất cứ cái gì, ngay cả Thánh Kinh." (Lloyd. M Graham, 447-448. [3]

Sách lược lấn chiếm tiếm quyền và chủ trương hủy diệt nền văn minh nhân loại của Vatican được thể hiện qua các chính sách đối ngoại cũng như đối nội của Giáo Hội.

Về chính sách đối nội, chúng ta thấy năm 1232, Giáo Hội cho thiết lập các Toà Án Dị Giáo để xét xử và tiêu diệt những thành phần nằm dưới ách thống trị của Giáo Hội bị nghi ngờ hay bị gán cho là không tin theo hệ thống lý thuyết thần học quái đản của Giáo Hội. Các Toà Án ác ôn này hoành hành ở nước Pháp cho đến khi Cách Mạng bùng nổ vào năm 1789 mới chấm dứt. Trong khi đó thì ở Tây Ban Nha và các thuộc địa của đế quốc này, nó vẫn còn tác oai tác quái cho đến năm 1820. Sau thời điểm này, các Tòa Án ác ôn này lột xác biến thành Thánh Bộ Truyền Giáo và các chế độ đạo phiệt Gia-tô do Giáo Hội thiết lập tại các địa phương như ở Tây Ban Nha và Croatia trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, ở Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 và ở Rwanda (Phi Châu) vào năm 1994.

Về chính sách đối ngoại, Giáo Hội thi hành sách lược "cáo đội lốt hùm" theo đó thì Giáo Hội luôn o bế, liên minh hay cấu kết chặt chẽ với các thế lực hùng mạnh đương thời để "dựa hơi" với dã tâm "theo đóm ăn tàn" hay "theo voi ăn bã mía" rồi "mượn gió bẻ măng" để hủy diệt các tôn giáo cùng các nền văn hóa cổ truyền và nền văn minh của người dân bản địa. Phần trình bày dưới đây sẽ cho chúng ta nhìn thấy rõ một số những thành tích của Giáo Hội về những tội ác hủy diệt nền văn minh nhân lọai từ thời Trung Cổ cho đến ngày nay.

Tiếp theo những thánh chỉ được ban hành trong thế kỷ 15 như đã trình bày ở chương trước, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha được Giáo Hội khích lệ đem quân đí chinh phục Tân Thế Giới cùng lục địa phi Châu và nhiều nơi khác ở Á Châu. Trong những đòan quân thập tự viễn chinh này đều có rất nhiều giáo-sĩ Gia-tô cùng đi để vừa làm nhiệm vụ đưa đường dẫn lối, vừa giữ vai trò chỉ đạo thiết lập chế độ đạo phiệt Gia-tô tại các vùng vừa mới chiếm được để thi hành kế họach Ki-tô hóa và với chủ trương "diệt tận gốc, trốc tận rễ" tất cả các công trình văn hóa và văn minh của các dân tộc bản địa. Hậu quả là ở đâu có gót giầy của các đoàn quân thập tự Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha là ở đó hiện lên cảnh hoang tàn đổ nát, đền, đài, miếu tự, dinh thự và tất cả những gì thuộc về văn minh và văn hóa cổ truyền của các dân tộc bản địa đều bị tiêu hủy, nhà cửa bị thiêu rụi, đàn ông bị sát hại, đàn bà con gái bị hãm hiếp. Ông Charlie Nguyễn ghi lại thảm trạng này ở Châu Mỹ La Tinh như sau:

"Trong mục tiêu bành trướng lãnh thổ và cướp đọat vàng bạc của cải làm giầu cho Tòa Thánh, Giáo Hoàng Alexander VI (1492-1503) giao độc quyền khai thác vùng đất do Columbus khám phá (tức Châu Mỹ) cho hoàng gia Tây Ban Nha vào năm 1503. (Ngày 4 tháng 5 năm 1503, Giáo Hoàng Alexander ký sẵc lệnh Inter Catera, sắc chỉ này về sau được dùng làm căn bản cho việc triển khai quyền sở hữu về Tân Thế Giới (New World).

Năm 1519, hoàng gia Tây Ban Nha sử dụng một tên du thủ du thực 35 tuổi, chuyên tìm vàng là Herman Cortez làm tướng chỉ huy một hạm đội gồm 11 chiến thuyền, 10 đại bác và 600 binh sĩ cùng với một đoàn tu sĩ Phan-xi-cô do Giám-mục Diego de Landa lãnh đạo lên đường chinh phục Châu Mỹ. Tháng 3 năm 1519, đoàn quân này đổ bộ vào Vịnh Tabasco. Tháng 5 năm 1519, chúng chiếm thành phố Cholula và phá hủy 400 kim tự tháp tại đây. Năm 1521, chúng chiếm Tenchitlan và hoàn tất cuộc xâm lăng Mexico (mễ Tây Cơ).

Trước khi tiến chiếm thành phố lớn nhất của Mexico thời đó là thành phố Montezanur, chúng đột nhập vào các nhà tù, phóng thích tù nhân và dụ họ hợp tác dẫn đường trong thành phố, những sau khi thành công, bọn chúng giết hết đám tù nhân đã giúp chúng. Giám-mục lãnh đạo tinh thần của đoàn quân xâm lược này là Giám Mục Diego de Linda chủ trương đốt sạch để xóa bỏ mọi vết tích của nền văn minh cổ đại của người Da Đỏ.

Trong các đền thờ xây cất tương tự như Kim Tự Tháp của các dân tộc Aztec, Toltecs và Maya, thường có nhiều tượng và đồ vật trang sức bằng vàng. Bọn thực dân đem nấu chẩy thành vàng khối chở về Tây Ban Nha. Các thứ còn lại chúng đều phá hủy hoặc đốt cháy thành than. Trong số các Kim Tự Tháp có một cái gọi là đền thờ Tepanapa cao tới 60 mét, mỗi cạnh rộng 300 mét, lớn gấp đôi Kim Tự Tháp Cheop của Ai Cập, hiện trên đỉnh của nó là nhà thờ "Đúc Mẹ Đồng Trinh".

Năm 1843, nhà khảo cổ Mỹ John Lloyld Stephen viết sách kể chuyện ông đã tìm được dấu vết của 44 thành phố thuộc văn minh Maya bị thực dân Tây Ban Nha phá hủy. Ông đã tìm được một pho sách cổ của dân tộc Maya gồm hàng ngàn bản gỗ có ghi chữ tượng hình (pictograph) nhưng đều bị cháy thành than. Nhiều tấm bia đá có khắc hình và chữ bị đập vỡ vất xuống đáy hồ. Hiện nay, các nhà khảo cổ chỉ tìm lại được rất ít tượng đồng và tượng đá của văn minh Maya. Người Maya đã đạt được trình độ cao trong việc sản xuất đồ gốm và nhiều loại nữ trang rất đẹp. Theo các nhà khảo cổ ước tính thì nền văn minh Maya đã có từ thế kỷ 12 trước Tây Lịch.

Tội ác của đoàn quân xâm lược dưới sự lãnh đạo của Giám Mục Diego và Herman Cortez còn được ghi lại trong những cuốn sách thuộc loại hồi ký của các cha dòng đi theo đoàn quân xâm lược, trong đó có một số hình ảnh về cảnh chặt tay chặt chân tù binh da đỏ rất dã man. Nhiều thổ dân trên các đảo thuộc quần đảo Antilles đã bị bọn thực dân tiêu diệt sạch, không còn một ai sống sót. Theo một số báo cáo của đoàn quân xâm lược gửi về triều đình Tây Ban Nha vào giữa thế kỷ 16, dân số Mexico khỏang 15 (mười lăm) triệu người. Nhưng đến đầu thế kỷ 17, chỉ còn 2 (hai) triệu mà thôi. Phần lớn thổ dân đã chết vì nhiễm các loại vi trùng do thực dân Tây Ban Nha đem từ lực địa Âu Châu qua. Sau khi chiếm được Mexico, thực dân Tây Ban Nha và tu sĩ nhà thờ lập nên các đồn điền và các khu khai thác mỏ và biến thổ dân thành nô lệ. Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, thực dân đến Phi Châu bắt cóc người da đen đem đến Mỹ Châu khỏang 60 (sáu mươi) triệu người để tăng cường nhân lực nô lệ cho các đồn điền và hầm mỏ. Ngay từ những năm đầu của cuộc xâm lược vào Mexico, riêng một mình đã chiếm 250 hec ta đồn điền và làm chủ 200,000 (hai trăm ngàn) nô lệ da đỏ." [4].

Thảm trạng của dân Da Đỏ ở Mỹ Châu cũng được ông Phạm Quốc Sử ghi lại như sau:

"Bởi thế, việc Christopher Columbus rồi Amerigo Vespucci đến Châu Mỹ cũng chính là sự khởi đầu của quá trình người Châu Âu mang những tai họa thảm khốc đến cho châu lục này. Cụ thể chỉ sau mấy năm đầu thống trị của thực dân Tây Ban Nha, hơn một triệu cư dân bản địa trên quần đảo Antilles thuộc vùng biển Caribbean đã bị tiêu diệt gần hết. Khi tiến đánh Mexico, thực dân Tây Ban Nha đã thẳng tay phá trụi tất cả những công trình văn hóa cổ xưa và tiêu diệt gần hết số dân trong thành Mexico [8, p 544]. Ở khu vực Nam Mỹ, Francisco Pizarro cùng với băng đảng gồm 160 thợ săn kho báu người Tây Ban Nha của ông ta, bằng súng thần công và ngựa, đã dìm toàn bộ nền văn minh huy hoàng của người Inca trong biển máu. Không chỉ chiếm đất đai, giết người, cướp của và tàn phá nền văn minh Inca, người Âu Châu còn reo rắc những căn bệnh lạ như bệnh sởi, khiến cho cộng đồng người Inca bị hủy diệt với tốc độ nhanh chóng. Năm 1520, dân số Inca có khoảng 32 triệu người, nhưng đến năm 1548 chỉ còn khoảng 5 triệu. Ngày nay cái tên Inca có lẽ chỉ còn được nhắc đến như một minh chứng về sự hủy diệt các nền văn minh mà thôi." [5].

