●   Bản rời    

Người Của Một Thời - Lời Tựa và CH 1:

Người Của Một Thời

- tiểu thuyết -

Nguyễn Văn Thịnh

người của một thời

 

 

GIỚI THIỆU

Người ta có thể đã đọc được nhiều góc nhìn khác nhau trong các hồi ký về chiến tranh Việt Nam: từ dân đến quan, từ thành thị đến thôn quê, từ người bản địa đến người ngoại quốc, từ chiến lược gia đến chính trị gia, từ cường quốc đến tiểu quốc, từ mục đích đến tuyên truyền,... Riêng tác giả Nguyễn Văn Thịnh đi sát với đời sống thực tế của một gia đình tiêu biểu của cuộc chiến điêu linh nhất trong lịch sử nước Việt. Câu chuyện mà tác giả xây dựng trong truyện đã gói ghém một cách tài tình tất cả những hoàn cảnh oái oăm, những cảnh tình oan trái mà rất nhiều người dân trong thời cuộc phải trải qua. Đọc quyển này, người ta có thể hình dung những người Mẹ, người Cha, người con tiêu biểu trong chiến tranh Việt Nam đã nói những gì đã làm những gì trong những uẩn khúc của thời đại đó. Đọc để hiểu một thời của đất nước và những con người khác nhau, sống như thế nào, nghĩ như thế nào trong một cái nhìn thực tế nhưng đầy tính nhân văn của tác giả.

(trang nhà sachhiem.net)

MỤC LỤC

1 – NGƯỜI CỦA MỘT THỜI ...... ..... 02

2 – NGƯỜI TRONG CÕI NHỚ .... .... 119

3 – CHỊ TÔI ..... ...... ..... ..... ...... ... 149

4 – MỘT CHUYỆN TÌNH ..... ...... ..... 229

 

NGƯỜI CỦA MỘT THỜI

(CHUYỆN MỘT GIA ĐÌNH)

Với lòng cảm phục thế hệ  “THÀNH ĐỒNG TỔ QUỐC”

Ai cũng nói xã Lương Hoà này thay đổi nhanh lắm. Mấy mươi năm khói lửa chiến chinh, mới ngày nào yên tiếng súng mà nay đã chen kín những nhà mái tôn, mái ngói, tường xây, sân lát gạch tàu. Người đâu sanh mau dữ vậy ? Kẻ bỏ xứ đi xa giờ trở lại quê nhà, người xưa có thể nhận ra nhưng về ngõ xóm nhà mình thì lạc lối ! Lòng kẻ viễn du không khỏi bồi hồi, bâng khuâng, vui buồn lẫn lộn. Thế cho nên ngôi nhà cổ duy nhất còn lại ở ngay cái ấp thoi loi mí biền mới là điều kỳ lạ. Thật ra gọi là cổ cũng chỉ còn ở bộ xương của nó thôi : Những cây cột cái và những dãy cột con đen bóng vẫn gan lì đứng trụ với những chốt, mộng khít khao trên những phiến đá xanh mốc các cỡ làm chân táng. Người ta có cảm giác vừa khâm phục vừa xót xa khi nhìn những vết đạn cào xước, băm vằm đây đó trên những thân cột y như những vết sẹo hằn sâu trên thân thể con người. Còn tấm áo khoác ngoài của nó hẳn là không đương nổi với sự tàn phá của thời gian và thế cuộc, chắc đã thay sửa nhiều lần và bây giờ được đổi mới bằng những lớp tôn sóng ngói đỏ au. Những viên ngói âm dương cong cong xưa cũ được dồn lại ở mái trước nếp nhà ngang làm người ta vương vấn hoài niệm về một cái gì mộc mạc chân quê một thời đã qua không trở lại! Vách nhà bằng ván thưng nay đã là tường xây quét sơn nước sáng tươi… Một sự giao hoà cũ mới cảm như khúc tân cổ giao duyên vừa xa xưa lại vừa mới mẻ.

