|
29 tháng 3, 2009
|
Các nhà sinh vật biển
cho biết loài cá mập rất kiên định với mục tiêu đã chọn. Khi đã chọn một
nạn nhân để tấn công, cá mập sẽ theo đuổi đến cùng mà không hề quan tâm
đến những nhóm cứu hộ đến ứng cứu gần đó cho đến khi, hoặc đã đạt được
mục đích hoặc bị bắn hạ. Hành vi của con người có khi cũng không khác
với hành vi của cá mập là mấy, và đôi khi còn tàn bạo hơn.
Tháng 2 năm 2009, phái
đoàn ngoại giao của Vatican thực hiện chuyến viếng thăm Việt Nam lần thứ
18 . Vatican luôn kiên định theo đuổi mục tiêu thiết lập bang giao với
Việt Nam để thực hiện Tông huấn Giáo hội tại Châu Á
năm 2000 của cố Giáo hoàng John Paul
II :
”Khi
chiêm ngắm đại lục nơi Ðức Giêsu đã sinh ra và sống cuộc đời tại thế,
nơi Giáo hội công giáo chỉ là một thiểu số nhỏ bé, và dù là nơi Giáo
hội chịu nhiều bách hại, bị coi là xa lạ, ngoại lai,
nhưng Ðức thánh Cha vẫn nhìn thấy Á châu là một chân trời mới đầy hứa
hẹn cho một "mùa gặt các linh hồn mà tôi thấy đã chín mùi và phong
phú" cho sứ vụ của Giáo hội trong thiên niên kỷ thứ ba (s. 9).”
Đọc qua những phát biểu
của ông giáo hoàng mới hay giáo hội chỉ thấy “cái rác trong mắt người mà
không thấy cái xà trong mắt mình”! Ông cho là giáo hội bị bách hại
nhưng ông không thấy giáo hội từng tổ chức những tòa án dị giáo để giết,
thiêu sống những người không có cùng niềm tin Thiên chúa, tiến hành
những cuộc giết chóc đẫm máu được mệnh danh là thánh chiến thời Trung
cổ. Riêng ở Việt Nam, ông không biết các giáo sĩ, con chiên làm mật thám
chỉ điểm cho người Pháp để giết hại những người Việt yêu nước hay giết
chóc, cướp phá những làng mạc của người bên lương (thiện), tàn phá các
đình chùa, miếu mạo là những vật thể biểu tượng cho nguồn mạch tâm linh
của người Việt để xây dựng các nhà thờ, chủng viện. Những người này bị
nhà nước phong kiến xưa kia xử tội chết vì phản quốc thì giáo hội lại
phong “thánh” cho họ! Ông cho giáo hội bị coi là xa lạ vì ông cho rằng
giáo hội chỉ đi “khai sáng” các dân tộc nhược tiểu, kém văn minh, và
làm như không biết nền văn minh du mục của Thiên chúa giáo cơ bản là có
quá nhiều khác biệt, thậm chí là đi ngược lại với nền văn hóa, phong tục
tập quán truyền thống của các dân tộc Đông phương có nền văn minh lúa
nước, nên nó bị xem là xa lạ, “ngoại lai” là sự đương nhiên. Nhưng cái
đại lục Châu Á này quá lớn, có hơn 4 tỷ linh hồn cần phải cứu rỗi, hấp
dẫn và đầy hứa hẹn, xứng đáng để quên đi cái sự “bách hại” và bị xem là
“xa lạ”, và quan trọng hơn cả là tất cả rủi ro luôn nằm ở phía những con
chiên ngu ngơ bản địa chứ không phải những vị ngồi bình an “hưởng phước”
trong tòa thánh nguy nga tráng lệ ở mãi tận trời tây!.
Lục địa Châu Á, thông
qua “cửa ngõ” Đông Dương, Việt Nam là một lựa chọn có nhiều thuận lợi
trong việc thực hiện “mùa gặt các linh hồn” ở châu lục này. Sự mong muốn
sớm thiết lập được bang giao với Việt Nam và với các nước Châu Á khác là
yêu cầu rất “chiến lược” cho Giáo hội La mã, vì cái nôi Thiên Chúa ở
Châu Âu, Hoa kỳ đã xuất hiện các dấu hiệu của thời kỳ suy thoái theo qui
luật đào thải tự nhiên. Thiên Chúa giáo cũng giống như mọi tổ chức thế
tục khác, không có yếu tố siêu nhiên nào ở đây cả, và cũng chịu qui luật
“sinh diệt” như bất cứ hiện tượng khác.. Nhiều tôn giáo cổ xưa cũng đã
từng biến mất. Nhân loại có thể không hiểu biết hết bản chất thật của
đạo Thiên Chúa trong một trăm năm, một ngàn năm hay một vạn năm nhưng
con người không thể không biết mãi mãi được. Vấn đề còn lại là thời
gian.