Thảm cảnh của người dân Da Đỏ ở Châu Mỹ La Tinh và người dân bản địa ở Phi Luật Tân sau khi bị Giáo Hội La Mã tàn phá quê hương của họ được ông Phan Quốc Đông ghi nhận như sau:

"Tôi cũng đã đọc kỹ lịch sử của Giáo Hội Vatican, tiểu sử của từng vị giáo hoàng, các phương pháp bành trướng tôn giáo của họ tại các lục địa khác ngoài Âu Châu, phương pháp nào nhanh, phương pháp nào chậm. Phương pháp nhanh nhất được thực hiện bởi thực dân Tây Ban Nha tại các xứ thuộc Châu Mỹ La Tinh thật là vô cùng tàn ác. Họ dùng gươm giết hết những người đàn ông bản xứ, chỉ còn lại toàn đàn bà con gái thôi, để họ vừa bắt buộc theo đạo, vừa hãm hiếp đồng hóa. Số người bị giết lên tới mấy chục triệu. Đây là phương pháp truyền đạo của phái bộ truyền giáo Tây Ban Nha được Giáo Hoàng Alexander VI (1492-1503) hỗ trợ. Đi du lịch ở các xứ này ta chỉ thấy toàn những người lai mà thôi, hầu như không còn một người bản xứ nào sống sót. Tại Phi Luật Tân, họ cũng giết hàng triệu người, đập phá toàn bộ các đền thờ cổ, thủ tiêu hoàn toàn mọi chứng tich của nền văn minh cổ của xứ này. Ngôn ngữ, văn tự, truyền thống, văn hóa hoàn toàn mất hẳn…" Nhiều tác giả, Đối Thoại Với Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ II (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 1995), tr 339-340.

Tác giả Huỳnh Thu ghi nhận:

“Penny Lernoux viết trong cuốn Tiếng Kêu Than Của Người Dân (Cry of the People) như sau về sách lược truyền giáo ở Châu Mỹ La Tinh:

"Từ lúc đầu, xã hội Mỹ - LaTinh được xây dựng giống như một Kim Tự Tháp, với vài người Âu Châu đến định cư và hưởng mọi quyền lợi của đế quốc, và quần chúng thổ dân, da đen, giai cấp thấp, không có một quyền nào. Cái tháp tồn tại được là vì khối nhân dân ở dưới đáy được nhắc nhở rằng họ ngu si, lười biếng, và thấp kém. Những nhà truyền giáo ngoại quốc góp phần nhồi vào đầu óc dân bản xứ ý tưởng là họ nghèo và ngu dốt là do ý muốn của Thiên Chúa. Như Tổng Giám Mục ở Lima dạy các thổ dân rằng: "Nghèo khổ là con đường chắc chắn nhất đi đến hạnh phúc." (hạnh phúc sau khi chết.). Người thổ dân hay dân Phi Châu nào mà liều lĩnh nghi ngờ điều dạy khôn ngoan đó bằng cách chống lại hệ thống đều bị giết ngay.. Giáo hội Ca-Tô phải gánh rất nhiều trách nhiệm về tình trạng này." Trần Phong Vũ. “Giiáo Hoàng Gioan Phaolô II, Vĩ Nhân Thời Đại.” Danchimvietonline. Ngày 9 tháng 12 năm 2005.

Tại Việt Nam, Tòa Thánh Vatican cũng chủ trương cho thi hành chính sách hủy diệt nền văn hóa cổ truyền của dân tộc Việt Nam ta, giống như Giáo Hội đã làm ở Âu Châu, ở Trung Đông, ở Châu Mỹ La Tinh và ở Phi Luật Tân. Nhưng vì trong suốt chiều dài lịch sử từ năm 1862 cho đến ngày 30/4/1975, quyền lực của Gíao Hội La Ma tại đây bị hạn chế bới chính quyền thực dân Pháp (1862-1954) và chính quyền Hoa Kỳ (1954-1975) cho nên mức độ hủy diệt nền văn hóa và văn minh bản địa chưa đến độ khủng khiếp như Giáo Hội đã làm ở Châu Mỹ La Tinh và Phi Luật Tân. Tuy nhiên, qua bọn tín đồ cuồng tín tay sai người Việt, Giáo Hội cũng đã tiến hành được một số những hành động man rợ này. Dưới đây là một vài bằng chứng:

1.- Đầu thập niên 1860, Gíám-muc Puginier sọan thảo một kế hoạch được gọi là Kế Hoạch Puginier nhằm tiêu diệt giới Nho sĩ Việt Nam và hủy diệt hết tất cả ảnh hưởng của các nền văn hóa cổ truyền của dân tộc Việt Nam, chỉ dùng người Việt Da-tô vong bản phản quốc làm tay sai để tiến hành kế họach phi nhân và dã man này [6] . Kế họach này bị người Pháp xếp xó và chỉ dùng có phần dùng người Việt đánh người Việt và sử dụng tín đồ Da-tô trong bộ máy đàn áp nhân dân ta thôi.

2.- Trong những năm 1945-1954, ngày sau khi được Tòa Thánh Vatican và chính quyền De Gaulle của nước Pháp bổ nhậm giữ chức Cao Ủy Đông Dương vào ngày 17/8/1945 với nhiệm vụ tái lập nền thống trị của Liên Minh Đến Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp - Thập Ác Vatican tại phần đất này, trong thời gian tại chức cho đến ngày 15/3/1947, Cựu Linh-mục Thierry d’ Argenlieu đã triệt để thi hành chính sách chia để trị của Giáo Hội La Mã đã được họach địch sẵn trước đó. Ngay khi vừa đến Sàigòn vào tháng 10/1945, dựa vào chức vụ Cao Ủy Đông Dương, cựu Linh-mục d’ Argenlieu, cho xé Nam Bộ ra khỏi nước Việt Nam để thành lập nước Nam Kỳ và đưa bọn Việt gian người miền Nam mang quốc tịch Vatican và quốc tịch Pháp lên thành lập chình phủ vào mùa Xuân năm 1946. Rồi cũng năm 1946, Giáo Hội lại ra lệnh cho tên cựu linh mục này xé miền Cao Nguyên Nam Trung Kỳ để thành lập nước Tây Nguyên, và xé vùng Sơn La - Lai Châu để thành lập nước Thái Tự Trị và đưa tên Thái gian là Đèo Văn Long lên thành lập chính quyền. Tháng 1/1947, trước khi hết nhiệm kỳ Cao Ủy Đông Dương vào ngày 15/3/1947, Giáo Hội lại ra lệnh cho viên cựu linh mục này đưa ra “Giải Pháp Bảo Đại” (the Bảo Đại Solution) với dã tâm dùng “người Việt đánh người Việt”, dùng “tín đồ Da-tô bản địa cai trị đại khối nhân dân người Việt Nam theo tam giáo cổ truyền”, rồi sử dụng mấy cụm từ “chính nghĩa quốc gia”, “người Việt quốc gia” với “lá cờ vàng ba sọc đỏ” làm bức bình phong che đậy cho bọn Việt gian đã và đang cấu kết với liên minh giặc Pháp - Thập Ác Vatican trong bộ máy đàn áp nhân dân và chống lại lực lượng nghĩa quân kháng chiến giải phóng dân tộc ta lúc bấy giờ. Giải Pháp Bảo Đại mãi tới ngày 5/6/1948, trong thời Cao Ủy Emile Bollart (15/3/1947- 10/1948), mới thực hiện được bằng cách biến chính quyền Việt gian Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn Phú Khai, Trương Vĩnh Khanh, Nguyễn Tấn Cường, v.v.. của nước Nam Kỳ (do chính d’ Argenlieu cho ra đời) thành chính quyền quốc gia. Kể từ đó, "chính quyền quốc gia" này cuỗm (ăn cắp) bài hát Tiếng Gọi Thanh Niên được nhạc sĩ Lưu Hữu Phước sáng tác vào mùa Xuân năm 1945 làm quốc ca. Cái “chính quyền quốc gia” và “lá cờ vàng ba sọc đỏ” sau đó được Giáo Hội La Mã ủy cho hai tên Da-tô Việt gian Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu nhẩy lên bàn độc múa may cho đến ngày 30/4/1975 thì rã ngũ khi quyền lực của Hoa Kỳ không còn tồn tại ở miền Nam Việt Nam nữa.

3.- Trong những năm 1948-1954, Giáo Hội lại ra lệnh cho bọn Giám-mục Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi tách rời hai giáo khu Phát Diệm và Bùi Chu và biến hai giáo khu này hai giáo khu tự trị để chuẩn bị biến hai giáo khu này thành hai vương quốc theo đạo Kitô trong nước Việt Nam. Giáo Hội cũng đã thực hiện việc lãm dã man này ở Croatia trong những năm 1941-1945 và sau này vào những năm 1999-2002, Giáo Hội cũng làm như vậy ở East Tomor.

4.- Cuối năm 1954, toán lính Gia-tô Phát Diệm dưới quyền chỉ huy của Giám-mục Lê Hữu Từ và Linh-mục Hoàng Quỳnh phá hủy ngôi Chùa Một Cột tại Hà Nội vào đêm 10 tháng 9 năm 1954 trên đường chạy trốn từ Phát Diệm qua Hà Nội xuống Hải Phòng rồi vào Nam. Sự kiện này được sách Lột Mặt Nạ Những Con Thò Lò Chính Trị ghi lại như sau:

Ngôi chùa lịch sử này kể từ ngày dựng chùa cho đến ngày 10/09/1954 mới bị phá hủy do toán lính công giáo của Linh-mục Lê Hữu Từ và Hoàng Quỳnh đặt mìn giật sập. Toán lính công giáo này từ Bùi Chu, Phát Diệm lên tạm trú tại trường Thiếu Sinh Quân Hà Nội để chờ phương tiện vào Nam. Một nhóm lính công giáo trong đó có Cai Long đã tham dự vào việc đặt mìn giật sập Chùa Một Cột vào đêm 10/09/1954. Cai Long sau là Thượng Sĩ thuộc Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 46, Sư Đoàn 25 Bô Binh. Thượng Sĩ Long là bạn thân từ hồi còn nhỏ với Trung Tá Nhẩy Dù Đào Văn Hùng cựu Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3 Dù và Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 46 Bộ Binh. Thượng Sĩ Long đã vui miệng khoe thành tích giật sập Chùa Một Cột trong lúc vui say cùng đồng đội.

Cho tới khoảng tháng 06 năm 1970, Thượng Sĩ Long ngà ngà say rượu, lấy súng M. 16 tìm bắn Trung Úy Phương và một số đồng ngũ nên ông bị lính của Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 46, bắn chết. Những dữ kiện về Thượng Sĩ Long có nhiều người được biết hiện có mặt tại Hoa Kỳ như cựu Chuẩn Tướng Lều Thọ Cường, cựu Đại Úy Lê Văn Thúy hiện định cư tại California, cựu Đại Úy Trần Ngọc Nhân hiện ở Houston, Texas.

Ngôi Chùa Một Cội mà ta thấy hiện nay là chùa mới xây lại vào tháng 4 năm 1955.” [7]

5- Trong những năm 1954-1963, vì triệt để tuân hành những lời dạy trong các sách Phục Luật, Xuất Hành và Leviticus như đã nói ở trên, đặc biệt là những lời dạy Phải phá sạch những nơi thờ thần của họ trên núi cao, trên đồi, dưới bóng cây xanh. Phải đập tan bàn thờ, đâp vụn cột đền, lấy lửa đốt rụi hết các tượng của họ. Đục khoét cho mất hết mọi hình chạm trổ các tượng thần của họ, * và xóa tên những thần ấy ở những nơi đó”, chính quyền đạo phiệt Gia-tô Ngô Đình Diệm không cho tổ chức lễ giỗ tổ Hùng Vương. Sự kiện này được cụ Đỗ Mậu ghi lại trong cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi với nguyên văn như sau:

Việc biến nhà thờ La Vang ở Quảng Trị thành một đền thờ Quốc Tổ (phải gọi là Quốc Mẫu thì đúng hơn!) đã dám làm thì ngay tại Sàigòn, việc biến Tòa Đô Sảnh của thủ đô thành một địa điểm tôn giáo để mừng Chúa ra đời không phải là chuyện chế độ Diệm ngại ngùng nữa. Tại Sàigòn đã có rất nhiều nhà thờ lớn trên các khu đất khang trang, có quá nhiều nữa là khác. Ngay tại trung tâm thủ đô, ở Quận Nhất sang trọng của giao điểm hai đường Tự Do và Thống Nhất đã có Vương Cung Thánh Đường đồ sộ, thế mà hàng năm cứ vào lễ Giáng Sinh, cơ sở quốc gia là Tòa Đô Sảnh ở Đại Lộ Nguyễn Huệ vẫn cứ bị trưng dụng để treo đèn kết hoa mừng Chúa xuống trần.

Tệ hơn nữa là biết lấy nhà thờ Đức Mẹ La Vang làm “pháo đài tinh thần của quốc gia”, biết lấy Tòa Đô Sảnh để vinh danh Thiên Chúa, nhưng anh em ông Diệm lại không chịu xây đền thờ Quốc Tổ, lại càng không kỷ niệm giỗ tổ Hùng Vương để duy trì truyền thống dân tộc và thỏa mãn nguyện vọng của nhân dân. Cái danh hiệu Hùng Vương chỉ được đặt tên cho một con đường xa xôi trong vùng Chợ Lớn, trong khi đại lộ thênh thang nối liền trung tâm thành phố với phi cảng quốc tế Tân Sơn Nhất thì lại trang trọng đặt tên cho người anh là Ngô Đình Khôi. Thủ Đô Việt Nam Cộng Hòa không có được một Văn Miếu, không có được một bức tượng Tổ, trong khi những bức tượng đồng của các nhân vật Thiên Chúa Giáo thì vẫn được duy trì chăm sóc như dưới thời Pháp thuộc!…

Tôi còn nhớ nhà văn Chu Tử có kể lại trong tuần báo Đời ở Sàigòn câu chuyện của một giáo sư đại học nặng lòng với Tổ Quốc Hùng Vương, đã đề nghị với ông Diệm xây đền thờ Quốc Tổ thì bị ông Diệm trỏ mặt nạt lớn: “Tổ anh chứ tổ tôi à !” Còn nhà văn Võ Phiến trong tác phẩm “Đất Nước Quê Hương” có cho biết mãi sau khi chế độ Diệm không còn nữa, nhân dân các tỉnh đã hăng say xây đền thờ Quốc Tổ. Tại Sàigòn, nhiều đoàn thể thanh niên, sinh viên phát động phong trào “về nguồn”, thành lập Hội Việt Võ Đạo, sau khi chế độ Diệm bị lật đổ, đã hàng năm tổ chức lễ kỷ niệm Tổ Hùng Vương để cùng với các thành phần khác của dân chúng vận động xây đền thờ Quốc Tổ. Lòng dân hướng về Quốc Tổ như thế mà anh em ông Diệm lại không coi Vua Hùng là giòng họ Việt tộc đã khai mở đất nước mà chỉ lo tôn vinh các giáo đường.” Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1993), tr 455-456

Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõ chủ trương của Giáo Hội là "diệt tận gốc, trốc tận rễ" tất cả các tôn giáo cùng các nền văn hóa và văn minh khác của nhân loại. Chủ trương bắt nguồn từ mặc cảm tự ti sinh ra lòng ganh ghét, đố kị, tị hiềm, kèn cựa, không muốn cái gì hơn mình hay không phải là minh thì không được tồn tại và đã được viết ra thành văn bản ghi lại rõ ràng trong các sách ở trong Cựu Ước. Tình trạng này y hệt như một nữ bạo chúa vừa xấu xí vừa ác độc vừa có quyền lực. Vốn mang mặc cảm xấu xí, với bản chất ác độc sẵn có và lại có quyền lực trong tay, nữ bạo chúa xấu xí ác độc này bèn ra lệnh giết hết những cô gái đẹp, dù là chỉ đẹp hơn cô ta một chút. Giáo Hội La Mã quả thật không khác gì nữ bạo chúa xâu xí và ác độc trên đây. Xin nhắc lại, chủ trương ác độc và dã man này của Giáo Hội bắt nguồn từ trong Kinh Cựu Ước. Chỉ có Giáo Hội La Mã mới có thể làm được như vậy! Thật là dã man! Thật là độc ác! Thật là táng tận lương tâm!Thiết tưởng rằng những dữ kiện được nêu ra trên đây cũng đủ nói lên cái dã tâm thâm độc cực kỳ man rợ của Giáo Hội La Mã là quyết tâm hủy diệt tất cả các tôn giáo và di sản văn hóa của nhân loại để thay thế vào đó cái tôn giáo quái đản mà văn hào Voltaire gọi là "cái tôn giáo ác ôn".

III.- NHỮNG CON SỐ NẠN NHÂN BỊ GIÁO HỘI LA MÃ TÀN SÁT

Cho đến nay (thời điểm 2005), các nhà viết sử đều đồng ý với nhau là con số nạn nhân bị tàn sát lên tới gần 300 triệu. Trong cuốn Deceptions and Myths được phát hành vào năm đầu tiên vào năm 1975, sử gia Lloyd M. Graham nói rõ con số nạn nhân bị Giáo Hội La Mã sát hại lên tới trên trên 250 triệu:

"Chúng ta đã biết được những gì trong 7 trăm năm này? Ba triệu người thiệt mạng trong vụ cố gắng chiếm lại một ngôi mồ nằm trong vùng kiểm soát của người Hồi giáo. Mười triệu người bị giết hại do bàn tay của các Tòa Án Dị Giáo Gia-tô Mười bốn triệu người chết trong các cuộc chiến Gia-tô trong thế kỷ thứ 19. Ba mươi triệu người thiệt mạng trong các cuộc chiến giữa các quốc gia theo đạo Kitô với nhau trong hai thập niên đầu của thế kỷ thứ 20. Từ thời Constantine đến nay, chiến tranh và chính sách áp bức của các chế độ đạo phiệt Gia-tô đã gây cho hơn 200 triệu nạn nhân bị thiệt mạng. Và chúng ta phải kể thêm 23 triệu quân nhân của 53 quốc gia và các thuộc địa đã hy sinh trong các cuộc chiến (do Giáo Hội phát động – NMQ ) và ít nhất 28 triệu nạn nhân chết vì bom, đạn, đói và bệnh tật hay ở trong các trại tập trung.” [Nguyên văn: What have we learned in those seven hundred years? “Three million lost their lives in a futile attempt to rescue a tomb from Mussulmans. Ten million were slain during the Inquisition. Fourteen million were slain in Christian wars of the Nineteenth Century. Thirty million lost there lives in wars between Christian nations during the first two decades of the Twentieth Century. Wars, tyranny and oppression of Christian nations since the days of Constantine have caused the death of more than 200,000,000 people” And now we must add to this “Some 23,000,000 men in uniform from 53 nations, countries and dominions were killed or died; at least 28,000,000 died from bombs or guns, hunger or disease or in the concentration camps.) [8]

Những con số nạn nhân này được chia ra làm hai loại:

1.- Do Giáo Hội trực tiếp chủ trương.

2.- Do các chính quyền đạo phiệt tay sai của Giáo Hội và tín đồ cuồng tín gây nên.

Trong thực tế, tất cả đều do Giáo Hội chủ trương cả. Chủ trương này một phần bắt nguồn từ Cựu Ước Kinh như đã trình bày ở trên, một phần vì bản chất hung hăng hiếu chiến, đa sát, khát máu được Giao Hội cấy vào trong đầu óc tín đồ qua chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ khiến cho họ trở thành những thứ bạo chúa khát máu ưa thích tàn sát những người thuộc các tôn giáo khác khi họ có quyền lực trong tay. Cũng vì thế mà có nhiều tội ác có thể nhìn thấy dễ dàng là do Giáo Hội chủ trương và trực tiếp hành động. Thí dụ như phát động các cuộc chiến thập tự, thiết lập các tòa án dị giáo, việc ban hành các thánh lệnh trong thế kỷ 15, việc trực tiếp ra lệnh cho Giám-mục Emmanuel Milingo phải dứt khóat từ bỏ người vợ thân thương mới cuới của ông là bà Maria Sung vào tháng 8 năm 2101.

Cũng có nhiều tội ác do chính quyền đạo phiệt tay sai của Giáo Hội hay tín đồ cuồng tín gây nên, nhưng nếu xét cho cùng, thì cũng là do Giáo Hội hoặc là ra lệnh, hoặc là giáo dục cho họ phải làm như vậy. Thí dụ như chính quyền đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm tổ chức đại lễ long trọng dâng nước Việt Nam cho Đức Mẹ Vô Nhiễm vào tháng 2 năm 1959, việc không cho làm lễ giỗ tổ Hùng Vương, việc thủ tiêu các thành phần đối lập chính trị ở miền Nam, việc tàn sát khoảng 300 ngàn người dân ở Liên Khu V, việc tin đồ Gia-tô đặt điều kiện cho những người thuộc các tôn giáo khác muốn thành hôn với con cái của họ thì phải từ bỏ tín ngưỡng cổ truyền của gia đình để theo đạo Da-tô rồi mới chấp nhận cho đương sự thành hôn.

IV.- NHỮNG CON SỐ NẠN NHÂN BỊ SÁT HẠI TRONG NHỮNG TRƯỜNG HỢP RIÊNG BIỆT

Con số trên 250 triệu nhân bị Giáo Hội sát hai trên đây rải rác từ năm 325 cho đến một vài năm trước khi sử gia Lloyd Graham biên soạn xong cuốn Deceptions and Myths of the Bible vào năm 1999. Dưới đây là một vài con số nạn nhân bị Giáo Hội sát hai theo từng biến cố đã được các sử gia sử sưu tầm và công bố.

1.- Con số nạn nhân bị sát hại trong thời kỳ mấy chục năm sau khi Hội Nghị Nicaea nhóm họp vào ngày 20/5/325. Theo ông Chalrie Nguyễn con số nạn nhân trong thời kỳ này vào trên 3 ngàn người. Xem lại Chương 3 ở trên:

2.- Con số giáo sĩ và tín đồ Ki-tô Do Thái bị Giáo Hội La Mã sát hại sau vụ tàn sát những tín đồ Ki-tô theo phe Giám-mục Arius. Không ai biết rõ con số nạn nhân này là bao nhiêu. Trong cuốn The Decline And Fall of the Roman Church, cựu giáo-sĩ Martin Malachi có nói về thảm cảnh của họ như sau:

“Họ cố gắng để tồn tại cho đến mấy chục năm đầu của thế kỷ thứ 5. Rồi thì họ biến mất từng người một. Một số thì nhập vào Giáo Hội La Mã – luôn luôn là tư cách cá nhân, không bao giờ có trường hợp cả cộng đồng hay toàn thể các nhà thờ Kitô Do Thái. Một số khác lẩn vào trong khối người theo nghi lễ mới của Giáo Hội Đông Phương - người Syriac, người Assyrian, người Hy Lạp, người Armenian. Nhưng rất nhiều ngươi đã chết, chết vì lưỡi gươm (của quân lính La Mã truy lùng họ như những hạng người sống ngoài vòng pháp luật), chết đói (vì bị tước đoạt mất ruộng đất để sinh nhai và không thích nghi được với cuộc sống ở các nơi đô thị). Một yếu tố khác nữa là sinh suất của họ lại giảm xuống tới số không. Vào khi tiêu sử của ông Jesus (khác hẳn với Phúc Âm) được viết bằng tiếng Trung Hoa và lưu hành ở Trung Hoa vào đầu thế kỷ thứ 7 thì không còn tín đồ Kitô Do Thái tồn tại nữa và “dòng dõi bà con của Chúa” cũng không còn nữa. Khắp mọi nơi, Giáo Hoàng La Mã đều ra lệnh phải tôn trọng và hành sử quyền hành.” Nguyên văn: “They managed to survive until the first decades of the fifth century. Then, one by one, they disappear. A few individuals reconcile themselves with the Roman Church – always as individuals, never communities or whole Jweish Christian churches. Another few pass into anonymity of the new Eastern rites – Syriac, Assyrian, Greek, Armenian. But most of them die – by the sword (Roman garrisons hunted them as outlaws), by starvation (they were deprived of their small farms and could not or would not adapt themselves to life in the big cities) by the attrition of zero birthrate. By the time that the first biography of Jesus (apart from the Gospel) is published in Chinese and in China at the beginning of the seventh century, there are no more surviving Jewish Christians. The desposyni have ceased to exist. Everywhere, the Roman pope command respect and exercises authority.” [9]

3.- Con số nạn nhân bị sát hại vì những cuộc chém giết thanh toán lẫn nhau để giành chiếm ưu thế và ngôi vị giáo chủ trong suốt chiều dài lịch sử từ năm 325 cho đến ngày nay. Không ai biết chắc con số nạn nhân này lên đến bao nhiêu triệu hay bao nhiêu ngàn. Xem danh sách giáo hòang trong cuốn Vicars of Christ , chúng ta thấy có tới 37 ông ngụy giáo hoàng (anti-pope). Như vậy là trong lịch sử Giáo Hội, ít nhất là có tới 37 lần các ngài mang chức thánh trong hàng giáo sĩ cao cấp trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội chia phe lập đảng chém giết và thanh tóan lẫn nhau để tranh giành ngôi vị Mấy bản văn lịch sử dưới đây trích ra từ sách Vicars of Christ cho chúng ta thấy rõ sự kiện này:

"Khi có cuộc họp của một số đông các tu sĩ của Giáo Hội La Mã thì địa điểm nhóm họp phải là nơi gần sông hay hồ lớn để liệng xác người (bị thanh toán) xuống đó. Hồ Constance đã tiếp nhận tới hơn năm trăm xác người (bị thanh toán); Con sông Rhine cũng là nơi tàng chứa rất nhiều bí mật." Nguyên văn :“When the clergy met in large number, it was always wise to choose a town near water – lake or river – for disposing of the bodies. Lake Constance received over five hundred while the Council was in ssession; the Rhine, too, hid many secrets." [10] .

Cũng trong sách Vicars of Christ, nơi trang 11, có đọan văn sau đây:

"Họ băng qua con sông Tiber, con sông mà trong nhiều thế kỷ đã được sử dụng vừa làm cống rãnh tiêu thụ rác rưởi của Kinh Thành Rome vừa làm mồ chôn người không chính thức. Có lẽ, ngoài Trung Hoa ra, Tiber là con sông có nhiều xác người nhất bị nhận chìm trong một ngày. Sáng hôm nay, dòng sông này lờ đờ mang mầu xám giống như màu áo của một giáo sĩ Franciscan." .["They cross the Tiber, which for centuries served the city as both sewer and and unofficial cemetery. Probably Tiber has claimed more lives than any river ouside China; thousands have drowned their in a day. This morning, it is sluggish and brown as the habit of a Franciscan."[11]