Dù sao khi qua cổng với hàng rào duối già nhăn nheo, mốc thếch chen lẫn với những cây gòn cao to lừng lững, rồi cái sân lát gạch tàu đỏ au để bước vô nhà, ngửa mặt nhìn lên nóc nhà cao vòi vọi với những bộ kèo, xà dọc, xà ngang giằng vào những cây cột sừng sững uy nghi bóng lịm nước gỗ của những cây sao, lim, căm xe… đứng tấn trên những viên đá tảng, lòng người không khỏi có cảm giác bâng khuâng nuối tiếc…

Căn nhà mênh mông đó dường như chỉ để thờ. Gian chính giữa ngự chiếc tủ thờ lớn được chăm sóc kỹ càng, nổi bóng lên những hình uốn lượn con rồng, con phụng. Qua làn khói hương nghi ngút mờ mờ như mây, tấm vải điều phủ trên chiếc ngai thờ như nơi an ngự của các anh linh tiên tổ. Bên trái cũng là một tủ kệ thờ dài, đặt trang trọng tám tấm hình khổ lớn, đủ cả người già, người trẻ, đàn ông, đàn bà. Tám tấm hình mà có chín bát nhang (?) lúc nào cũng lung linh những đốm lửa đỏ khiến người ta có cảm giác những người kia vừa gần, vừa xa, vừa hư, vừa thực. Bên phải là nơi tiếp khách với chiếc bàn dài trên đó gọn gàng bộ ấm chén lúc nào cũng sạch bong. Trên tường treo ba tấm hình khổ lớn ba người đàn bà trong đó có hai bà già và một bà trọng tuổi, thấp hơn là bốn khuôn mặt tươi trẻ của hai người con trai và hai người con gái. Hai cửa ngách nhỏ che tấm mành trúc : Một bên là đứa bé cưỡi trâu, thổi sáo, thả diều. Một bên là cô gái với chiếc nón nghiêng, khăn rằn phơ phất, hai tay uyển chuyển chèo ghe trong cảnh sông nước mênh mang. Sau tấm mành che ấy là hậu phòng nơi sinh hoạt gia đình.        

Tôi ngạc nhiên, tròn mắt, hết nhìn hai bà già trên ảnh lại nhìn hai bà già đang lặng lẽ ngồi đây: Một bà chân quê, chất phác. Một bà phong thái còn mang nét kiêu sa của một thời xuân sắc. Vậy mà hai bà là chị em ruột lại cũng là hai chị em dâu. Cả hai bà đều từng qua những ngày dài bão tố gian truân và cùng chịu cảnh goá bụa từ tuổi xuân thì. Hai chị em dù trải qua một thời quá khứ khác nhau nhưng cùng chịu nỗi đau chung và giờ đây cùng sống trong một ngôi nhà. Hai bà là mái che cho sự hợp đoàn của lớp con và cháu. Hơn thế nữa, hai bà còn là chứng nhân cho cả mấy thế hệ từng sống ở đây. Hai bà như một nhà kho ngổn ngang chồng chất những kỷ niệm về những người thân yêu, về quê hương làng xóm. Chả thế mà dân chúng trong vùng, với lòng kính trọng, đặt danh là Nhà bảo tàng di tích chiến tranhhai bà già lịch sử. Với người gốc gác nơi đây, hai bà biết rành cả thứ và tên tới thời ông cố, ông sơ nhưng không mấy ai biết được tên thực của hai bà. Họ chỉ kêu hai bà theo thứ thôi – bà Tám, bà Mười. Khi cần rõ cho khỏi lẫn với những bà Tám, bà Mười khác quanh đây, người ta kêu lén là bà Tám Rầu và bà Mười Nghệ sỹ. Cái danh bà Tám Rầu có từ hồi nào, khi muốn chia sẻ nỗi lòng với ai, bà thường mở đầu bằng lời than thân phận rầu thúi ruột! Lúc vui bà kể cho lớp trẻ nghe rằng: Thời xưa, cha mẹ sanh con đều kêu theo thứ chớ sống chết có cần khai sanh, khai tử chi đâu mà bày chuyện đặt tên. Đến khi lớn, người ta mới thêm vào cái nét riêng của từng người, rồi thành tên chết, ví như Hai Đen, Ba Ốm, Tư Mập, Năm Ròm, Sáu Lù, Tư Cao, Ba Lùn, Hai Cà lăm, Bảy Cà lết, Út Đẹt… Bà Mười lớn lên coi ngồ ngộ nên kêu là Mười Ngộ, riết rồi thành danh. Hồi trước, có mấy người trên thành phố về hỏi thăm nhà Nghệ sