|
31 tháng 3, 2010 |
Tôi vừa đọc bài “Đạo Công Giáo Với Vấn Đề Mê Tín Và
tệ nạn Xã Hội” của TS Phạm Huy Thông do một thân hữu gửi đến, lấy từ
conggiaovietnam.net. Nội dung bài viết của TS Phạm Huy Thông không ngoài
mục đích đề cao Công Giáo như là một tôn giáo rất tiến bộ và văn minh, chủ
trương bài trừ mê tín và tệ nạn xã hội. Nhưng thật đáng tiếc, TS Phạm Huy
Thông chỉ nhìn thấy cái kim trong mắt người khác mà không nhìn thấy cái đà
trong mắt mình [Chúa Giê-su dạy: "Hãy lấy cây sà trong mắt ngươi ra trước
rồi hãy lấy cây kim trong mắt người khác ra sau. Đừng phê phán ai để ngươi
cũng không bị phê phán." Nhưng tệ hơn nữa là TS đã không hiểu rõ về
chính đạo Công giáo của mình cũng như về truyền thống xã hội và văn hóa của
Việt Nam. Rất cường điệu, ông ta mượn lời của Alexandre de Rhodes, cho rằng
những gì trái ngược với Công giáo đều là mê tín mà không xét đến bối cảnh
lịch sử của Việt Nam qua các thời đại. Sau đây chúng ta hãy đi vào phần
phân tích một số tư tưởng của TS Phạm Huy Thông [PHT].
Tôn Giáo Nào và Mê Tín Nào ?
PHT: Có một số người vẫn đồng nhất tôn giáo
với mê tín, lạc hậu. Ngay trong cuốn Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ do
Nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành năm 2000 viết: “ Mê tín: Tin một cách mù quáng
vào thần thánh, ma quỷ, số mệnh và những điều huyền hoặc” ( tr.628). Thế
nhưng, ngày nay nhiều nhà nghiên cứu cho rằng không phải tôn giáo là đồng
nhất với mê tín, lạc hậu mặc dù chúng đều tồn tại trên cơ sở niềm tin. GS
Đặng Nghiêm Vạn- nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu tôn giáo cho rằng: “Cũng
cần thấy niềm tin tôn giáo không phải là niềm tin mê muội cuồng tín, thiếu
suy nghĩ…Người tín đồ tôn giáo trước hết là người hiểu một cách “ trí tuệ”
điều mình tin, điều mình coi là thiêng liêng. Niềm tin tôn giáo cũng không
thể xem là những hiện tượng phản văn hoá, trái với tiến bộ, văn minh” ( 1).
Chúng ta có thể xem xét vấn đề này qua trường hợp của đạo Công giáo.
TCN: Trước hết, từ “tôn giáo” quá tổng quát,
không thể viết như vậy, vì không ai có thể tổng quát hóa bất cứ điều gì cho
tất cả các tôn giáo trong thế gian. Cho nên TS Phạm Huy Thông không thể
viết “đồng nhất tôn giáo với mê tín, lạc hậu”. Do đó, câu mà
TS Phạm Huy Thông trích dẫn từ GS Đặng Nghiêm cũng trở nên vô nghĩa, vì GS
Đặng Nghiêm đã coi mọi tôn giáo đều như nhau ! Hiển nhiên khi chúng ta
nghiên cứu về vấn đề tôn giáo thì chúng ta thấy mọi tôn giáo đều khác nhau,
thuộc các nền văn hóa khác nhau, có tôn giáo là tôn giáo của trí tuệ, có tôn
giáo là tôn giáo của đức tin, có tôn giáo thờ thần, có tôn giáo chủ trương
nhân bản và nhân chủ v…v…, cho nên từ “tôn giáo”, viết một cách thiếu suy
nghĩ của TS Phạm Huy Thông cũng như của Giáo sư Đặng Nghiêm đều không nói
lên được điều gì. Vậy, vấn đề là, khi chúng ta muốn nói về tôn giáo thì
chúng ta phải quy định đó là tôn giáo nào và tìm hiểu xem niềm tin tôn giáo
đó thuộc loại nào, có phải là niềm tin dựa trên sự hiểu biết, hay chỉ là
niềm tin mê muội cuồng tín, thiếu suy nghĩ. Từ đó chúng ta mới có thể quyết
định tôn giáo đó có thuộc loại mê tín, lạc hậu hay không?
Câu cuối cùng trong đoạn văn trên của TS Phạm Huy
Thông hàm ý là niềm tin Công giáo không phải là mê muội cuồng tín, thiếu suy
nghĩ mà là hiểu một cách “trí tuệ” điều mình tin… Nhưng trong suốt bài,
TS Phạm Huy Thông không đưa ra bất cứ một luận cứ nào để chứng minh Công
giáo không phải là mê tín dị đoan, mà chỉ đề cao Công giáo là đã “nghiêm
cấm các hành vi mê tín, dị đoan” [sic], và “phê phán những tập tục
lạc hậu, tệ đoan xã hội”, và nghĩ rằng như thế cũng đủ để chứng tỏ niềm
tin Công giáo không phải là mê muội cuồng tín, thiếu suy nghĩ mà là hiểu một
cách “trí tuệ” điều mình tin…
Nhưng sự thực có phải như vậy không? Ai cũng
biết, Công giáo là đạo của “đức tin” (faith), mà theo định nghĩa thì “đức
tin” là:
1) tin vào những gì mà những người có đầu óc ngay
thẳng [right mind] không tin được;
2) tin vào những gì không chắc có thực;
3) tin vào một đấng siêu nhiên cai quản vũ trụ và muôn
loài.
Và như vậy TS Phạm Huy Thông đã cố ý tránh né, không
bàn đến căn bản giáo lý đã tạo nên niềm tin Công giáo.
Giáo sĩ Đắc Lộ: Alexandre De Rhodes
Phép giảng 8 ngày của Alexandre De Rhodes |
Điều đáng trách là TS Phạm Huy Thông đã dùng một tài
liệu từ thế kỷ 17 của tên thừa sai thực dân ngu dốt bịp bợm là Alexandre de
Rhodes. [Xin đọc bài “Di Hại Của Nền Đạo Lý Thiên La Đắc Lộ” trên
http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN50.php]. Cái tên thừa sai Công
giáo ngu dốt này đã viết cuốn “Phép Giảng Tám Ngày” mà nội dung đầy
những điều thuộc loại mê tín, đồng thời còn xuyên tạc hạ thấp Đức Phật và
Đức Khổng Tử, nguyên do chỉ vì một niềm tin mù quáng và sự cuồng tín của hắn
về môn thần học mê hoặc lừa dối của Công giáo trong thời đại mà Âu Châu còn
nằm dưới sự thống trị của Công giáo, một thời đại mà ngày nay các học giả
Tây phương đã gọi là “Thời đại Trung Cổ” (The Middle Ages), hay “Thời
Đại Đen Tối” (The Dark Ages) hay “Thời đại của sự man rợ và đen tối
trí thức” (The Ages of barbarism and intellectual darkness).. Trong bài
“Di Hại Của Nền Đạo Lý Thiên La Đắc Lộ”, [“Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ”
là cụm từ Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang dùng để chỉ những ảnh hưởng tai hại của
Thiên Chúa Giáo La Mã (Thiên-La) mà giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc-Lộ) đã
mang đến đầu độc đầu óc lớp người dân thấp kém nhất trong xã hội Việt Nam
trong thế kỷ 17; Xin đọc Chương 15 trong cuốn Việt Nam Đệ Nhất
Cộng Hòa Toàn Thư (1954-1963) của Giáo sư Quang] tôi đã phân tích
cuốn Hành trình Truyền Giáo của Đắc Lộ và chứng minh rằng:
- Về lịch sử, Rhodes cũng chỉ biết lõm bõm.
- Về sinh hoạt người dân thì cũng chỉ là những nhận xét phiến diện, hời
hợt.
- Về văn hóa địa phương thì Rhodes mù tịt.
- Và đặc biệt về truyền giáo thì Rhodes có những mánh lới xảo quyệt dụ
đạo những người ngu, những điều này thể hiện ngay trong những từ ngữ mà
Rhodes dùng trong cuốn sách, trong những mánh lới này chúng ta thấy những
niềm tin nhảm nhí về ma quỉ, những phép lạ không thể tin được, và những lý
luận ẩu tả, phi lý và láo lếu.
Sau đây tôi xin nhắc lại một đoạn phê bình điển hình
về sự bịp bợm của Alexandre de Rhodes:
Trang 74: Với thánh giá Chúa, với nước phép, giáo dân tốt lành
đã thông thường đuổi ma quỉ, chữa các thứ bệnh tật. Chỉ cho uống 4,5
giọt nước thánh mà chữa được người mù và cho 2 người chết sống lại. Họ
ra đi, cắm thánh giá ở đầu, ở giữa và cuối xóm. Họ đến thăm bệnh nhân, đọc
kinh và cho bệnh nhân uống vài giọt nước phép. Không đầy 5 ngày đã chữa
khỏi 272 người.
Trang 77: Họ rất quí trọng nước phép, cứ 5, 6 ngày họ lại đến
lấy.. Họ cho bệnh nhân uống với những thành quả lạ lùng. Mỗi chủ nhật,
tôi buộc lòng phải làm phép với 5 vại lớn, để thỏa mãn lòng sốt sắng của
họ.
TCN bình luận: Nước phép hay nước thánh là nước thường đã được
ông linh mục bi bô đọc vài câu tiếng La-Tinh để biến nó thành nước phép hay
nước thánh. Rhodes đã thông thạo môn thần học bịp bợm dân ngu, nhưng
chính ông ta cũng lại ngu không thể tả được mới viết lên được những đoạn
trên. Chỉ với 4, 5 giọt nước phép là có thể chữa được người mù, người
chết sống lại, và chữa khỏi mọi bệnh tật. Nhưng mỗi chủ nhật ông ta phải
phù phép biến 5 vại nước lớn thành nước thánh hay nước phép để thỏa mãn nhu
cầu của giáo dân. Một vại lớn có bao nhiêu lít nước? Một lít nước có
bao nhiêu giọt nước. Nếu tính ra thì 5 vại nước phép đó có thể
chữa cho cả nước Pháp của ông ta khỏi mù, vì trong thế kỷ 17, cả nước Pháp
đang mù vì là toàn tòng Công Giáo. Nhưng ngày nay, chẳng cần đến nước phép
hay nước thánh (holy water) gì đó mà Pháp cũng đã ra khỏi cảnh mù rồi. Giáo
dân Việt Nam dùng loại nước phép đó đã mù lại càng mù thêm vì cái đạo lý
Thiên-La Đắc-Lộ bịp bợm hoang đường quá lố lăng chẳng có ai có thể tin
được...Vì thế ngày nay chẳng còn ai tin là nước phép hay nước thánh có bất
cứ một tác dụng gì ngoài bản chất là nước thường như mọi nước thường khác.
Ngày nay, không ai chữa bệnh bằng nước thánh, mà đi khám bác sĩ, hay đi nhà
thương, và nhiều khi còn tin thuốc ta hơn là nước thánh. Alexandre de
Rhodes viết như trên chỉ để lừa bịp dân ngu vì chính ông ta cũng không tin ở
nước thánh. Trong cuốn Hành Trình Truyền Giáo ông ta viết: khi ông ta bị
sốt nặng nhưng lại không dùng nước thánh của ông ta để làm cho hết sốt mà
lại phải nhờ một Đông Y sĩ cho uống thuốc ta mới hết sốt.
Alexandre de Rhodes Bàn Chê Các Tôn Giáo Á đông
Điều
đáng nói là sự di hại của nền đạo lý Thiên-La Đắc Lộ vẫn còn kéo dài cho đến
ngày nay khi TS Phạm Huy Thông dùng cuốn Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài
của Rhodes để chứng minh là “đạo Công Giáo nghiêm cấm các hành vi mê tín,
dị đoan và phê phán các tập tục lạc hậu, tệ nạn xã hội.”. Đọc cuốn trên
của Rhodes ta có thể thấy lại những nhận định của tôi về cuốn Hành Trình
Truyền Giáo của Rhodes. Cũng như trong cuốn Phép Giảng Tám Ngày,
trong cuốn Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài, Rhodes lại xuyên tạc viết
láo lếu về Đức Khổng Tử, Đức Phật, Lão Tử trong Quyển Một, Chương 18, 19 và
21.
■ Về Khổng tử, Rhodes viết: “Khổng tử không phải là
thánh nhân, bởi vì, theo tôi, nếu ngài được gọi là thánh nhân, thì ngài
phải biết có một đức Chúa trời dựng nên trời và đất” [sic]
(trang 39). [Chuyện “có một đức Chúa trời dựng nên trời và đất
“ ngày nay đã trở thành một trò cười cho thiên hạ trước những bằng chứng
khoa học bất khả phủ bác về nguồn gốc vũ trụ và con người mà chính Tòa Thánh
cũng đã phải công nhận. TCN]
■ Về Đức Phật, Rhodes viết: “Đức Thích Ca chưa đầy
17 tuổi thì đã kết duyên với một công chúa trẻ tuổi tên là Adulala, con gái
một vua Ấn khác. Hai năm sau thì sinh hạ được một con gái tên là Hầu La….
Đức Thích Ca bực tức vì không được kết quả trong công việc, liền dựa vào lời
bàn của thần thánh quen thuộc để gieo rắc một thứ truyện hoang đường về thần
thánh. Thế là có thành quả ngay đến nỗi trong 40 năm hoạt động, vừa dựa
vào quyền thế, vừa dựa vào ma thuật, ngài đã cho thành lập và phổ biến khắp
Ấn Độ tín ngưỡng trước đây chưa ai biết” (trang 42) [Chúng ta
thấy rõ, Rhodes đã dựa vào chính những sắc thái của Công Giáo để suy diễn và
bài bác Đức Phật. Vì “gieo rắc một thứ truyện hoang đường về thần thánh”
(Chuyện Giê-su sinh ra từ một trinh nữ, làm các phép lạ, chết rồi sống lại
và bay lên trời), và “dựa vào ma thuật” (nước thánh, các bí tích)
chính là những sản phẩm lừa bịp dân ngu của Công Giáo, chứ trong giáo lý của
Đức Phật, không hề có những thứ mà Rhodes bịa ra. TCN]
■ Về đạo Lão, Rhodes viết: “Lão tử, nhà ma thuật
đời xưa rất danh tiếng, đã có và còn có rất nhiều đồ đệ có uy tín cới Chúa
[Trịnh] và tất cả kẻ sang trọng trong nước. Chẳng có gì đáng khen, chính
Chúa và các quan trong phủ cũng bị truyền nhiễm. Là giáo phái thịnh hành ở
Đàng Ngoài, vì rất phổ thông và rất liên quan tới ma quỉ.” [Rhodes hiển
nhiên không biết đến Đạo Đức Kinh của Lão Tử. Nếu ông ta biết và hiểu thì
ông ta phải vứt cuốn Thánh Kinh của ông ta vào “recycle bin” alias “trash”.
TCN]
Một cuốn sách viết láo lếu như vậy mà ngày nay TS
Phạm Huy Thông còn dùng nó để chứng minh là Công giáo rất tiến bộ. Bây giờ
chúng ta hãy đi vào vài đoạn của TS Phạm Huy Thông [PHT]:
Công Giáo: "Thờ Các Thần Khác" Là Mê Tín !
PHT: 1. Đạo Công giáo nghiêm cấm các hành vi mê tín, dị đoan.
[TCN:Thật vậy sao??]
Công giáo là một tôn giáo độc thần, vì vậy giáo
lý của đạo nghiêm cấm việc thờ các thần linh khác và tất cả các hành vi có
ảnh hưởng đến căn tính được ghi trong điều răn thứ nhất: Thờ phượng một Chúa
Trời và kính mến Chúa trên hết mọi sự. Do đó, các hiện tượng vốn được coi là
quen thuộc với phong tục dân gian ở Á Đông và Việt Nam như lên đồng, bói
toán, chọn ngày tốt xấu, chọn đất chôn táng, đốt vàng mã…đều bị đạo Công
giáo cấm tín đồ tham gia. Ai dù vô tình hay cố ý tham gia đều coi là lỗi
phạm giới răn thứ nhất và buộc phải sám hối, xưng tội trước toà giải tội.
TCN: Công giáo là một tôn giáo độc thần, đúng
vậy. Nhưng thần đó là thần như thế nào, có đáng để con người thờ phụng
không? Tôi nghĩ rằng, niềm tin tôn giáo của TS Phạm Huy Thông thực sự không
phải là do “hiểu một cách “ trí tuệ” điều mình tin, điều mình coi là
thiêng liêng” mà là một niềm tin mù quáng về một vị thần của dân tộc
Do Thái mà người Công giáo Việt Nam gọi là Thiên Chúa hay Chúa Trời. Nhưng
thật ra Thiên Chúa của Công Giáo là như thế nào? Có lẽ TS Phạm Huy Thông
không hề đọc Thánh Kinh và cũng không biết đến một số nhận định về Thiên
Chúa của Công Giáo của những người đã đọc kỹ Thánh Kinh như sau:
1) Tổng Thống Thomas Jefferson của Mỹ, sau khi
đọc cuốn “Thánh Kinh”, đã nhận định về Thiên Chúa của Ki Tô Giáo là “một
nhân vật có tính tình khủng khiếp – độc ác, ưa trả thù, đồng bóng, và bất
công” [Thomas Jefferson describes The God of Moses as “a being of
terrific character – cruel, vindictive, capricious and unjust].
2) Giám mục John Shelby Spong: Cuốn Thánh
Kinh đã làm cho tôi đối diện với quá nhiều vấn đề hơn là giá trị. Nó đưa
đến cho tôi một Thiên Chúa mà tôi không thể kính trọng, đừng nói đến thờ
phụng. [ John Shelby Spong, Rescuing The Bible From Fundamentalism,
p. 24: A literal Bible presents me with far more problems than assets.
It offers me a God I cannot respect, much less worship.]
3) Linh mục Công giáo James Kavanaugh viết về “Huyền Thoại Cứu
Rỗi” trong cuốn Sự Sinh Ra Của Thiên Chúa (The Birth of God),
xin đọc:
http://sachhiem.net/TCNtg/TCN36.php :
Nhưng đối với con người hiện đại. chuyện hi sinh của Giê-su
chẳng có ý nghĩa gì mấy, trừ khi hắn đã bị reo rắc sự sợ hãi và bị tẩy não
từ khi mới sinh ra đời (But to modern man, it makes far less
sense unless he has been suitably frightened and brainwashed from birth).
Đối với tôi (Linh mục James Kavanaugh), đó là một huyền thoại “cứu
rỗi” của thời bán khai, miêu tả một người cha giận dữ [Thiên Chúa],
chỉ nguôi được cơn giận bằng cái chết đầy máu me của chính con mình. Đó
là một chuyện độc ác không thể tưởng tượng được của thời bán khai
(It is a primitive tale of unbelievable cruelty).
4) Nhưng đặc biệt hơn cả là khi đọc Richard Dawkins
trong cuốn “The God Delusion”, ấn bản 2008, tôi thấy tác giả đưa ra
tới 16 nhận định về Thiên Chúa của Ki Tô Giáo rất đáng để chúng ta nghiên
cứu để tìm hiểu sự thật. Mở đầu Chương 2, trang 51, về “Giả Thuyết Về
Thiên Chúa” [The God Hypothesis], tác giả Richard Dawkins viết:
Không
cần phải bàn cãi gì nữa, Thiên Chúa trong Cựu Ước là nhân vật xấu xa đáng
ghét nhất trong mọi chuyện giả tưởng: ghen tuông đố kỵ và hãnh diện
vì thế; một kẻ nhỏ nhen lặt vặt, bất công, có tính đồng bóng
tự cho là có quyền năng và bất khoan dung; một kẻ hay trả thù;
một kẻ khát máu diệt dân tộc khác; một kẻ ghét phái nữ, sợ
đồng giống luyến ái, kỳ thị chủng tộc, giết hại trẻ con,
chủ trương diệt chủng, dạy cha mẹ giết con cái, độc hại như
bệnh dịch, có bệnh tâm thần hoang tưởng về quyền lực, của cải, và
toàn năng [megalomaniacal], thích thú trong sự đau đớn và
những trò tàn ác, bạo dâm [sadomasochistic], là kẻ hiếp đáp ác
ôn thất thường. [1]
Tôi nghĩ rằng, tất cả những tác giả trên phải có lý do
gì mới dám viết ra những điều như vậy, vì có tới gần 1/3 nhân loại, nghĩa là
khoảng gần 2 tỷ người, tuyệt đại đa số thuộc thành phần thấp kém, ít hiểu
biết trong xã hội, tin và thờ phụng Thiên Chúa của Ki Tô Giáo, và nhất là họ
lại viết và xuất bản ngay trên nước Mỹ, một nước văn minh tiến bộ nhất nhưng
lại lạc hậu nhất về niềm tin Ki Tô Giáo còn sót lại trên thế giới. Và khá
lạ lùng, cuốn The God Delusion của Richard Dawkins lại là một cuốn
sách thuộc loại bán chạy nhất ở phương trời Âu Mỹ. Những nhận định của
Richard Dawkins như trên không hề sai, chúng đã được chứng minh rất đầy
đủ qua những trích dẫn từ cuốn Thánh Kinh của Công giáo:
http://www.sachhiem.net/TCN/ TCNtg/3NGOI/TCN64_2.php.
Như vậy, thần của Công giáo so với các thần cổ xưa
trong dân gian Việt Nam như thần cây đa, thần bình vôi v…v… thì thần nào có
hại cho nhân loại hơn. Bản chất của thần cây đa, hay thần bình vôi không
khác gì thần của Công giáo, vì cùng là những đối tượng của một niềm tin,
nhưng những người tin vào thần cây đa, thần bình vôi chưa hề làm hại ai,
trái lại những người tin vào thần của Công giáo đã gây ra 7 núi tội ác đối
với nhân loại mà Giáo hoàng John Paul II cùng Bộ Tham Mưu của ông ta đã phải
xưng thú cùng thế giới ngày 12 tháng 3 năm 2000 tại Vatican. Do đó giáo lý
Công giáo “nghiêm cấm việc thờ các thần linh khác và tất cả các hành vi
có ảnh hưởng đến căn tính được ghi trong điều răn thứ nhất: Thờ phượng một
Chúa Trời và kính mến Chúa trên hết mọi sự” chỉ là nhắc lại huyền thoại
của dân tộc Do Thái về một vị thần của họ trong thời bán khai, một vị thần
đang bị đẩy lui vào hậu trường ở Âu Châu trước sự tiến bộ trí thức của nhân
loại. Điều đáng nói ở đây là các tín đồ Công Giáo Việt Nam đã bị mê hoặc để
đi thờ phụng một thần không đáng thờ phụng, và vì thiếu hiểu biết, nên đã
nhắm mắt tuân theo.
Theo TS Phạm Huy Thông thì giáo lý Công giáo
nghiêm cấm việc thờ các thần linh khác. Nhưng những phong tục dân
gian ở Á Đông và Việt Nam như lên đồng, bói toán, chọn ngày tốt xấu, chọn
đất chôn táng, đốt vàng mã không phải là thờ thần linh khác và không ai
bắt ai phải tin những phong tục như vậy. Những việc như trên, khi người dân
hiểu ra thì họ sẽ không còn thực hành nữa. Vậy tại sao Công giáo phải
nghiêm cấm? Phải chăng Công giáo chủ trương bài bác tất cả những phong tục
tập quán trong nền văn hóa khác không phù hợp với nền văn hóa độc thần trịch
thượng của Công giáo. Nhưng thực ra, một số trong những phong tục trên
không phải là không có ý nghĩa. Đạo Công giáo cấm tín đồ tham gia vì không
hiểu ý nghĩa của các phong tục dân gian, và vì theo sách lược độc tôn, độc
thần. Những gì không phù hợp với chủ thuyết Công Giáo đều bị nghiêm cấm,
thí dụ như tục lệ thờ cúng tổ tiên hay những nghi thức về cưới hỏi, tang lễ
trong dân gian. Đó chính là sự ngu xuẩn của Công giáo trong một thế giới
mà các nền văn hóa đều khác nhau. Nhưng thực ra Công giáo không chỉ
nghiêm cấm tín đồ không được thờ các thần linh khác mà còn ra lệnh cho tín
đồ phải tìm cách tiêu diệt những người thờ thần linh khác, phá hủy đền thờ
miếu mạo của những người thờ thần linh khác.
Đó là sự man rợ của Công
giáo. Và đây cũng là điều TS Phạm Huy Thông tránh né không đụng tới.
Chứng minh?
Giáo lý Công giáo bắt nguồn từ đâu? Có phải là từ
cuốn Thánh Kinh không? Chúng ta hãy đọc vài đoạn trong Cựu Ước về lệnh lạc
của Thiên Chúa của Công giáo mà TS Phạm Huy Thông tin rằng phải “thờ
phượng và kính mến trên hết mọi sự”:
PHỤC TRUYỀN 6:17; 7:1-5: PHẢI TUYỆT ĐỐI TUÂN HÀNH CÁC ĐIỀU RĂN,
LUẬT LỆ CỦA THIÊN CHÚA... KHI ĐỨC CHÚA TRỜI DẪN CÁC NGƯƠI VÀO VÙNG ĐẤT
MÀ CÁC NGƯƠI SẼ CHIẾM HỮU…CÁC NGƯƠI PHẢI TẬN DIỆT HỌ, KHÔNG ĐƯỢC LẬP GIAO
ƯỚC, KHÔNG ĐƯỢC THƯƠNG XÓT... KHÔNG ĐƯỢC GẢ CON GÁI MÌNH CHO CON TRAI
HỌ, HOẶC CƯỚI CON GÁI HỌ CHO CON TRAI MÌNH VÌ HỌ SẼ DỤ CON CÁI CÁC NGƯƠI THỜ
CÚNG CÁC THẦN CỦA HỌ MÀ BỎ CHÚA HẰNG HỮU.. CÁC NGƯƠI PHẢI ĐỐI XỬ VỚI HỌ
NHƯ SAU: PHẢI PHÁ HỦY NHỮNG BÀN THỜ CỦA HỌ, PHẢI ĐẬP PHÁ NHỮNG CỘT TRỤ
THIÊNG LIÊNG CỦA HỌ, ĐẬP NÁT NHỮNG HÌNH TƯỢNG BẰNG GỖ, ĐỐT SẠCH CÁC TƯỢNG
CHẠM CỦA HỌ..
PHỤC TRUYỀN 20: 12-18: LÚC KÉO QUÂN ĐẾN TẤN CÔNG MỘT THÀNH NÀO,
NẾU THIÊN CHÚA CHO CÁC NGƯƠI HẠ ĐƯỢC THÀNH ĐÓ, PHẢI GIẾT HẾT ĐÀN ÔNG TRONG
THÀNH, NHƯNG BẮT GIỮ ĐÀN BÀ, TRẺ CON, SÚC VẬT, VÀ CHIẾM GIỮ CÁC CHIẾN LỢI
PHẨM...BÊN TRONG LÃNH THỔ CHÚA BAN CHO, PHẢI DIỆT HẾT MỌI SINH VẬT. PHẢI
TẬN DIỆT DÂN HÊ-TÍT, A-MO, CA-NA-AN, PHÊ-RẾT, HÊ-VÍT VÀ GIÊ-BU NHƯ CHÚA ĐÃ
TRUYỀN DẠY. NHƯ VẬY HỌ KHÔNG CÒN SỐNG ĐỂ DỤ DỖ ĐỒNG BÀO HỌ LÀM TỘI ÁC,
THỜ CÚNG THẦN CỦA HỌ MÀ MANG TỘI VỚI CHÚA.
Có phải là Công giáo Việt Nam đã từng theo sát những
luật lệ này không? Cho đến ngày nay, Công giáo vẫn ép người ngoại đạo phải
học giáo lý nhồi sọ của Công giáo trước khi lập gia đình với người có đạo.
Chúng ta hãy bỏ qua những gì Công giáo đã thực hành các điều răn trên khi
xâm lăng các nước trên thế giới như ở Mỹ Châu, Nam Mỹ và Phi Châu, và hãy
đọc một chút về lịch sử xâm lăng của Công giáo vào Việt Nam.
Một Chút Về Lịch Sử Truyền Đạo
Một trong những tài liệu có tính cách tổng hợp về sự xâm lăng của Công
Giáo vào Việt Nam là của Helen B. Lamb, trong cuốn Vietnam's Will to
Live. Sau đây là vài đoạn trong đó, xin độc giả để ý đến những lời
văn châm biếm rất ý nhị của tác giả.. và chúng ta có thể thấy trong đó
tất cả những sắc thái trong tài liệu của Alexandre de Rhodes mà TS Phạm Huy
Thông sử dụng:
"Những sự giao tiếp giữa Pháp và Việt Nam từ thế kỷ 17 trở đi đều
theo một mô thức cổ điển xâm nhập Á Châu của Tây phương. Mới đầu là các
thừa sai và con buôn. Rồi các nhà ngoại giao đến can thiệp, nhân danh cả
hai, và cuối cùng, quân lính tiến vào, áp đặt sự thống trị của ngoại
quốc - lẽ dĩ nhiên là để làm tốt cho dân bản xứ.
Động cơ chính để một nước đi chiếm thuộc địa và những vùng ảnh
hưởng là sự chiếm hữu một cái gì đó, quyền lực, uy tín, của cải, hay những
thứ cưỡng đoạt được...Trong trường hợp nước Pháp, họ đặt nặng vấn đề tôn
giáo. Là những người cầm đuốc soi sáng cho những người khác về chủ thuyết
Công giáo, người Pháp đã lao mình vào một cuộc Thánh chiến để mang tới
cho dân Việt Nam món quà vô giá, cơ hội để sống đời đời, bất tử.
Chỉ khi nước Pháp trở thành thế tục hơn trong thế kỷ 19, họ mới đặt
nặng chiêu bài "nhiệm vụ văn minh hóa" - trong những quốc gia mà niềm tự
hào về nền văn minh cổ của họ rất là chính đáng.
...Dù các con buôn bị đối đãi lạnh nhạt đến đâu thì các thừa sai Tây
phương còn bị nghi ngờ hơn nữa. Sau năm 1645, khi Alexandre de Rhodes bị
bắt cầm tù và rồi bị trục xuất, theo những con buôn người Anh tới giao
thương ở Việt Nam thì các thừa sai phải ngụy trang dưới dạng con buôn.
...Một triết gia Đông phương hiện đại, khi giải thích về sự đối kháng
của Á Châu đối với những nhà rao bán Phúc Âm Ki Tô Giáo (truyền giáo), đã
nhấn mạnh đến thái độ kiêu căng điển hình của thừa sai Ki Tô như sau:
"Cái óc Tây phương của các ông thường quá bị ám ảnh bởi ý tưởng
chinh phục và chiếm hữu, cái thói quen dụ người khác vào đạo đã ăn sâu
trong đầu óc các ông cũng là một hình thức chinh phục và chiếm hữu...
Rao giảng về giáo thuyết của các ông chẳng phải là một sự hi sinh, mà là đắm
mình trong một sự xa xỉ nguy hiểm hơn mọi xa xỉ vật chất rất nhiều.
Nó
nuôi dưỡng trong tâm các ông một ảo tưởng là các ông đang làm bổn phận -
rằng các ông khôn ngoan hơn và giỏi hơn đồng loại của các ông.."
Sự phỉ báng tất cả những gì của Á Châu được thấy rõ, ngay từ lúc
đầu, trong thái độ của những thừa sai Pháp đối với những tôn giáo ở Việt
Nam, như chúng ta đã thấy trong những thư từ liên lạc và tác phẩm của họ
. [Đó là những gì Alexandre de Rhodes đã làm và ngày nay TS Phạm Huy
Thông còn đưa nó ra như để chứng minh Công giáo là đạo tiến bộ]
...Bất kể là những sự khác biệt giữa các tôn giáo ở Việt Nam như thế
nào, chúng thật không đáng kể so với cái vực thẳm ngăn cách những tôn giáo
này với giáo hội hiếu chiến Công giáo.. Các Vua Việt Nam coi chủ
thuyết Công giáo như là một sự đe dọa đến quyền hành của họ, và coi những
người Việt Nam theo đạo như thuộc hạng chót trong một hệ thống quyền lực tôn
giáo chặt chẽ dưới quyền những giám mục ngoại quốc. (Bị ngoại nhân hoàn
toàn thống trị đến độ giáo hội Gia Tô Việt Nam không có một giám mục Việt
Nam nào được bổ nhiệm cho tới thập niên 1930, 400 năm sau khi những giáo sĩ
thừa sai Gia Tô đầu tiên tới Việt Nam) Ở trên những giám mục ngoại
quốc là một giáo hoàng ngoại quốc ở tận La Mã xa xôi, và những tín đồ Việt
Nam này trung thành và tuân lệnh giáo hoàng thay vì hoàng đế Việt Nam.
[Ông Tổng Ngô Quang Kiệt, trong vụ Tòa Khâm Sứ, đã nghe lệnh của Vatican
và coi thường lệnh của chính quyền Việt Nam]
Những thừa sai thì hoàn toàn xa lạ với Việt Nam và với ý tưởng hòa
hợp giữa các lý tưởng tôn giáo khác nhau. Đối với dân ngoan đạo Công giáo
thời đó thì chỉ có hai quan điểm đối ngược, hoặc đúng hoặc sai, không thể có
một sự thỏa hiệp hay đối thoại nào giữa hai quan điểm trên. Các thừa sai
coi thường tín ngưỡng và cách hành đạo địa phương, cho chúng là sai lầm...
[Đây là những gì Rhodes viết trong cuốn Lịch Sử Vương Quốc Đàng
Ngoài]
Nhiều bản báo cáo thời đó mô tả sự việc các thừa sai đã mang vào
Việt Nam một số lượng lớn Âu dược chữa bệnh cho dân chúng để "chiếm lòng
họ." (Linh mục de Courtaulin, trích trong tác phẩm của Taboulet, trg.
42). Nhưng trong những hoạt động dụ người vào đạo, các thừa sai Công
giáo đã khai thác sự sợ hãi và hi vọng của đám dân ngu dốt và nhẹ dạ cả
tin. Những kẻ tân tòng coi Ki Tô Giáo như là một hệ thống ma thuật mới.
Nước thánh Công giáo được dùng với hi vọng có thể đuổi được quỷ ám, cứu
người chết sống lại, làm cho người mù sáng mắt trở lại v...v.. [Đây
chính là sự bịp bợm phóng đại đến độ ngu xuẩn của Rhodes khi viết về tác
dụng của nước thánh].
Tin vào sự không thể sai lầm của Công giáo, những hội viên trong
Hội Truyền Giáo Hải Ngoại đã tấn công Phật Giáo, coi Phật Giáo như là vô
thần và thờ hình tượng, và chỉ trích nặng nề Khổng giáo về tục lệ thờ cúng
tổ tiên. [Đây chính là những gì Rhodes viết trong những cuốn Phép
Giảng 8 Ngày, Hành Trình Truyền Giáo, và Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài]
...Đối với những nhà lãnh đạo Việt Nam, toàn thể giáo thuyết Ki Tô bị
coi là không thực. Theo quan điểm của Nho gia thì bản chất con người là
tốt; chỉ cần được huấn luyện cho tốt để có thể sử dụng lý trí của mình mà
phân biệt giữa tốt và xấu. Con người không cần phải được "cứu rỗi" bởi sự
can thiệp của Chúa Ki Tô hay Thiên Chúa, và nếu cho rằng Chúa Ki Tô có
khả năng như vậy thì đối với giới Nho sĩ, đó cũng không khác gì một sự mê
tín.
Giáo điều Ki Tô, ngoài tính chất thô thiển và không hợp lý, còn bị
coi như là thật sự nguy hiểm, vì nó làm cho con người xa cách với gia đình
để tìm sự giải thoát cho riêng mình.
... Bằng sự đe dọa hỏa ngục và sự đày đọa đời đời, các giáo sĩ thừa
sai bắt buộc những đàn chiên Việt Nam của họ phải theo đuổi ly rượu Thánh
cho sự sống đời đời của mình trong một thế giới sau thay vì làm những bổn
phận hiếu thảo trong đời này. Những nhà cấm quyền Việt Nam đặc biệt lo ngại
về giáo điều xưng tội của Công Giáo, coi đó như là một cách áp đặt quyền lực
trên giáo dân. (Không những thế, đây cũng là một cách lấy tin tức tình
báo quân sự rất hữu hiệu. TCN).
...Như là một sự thách đố đối với thiên tài của Khổng giáo trong
việc hòa hợp các tín ngưỡng khác nhau, Công giáo đã chứng tỏ là một tôn
giáo hoàn toàn không thể tiêu hóa nổi. Trong bốn thế kỷ, Công giáo vẫn
còn như là một lực lượng chia rẽ trong xã hội Việt Nam. Để tăng cường cái
vực thẳm ý thức hệ giữa những tín đồ Công giáo và đại khối dân tộc, những
tín đồ Công giáo thường sống trong những làng mạc riêng biệt, dưới quyền
thống trị của các linh mục, y như những làng mạc trong thời Trung Cổ ở Âu
Châu cách đây 500 năm. [Linh Mục Trần Tam Tĩnh đã gọi những làng mạc
riêng biệt này là những “ốc đảo ngu dốt”]
Về mặt văn hóa cũng vậy, những người Việt Nam tân tòng Công giáo
trở thành cô lập với nền văn hóa chủ đạo. Để phổ biến giáo lý Công
giáo, các thừa sai đã nghĩ ra một dạng chữ mới theo mẫu tự La Mã gọi là Quốc
Ngữ, một cách phiên âm tiếng Việt họ dùng để dạy những đàn chiên của họ. Họ
dịch những sách cầu nguyện hay kinh sách Công giáo khác ra loại chữ mới này,
nhưng không dịch văn chương Việt Nam. Điều này có nghĩa là những tín đồ
Công giáo Việt Nam, vì không còn học ở các trường làng do các thầy Nho dạy,
không thể đọc được tiếng Việt, gọi là chữ Nôm, hay chữ Hán được dùng trong
mọi văn kiện công cộng. Chữ Quốc Ngữ là một trong vài đóng góp có ảnh
hưởng lâu dài vào nền văn minh Việt Nam của Tây phương, nhưng ảnh hưởng tức
thời của nó là chia rẽ quốc gia và đánh thẳng vào gốc rễ văn hóa của Việt
Nam.
Đối với một quốc gia mà lý tưởng là sự hòa đồng trong cộng đồng và
lối sống theo những qui định giao thiệp giữa con người với nhau, sự xâm
nhập của Công giáo biểu thị cho sự xáo trộn và bất hòa trong xã hội.