"Sự thù nghịch bộc phát thành những cuộc chiến đấu đá nhau thường xẩy ra vào khi có giáo hoàng qua đời. Thi dụ, khi (Giáo Hoàng) Liberius (352-366) chết vào năm 366, giáo triều chia làm hai phe, mỗi phe chọn một người của phe mình lên kế vị. Ursinus là giáo hoàng của một phe và Damasus là giáo hoàng của phe khác. Sau khi đánh nhau ở ngoài đường phố, phe Ursinus yếu thế, chạy vào trong nhà thờ St Mary Major (thường gọi là Thánh Đường Đức Bà Bạch Tuyết) rồi đóng cửa lại tử thủ. Phe Damasus tiến tới, trèo lên nóc nhà thờ đục lỗ, rồi dùng ngói và đá liệng xuống tấn công phe Ursinus. Đồng thời, một toán khác của phe Damasus tấn công vào trong qua cửa chính. Khi lọt được vào trong, hai bên ra sức chém giết lẫn nhau liên tiếp trong ba ngày. Cuối cùng, có tới 137 xác chết khiêng ra ngoài. Tất cả xác chết này đều là người của phe Ursinus. Ursinus bị bắt cho đi sống lưu vong, nhưng tội ác ở trong thánh đường Mary Major là vết nhơ trong thời Giáo Hoàng Damasus mãi mãi vẫn còn ghi trong sách sử." Nguyên văn: “Bitter rivalries often showed themselves on the death of a pope. For example, when Liberius (352-366) died in 366, two factions elected a successor. Ursinus was one pope. Damasus was the other. After a lot of street fighting, Ursinus ‘ followers locked themselves in the recently completed basilica of St Mary Major, known as “Our Lady of Snow”. Damasus’ supporters climed on the roof, made a hole in it and bombarded the occupants with tiles and stones. Others meanwhile were attacking the main door. When this caved in, a bloody fight ensued for three days. At the end of it, 137 bodies were carried out, all of them followers of Ursinus. Ursinus was sent into exile by the emperor’s representative, but the crime in Mary Major was a permanent blot on Damasus’ copybook.”] [12]

4.- Con số nạn nhân bị tàn sát trong hai trăm năm thập tự chiến. Cuộc chiến tôn giáo này là do Giáo Hòang Urban II (1088-1099) phát động vào năm 1095 đem quân lính Gia-tô tiến vào vùng Cận Đông àn sát các dân tộc theo đạo Hồi và Chính Thống Giáo, rồi tiến vào miền Nam nưóc Pháp tàn sát giáo phái Cathari (cũng thờ ông Jesus nhưng không chịu khuất phục Giáo Hội La Mã). Không ai biết rõ con số địch thực là bao nhiệu triệu nạn nhân. Theo sách Công Giáo Chính Sử, con số nạn nhân bị Giáo Hội tàn sát trong các cuộc chiến này lên tới 20 triệu:

"Tín điều về sự đầy đọa vĩnh viễn là tín đồ của những kẻ ác ôn. Hãy nghĩ tới hàng ngàn trẻ con và những người vô tư mà đời sống của họ chất đầy ảm đạm. Những giáo lý này phải trải phủ trái đất với những đống xương vàng của những người dị giáo và học giả. Chúng ta thấy sự đàn áp ngoại đạo của Constantine, Clovis, Justinian, Theodosius và Charlemagne; chúng ta thấy những cuộc thánh chiến trong đó có tới 20 triệu người bị giết; chúng ta thấy sự tàn sát bừa bãi đàn ông, đàn bà, trẻ con ở Jerusalem bởi Godfrey..."[13]

5.- Con số nạn nhân bị các tòa án dị giáo sát hại.- Cho đến ngày nay, chưa ai biết chắc con số nạn nhân bị các Tòa Án Di Giáo của Giáo Hội La Mã tra tấn, gây thương tật và sát hại là bao nhiêu triệu người. Sách Smokesecreens được biên soạn và phát hành vào năm 1983 (năm này Giáo Hoàng John Paul II chưa mở kho mật hàm cho các nhà viết sử đến tham khảo) cho biết là con số nạn nhân trong thời kỳ các Tòa Án Dị Giáo của Tây Ban Nha hoạt động (1232-1820) là 68 triệu:

"Chỉ nội trong thời kỳ thi hành chương trình Inquisition ở Tây Ban Nha, Giáo Hội La Mã đã tra tấn, gây thương tật và sát hại là 68 triệu, và nhiều nạn nhân này cũng là những người Thiên Chúa Giáo tin tưởng vào Thánh Kinh." Nguyên văn: “The Roman Catholic Institution tortured, maimed and murdered 68 million people during the Spanish Inquisition alone, and many these were Bible-believing Christians"[14]

Ngoài con số 68 triệu nạn nhân trên đây, còn bao nhiêu chục hay trăm triệu nạn nhân khác nữa ở ngoài tầm tay của chính quyền Tây Ban Nha, nhưng vẫn nằm trong ách thống trị bạo tàn của Tòa Thánh Vatican mà chúng ta chưa biết được. Nhờ việc kho mật hàm của Giáo Hội (Vatican' secret Archives) mới được mở cho các nhà viết sử đến tham khảo, trong tương lai rất gần, sẽ có những ấn phẩm mới nói về chuyện này. Khi đó nhân dân thế giới sẽ được biết rõ hơn về con số nạn nhân bị Giáo Hội La Mã sát hại và mức độ tàn ác của Tòa Thánh Vatican như thế nào.

6.- Con số nạn nhân bị chế độ đạo phiệt Gia-tô Bloody Mary sát hại tại Anh quốc trong những năm 1553-1558.- Chúng ta biết rằng ngày nay đại khối dân tộc Anh theo Anh giáo hoàn toàn biệt lập với Giáo Hội La Mã. Đây là một sự thực của lịch sử. Tuy nhiên, trước khi đi đến tình trạng như ngày nay, nhân dân Anh cũng phải trải qua một thời kỳ khốn đốn với nhà cầm quyền cuồng tín muốn Gia Tô hóa toàn dân Anh bằng bạo lực. Dưới đây là những bản văn lịch sử nói về nữ bạo chúa Bloody Mary cùng với phe cánh tín đồ cuồng tín của Vatican sử dụng bạo lực cưỡng bách nhân dân Anh phải theo đạo Gia Tô. Sử gia Thomas P. Neil viết:

"Mary đã được khuyến cáo là nên đối xử tử tế với những người đã bỏ đạo Gia Tô, nhưng vây cánh bên cạnh bà vô cùng quá khích, cương quyết chống lại những người tà giáo. Trong thời gian 5 năm tại vì của bà, có tới khoảng ba trăm người bị hành hình vì tín ngưỡng của họ khác với đạo Gia Tô…Thực ra, Nữ Hòang Mary không tệ hơn các nhà cầm quyền đồng thời với bà, nhưng vì chính sách bách hại những người khác tôn giáo của bà gây nên cuộc phản kháng chống lại bà và chống lại đạo Ki-tô La Mã. Các nhà viết sử đặt cho bà biệt danh là "Bloody Mary" (Mụ Mary khát máu)" Nguyên văn: "Mary was advised to be lenient with those had left the faith. The queen was not personally inclined to be severe, but many of her subordinates went to extrems against "heretics." About three hundred were executed for their anti-Catholic beliefs during her reign..... Mary was no worse than other rulers of the time, but the persecution caused a reaction against the queen and Catholicism, and historians soon dubbed her "Bloody Mary." [15]

7.- Con số nạn nhân người Pháp bị sát hại trong các cuộc quân thập tự Pháp tấn công những tín đồ Tin Lành trong các thế kỷ 16 cho đến ngày 26 tháng 7 năm 1830 (ngày chế độ đạo phiệt Gia-tô Charles X bị nhân dân Pháp vùng lên đap đổ). Không ai biết rõ con số nạn nhân trong thời kỳ này là bao nhiêu triệu. Chỉ nội trong đêm 22/8/1572, đã có hơn tám ngàn người bị sát hại. Chuyện dã man này được sách Smokescreens này ghi lại như sau:

“Ngày 22-8-1572 ( Nhiều sách khác ghi là ngày 24/8./1572 chứ không phải là ngày 22/8/1572.) bắt đầu xẩy ra một cuộc tàn sát đẫm máu ở nhà thờ St. Bartholomew. Đây là một trong những vụ tàn sát ghê gớm để tiêu diệt phong trào Tin Lành ở Pháp. Pháp Hoàng đã khôn khéo sắp đặt cuộc hôn nhân giữa người em gái của nhà vua với Đô Đốc Coligny, một nhân vật lãnh đạo của Tin Lành. Một bữa tiệc lớn được tổ chức ăn mừng lễ cưới. Sau bốn ngày, quân lính của tân lang Coligny được cho ăn uống no say, một hiệu lệnh được ban hành. 12 giờ đêm hôm đó, tất cả nhà cửa của những người Tin Lành ở trong thành phố đều bị bắt buộc phải mở cửa. Đô Đốc Coligny bị giết. Thi hài của ông bị liệng qua cửa sổ ra ngoài đường. Thủ cấp của ông bị cắt đem gửi cho giáo hoàng. Hai cánh tay và bộ phận sinh dục của ông cũng bị cắt. Rồi chúng lôi kéo phần còn lại của xác chết đi khắp các đường phố cả ba ngày trời. Sau đó, chúng treo ngược cái xác chết không đầu, không tay, không bộ phận sinh dục ở một nơi ngoại ô thành phố. Đồng thời, chúng còn tàn sát nhiều người Tin Lành khác nữa. Trong 3 ngày, hơn mười ngàn dân Tin Lành (ở Paris) bị giết hại. Những xác chết này bị liệng xuống sông và máu nạn nhân lênh láng chẩy thành dòng ra tới tận cửa sông giống như một dòng máu. Trong cơn hung hãn này, chúng có thể giết cả những người đồng đạo của chúng nếu nạn nhân bị nghi ngờ là không mạnh tin vào Giáo Hoàng. Từ Paris, bịnh dịch tàn sát vì lòng cuồng tín như vậy lan tràn ra khắp nơi trong nước Pháp. Tính ra có tới hơn tám ngàn nạn nhân bị sát hại. Rất ít người Tin Lành thoát khỏi tai họa trong cơn hung hãn của chúng." Nguyên văn: "On August 22, 1572, the bloody St. Bartholomew massacre began. This was to be one fatal blow to destroy the Prostestant movement in France. The King of France had cleverly arranged a marriage between his sister and Admiral Coligny, the chief Protestant leader. There was a great feast with much celebrating. After four days of feasting the soldiers were given a signal. At twelve o'clock midnight, all the houses of the Protestants in the city were forced open at once. The admiral was killed, his body thrown out of a window into the street where his head was cut off and sent to the pope. They also cut off his arms and privates and dragged him through the streets for three days until they finally hung his body by the heels outside the city. They also slaughtered many other well kown Protestants. In the first three days, over ten thousands were killed. The bodies were thrown into the river and blood ran through the streets into the river until it appeared like a stream of blood. So furious was their hellish rage that they even slew their own followers if they suspected that they were not very strong in their belief in the pope. From Paris, the destruction spread to all parts of the country. Over eight thousand more people were killed. Very few Pretestants escaped the fury of their persecutors.")[16]

