Trong ca khúc
“Mùa xuân đầu tiên” viết năm 1976, năm của mùa xuân hòa bình đầu tiên
trên đất nước liền một dải, nhạc sĩ Văn Cao tấu lên khúc hoan ca rộn rã:
“Ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui
đầu tiên. Ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm. Từ đây
người biết quê người”. Hẳn rằng khi
viết những lời ca mà giai điệu lắng dịu mỗi lúc một dâng bổng và vút lên
thiết tha nhất với câu: “Từ đây người biết quê người”, Văn Cao đã nhớ
nghĩ nhiều đến Trịnh Công Sơn từ trong thẳm sâu tiềm thức, từ trong mối đồng
cảm sâu sắc. Bởi chính dòng nhạc phản chiến, dòng nhạc Da Vàng của Trịnh
Công Sơn ra đời trong thời kỳ đất nước còn chìm trong lửa khói chiến tranh
đã cất lên trào sôi khát vọng “Đi tìm quê hương”, nhận diện lại quê
hương Tiên Rồng oai linh thuở chưa từng bị đạn bom tàn phá dữ dội, nói theo
ngôn ngữ của Văn Cao là “biết quê người”, như tìm lại được bản lai
diện mục của chính mình.
Chính Văn Cao từng cho biết là đã “gặp” Trịnh Công Sơn, chính xác là đã nghe
nhạc
Trịnh đầy ám ảnh và ấn tượng trong những năm chiến tranh: “Mãi hơn
một năm sau ngày 30 tháng 4, chúng tôi mới thật sự mặt nhìn mặt tay cầm tay
lần đầu, nhưng tôi có cảm giác như chúng tôi đã là bạn của nhau tự bao giờ,
mặc dù giữa tôi và Sơn còn cả một thế hệ đệm. Nói cách nào đó, tôi đã gặp
Sơn từ những ngày đất nước còn chia hai miền và còn chìm trong khói lửa. Tôi
muốn nhắc đến ở đây một kỷ niệm không thể quên ở nhà một người bạn trẻ. Đêm
ấy lần đầu tiên tôi nghe (cũng có nghĩa là gặp) Trịnh Công Sơn… Những bạn
trẻ hát cho tôi nghe gần suốt đêm hàng loạt ca khúc Trịnh Công Sơn (không
biết họ học ở đâu?) hát say sưa đến nỗi đứt cả dây của cây đàn ghi-ta duy
nhất có trong nhà… Một lần là đủ, từ cái đêm chiến tranh ấy, tôi biết mình
đã gặp một tâm-hồn-chị-em sẻ chia “Một cõi đi về”” (1).
Sức mạnh của nhạc Trịnh khiến cho bàn tay say sưa làm đứt cả dây đàn. Đặc
biệt, sức mạnh đó còn làm chùng cả tay súng. Sức mạnh đó bắt nguồn từ cảm
thức quê hương luôn đốt nóng từng giai điệu Da Vàng của “kẻ du ca bất
khuất của Việt Nam” như cách gọi của Patrick Sabatier, một người Pháp
dành cho Trịnh Công Sơn.