Ngay từ ngày đầu, những người xây dựng Công giáo ở Việt Nam đã cố ý
coi thường chính quyền Việt Nam và đã dùng đến phương cách hối lộ và gian
lận để đạt được những mục đích của họ." [2]
Vai Trò Bộ Truyền Giáo Công giáo Trong Việc Pháp Xâm Chiếm Việt Nam
Đọc lại lịch sử Việt Nam trong giai đoạn Francis Garnier chiếm thành
Hà Nội và các tỉnh lân cận như Phủ Lý, Nam Định, Hải Dương v..v.. chúng ta
sẽ thấy sự thực về vai trò cộng tác, tiếp tay, hỗ trợ của giáo dân Công giáo
Việt Nam cho những đoàn quân xâm lăng ngoại quốc như thế nào, và họ đã làm
những gì để tuân theo luật của Thiên Chúa. Mark L. McLeod, viết trong cuốn
The Vietnam Response to French Intervention, 1862-1874, trg.
114-122:
"Bản
chất và mức độ hỗ trợ những đoàn quân viễn chinh Pháp của những tín đồ Gia
Tô là như thế nào?
Những thư từ liên lạc và phúc trình của Balny và Harmand, được Garnier
phái đi chinh phục nhiều tỉnh lỵ và những điểm trọng yếu trong miền đồng
bằng, cho chúng ta thấy một kiểu hỗ trợ đáng kể của những tín đồ Công giáo
bao gồm - nhưng không chỉ giới hạn ở - những nhiệm vụ hành chánh và quân
sự. Những nguồn tài liệu này cũng cho chúng ta thấy một kiểu xoay sở lẫn
nhau giữa các sĩ quan Pháp và các thừa sai Công giáo với kết quả là những kẻ
"tình nguyện" thường cũng được lợi bằng hay hơn những sĩ quan Pháp.
... Để giúp chúng ta hiểu rõ hơn, chúng ta hãy xét tới những hành động
của Balny tại Phủ Lý và Hải Dương và của Harmand ở Nam Định, và nhấn mạnh
đến sự liên hệ giữa Bộ Truyền Giáo Công giáo và các lực lượng quân sự Pháp.
Sự phân tích những hành động này cho thấy, trong những cuộc tấn công vào
những cứ điểm của chính quyền Việt Nam, quân đội Pháp đã nhận được một mức
độ hỗ trợ rất đáng kể từ những thừa sai và những tín đồ Công giáo Việt Nam.
Hơn nữa, những phương pháp mà các sĩ quan Pháp và những cộng tác viên Công
giáo dùng tuyệt đối không thể coi là có đạo đức cao theo những tiêu chuẩn
đương thời của ngay chính họ, vì những phái bộ truyền giáo Công giáo đã dùng
sức lao động (của tín đồ Công giáo bản xứ; TCN), tài nguyên, và tin
tức tình báo, đổi lấy hậu thuẫn của Pháp để thực hiện sự tàn sát liên
miên người "lương", mạo phạm những công trình xây dựng của Phật Giáo, thiêu
hủy những làng mạc phi-Công giáo, và cướp bóc những thành phố của nhà Vua.
Sự cộng tác với chủ nghĩa đế quốc Pháp của những tín đồ Công giáo thường
không được các sử gia nhận biết đầy đủ, nhưng đó chính là một yếu tố đáng
kể góp phần thắng lợi cho Pháp ở Bắc Kỳ." [3]
Vấn Đề Tốn Kém: "Cúng Giỗ Ông Bà" hay "Dâng Tiền Cho Nhà Thờ" ?
Chúng ta thấy, TS Phạm Huy Thông đã bỏ sót những ảnh hưởng và hành
động tai hại của Công giáo Việt Nam khi ông ta chỉ viết rằng giáo lý Công
giáo nghiêm cấm tín đồ thờ các thần linh khác. Chúng ta hãy đọc tiếp TS
Phạm Huy Thông:
PHT: Ngay từ những buổi đầu truyền giáo đến
Việt Nam, nhiều giáo sĩ dù nhận ra ở xứ sở này có nhiều điều tốt đẹp từ
truyền thống gia đình đến văn hoá, xã hội nhưng cũng chỉ ra nhiều phong tục
mê tín, dị đoan. Alexandre de Rhodes ( Đắc Lộ) đã dành hẳn chương 25 trong
cuốn Histoire du Royaume de Tunquin ( Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài) để nói
về những tập tục lạc hậu này. Ông viết: “Người Đàng Ngoài có tâm tình hiếu
thảo rất đặc biệt đối với cha mẹ đã qua đời và tiêu phí quá đáng để cúng
giỗ. Vì thế không những họ đâm ra nghèo túng mà còn làm cho họ mắc nợ nần,
bởi muốn theo tục lệ và phép xã giao nên không những phải chi dụng về cỗ bàn
mà còn về các nghi lễ khác, vừa vô ích vừa phù phiếm, nhưng theo phép xử
thế, họ không sao tự miễn cho mình được. Thí dụ, họ đua nhau dựng nhà, sắm
các dụng cụ bếp núc bằng tre nứa và giấy hoa rồi đem đi đốt. Họ điên dại tin
rằng nhờ đồ vàng mã này người quá cố được nhà đẹp, đồ dùng tươm tất trong
thế giới các người tới. Cũng điên dại như thế, vào ngày cuối năm, họ sắm
quần áo cũng làm bằng giấy hoa rồi đem đốt. Họ kỳ khôi tưởng rằng hàng mã
này sẽ hoá thành áo mới, vải đẹp để dùng trong năm mới. Vì thế chúng tôi đã
công khai công kích dị đoan và chế diễu tập quán kỳ dị này” (2). Đọc những
dòng trên, chúng ta có lẽ cũng ngạc nhiên, vì đến tận hôm nay, không ít
người “ vẫn điên dại” và chắc là điên dại hơn vì họ sống ở thời kỳ khoa học
hiện đại, có trình độ học thức gấp nhiều lần những người dân Đàng Ngoài sống
cách đây gần 400 năm, xong họ vẫn đốt và còn đốt vàng mã nhiều hơn, kỳ dị
hơn từ ô tô cho đến người mẫu, từ tiền giả đến tiền thật.
TCN: Trích dẫn Alexandre de Rhodes trong cuốn
Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài, TS Phạm Huy Thông đã dùng kiến thức
của một thừa sai Công Giáo trong thế kỷ 17, một kiến thức không thể gọi là
kiến thức, về tôn giáo và những phong tục tập quán của Việt Nam như tôi đã
chứng minh ở trên. Rhodes cho rằng người Việt Nam đã tiêu phí quá đáng để
cúng giỗ, và con chiên Phạm Huy Thông ngày nay cũng cho rằng như vậy. Nhưng
người Việt Nam có nghĩ như vậy không. Vấn đề là người dân Việt Nam đã bao
nhiêu đời theo tục lệ cúng giỗ tổ tiên mà Công giáo độc thần cho là một hình
thức thờ phụng thần linh cho nên đã cấm đoán qua bao thế kỷ.
Người Công
giáo bị cấm không cho thờ cúng tổ tiên mà chỉ được thờ Chúa của Do Thái nên
cho rằng cúng giỗ là tiêu phí quá đáng. Đối với họ, để 10% lợi tức đóng cho
nhà thờ của Chúa với hi vọng sẽ được lên thiên đường (mù), thì không phải là
tiêu phí trong khi cả mấy tỷ đô-la Giáo hội đã phải bỏ ra để bồi thường cho
các nạn nhân tình dục của các “Chúa thứ hai” (Alter Christus). Cúng giỗ
không phải là tiêu phí quá đáng vì đó là một nếp sống trong dân gian, và
cúng giỗ như thế nào tùy theo hoàn cảnh kinh tế của người dân. Trước hết,
đó là để tỏ lòng hiếu thảo, nhớ đến những người đã quá cố. Thứ đến, những
thức ăn cúng giỗ chính người sống hưởng, vậy tiêu phí ở chỗ nào? Ngoài ra,
những giỗ chính còn là dịp để hội họp gia đình, con cháu, có thể từ phương
xa, về đóng góp cúng giỗ. Và sau cùng, trong các làng mạc còn là dịp để thể
hiện lòng tương thân tương ái của dân làng. Rhodes làm sao hiểu được những
điều này, và con chiên Phạm Huy Thông cũng không hiểu nốt cho nên mới trích
dẫn Rhodes. Thật là tội nghiệp.
Ai cũng biết là đốt vàng mã là sự phí phạm, mang
tiền thật đổi lấy tiền giả. Phật Giáo thường xuyên khuyên nên bỏ tục lệ
này, và khuyên con người nên dùng tiền vào những việc công ích hơn như là từ
thiện, bố thí, mua sách vở cho học sinh nghèo v…v…. Nhưng tục lệ này đã ăn
sâu trong tâm thức người Việt Nam, và sự phí phạm là cho cá nhân, nếu họ có
khả năng phí phạm. Ngày nay, tục lệ này phát triển trở lại không những ở
Việt Nam mà còn ở ngoại quốc, nhất là ở Mỹ. Cho nên, tôi có một cái nhìn
khác về việc đốt vàng mã.
Trong thời chiến, người dân nghèo, ăn không đủ,
chẳng có ai nghĩ đến chuyện đốt vàng mã. Ngày nay, tục lệ đốt vàng mã lại
lan tràn trong dân gian, không chỉ trong các tư nhân mà còn cả ở trong một
số cơ quan, công sở, xí nghiệp. Tại sao vậy? Vì “phú quý sinh lễ nghĩa”.