8.- Con số người Phi Châu bị tàn sát và bị bắt đem sang Mỹ Châu bán làm nô lê.- Cho đến ngày nay, không ai biết rõ có bao nhiêu triệu dân Phi Châu bị tàn sát và bị bắt cóc đem sang Mỹ Châu bán làm nô cho người Da Trắng ở Mỹ Châu. Các học giả mới tìm ra con số nạn nhân bị bắt đem đi bán cho người ta làm nô lệ ước chừng là 60 triệu. Sự kiện này được sách Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm ghi lại như sau:

"Sau khi chiếm được Mexico, thực dân Tây Ban Nha và tu sĩ nhà thờ lập nên các đồn điền và các khu khai thác mỏ và biến thổ dân thành nô lệ. Từ thê kỷ 16 đến thế kỷ 19, thực dân đến Phi Châu bắt cóc người da đen đem đến Mỹ Châu khỏang 60 triệu người để tăng cường nhân lực nô lệ cho các đồn điền và hầm mỏỏ. Ngay từ những năm đầu của cuộc xâm lược vào Mexico, riêng một mình Herman Cortez đã chiếm 250 héc ta đồn điền và làm chủ 200.000 (200 ngàn) nô lệ da đỏ!" [17]

9.- Con số người da đỏ bị tàn sát và bị bắt làm nô lệ.- Thực ra, cho đến nay, người viết chưa tìm thấy con số đích thực là có bao nhiêu triệu người da đỏ bị sát hại và bị cưỡng bách làm nộ lệ, Trong bài viết Tản Mạn Về Ngày Lễ Tạ Ơn đăng trên www.giaodiem.com tháng 11 năm 2001, Giáo-sư Trần Chung Ngọc cho biết con số người Da Đỏ ở Bắc Mỹ trong vòng 270 năm tính từ năm 1620, giảm từ 15 triệu xuống còn có 250 ngàn người (bị giảm đi mất 14 triệu 750 ngàn người). Dưới đây là đọan văn trong bài viết trên đây nói về thảm trạng này:

"Tại sao ở Mỹ lại có ngày lễ tạ ơn Thiên Chúa? Đó là vì cách đây vài trăm năm, những người Anh đầu tiên đến vùng Plymouth, tiểu bang Massachusetts, đã thoát được nạn đói mùa đông 1620-21, tin rằng Thiên Chúa đã giúp họ cho nên họ đã đọc kinh cầu nguyện để tạ ơn Thiên Chúa. Thực ra thì chính dân da đỏ đã cung cấp thức ăn cho họ trong mùa Đông đó. Và sau khi lấy lại sinh lực, dựa trên ưu thế của súng ống trên cung tên, họ đã trả ơn người da đỏ bằng cách đi cướp hết đất đai của người da đỏ và thi hành chính sách diệt chủng đối với người da đỏ và cưỡng bách người da đỏ phải theo cái đạo cao quý cầm đầu bởi Chúa lòng lành vô cùng của họ. Từ đó cho đến năm 1890, trong vòng 270 năm, những con cái của Chúa đã giảm dân số dân da đỏ từ 15 triệu xuống còn dưới 250000, và biến miền đất phì nhiêu của dân da đỏ thành "Tân Thế Giới" của người da trắng, do người da trắng (Christophe Columbus) tìm ra. Nhiều người da đỏ ngày nay nuốt nước mắt, không biết làm gì hơn là uống rượu để giải sầu." [18]

10. Con số nạn nhân bị chế độ đạo phiệt Gia-tô Ante Pavelich sát hại.- Trong những 1941- 1945, chế độ đạo phiệt Gia-tô này đã sát hại khỏang từ 700 ngàn đến 800 ngàn người trong những chiến dịch "làm sáng danh Chúa". Hầu hết nạn nhân là tín đồ Do Thái Giáo và Chính Thống Giáo. Sự kiện này được sử gia Avro Manhattan ghi lại trong cuốn The Vatican Holocaust như sau:

"Trong thời kỳ Croatia là quốc gia độc lập và lấy đạo Gia Tô làm quốc giáo, có trên 700 ngàn đàn ông, đàn bà và trẻ em bị giết hại. Nhiều người bị hành hình, bị tra tấn, bị bỏ cho chết đói, bị thiêu sống cho đến chết. Hàng trăm người bị cưỡng bách phải theo đạo Gia Tô (Thiên Chúa La Mã). Các ông linh-mục của Giáo Hội La Mã làm quản giáo tại các trại tù tập trung; nhiều tu sĩ khác của Giáo Hội là sĩ quan trong các đơn vị quân đội đã phạm tội ác tàn bạo. 700 ngàn trong tổng số dân có mấy triệu người tức là khoảng 1/3 dân số bị các đoàn lính dân quân Gia Tô giết hại" Nguyên văn: “During the existence of Croatia as an independent Catholic State, over 700,000 men, women and children perished. Many were executed, tortured, died of starvation, or burned to death. Hundreds were forced to become Catholic. Catholic padres ran concentration camps; Catholic priests were officers of the military corps which committed such atrocities. 700,000 in a total population of a few million, proportionally, would be as if one-third of the USA population had been exterminated by a Catholic militia.” Avro Manhattan, The Vatican’s Holocaust (Springfield, MO: Ozark Book, 1986) p. VII. [19]

Trong tác phẩm Vietnam, Why Did We Go?, tác giả viết:

"Ante Pavelich, người lãnh đạo mà cũng là người chủ mưu và tạo nên quốc gia Croatia độc lập theo đạo Gia Tô. Ông ta đã dùng chính sách khủng bố cũng như tinh thần cực đoan về chính trị và lòng cuồng đạo với tất cả những tàn bạo hơn cả hai nhà độc tài bảo trợ cho ông ta là Benito Mussolini và Adolf Hitler. Trước khi nước Nam Tư bị phân hóa, ông ta là người chủ mưu trong vụ ám sát vua Alexander (của nước Nam Tư) và các vụ giết hại các nhà chính trị khác. Nhờ vậy mà ông ta đã tạo nên được quốc gia Ustashi Croatia độc lập siêu Gia Tô giáo và thiết lập một chế độ độc tài siêu hơn cả chế độ độc tài Đức Quốc Xã. Ông ta được Giáo Hoàng Pius XII che chở và giúp đỡ bằng các phương tiện ngoại giao và tài chánh nhằm để đạt được cứu cánh của Giáo Hội La Mã. Khi quốc gia Ustashi Croatia sụp đổ (vào đầu năm 1945), Pavelich chạy vào ẩn trốn ở trong Tòa Thánh Vatican, rồi giả dạng như là một tu sĩ. Sau đó, ông ta trốn sang nước Á Căn Đình" Nguyên văn “Ante Pavelich, the inspirer, creator and leader of the independent Catholic state of Croatia. He employed terrorism, political extremism and religious fanaticism with such ruthlessness as to outsmart even his two main fascist protectors, Beneto Mussolini and Adolf Hitler. He was the brain behind the assassination of King Alexander and other political murders which preceded the disintegration of Yugoslavia and thus the erection of his super-nazi, super-Catholic independent Ustashi Croatia. He enjoyed the protection of Pope Pius XII, who helped him via diplomatic and monetary means to achieve his ultimate objective. When Ustashi Croatia collapsed, Pavelich hid in the Vatican, then, disguised as a monk, fled to Argentina.") [20]

11.- Con số nạn nhân bị chế độ đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm sát hại trong những năm 1954-1963.- Cho tới nay, cũng chưa có sử gia nào công bố con số nạn nhân đích thực bị cả chính quyền đạo phiệt Gia-tô Ngô Đình Diệm sát hại trong những năm 1954-1963 và con số những người dân lương bị các ông lãnh chúa địa phương là tu sĩ và tín đồ Gia-tô cũng như những tín đồ Gia-tô nắm giữ những chức vụ chỉ huy trong quân đội ở miền Nam trong những năm 1954-1975 khi đi hành quân đã "phóng tay" tàn sát dân lành chỉ vì họ không phải là tín đồ Gia-tô. Người viết căn cứ vào ba nguồn tài liệu khả tín khác nhau xin ghi lại nguyên văn dưới đây:

Trước khi nói đến con số nạn nhân bị bạo quyền Ngô Đình Diệm giết hại và cầm tù, thiết tưởng chúng ta nên nhớ lại lời ông Ngô Đình Nhu, em ruột của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cũng là người nắm quyền chủ chốt thi hành kế hoạch Inquisition tại Việt Nam thời bấy giờ, đã từng tuyên bố:

"Tôi có cả một chương trình, đã bàn tính kỹ với Đức Tổng Giám Mục (Thục) là sẽ lần hồi tiến tới chỗ mà Hội Truyền Giáo hoạt động một thế kỷ mới đạt tới. Còn chúng ta chỉ cầm quyền mười năm thôi là cả Miền Nam này sẽ theo Công Giáo hết" [21] .