Việt Nam có số
lượng con chiên nhiều thứ nhì Châu Á sau Philippines, sự trung thành
của con chiên Việt Nam với giáo hội mẹ đến mức độ gần như tuyệt đối,
được chứng minh qua việc Vatican “phong thánh” cho 117 người “tử vì
đạo”, không kể hàng ngàn con chiên vô danh “tử vì đạo” khác mà hầu
hết là người Việt. Những cái “chết” mà hầu như những ai không bị các
nghi thức tôn giáo điều kiện hóa nhận thức, như các phép bí tích của
đạo Thiên chúa chẳng hạn, thì chẳng biết những cái chết này thực sự
có ý nghĩa gì với sự độc lập, tự do của dân tộc, mà còn trái lại.
Việt Nam đang còn
có những khu vực hội tụ nhiều yếu tố thuận lợi trong việc truyền đạo
như dân trí thấp, nghèo nàn lạc hậu, địa bàn dàn trải khó kiểm soát,
một số cán bộ nhà nước thoái hóa phẩm chất, đặt biệt là khu vực Tây
Nguyên và các vùng rừng núi phía Bắc, một địa chính trị và kinh tế
quan trọng bậc nhất Việt Nam và cả Đông Dương.
Việt Nam đang theo
đuổi chính sách ngoại giao đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan
hệ quốc tế do nhu cầu phát triển kinh tế cũng như mối tương quan địa
chính trị.
Không phải chính quyền
VN không ý thức được việc thiết lập bang giao với Vatican là “sự đánh đu
với tinh”, vì nếu Vatican là một nước như một quốc gia bình thường
khác, thậm chí là một “cựu thù” trực diện trong chiến tranh chẳng hạn,
thì Việt Nam vẫn sẵn sàng gác lại quá khứ để thiết lập bang giao đã từ
lâu như những nước đã từng là chư hầu của Hoa Kỳ trong cuộc chiến tại
Việt Nam. Việc thành lập nhóm công tác hỗn hợp Việt Nam – Vatican về
quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia vừa rồi chỉ là một hình thức khẳng
định chính sách đối ngoại của Việt Nam. Còn khi nào tiến đến việc bang
giao chính thức thì lại vẫn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ. Về mặt hình thức,
có vẻ như có những bước tiến quan trọng trong việc thiết lập bang giao
nhưng cũng có thể đây chỉ là nghệ thuật ngoại giao “ầu ơ, ví dầu ” của
Việt Nam, như cách thảo luận bàn tròn, bàn vuông, bàn quả trám gì đó
theo cách “vừa đánh vừa đàm” trong hội nghị bốn bên ở Paris năm 1973.
Thiết lập bang giao giữa
hai nước còn là một việc không hề dễ dàng vì Việt Nam luôn luôn đặt sự
ổn định đất nước làm tiền đề cho bất kỳ mối quan hệ quốc tế nào. Việt
Nam còn rất nhiều chính sách cần được ưu tiên thực hiện khác trước khi
nói đến chuyện bang giao.
Vết thương chiến
tranh, sự phân hóa, chia rẽ của một bộ phận người Việt với nhau chưa
lành hẳn nay sự có mặt của Vatican chỉ khơi gợi lại nỗi đau, sự hi
sinh của bao nhiêu thế hệ cha ông, và vô tình hà hơi tiếp sức cho
các nhóm công giáo cực đoan và các tổ chức vong bản trong và ngoài
nước vì Vatican đã từng hậu thuẩn cho người Pháp và người Mỹ xâm
lược Việt Nam.
Tây nguyên là một
địa bàn chiến lược và nhiều tiềm năng kinh tế rất quan trọng. Tất cả
các chiến thắng làm xoay chuyển cục diện chiến tranh đều xuất phát
từ các khu vực núi rừng. Một Điện Biên Phủ ở Tây Bắc 1954 và một Ban
Mê Thuộc ở Tây Nguyên 1975. Nhưng sau khi chiến tranh đi qua, núi
rừng bị tàn phá, đời sống của đồng bào miền núi vẫn nghèo nàn, lạc
hậu, dân trí cực thấp, sự di dân tự phát phá vỡ môi trường sống của
người bản địa, gây sự bất mãn và trở thành mảnh đất màu mỡ cho những
nhà truyền giáo chính thức lẫn “chui” tập trung chủ yếu ở khu vực
Tây nguyên, lôi kéo đồng bào dân tộc thiểu số gây bạo loạn như sự
kiện Tin Lành Dega ở Tây nguyên vào tháng 9 -2002.
Việt Nam nhận thức
rất rõ sức mạnh làm nên mọi chiến thắng của dân tộc xuất phát từ
truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do của dân tộc. Đất nước trải
qua 4000 năm với quá nhiều biến cố lịch sử nhưng vẫn giữ được độc
lập tự do, đã chứng minh sự minh triết của tiền nhân khi chọn lọc
những tư tưởng tinh hoa của nhiều nền văn hóa khác nhau để hun đúc
thành bản sắc riêng của dân tộc, trong đó tam giáo đóng vai trò quan
trọng. Ngày xưa, nếu thiếu yếu tố chủ đạo này, Việt Nam đã bị đế chế
phương bắc đồng hóa từ lâu qua 1000 năm Bắc thuộc hay đã trở thành
một Philippines thứ hai sau gần 100 năm dưới ách đô hộ của thực dân
Pháp nhưng yếu tố cấu thành nên bản sắc này chưa thể hiện vai trò
chủ đạo để tạo sức đề kháng cho toàn xã hội đối với các tác động
tiêu cực khác.
Vì vậy, việc bang giao
chỉ có thể thiết lập khi các nguy cơ làm mất ổn định xã hội đã bị loại
bỏ, không còn khả năng đe dọa sự ổn định đất nước, nói cách khác là cần
thời gian để kiện toàn những khiếm khuyết về an sinh xã hội. Việt Nam
cần thời gian:
Thế hệ thứ 3 và 4
của những người Việt sống ở hải ngoại và trong nước được tiếp cận
với nền giáo dục, thông tin đa chiều hơn thế hệ cha ông của họ. Cách
nhìn nhận lịch sử ở góc độ càng xa các biến cố của lịch sử nên càng
có cái nhìn toàn cảnh hơn là những người tham gia trực tiếp với cuộc
chiến, do đó, cái nhìn tương đối khách quan hơn. Sự thật lịch sử và
mối quan hệ gia đình đặt họ làm thế hệ hòa giãi, hàn gắn những xung
đột và hận thù của quá khứ, đặt lợi ích của đất nước lên trên cảm
xúc thân phận của từng cá nhân hay nhóm lợi ích. Cần phải nhận thức
rõ là chính sách hòa giãi của bên nhà là vì tình cảm dân tộc, đồng
bào chứ không phải vì thực lực của những lá cờ vàng.
Tổ chức và nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào Tây nguyên và các
vùng rừng núi miền Bắc. Sự nghèo nàn, tập quán lạc hậu, nền giáo dục
cơ bản chưa được phổ cập thì địa bàn chiến lược này luôn tiềm tàng
sự bất mãn. Đây là mảnh đất gần như “trắng” về giáo dục mà các nhóm
truyền giáo Vatican và Tin Lành và cả các thế lực chống phá đang nỗ
lực phát huy ảnh hưởng.
Phát triển kinh tế
phải đi đôi với việc hướng đến một đời sống tâm linh lành mạnh để
xây dựng nền tảng đạo đức xã hội. Vì thế, cần có một “quốc đạo” để
khơi dậy nguồn mạch tâm linh của dân tộc. Phật giáo phải đảm trách
vai trò tâm linh cho toàn xã hội, đây không phải là điều xuất phát
từ cảm tính hay vì có số đông tín đồ mà vì lịch sử đã chứng minh
những thịnh suy của đất nước cũng chính là những thịnh suy của đạo
Phật. Hoà thượng Mãn Giác (1929-2006) với hai câu thơ: ” Mái chùa
che chở hồn dân tộc / Nếp sống muôn đời của tổ tông”. Khi trích dẫn
hai câu thơ của thi sĩ Huyền Không này, khắc có lẽ có người nghĩ
ngay là “sư nói sư phải, vãi nói vãi hay”. Vậy xin trích dẫn một câu
ca dao để thể hiện tính độc lập và khách quan hơn:
“Dù cho đế quốc trăm tay
Quyết không chia được đất nầy làm hai
Cho dù cạn nước Đồng Nai
Nát Chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyền”.