Vậy trong nhạc Trịnh, quê hương của người Việt là gì và vì sao phải “đi
tìm quê hương”? Quê hương của người Việt trong nhạc Trịnh là “quê
hương thần thoại”: “Sau
chinh chiến ôi quê hương thần thoại, thuở hồng hoang đã thấy đã xanh ngời
liêu trai”
(Xin
mặt trời ngủ yên). Quê hương của người Việt trong nhạc Trịnh là quê
hương linh thiêng: “Thuở
đó yên vui, mẹ Việt Nam ngồi, ngày đêm tiếng cười, rộn ràng khắp nơi, một
nước linh thiêng, một màu da vàng, người dân no lành, hội hè suốt năm”
(Nhưng
hôm nay). Nòi giống khai phá, tạo dựng nên “quê hương thần thoại”
ấy chính là nòi giống Tiên Rồng:
“Nhớ
về nghìn trùng, nòi giống của chim... Nhớ rừng mịt mùng, nòi giống của Tiên”
(Ngụ
ngôn của mùa Đông). Trịnh Công Sơn đã xưng tụng quê hương, cụ thể là
xưng tụng truyền thống Việt Nam, tinh hoa Việt Nam, linh khí Việt Nam bằng
tất cả niềm tự hào và kiêu hãnh đặc biệt của người Việt, bằng những ngôn từ
cũng hết sức đặc biệt mà người ta thường chỉ dùng trong “thế
giới thần thoại”. Vậy mà quê hương ấy lại bị chiến tranh kéo dài tàn phá dữ
dội. Diễn tả bi thiết nỗi thống khổ mất nước, mất tự do của người Việt,
Trịnh Công Sơn đã sử dụng nhiều lần các cụm từ
“lưu vong”,
“ao tù”, “ngục tù”, “tù đày”: “Nghe
đất gọi thầm, trọn nợ lưu vong”
(Ca dao mẹ),
“Từng
ngày chết cho ai, từng ngày chết cho ai, từng ngày hét la to, từng ngày sống
âm u, một đời sống ao tù, từng ngày trong bóng tối”
(Buồn từng
phút giây),
“Xin
cho tôi quên phận tù đày”
(Xin cho tôi),
“Một
ngục tù nuôi da vàng... Một ngục tù trên quê hương”
(Ngày dài
trên quê hương). Không còn gì đau đớn, tủi nhục cho bằng, khi
“quê hương thần thoại”
đã mất, thay vào đó “quê hương là cuộn gai, quê hương là giày xéo, quê
hương là tù đày, những phố nhà tả tơi”, những chủ nhân của quê hương này
bị biến thành người mất tự do, người “nô lệ”: “Người nô lệ da vàng
ngủ quên, ngủ quên trong căn nhà nhỏ, đèn thắp thì mờ, ngủ quên quên đã bao
năm, ngủ quên không thấy quê hương” (Đi tìm quê hương).
Vậy phải đánh thức, phải lay động ý thức kiêu hãnh về truyền thống
dân tộc Da Vàng. Câu nhạc như câu kinh, từng nốt nhạc nhấn đi nhấn lại quyện
với ca từ láy đi láy lại mấy chữ: “ngủ quên, ngủ quên, ngủ quên, quên”
gõ vào tâm thức của những người “nô lệ da vàng” như tiếng mõ gõ
tan bức màn vô minh, cho tư duy tự do bừng thức dậy. Tư duy đã giác ngộ sẽ
chắp cánh cho hành động. Và lô gích xuyên suốt trong những ca khúc Da Vàng
của Trịnh Công Sơn, đó là để có tự do phải “đi tìm quê hương”, tức là
tìm về với sức mạnh truyền thống cội nguồn, tiếp nhận nguồn lực “thần thoại”
này vào cuộc đấu tranh đòi hòa bình: “Đoàn
người đi vào quê hương, từng bó đuốc sáng trong tay mình, tìm quê hương xưa
giống Tiên Rồng giống da vàng”
(Hành ca),
“…Đi
nói với anh em, đòi cho quê hương thanh bình, dựng xây tương lai Tiên Rồng,
đi cho thấy quê hương”
(Đi tìm quê
hương),
“...
Mẹ Việt nằm hai mươi năm, xương da mềm, đợi giờ sông núi thiêng, một màu
vàng trên da thơm, nên giữ gìn màu lúa chín quê hương”
(Ngày dài
trên quê hương).