Lời tuyên bố trên đây cho chúng ta thấy rõ cái mực độ tàn ác trong chính sách Gia Tô hóa của bạo quyền Ngô Đình Diệm. Tàn ác như thế nào? Xin mời quý vị theo dõi mấy bản văn lịch sử dưới đây do các nhà viết sử ghi lại thì sẽ rõ.

a.- Trước hết, chúng ta hãy theo dõi bản văn do Linh-mục Trần Tam Tỉnh viết:

"Mùa hè 1955, Ngô Đình Diệm tung ra chiến dịch Tố Cộng và qua luật 10-1959, ông đã lập các Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt như một bộ máy đàn áp. Luật này, kết án tử hình và phải thi hành trong vòng ba ngày, khỏi có quyền bào chữa, tất cả những người Cộng Sản, những người có quan hệ với Cộng Sản (những chiến sĩ yêu nước chống Pháp, cả cha mẹ và bạn bè của họ), tất cả những bị cáo được xem là phạm đến an ninh quốc gia. Các cuộc càn quét đã dẫn về hàng ngàn "tên đỏ", từ nay gọi là Việt Cộng và nhiều người trong đó đã bị giết...Trong lãnh vực này, tài liệu bí mật của Lầu Năm Góc (Bộ Quốc Phòng Mỹ - NMQ) cũng giống như những gì do chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phổ biến hồi đó: "Suốt thời gian của cái gọi là Chiến Dịch Tố Cộng được tung ra vào mùa hè năm 1955, từ 50 ngàn đến 100 ngàn người đã bị nhốt vào ngục. Nhưng như bản báo cáo có nói, phần lớn những kẻ bắt giam đây không phải là đảng viên Cộng Sản". Đó là lời của F. Butterfield viết trong bản phân tích Tài Liệu Lầu Năm Góc. Tác giả còn thêm: "Chương Trình Công Dân Vụ đã thất bại, bởi vì Tổng Thống Diệm hầu như chỉ phát toàn những nguời di cư miên Bắc hay là Công Giáo đến các làng đó. Nông dân cho rằng những thứ người ó không phải là người của họ (Pentagon Papers, tr 82)" [22]

b- Nhà viết sử Avro Manhattan viết trong sách "Vietnam why did we go?" như sau:

"Từ năm 1955 đến năm 1960 có ít nhất là 24 ngàn người bị thương, 80 ngàn người bị hành hình hay bị giết hại, 275 ngàn người bị bắt điều tra và giam giữ, và 500 ngàn người bị đưa đi các trại giam giữ tập trung" [23] .

c.- Sách Đảng Cần Lao viết:

"Ngồi tại Dinh Độc Lập, Ngô Đình Diệm có ngờ đâu em mình đã nhân danh Đảng Cần Lao Nhân Vị mà nhúng tay vào máu một cách khủng khiếp đến thế. Số người mà tại Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn và Khánh Hòa… đã bị cán bộ Cần Lao giết vì bị vu cho là Cộng Sản, phá hoại chế độ… đã được kiểm kê vào các năm 1964 và 1965 là 300,000 (300 ngàn) người!" [24]

Căn cứ vào những tài liệu trên đây và căn cứ vào những thành tích giết người của Giáo Hội, căn cứ vào thành tích tàn sát những người thuộc các tôn giáo khác của tín đồ Gia-tô người Việt vào thời trước năm 1954 và căn cứ và thành tích giết người của Giáo Hội La Mã ở Rwanda (Phi Châu) vào năm 1994 gần đây (sẽ được trình bày đầy đủ ở mục kế tiếp), chúng ta có thể kết luận rằng con số nạn nhân ở miền Nam Việt Nam bị sát hại bởi chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa (và sau đó bởi những tín đồ Gia-tô cuồng tín có quyền lực ở trong tay) chắc là lên đến hơn 300 ngàn người.

12.- Con số nạn nhân bi Giáo Hội La Mã sát hại ở Rwanda (Phi Châu) vào năm 1994.- Chỉ trong vòng 100 ngày trong năm 1994, chính quyền đạo phiệt Gia-tô của Giám-mục Augustin Misago tại Rwanda đã sát hại tới hơn 800,000 (8000 ngàn) những người thuộc các tôn giáo khác. Dưới đây là một số tài liệu nói về thảm trạng này.Trước hết bản tin phổ biến vào ngày 5/ 11/ 2000 trên mạng http:/www.vietnamdaily.com loan truyền như sau:

up to 800,000 Tutsis were killed by Hutu militia using clubs and machetes, with as many as 10,000 killed each day

"Tin Quốc Tế.- Giám Mục Thiên Chúa Giáo Có Thể Bị Tử Hình Tại Rwanada: Kigali, Rwanda (TH).- Một công tố viên nói hôm Thứ Tư là ông đã yêu cầu lên án tử hình một giám mục Thiên Chúa Giáo La Mã về tội diệt chủng trong năm 1994 liên hệ tới các vụ tàn sát ít nhất nửa triệu người, gồm cả nhiều người bị chém tại các nhà thờ nơi họ chạy vào lánh nạn.

Giám Mục Augustin Misago, 56 tuổi, là chức sắc đầu tiên của Giáo Hội bị truy tố về tội diệt chủng liên hệ tới các cuộc tàn sát sắc dân thiểu số Tutsis trong 90 ngày. Giám Mục kêu vô tội về tội cáo buộc diệt chủng và các tội chống nhân loại.

Trong vụ xử gây căng thẳng quan hệ giữa Rwanda và Tòa Thánh Vatican, Giám-mục Misago bị cáo buộc đã đẩy ba linh mục và trên 10 học sinh tới chỗ chết vì không cho họ tá túc trong giáo xứ của giám mục.

Kết từ phần buộc tội hôm Thứ Ba, công tố viên Edward Kayihura cũng yêu cầu Giám-mục Misago và chính phủ bồi thường 93,750 Mỹ kim cho các gia đình nạn nhân.

Các cuộc tàn sát bắt đầu hồi tháng 4/1994, khi ấy Giám-mục Misago là chức sắc cao cấp nhất của Giáo Hội ở giáo xứ Gikongoro nơi hàng chục ngàn người bị giết. Giám mục Misago là chức sắc cao cấp nhất của Giáo Hội Thiên Chúa Giáo trong số trên 20 linh mục và nữ tu bị truy tố về tội diệt chủng. Hai linh mục đã bị kết án tử hình.

Các cuộc tàn sát chấm dứt với chiến thắng của Mặt Trận Ái Quốc Rwanda do sắc dân Tutsi lãnh đạo lật đổ chính phủ của sắc dân Hutu.

Trên 125,000 can phạm diệt chủng bị tù tại Rwanda. Trên 1500 người đã được đưa ra tòa xét xử và 300 người bị án tử hình." [25]

Rwanda là một quốc gia tí hon. Diện tích vỏn vẹn chỉ có 26,338 cây số vuông, và dân số là 8,196,000 (vào năm 1995) trong đó 65% theo đạo Kitô La Mã. Vốn là hai vùng đất Rwanda và Burundi cùng bị Đức chiếm làm thuộc địa từ thập niên 1890. Đức là quốc gia bại trận trong trận Đệ Nhất Thế Chiến. Năm 1919, Hội Quốc Liên cho hợp nhất hai vùng đất này thành xứ Rwanda và giao cho nước Bỉ (theo đạo Kitô La Mã) quản trị. Vì thế mà tín đồ Kitô La Mã lên tới 65%.

Về con số nạn nhân Tutsis bị chính quyền đạo phiệt Da-tô tàn sát trên đây, ký giả Joe Lauria của tờ The Boston Globe ghi nhận là 800 ngàn người. Bài báo của ký giả này với tựa đề là "U.N.'s inaction blamed for Rwanda killings" U.S. Belgium also criticized in report on 1994 genocide in African country" được tờ The News Tribune (Tacoma) số ra ngày Thứ Sáu 17/12/1999 đăng lại như sau::

"New York: Vì Liên Hiệp Quốc đã không quan tâm đến những lời cảnh cáo nhắc đi nhắc lại về nạn tàn sát người tập thể diến ra ở Rwanda vào năm 1994, khiến cho 800 ngàn người Tutsisi và Hutus ôn hòa bi sát hại trong vòng chưa đầy 100 ngày. Đây là bản báo cáo của một ủy ban độc lập vào ngày Thứ Năm (vừa qua).

Bản báo cáo nói rằng, cộng đồng thế giới đã không ngăn chặn thảm trạng diệt chủng này và cũng không ngăn chặn cái nạn này ngay từ khi nó bắt đầu xẩy ra. Sự việc này bắt nguồn từ "sự thiếu tài nguyên và thiếu ý chí chính trị" cả trước và sau khi thiểu số người Hutus tiến hành việc tàn sát người Tutsus khởi đầu từ ngày 6 tháng 4 năm 1994.