Phật giáo mang ý nghĩa
“tương tức” với dân tộc hơn là “đồng hành”. Đồng hành thì còn có thể có
lúc này lúc khác mà phải là “tương tức”, nói theo nhà Phật thì vì cái
này có nên cái kia có, cái này mất cái kia mất, có “nát chùa” mới bị
“mất nước” chứ không phải “Thà mất nước chứ không thà mất Chúa” như lời
phát biểu của Linh mục Hoàng Quỳnh xưa kia. Vì vậy, Phật giáo phải đóng
vai trò hỗ trợ nhà nước trong việc ổn định xã hội, đặc biệt là khu vực
miền núi phía Bắc và Tây nguyên để hạn chế sự lôi kéo của các tổ chức
lợi dụng tự do tôn giáo hoạt động chống phá, và khi Việt Nam đã mở rộng
cửa thì đồng thời cũng sẽ có nhiều tôn giáo, tín ngưỡng khác cũng vào
theo, sự phân hóa trong cộng đồng tất yếu sẽ diễn ra. Phật giáo phải
định hướng cho quần chúng phật tử nhận thức rõ các biểu hiện mê tín lệch
lạc như bói toán, tục đốt vàng mã, cầu lộc cầu tài vốn không phải là
giáo pháp của nhà Phật, cũng như loại bỏ những thứ tầm gửi trong chốn
thiền môn.
Suy cho cùng, khi bang
giao chính thức được thành lập thì chính Vatican cũng đang đặt mình vào
vị trí “sanh tử”, vì nếu sau khi bang giao được thiết lập mà ông “giáo
hoàng cờ vàng” Benedict XVI sang thăm, “vô tình” lại choàng cờ vàng vào
cổ như từng xảy ra ở Đại hội Thanh niên Công giáo Thế giới
WYD 2008 ở Sydney vừa rồi, hoặc có
những hành động hay lời nói (ông này thường phát biểu xúc phạm các tôn
giáo khác) [*] kích động con chiên trong nước thì phản ứng của chính
quyền và nhân dân Việt nam sẽ là một điều khó có thể lường hết được hậu
quả.
Diễn biến điển hình là
Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan do Lech
Walesa cầm đầu đã minh chứng điều này. Ngày 14
tháng 06 năm 1987 giáo
hoàng John
Paul II đã về thăm quê hương Ba Lan và biểu lộ sự ủng hộ Công
Đoàn Đoàn Kết. Ngày 01
tháng 08 năm 1987 Hạ
viện Mỹ đã thông qua ngân sách 1 triệu đô la giúp đỡ Công Đoàn Đoàn Kết.
Tháng 12-1990, Công Đoàn Đoàn Kết của
Lech Walesa giành chánh quyền. Chính quyền Cộng Sản Ba Lan sụp đổ.
Nhưng tại sao Việt Nam
lại tự làm khó mình bởi Vatican chỉ đang tìm cách tồn tại. Sự chuyển
dịch các giá trị Thiên Chúa giáo từ phương Tây sang Châu Á là một biểu
hiện của sự thoái trào từ những nước có dân trí cao và nền khoa học tiên
tiến sang những nước ở thế giới thứ ba, chậm tiến, nghèo nàn và lạc hậu.
Các biểu hiện “vô thần” rõ nét nhất đang dần xuất hiện: khuynh hướng
theo thể chế chủ nghĩa xã hội của các nước Nam Mỹ, tư tưỏng của
Karl Marx trở thành một trong những “sách bán chạy
nhất” hiện nay ở Phương Tây, và cuộc thăm dò về tôn giáo tại Mỹ được
Chương trình nghiên cứu các giá trị công cộng tại trường Đại học Trinity
ở Hartford (bang Connecticut) thực hiện, công bố số liệu “Ngày càng có
nhiều người Mỹ không theo tôn giáo - ARIS 2008 “. Việt Nam không có
bổn phận hà hơi, tiếp sức cho Vatican trong việc thiết lập “bàn đạp” cho
họ vào Châu Á, và cũng chẳng lợi gì khi bang giao với một quốc gia mà
thế mạnh xuất khẩu chỉ là những cuốn thánh kinh và sự bất ổn xã hội.
SG 30-3-09
Nguyễn Trí Cảm
[*] – Tháng 3 năm 1997 , trong một cuộc
phỏng vấn, ông ta phê bình Phật Giáo là “Con đường Tâm Linh tự thỏa
dâm” (Buddhism is a sort of auto-erotic spirituality).
- Tháng 9 năm 2006 tại Đức, Giáo hoàng Benedict XVI
trích dẫn câu nói của hoàng đế Manual II Paleologos của đế quốc
Byzantine (Thổ Nhĩ Kỳ cũ) vào thế kỷ 14 rằng nhà tiên tri Muhammad chỉ
mang lại cho thế giới điều "tội lỗi và tàn bạo" gây ra sự giận dữ của cả
thế giới Hồi giáo.