Khi
hồn thiêng sông núi trỗi dậy trong mỗi tâm thức Việt, chính là khi dân khí
đã chấn hưng, chính là lúc làn sóng đấu tranh đòi hòa bình dâng cao:
“Lửa
thiêng nơi quê hương không biết mỏi, đấu tranh dựng nước từng ngày”
(Ngọn
lửa),
“Dân
ta thề quyết lòng giữ nước”
(Đừng mong
ai, đừng nghi ngại),
“Bao
giờ đập tan gông cùm xiềng xích vô hình trói buộc dân ta, bao giờ đập tan
gông cùm xiềng xích vô hình trói buộc tự do”
(Đi tìm quê
hương),
“Mỗi
người là một ngọn giáo đâm vào mặt chiến tranh, mỗi người là một ngọn đuốc
đốt cho tan những nhà tù”
(Hoà bình là
cơm áo),
“Mẹ
hát lớn cho tan hoang những lao tù”
(Hãy cố như),
“Em
đã thấy các anh lên đường, những tay trần làm cơn bão lớn, cùng đứng bên
nhau, triệu bước nôn nao, biểu ngữ giăng cao”
(Chính chúng
ta phải nói). Có giành được hòa bình cho
“quê
hương thần thoại”,
những chủ nhân của quê hương này mới có tự do:
“Ta cùng
lên đường, đi xây lại tự do”
(Dựng lại
người dựng lại nhà),
“Mầm
hòa bình nở trên đời dân khốn khó, cùng đứng lên ta đi dựng lại căn nhà tự
do” (Dân ta vẫn sống),
“Dựng
người Việt Nam đứng lên trên đất này tự do”
(Ta quyết
phải sống).
Có
một điểm đặc biệt đáng chú ý, sức mạnh lay động, thúc giục lòng người tranh
đấu cho hòa bình của những ca khúc Da Vàng của Trịnh Công Sơn ngoài sự bắt
nguồn từ cảm thức quê hương, dân tộc như đã nói, còn bắt nguồn từ cảm thức
nhân loại. Trịnh Công Sơn đã nhìn thấu sức mạnh chấn động lương tri nhân
loại của cuộc đấu tranh cho một Việt Nam hòa bình, tự do:
“Vì
quê hương sẽ có ngày gặp lại, máu xương hai miền rung lòng thế giới”
(Chưa
mất niềm tin),
“Dựng
lại Việt Nam sáng tươi trong yêu thương nhân loại”
(Ta quyết
phải sống),
“Những
giọt máu đến ngày trổ bông, nở hòa bình cho đêm vắng xôn xao tiếng người, nở
trên tay chị xuân xanh ngời, nở trong tim mẹ đồng lúa mới vườn cải tươi...
Cho ta làm người trong thế giới”
(Những giọt
máu trổ bông).
“Làm
người trong thế giới”
chứ quyết không làm
“nô
lệ da vàng”,
“người cúi xin”,
“mặt tôi đòi”, “vết thương tôi đòi”...
Những khát vọng biến lao tù thành
trường học, chợ, công viên trong nhạc Trịnh: “Đường
đi đến những nơi lao tù, ngày mai sẽ xây trường hay họp chợ” (Huế Sài
Gòn Hà Nội), “Xin cho ngục tù thành
những công viên” (Mùa phục hồi) cũng chính là những khát vọng xưa
nay của nhân loại yêu chuộng hòa bình. Ca khúc nổi tiếng
“Hãy hàn gắn thế giới”
của vua nhạc pop Michael Jackson đã hát lên khát vọng về một thế giới yên
vui thái hòa: “Hãy tạo nên một thế giới không còn nỗi sợ
hãi, chúng ta sẽ cùng nhau khóc những giọt nước mắt hạnh phúc, khi nhìn thấy
các quốc gia biến gươm đao thành những lưỡi cày”. Nhạc Da Vàng của Trịnh
Công Sơn trong chiến tranh đã có lúc đạt tới sức mạnh góp phần
“biến gươm đao thành lưỡi cày”
như vậy trong lương tri của những người yêu chuộng hòa bình, điều này đã
được thể hiện, chẳng hạn qua tác động của ca khúc “Người con gái Việt
Nam” đã khiến cho những người lính miền Nam trước đây buông súng, điều
này đã được Từ điển Bách khoa Pháp Le Million khẳng định: “Trịnh
Công Sơn cất cao tiếng hát thi nhân mà đạn bom không bao giờ dập tắt được”
(2) và Bách khoa toàn thư mở Wikipedia ghi nhận: “Nhạc
phản chiến Trịnh Công Sơn được cho là có vai trò không nhỏ trong giai đoạn
cuối của chiến tranh Việt Nam”. Sức mạnh thần
diệu đó của nghệ thuật chỉ đạt được với những nghệ sĩ lớn, trong đó có Trịnh
Công Sơn, với bút lực sáng tạo dồi dào được mặc khải nhờ linh khí của
“quê hương thần thoại”.