Các chuyên viên điều tra nói rằng, ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan, người cầm đầu lực lượng duy trì hòa bình, Hoa Kỳ và Bỉ, tất cả đều phải chịu trách nhiệm về việc không chặn đứng thảm trạng giết người diệt chủng này. Bản báo cáo cho rằng Hoa Kỳ đã đặt vấn để tốn phí cho lực lượng duy trì hòa binh lên trên việc cứu sồng sinh mạng con người và tố cáo Bỉ đã triệt thoái quân đội quá mau, bỏ rơi hai ngàn người ở trường kỹ thuật và để mặc cho nhiều người bị sát hại.

Bản báo cáo ghi nhận lần thứ hai trong vòng hai tháng rằng Liên Hiệp Quốc nhìn nhận đã thất bại, không thể chặn đứng được thảm trạng tàn sát tập thể này mà đáng lý ra có thể ngăn chặn được. Trong một bản báo cáo nội bộ vào tháng 10, Liên Hiệp Quốc đã nhận trách nhiệm về thảm trạng tàn sát hầng ngàn tín đồ Hồi giáo người Bosnia trong năm 1995 ở Srebrebia, thuộc xứ Bosnia.

Trong lời tuyên bố hôm Thứ Năm (vừa qua), ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Annan nói rằng, "cả hai bản báo cáo - một của riêng tôi và một của ủy ban độc lập điều tra ở Rwanda - phản ảnh sâu xa sự quyết tâm trình bầy sự thật về những thảm trạng này." Ông đã yêu cầu cho điều tra vụ thảm sát ở Rwanda vào tháng 3. Ban điều tra bắt đầu làm việc vào tháng 6. Ủy ban này do Thủ Tướng Ingvar Carlson của nước Thụy Điển làm trưởng ban. Bản báo cáo dày 58 trang nói rằng lệnh của Hội Đồng An Ninh Liên Hiệp Quốc ban hành cho lực lượng duy trì hòa bình ở Rwanda không đầy đủ và những điều ghi trong đó không được rõ ràng. Bản báo cáo cũng nói rằng các viên chức Liên Hiệp Quốc kể cả ông Tổng Thư Ký Annan đã không hành động gì sau khi nhận được bằng chứng rõ ràng về vụ diệt chủng có kế họach rất là chu đáo, và ông cựu trưởng đòan Liên Hiệp Quốc Boutros Boutros -Ghahi đã không thông báo cho Hội Đồng An Ninh biết về tín tức này.

Trong lời tuyên bố vào hôm Thứ Năm, ông Tổng Thư Ký Annan thú nhận rằng Liên Hiệp Quốc đã khoanh tay đứng nhìn trong khi thảm trạng diệt chủng dưới một hình thức thuần túy là tội ác ghê gớm nhất xẩy ra." Tất cả chúng tôi đềi cảm thấy hối hận sâu xa vì rằng chúng tôi đã không làm gì hơn để ngăn chặn tội ác này. Khi xẩy ra tội ác này có Quân Đội Liên Hiệp Quốc ở đó. Nhưng đạo quân này lại không nhận được lệnh và cũng không được trang bị những thứ cần thiết để thì hành nhiệm vụ ngăn chặn những hành động tội ác diệt chủng này. Nhân danh Liên Hiệp Quốc, tôi nhìn nhận sự thất bại này và xin bày tổ lòng hối tiếc và ân hận sâu xa của tôi về thảm trạng này."

(Đây là nguyên văn bản tin bằng Anh ngữ: "New York.- The United Nations ignored repeated warnings of an impending massacre in Rwanda in 1994, paving the way for an orgy of ethnic killing that left 8000,000 Tutsis and moderate Hutus dead in less than 100 days, in an independent panel reported Thursday.

"The international community did not prevent the genocide, nor did it stop the killing once the genocide had begun," the report said. This stemmed from a "lack of resources and political will" before and after the massacre of Tutsis by the minority Hutus began Aptil 6, 1994.

U.N. Secretary Geneal Kofi Annan, then head of U.N. peacekeeping forces, the United States and Belgium all bear some responsibility for failing to stop the genocide, the investigators said. The report suggested the United States put controlling the cost of peacekeeping operations above saving lives and accused Belgium of pulling its peacekeeping troops out too quickly - at one point abandoning 2,000 people in a technical school and leaving many of them to be murdered.

The findings marked the second time in two months the U.N. has acknowledged failing to stop mass killings that could have been prevented. In an internal report in October, the U.N. accepted blame for the massacre of thousands of Bosnian Moslem men in 1995 in Srebrenia, Bosnia.

"Both reports - my own on Srebrenica and that of the independent inquiry on Rwanda - reflect a profound determination to present the truth about these calamities," Annan said Thursday in a statement. Annan requested the inquiry into the Rwanda massacre in March. The panel, which began work in June, was headed by former Swedish Prime Minister Ingvar Carlson. The 58 page report said the mandate the Security Council gave the U.N. peackeeping force in Rwanda was inadequate and its rules of engagement unclear. It said U.N. officials, including Annan, failed to act after receiving direct evidence of a carefully planned genocide, and former U.N. chief Boutros Boutros-Ghahi did not inform the Security Coincil of the information.

In a statement Thursday, Annan admitted the U.N. stood by during a genocide of the "purest and most evil form."

"All of us must bitterly regret that we did not do more to prevent it. There was a United Nations force in the country at the time, but it was neither mandated nor equipped for the kind of forceful action which would have been needed to prevent or halt the genocide. On behalf of the "U.N.', I acknowledge this failure and express my deep remorse." [26]

Nhìn vào kỹ thuật lừa bịp và mê hoặc tín đồ và người đời, nhìn vào kỹ thuật bóc lột tín đồ và nhân dân dưới quyền, nhìn vào khối tài sản khổng lồ của Giáo Hội La Mã (sẽ được trình bầy đầy đủ ở phần dưới), nhìn vào con số nạn nhân bị Giáo Hội sát hại trên đây trải dài từ năm 235 cho đến 1994 ở khắp mọi nơi có bàn tay Giáo Hội vươn tới, chúng ta có thể khẳng định rằng Giáo Hội La Mã quả thật là một tổ chức chiếm kỷ lục trong lịch sử nhân lọai về thành tích lừa bịp, ăn cướp và giết người, vượt cả không gian và thời gian:

© sachhiem.net

Ghi chú:

[1] Charlie Nguyễn.http:/www.giaodiem.com Ngày 23/4/2001 "Góp Ý Với Quý Vị Trí Thức Ngòai Công Giáo."  Ngày 2 tháng 7 nam 2004.

[2] Hellen Ellerbe,  The Dark Side Of  Christian History (Windermere, FL: Morningstar & Lark, 2004)  p. 46.

[3] Trần Chung Ngọc, Công Giáo Chính Sử (Garden, California: Giao Điểm , 1999) trang 72-73.

[4] Charlie  Nguyễn, Công Giáo Trên B? V?c Tham (Garden Grove, CA: Giáo Điểm, 2001), trang 166-169.

[5] Phạm Quốc Sử. "Văn Hóa Đông Nam Á Trong Sự Đồng Hóa Của Phuong Tây".Giao Điểm số 51 Spring 2004:97-98

[6] Nhiều tác giả, Đối Thoại Với Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ II (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 1995), tr 339-340.

[7] Lê Trọng Van,  Lột Mặt Nạ Những Con Thò Lò Chính Trị (San Diego, CA: Mẹ Việt Nam, 1991), trang 51.

[8] Lloyd Graham,  Deceptions and Myths of the Bible (Secaucus, N.J: Carol Publishing Group, 1999), p. 463.

[9] Malachi Martin. The Decline And Fall Of The Roman Church (New York: G.P. Putnam's Sons,1981), page 44.

[10] Peter de Rosa,.Vicars of Christ  (New York: Crown Publishers, Inc., 1988), p. 94.

[11] Peter de Rosa, Ibid., p 11.

[12] Peter de Rosa,. , trang 38.

[13] Trần Chung Ngọc, Công Giáo Chính Sử (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2000), trang 203.

[14] Jack.T.Chick., Smokescreens (Chino, CA: Jack T. Chick, 1993) trang 35.

[15] Thomas P. Neil, Story Of Mankind (New York: Holt, Rinehart and Winston Inc., 1968), page 366.

[16] J.T.C., Smokescreens (Chini, CA: Jack T. Chick, 1983), trang 14-17.

[17] Charlie Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001), trang 169.

[18] Trần Chung Ngọc. "Tản Mạn Về Ngày Lễ Tạ Ơn." 21/4/2001. http://www.giaodiem.com. Ngày 19/9/2002.

[19] Avro Manhattan, The Vatican's Holocaust (Springfield, MO: Ozark Book, 1988), page vii.

[20] Avro Manhattan, Vietnam: why did we go?(Chino, CA: Chick Publication,  1984), page 125.

[21] Hoàng Trọng Miên, Ðệ Nhất Phu Nhân - Tâp I (Los Alamito s, CA: Xuân Thu, 1989), trang 428.

[22] Trần Tam Tỉnh, Thập Giá Và Lưỡi Gươm (Paris: Sudestasie: 1978), trang 130-131.

[23] Avro Manhattan, Vietnam, whu did we go? (Chick Pubication:,1984), trang 117.

[24] Chu  Bằng Lĩnh, Đảng Cần Lao (San Diego, CA: Mẹ Việt Nam,  1993), trang 133.

[25] Tin Tức "Giám Mục Thiên Chúa Giáo Có Thể Bị Tử Hình Tại  Rwanda." http://www.vietdaily.com. Ngày 5/11/2000.

[26] Joe Lauria (The Boston Globe) "U.N.'s inaction blamed for Rwanda killings"  The News Tribune [Tacoma] December 17, 1999.