Phải có tiền thật mới mua được tiền giả. Hiện tượng đốt vàng mã phát triển
mạnh chứng tỏ người dân nay có tiền, đời sống vật chất của người dân đã lên
cao, và giới làm vàng mã cũng có công ăn việc làm, giúp cho kinh tế nước
nhà. Do đó, bản thân tôi cũng cho đốt vàng mã là phí phạm và là một tục lệ
nên bỏ, vì tiền mua vàng mã có thể dùng cho nhiều việc công ích hơn. Nhưng
trong bất cứ xã hội nào, con người thường chỉ nghĩ cho bản thân chứ số người
nghĩ đến công ích thực sự là thiểu số. Vì vậy tôi không phản đối việc đốt
vàng mã, vì ai có tiền muốn phí phạm thì cứ phí phạm, chúng ta không thể xía
vào đời tư của họ để mà công kích dị đoan và chế diễu tập quán kỳ dị này
như tên Alexandre de Rhodes. Chúng ta chỉ có thể khuyên họ là không nên phí
phạm như vậy, họ có nghe hay không là quyền của họ. Trong xã hội, có nhiều
chuyện còn phí phạm hơn nhiều về xa xỉ, về ăn uống, về quần áo v..v… nhưng
đó không phải là những tục lệ nên chẳng ai nói tới. Nhưng bản chất sự việc
thì giống nhau, đều là những cách hành xử cá nhân. Khác nhau là ở chỗ, việc
đốt vàng mã thể hiện lòng tưởng nhớ và quan tâm đến những người đã quá cố và
có tác dụng làm an lòng người sống.
Vấn Đề Hôn Nhân, Đa Thê, và Ly Dị
Chúng ta hãy đọc thêm một đoạn của TS Phạm Huy
Thông:
PHT: Một hiện tượng phổ biến trong đời sống
của người Việt xưa là là người đàn ông có “ năm thê bảy thiếp”. Hình như ai
càng có nhiều thê thiếp càng danh giá, quyền quý: Trai chính chuyên thường
dăm bảy vợ; Gái chính chuyên chỉ có một chồng. Nhưng chính lối sống đó đã
đẩy bao phụ nữ vào cảnh bị ngược đãi...
Giáo lý Công giáo quy định hôn nhân một vợ một
chồng. Đây là quan niệm tiến bộ ngay cả với thế giới văn minh ngày nay…
Nhiều hương ước của các làng Công giáo cổ trước
đây đều có quy định khá nghiêm ngặt về hôn nhân chung thuỷ. Hương ước của
làng Vĩnh Trị ghi trong điều 103: “ Làng toàn tòng Công giáo chỉ được phép
nhất phu nhất phụ thôi. Vậy ai còn vợ cả mà lấy vợ hai thì làng không ăn
ngồi với nữa để khỏi làm gương xấu cho kẻ khác”. Hương ước làng Nam Am, điều
67 viết: “Lại dân toàn tòng, theo luật tôn giáo, không được phép lấy vợ lẽ,
ai phạm đến cũng như tội thông dâm, nếu có con thì đứa con ấy cũng như ngoại
tình. Con ngoại tình, con vợ lẽ, là con giai khi đến tuổi nhập bạ thì phải
nộp phạt cho làng 5đ.000”.
TCN: Chế độ đa thê của Việt Nam khi xưa (ngày nay người ta không
gọi là vợ lẽ mà là “bồ nhí”) là phù hợp với hoàn cảnh xã hội. Chế độ này
chỉ có trong lớp người có tiền, giàu có như phú ông, hương chức v..v.. chứ
nông dân nghèo khó làm gì có tiền để cưới vợ lẽ, khoan nói đến năm thê bảy
thiếp. Trong các ốc đảo Công giáo ở Việt Nam, chuyện có khả năng để có năm
thê bảy thiếp là chuyện không tưởng, chẳng cần phải cấm. Mặt khác, trong
một xã hội mà trai thiếu gái thừa, nhất là lại đối với các con gái nhà nghèo
thì làm thê làm thiếp là một cách để giải quyết vấn đề sinh kế hợp pháp thay
vì phải đi làm những nghề bất đắc dĩ mất nhân phẩm như gái lầu xanh để kiếm
ăn. Đây là một vấn đề xã hội không liên quan gì đến vấn đề đạo đức tôn giáo
của Công giáo, nếu Công giáo có cái gọi là đạo đức. Tôi biết là Công giáo
có quan niệm “một vợ một chồng” . Tôi cũng biết là giáo luật Công giáo cấm
ly dị. Tại sao? Vì vợ chồng là do Chúa kết hợp qua cái gọi là “bí tích”
(sacrament) hôn phối, mà “bí tích” là Chúa đặt ra, cho nên không thể ly dị.
Nhưng quan niệm một vợ một chồng kèm theo với giáo luật cấm ly dị của Công
giáo chẳng phải là một quan niệm tiến bộ, mà là sự tổng hợp của mê tín, vì
tin rằng chính Chúa đã đặt ra “bí tích” hôn phối, và sự ngu xuẩn của Giáo
hội vì giáo hội chỉ quan tâm đến luật lệ chứ không quan tâm đến thực trạng
xã hội trong đó có những cặp vợ chồng không hợp với nhau, hoặc người vợ bị
hành hạ, bạc đãi, coi như nô lệ v..v…bị bắt buộc sống với nhau thì cũng
chẳng khác gì sống trong địa ngục. Thực tế là, trong thế giới Âu Mỹ, thế
giới của Ki Tô Giáo, tỷ lệ những cặp vợ chồng do Chúa kết hợp rồi ly dị lên
tới trên dưới 50%. TS Phạm Huy Thông cũng nói đến tệ nạn ly hôn ở Việt
Nam. Nhưng TS có biết là mỗi năm có bao nhiêu tín đồ Công giáo xin hủy bỏ
hôn ước [annulment] không? Giáo hội cấm ly dị nhưng có biện pháp hủy bỏ hôn
ước, gọi là “annulement”. Thưa với TS, mỗi năm trung bình có trên 50000
(năm mươi ngàn) cặp vợ chồng Công giáo được tòa xử của Công giáo (Catholic
trials) cho phép hủy bỏ hôn ước. Theo lời giải thích lắt léo của Giáo hội
thì Annulment là một tuyên bố của tòa xử Công giáo rằng hôn ước giữa hai
người đã được Chúa kết hợp trong “bí tích” (sacrament) hôn phối trở thành vô
hiệu (void) vì chưa từng xảy ra chứ không phải là ly dị. [Annulment
means that in the view of canon lawyers no marriage has taken place:
it is not a divorce, it is a statement that the marriage, as a
sacrament, was null and void] Đó là giáo luật “một vợ một chồng” rất tiến bộ
của Công giáo đấy.
TS Phạm Huy Thông đưa ra Hương ước của làng Vĩnh Trị cũng như
Hương ước làng Nam Am, với những luật lệ riêng, nghiêm cấm những
chuyện hợp pháp ở Việt Nam, đã chứng tỏ những lời Helen B. Lamb viết ở trên
là đúng:
Trong bốn thế kỷ, Công giáo vẫn còn như là một lực lượng chia rẽ
trong xã hội Việt Nam. Để tăng cường cái vực thẳm ý thức hệ giữa những tín
đồ Công giáo và đại khối dân tộc, những tín đồ Công giáo thường sống trong
những làng mạc riêng biệt, dưới quyền thống trị của các linh mục, y như
những làng mạc trong thời Trung Cổ ở Âu Châu cách đây 500 năm. [Linh Mục
Trần Tam Tĩnh đã gọi những làng mạc riêng biệt này là những “ốc đảo ngu
dốt”] Vì ngu dốt và cuồng tín, Công giáo đã không biết đến những tình trạng
xã hội trong đất nước Việt Nam, cho nên đã ngăn cấm giáo dân những điều
không đáng cấm, những điều mà đối với người dân Việt Nam đều là hợp Pháp.
Đó không phải là Công giáo tiến bộ mà là mù quáng tuân theo những luật lệ
của Giáo hội, nhiều khi trái ngược với truyền thống xã hội của Việt Nam.
Đọc lịch sử các Giáo hoàng Công giáo, chúng ta thấy không thiếu những vị,
không phải là chỉ có năm thê bảy thiếp, mà còn hoang dâm vô độ, loạn luân,
ngủ cả với mẹ và con, ngoài những chuyện độc ác như giết người v…v…. Xin
đọc trong:
http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN20.php, bài “Đây!! Những “Đức
Thánh Cha”, Đại Diện Của Chúa Trên Trần Và Là Chủa Chăn Của Giáo Hội Công
Giáo “Thiên Khải, Duy Nhất, Thánh Thiện, Tông Truyền”. Sau đây là một
đoạn điển hình trong đó:
Trong thời đại này, không phải là Thánh Linh tuyển
chọn giáo hoàng mà là, theo Hồng y Baronius, những cô gái điếm
(scortas). Đó là “luật lệ của những cô gái điếm hạng sang” (rule of
the courtesans), đôi khi còn được gọi là “chế độ điếm trị”
(Pornocracy), hay là triều đại của các cô gái điếm (reign of the
whores). Trong số điếm này có một người mà Baronius gọi là “con điếm vô
liêm sỉ”, Theodora, và đứa con gái vô liêm sỉ không kém là Marozia. Cả
hai mẹ con đều có con với giáo hoàng Sergius III, và cả hai đều đưa những
đứa con hoang của mình lên ngai giáo hoàng - John XI và John XII. John
XI bị cầm tù và John XII đã “biến dinh Lateran (nơi giáo hoàng ở,
trong Vatican. TCN) thành một ổ điếm”. Không có một tội ác nào
mà John XII không làm - giết người, khai gian, thông dâm, loạn luân với hai
em, đâm chém và thiến kẻ thù v..v.. Hắn ta chết trong tay của một người
chồng bị xúc phạm (vì bị bắt quả tang đang thông dâm với vợ người
này.)
Những Điều Cực Kỳ Mê Tín của Công Giáo.