Một
điểm đặc biệt nữa, nhạc Trịnh đã nêu lên nguyên nhân của chiến tranh và cách
thức để vượt thoát khỏi chiến tranh, không chỉ cho thời chiến mà cả cho thời
bình, nhằm góp tiếng nói gìn giữ và xây dựng muôn đời
“quê
hương thần thoại”.
Nguyên nhân của chiến tranh dĩ nhiên là do nước lớn tranh giành thị trường,
tranh giành ảnh hưởng, thôn tính nước nhỏ, theo thói thường “cá
lớn nuốt cá bé”. Dĩ nhiên là thế, nhưng cứ như một hệ lụy, nguyên nhân chiến
tranh còn tiềm ẩn trong chính thân phận của nước nhỏ: Anh bị chiến tranh vì
anh là nước nhỏ. Trịnh Công Sơn đã viết rõ ra như thế về nguyên nhân chiến
tranh Việt Nam:
“Ôi
gian nan đời nước nhỏ, sao đau thương nhiều lắm thế”
(Quê hương
nặng đau).
Thấu
suốt nguyên nhân này, nhạc Trịnh không chỉ góp phần đấu tranh không mệt mỏi
cho hòa bình mà còn có những dự cảm sâu xa hơn về xây dựng một nền hòa bình
bền vững, vượt thoát khỏi mọi nguy cơ chiến tranh. Để có một nền hòa bình
bền vững, để làm triệt tiêu mọi nguyên nhân chiến tranh, phải xây dựng đất
nước phú cường, giàu mạnh, xứng danh là
“quê
hương thần thoại”:
“Nhân danh phú cường ta chống chiến tranh”
(Nhân
danh Việt Nam), “Ta sẽ tự phú cường cho thoát cùm gông”
(Ngày
mai đây bình yên), “Hai mươi năm chờ đợi đã lâu, nay sức sống tràn về mạch máu, nuôi tim mẹ
nuôi tim cha, nuôi tim nhau nuôi đất nước thật giàu” (Đồng dao hòa
bình),
“Ngày
mai đây Việt Nam, là bàn chân tiến lên không ngừng. Ngày Việt Nam con tim
hồng lên ánh sáng, dựng lại nước ta, vinh quang trong trời sáng chói Việt
Nam”
(Ngày mai
đây bình yên).
Một
nước Việt Nam phú cường, sáng chói như vậy, không còn là nước nhỏ nữa. Trên
trái đất này, có không ít nước “nhỏ
mà không nhỏ” vậy.
Trong thời chiến, người Việt tìm trong
“quê hương thần thoại”
linh khí truyền đời của cha ông để
“xin nuôi thêm dòng máu quật cường”
(Cho quê hương mỉm cười), để hun đúc dân khí đấu tranh cho hòa bình.
Trong thời bình, người Việt càng phải tìm cội nguồn sức mạnh Việt Nam trong
“quê hương thần thoại”
để hun đúc mạnh mẽ ý chí xây dựng thành công đất nước phú cường. Như vậy,
thông điệp dòng nhạc Da Vàng của Trịnh Công Sơn, thông điệp mà Trịnh Công
Sơn gửi gắm trong lời tựa tập nhạc
“Kinh Việt Nam”,
viết năm 1968:
“Xin đừng bao giờ làm kẻ phản bội với một quá khứ hiển linh”
vẫn còn nguyên giá trị không chỉ trong thời chiến mà cả trong thời bình, khi
lửa chiến tranh đã tắt lâu rồi.
(1) Lời bạt của Văn Cao in trong cuốn “Trịnh Công Sơn Tuyển tập
những bài ca không năm tháng”, NXB Âm nhạc, 1998, tr. 278.
(2) Dẫn theo Bửu Ý, Trịnh Công Sơn một nhạc sĩ thiên tài,
NXB Trẻ, 2003, tr. 140.