Tôi chẳng muốn phê bình tiếp TS Phạm Huy Thông, vì
những điều ông ta viết chẳng có gì đặc biệt để chứng tỏ Công giáo là đạo
tiến bộ, văn minh. Nhưng có một câu tôi không thể bỏ qua.
GS Phạm Huy Thông viết: Đạo Công giáo nghiêm cấm các hành vi mê tín,
dị đoan. Vậy tôi xin có vài vấn đề đặt với ông TS: Tại sao Công
giáo không nghiêm cấm những hành vi cực kỳ mê tín như sau:
1)
“Các tín đồ Công Giáo, khi ăn một cái bánh nhỏ mà
họ thường được dạy là “bánh thánh”, tin rằng mình đã thực sự ăn thịt và uống
máu Chúa Giê-su. Như vậy có phải là một hành vi mê tín, dị đoan không? Họ
tin rằng một mẩu bánh làm bột thường, sau khi được ông linh mục hoa tay làm
phép, lẩm bẩm vài câu bằng tiếng La-Tinh, mẩu bánh đó đã được thánh hóa và
trở thành đích thực là thịt và máu Chúa của họ. Đó là niềm tin dựa vào “trí
tuệ” hay chỉ là niềm tin mù quáng, nghe theo những lời lừa bịp của giới chăn
chiên. Đối với người ngoại đạo chúng tôi, đó là những hành vi mê tín, dị
đoan hơn bất cứ hành vi mê tín dị đoan nào khác.
2)
Người Công giáo hàng ngày làm dấu cái mà họ gọi là
“thánh giá”, tin rằng đó là biểu tượng “cứu rỗi”, nhưng không hề biết là cây
gỗ hình chữ thập dùng để đóng đinh Chúa Giê-su chỉ tượng trưng cho một loại
hình phạt tra tấn và hành quyết man rợ nhất của La Mã khi xưa. Như vậy có
phải là mê tín dị đoan không? Nếu trong lịch sử loài người, chỉ có một mình
Giê-su bị đóng đinh trên cái giá chữ thập thì may ra, may ra thôi, còn có
người có thể tin đó là một biểu tượng “cứu rỗi” nếu họ nhắm mắt tin theo nền
thần học của Ki Tô Giáo. Những Tân Ước viết rất rõ là Giê-su bị đóng đinh
trên giá hình chữ thập cùng lượt với hai tên ăn trộm ở hai bên. Ngoài ra
trong lịch sử còn có không biết bao nhiêu người cũng đã bị hành quyết như
vậy. Vậy cái giá nào gọi là “thánh giá”, tại sao chỉ tôn sùng một cái giá
mà Giê-su bị đóng đinh trên đó trong khi thực sự chẳng ai biết cái giá đó là
cái nào, có gì khác biệt với các giá khác không. Và cái giá đó thánh ở chỗ
nào.
3)
Người Công giáo mang những đứa con sơ sinh chưa
biết gì ngoài việc bú, ị, ngủ, tè và khóc, đến nhà thờ cho các ông linh mục
“rửa tội”, cái tội nó không hề có. Nếu bảo đó là tội tổ tông thì Giáo Hoàng
John Paul II đã dứt khoát bác bỏ khi Ngài công nhận thuyết Big Bang về nguồn
gốc vũ trụ, và thuyết Tiến Hóa về nguồn gốc con người. Hơn nữa, ông linh
mục có thể trên người đầy tội lỗi như trên 5000 linh mục đã can tội hiếp dâm
các “sơ” trên 23 quốc gia và ấu dâm với trên 10000 trẻ em. Như Linh mục
Nguyễn Hữu Trọng đã viết: Ở Việt Nam có những ông Linh mục không lo truyền
đạo mà chỉ lo truyền giống. Mang con nít đi rửa tội có phải là mê tín hay
không khi mà thuyết sáng tạo đã sụp đổ và tội tổ tông truyền xuống từ Adam
và Eve chỉ là những huyền thoại cổ xưa của dân tộc Do Thái. Không những thế,
tất cả những “bí tích” mà Giáo hội Công giáo đưa ra đều là mê tín cả, những
bí tích mà John Walters đã liệt vào hạng “mê tín tàn bạo” (sadistic
superstition) và mục đích chỉ là tạo quyền lực cho giới chăn chiên.
4)
Người Công giáo tin rằng Chúa của họ được sinh ra
từ một nữ trinh và bà ta còn trinh vĩnh viễn [perpetual virginity] tuy rằng
sau Giê-su bà ta đã sinh ra thêm ít nhất là 6 người con nữa. Người Công
giáo cũng còn tin là sau khi bị đóng đinh, chết và táng xác, ông ta lại sống
lại và sau 40 ngày, tự nhiên bay lên trời mà không có sức đẩy của một hỏa
tiễn đeo trên lưng. Như vậy có phải là mê tín hay không, hay đó là những
niềm tin dựa vào sự hiểu biết “trí tuệ” điều mình tin? Tôi xin nhắc lại
định nghĩa về mê tín mà TS viết ở trên: “ Mê tín: Tin một cách mù quáng
vào thần thánh, ma quỷ, số mệnh và những điều huyền hoặc”. TS nói Công
giáo là tôn giáo độc thần, vậy thần của Công giáo có thuộc loại thần thánh
không? Trong Công giáo cũng còn không biết là bao nhiêu thánh mà tín đồ
thường tin, có phải không?
Vậy Công giáo có mê tín dị đoan hay không? Chúng ta
hãy đọc nhận định của Leon Tolstoy trong vô số các nhận định khác:
Leo Tolstoy :Tôi tin chắc rằng giáo lý
của giáo hội Công Giáo là một sự nói láo xảo quyệt và xấu xa theo lý thuyết,
và là sự pha trộn của sự mê tín thô thiển nhất và trò ma thuật về phương
diện thực hành (I am convinced that the teaching of the Catholic church
is in theory a crafty and evil lie, and in practice a concoction of gross
superstition and witchcraft.) .
Xin TS Phạm Huy Thông đừng có nói là những niềm tin
tôn giáo thuộc loại đặc biệt, không thể lý giải, khác với những niềm tin
trong dân gian. Người Công giáo muốn tin cái gì là quyền của họ, nhưng khi
họ lên tiếng cho rằng những gì không hợp với niềm tin của họ là mê tín dị
đoan, trong khi đạo của họ thuộc loại cực kỳ mê tín và dị đoan thì đúng là
họ không hề theo lời dạy của Chúa của họ: "Hãy lấy cây sà trong mắt ngươi
ra trước rồi hãy lấy cây kim trong mắt người khác ra sau. Đừng phê phán ai
để ngươi cũng không bị phê phán." Nhất là khi sự mê tín của Công giáo
đã gây ra bao nhiêu tác hại cho nhân loại như chính Giáo hoàng John Paul II
và bộ tham mưu của ông ta đã phải xưng thú cùng thế giới 7 núi tội ác của
Công giáo đối với nhân loại tại Vatican ngày 12 tháng 3 năm 2000, trong khi
sự mê tín mà không hẳn là mê tín về những tục lệ như cúng giỗ, đốt vàng mã,
cúng cô hồn, xem ngày lành tháng tốt, hay xem đất để mai táng [thuộc khoa
phong thủy mà nay người Tây phương cũng tin] chẳng gây hại đến bất cứ ai.
Đó là sự khác biệt giữa hai loại mê tín.
Để kết luận, tôi có vài lời với các trí thức Công giáo như TS Phạm Huy
Thông.
Ngày nay tất cả những sự thật về bản chất, giáo lý, ảnh hưởng v..v…
của Công giáo đã được phơi bày cho quần chúng. Quý vị không thể che dấu
được bất cứ điều gì. Quý vị có thể nói tất cả những gì tốt đẹp về Công giáo
trong các nhà thờ hay trong các ốc đảo Công giáo của quý vị với nhau. Nhưng
một khi quý vị viết trên những diễn đàn truyền thông mà mọi người có thể đọc
thì xin quý vị viết cho đúng và lương thiện hơn một chút, nhất là đừng có
đụng đến những vấn đề mà quý vị không hiểu rõ về truyền thống dân tộc cũng
như về chính tôn giáo của quý vị. Trong thời đại này quý vị không nên đề
cao đánh bóng tôn giáo của quý vị trên các diễn đàn công cộng, hành xử như
là các nô lệ tâm linh, bởi vì tôn giáo của quý vị chẳng có gì đáng để tôn
vinh, đề cao, đánh bóng.
Tôi viết đây là viết về Công giáo nói chung chứ
không viết về cá nhân Công giáo mà chắc chắn có nhiều người rất lương thiện
và đạo đức không thua kém gì người “lương”.
- Giáo lý Công giáo thì thuộc
loại huyễn hoặc để mê hoặc quần chúng. Lịch sử Công giáo là một lịch sử ô
nhục đẫm máu.
- Đạo đức của các bậc chăn chiên, từ giáo hoàng trở xuống,
chẳng có gì đáng ca ngợi.
- Lịch sử Công giáo Việt Nam cũng chẳng có gì đáng
khen ngợi, mà trái lại, như trong những tài liệu của Helen B. Lamb và McLeod
đã trích dẫn ở trên.
Quý vị không có cách nào có thể viết lại lịch sử như
quý vị đãng từng làm.
Hiện nay, vụ giới chăn chiên loạn dâm và ấu dâm, với
sự bao che của chính Giáo hoàng Benedict XVI và một số Hồng Y, Tổng Giám Mục
ở các giáo phận v..v.. đang nổ ra như pháo trên khắp thế giới. Người ta
còn đòi Giáo hoàng Benedict XVI phải từ chức vì đã che dấu và bao bọc cho
những linh mục loạn dâm. Bản tin tổng hợp trên sachhiem.net ngày 26 tháng
3, 2010 có đoạn như sau:
Qua điểm tin từ những tờ báo nổi tiếng tại : Anh quốc, Pháp
quốc, Ý, và Hoa Kỳ ...nhà bình luận có tên là Richart de la Cure kết luận
như sau :
..."Đạo công giáo đang đi vào ngỏ cụt, và hao tốn, vị giáo hoàng hiện
nay bất lực kèm theo lo lắng nay mai sẻ bị thải hồi, và nhất là thế giới
nguyền rủa, căm thù ...mà từ trước đến nay Vatican thường tuyên bố .." đạo
công giáo là một tôn giáo bác ái và Yêu thương hay thường gọi là công giáo
hoàn cầu "...nay đang trên con đường lụi bại và nhục nhả.
Do đó, quý vị hãy nhìn lại chính tôn giáo của quý vị,
về nội dung cuốn Kinh Thánh, về lịch sử của Giáo hội, về đạo đức của các bậc
chăn chiên, về Vatican, về các Giáo hoàng v…v… và hãy dè dặt khi quý vị muốn
đề cao, đánh bóng Công giáo. Trong thời đại này, tôn giáo dính liền với các
vấn đề xã hội và được coi như là một bộ phận của xã hội, không thể đứng
ngoài hay đứng trên xã hội. Không ai có thể viện lẽ tự do tôn giáo hay tự do
tín ngưỡng để có thể có những hành động vô trí đứng ngoài xã hội hay đứng
trên xã hội. Cho nên đừng bao giờ quý vị có quan niệm tôn giáo là lãnh vực
bất khả xâm phạm vì đó là tự do tôn giáo hay tự do tín ngưỡng.
[1]. The God of the Old Testament is arguably the
most unpleasant character in all fiction: jealous and proud of it; a petty,
unjust, unforgiving control-freak; a vindictive, bloodthirsty ethnic
cleanser; a misogynistic, homophobic, racist, infanticidal, genocidal,
filicidal, pestilential, megalomaniacal, sadomasochistic, capriciously
malevolent bully.
[2]. Franco-Vietnamese relations from the 17th century on followed the
classic pattern of Western penetration of Asia. First came the missionaries
and traders. In time, diplomats arrived to intercede on behalf of both and,
in the end, soldiers marched in to impose foreign rule - for the subject
people's own good, of course.
A country's chief motive in acquiring colonies and spheres of influence
would seem to be acquisition - to get something, be it power, prestige,
wealth, or plunder...In the French case the chief emphasis was on religion.
As the torchbearers of Catholicism, the French were engaged in a religious
crusade to give the people of Vietnam that most priceless of gifts, the
opportunity to achieve immortality. Only when France became more secular in
the 19th century did it place emphasis on its "civilizing mission" - in
countries justly proud of their ancient civilization.
...However unwelcome the traders were, Western missionaries were even
more suspect. After 1645, when Alexandre de Rhodes was first imprisoned and
then expelled, missionaries had to disguise themselves as traders, according
to English merchants who came to Vietnam to open up trade channels.
...A modern Eastern philosopher, in attempting to explain Asia's
antagonism toward Christian evangelists, stressed the arrogance of the
typical Christian missionary:
"You Western mind is too much obsessed with the idea of conquest and
possession, you inveterate habit of proselytism is another form of it..
Preaching your doctrine is no sacrifice at all - it is indulging in a luxury
far more dangerous than all luxuries of material living. It breeds an
illusion in your mind that you are doing your duty - that you are wiser and
better than your fellow-beings..."
A denigration of everything Asian is implicit in the attitudes of
early French missionaries toward the religions they found in Vietnam, as can
be seen in their correspondence and writings.
...Whatever the difference between Vietnam's various religions, they were
minor compared with the gulf separating them from the militant Catholic
Church.. Vietnamese emperors regarded Catholicism as a threat to their
authority and the local Vietnamese converts as the bottom rung of a tight
religious hierarchy under foreign bishops. (So completely dominated by
foreigners was the Vietnamese Catholic Church that there were no Vietnamese
bishops appointed until the 1930s, almost 400 years after the first Catholic
missionaries arrived in Vietnam.) Above the foreign bishops was the foreign
pope in far-off Rome, and they owned their loyalty and obedience to him
rather than to the Vietnamese emperor.
The missionaries were totally alien to Vietnam and to the very idea
of mutual accomodation between different religious viewpoints. To the
Catholic faithful of this period there was truth and error, with no
possibility of compromise or "dialogue" between the two. Missionaries
looked down on local beliefs and practices, calling them false.
...Early reports describe how a large quantity of Western medicines was
brought to Vietnam so that the missionaries could administer them "in order
to win the hearts of these peoples" (Father de Courtaulin, quoted in
Taboulet, p.42). But in their proselytizing activities many Catholic
missionaries exploited the fears and hopes of the ignorant and the
credulous. Christianity was regarded by those who adopted it as a new
system of magic. Catholic holy water was used, hopefully, to exorcise
devils, raise the dead, and restore sight to the blind...
True to their belief in Catholic infallibility, members of the Society
of Foreign Mission attacked Buddhism as both atheistic and idolatrous and
excoriated Confucianism because of its rites of ancestor worship.
...To Vietnam's rulers, the entire Christian doctrine was suspect. In
the Confucian view, man is essentially good; all he needs is good training
and the use of his reasoning powers to ascertain the difference between good
and evil. He does not have to be "saved" by Christ's intercession with God,
and the supposition that he did, struck the educated Confucian as just so
much superstitious.
Besides being considered crude and implausible, Christian dogma was
viewed as positively dangerous, since it alineated a person from his family
by emphasizing individual salvation.
The missionaries enjoined their Vietnamese flocks, under the threat of
hell fire and damnation, to pursue the Holy Grail of personal immortality in
the next world instead of fulfilling the duties of filial piety in this
one. The Vietnamese authorities were particularly alarmed over the Catholic
confessional as a means of exercising power over people.
...As if challenging the Confucian genius for merging and tempering alien
creeds, Catholic proved to be completely indigestible. For four centuries
the Catholic faith has remained a divisive force in the society.
Reinforcing the ideological gulf between Vietnamese Catholics and the rest
of the population, Christian converts have tended to live apart in separate
villages dominated by their priests, much as the villages of medieval Europe
were dominated five hundred years ago.
In a cultural sense, too, Vietnamese converts to Catholicism became
isolated from the mainstream. In order to dissiminate Christian teachings
in Vietnam, the missionaries worked out a new form of Romanized script
called Quoc Ngu, a phonetic rendering of Vietnamese which they taught their
flocks. They translated prayer books and religious tracts into this new
script, but no Vietnamese literature. This meant that Vietnamese Catholics,
who no longer attended village schools run by Confucian scholars, could read
neither the Vietnamese script, called "Nom", nor the Chinese characters
used for all public documents. The Romanized script was one of the few
lasting Western contributions to Vietnamese civilization, but its immediate
effect was to divide the nation and strike at the roots of Vietnamese
culture.
For a nation whose ideal was a harmonious community living
according to well - defined human relationships, this Catholic intrusion
represented disorder and dissension..
From the start the Church fathers in Vietnam had been willing to
defy Vietnamese authority and resorted to bribery and fraud to gain their
ends.
[3]. What was the nature and extent of the assistance that the Catholics
brought to the French expedition?
The correspondence and reports of Balny and Harmand, who were dispatched
by Garnier to obtain the submission of many of the provincial citadels and
strongpoints of the delta, reveal pattern of significant Catholic assistance
that included - but not limited to - formal administrative and military
duty. These sources further reveal a pattern of mutual manipulation by
French officers and Catholic missionaries in which the "volunteers" often
had as much or more to gain from the relationship as did the French
officers.
...It is useful to consider Balny's actions at Phu Ly and Hai-duong and
Harmand's at Nam-dinh with an emphasis on the relationship between Catholic
Missions and the French forces. The analysis reveals that the French were
far from alone in their attacks on the loci of Vietnamese authority because
the invaders received a significant level of support from the missionaries
and the Vietnamese Catholics. Moreover, the methods of the French officers
and their Catholic collaborators could hardly be considered as evidence of a
superior morality even by their own contemporary standards, for the Catholic
Missions exchanged labor, resources, and information in return for French
assistance in perpetuating summary executions, desecreations of Buddhist
religious edifices, burning of non-Catholic villages, and pillaging of
imperial citadels. This Catholic collaboration with French imperialism has
not been adequately recognized by historians, but it was a significant
contributing factor to the French success in Tonkin.
Các bài đối thoại cùng tác giả
▪
“ Sản Phẩm Trí Tuệ” của Nguyễn Anh Tuấn -
Trần Chung Ngọc
▪
“Sản Phẩm Trí Tuệ” Mới Của Nguyễn Anh Tuấn Về “Giáo H -
Trần Chung Ngọc
▪
“Tự Do Tín Ngưỡng” của Minh Võ -
Trần Chung Ngọc
▪
Ai Dám Tấn Công Đạo Chúa ? -
Trần Chung Ngọc
▪
Chiến Tranh ... Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ -
Trần Chung Ngọc
▪
Chu Tất Tiến: Here We Go Again -
Trần Chung Ngọc
▪
Chung Quanh Một Cuộc Tranh Luận Hào Hứng -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - “Cha Chung” là ai? -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Các Vấn Nạn Cần Giải Quyết -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Căn Bản Đức Tin -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Kết Luận -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Lợi Ích ? -
Trần Chung Ngọc
▪
Comments On John Paul II's Crossing the Threshold of Hope -
Trần Chung Ngọc
▪
Eh! Lữ Giang, alias Tú Gàn, Here we go again! -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ về Nguyễn Văn Lục -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ về Tú Gàn -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ Về Tiến Sĩ Nguyễn Học Tập -
Trần Chung Ngọc
▪
Một Trí Thức Không Biết Ngượng -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Đọc Bài “Niềm Tin ...” Của Trần Thị Hồng Sương -1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Đọc Mấy Câu Trả Lời của Ông Mục Sư NQM -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 4 5 ▪
>>>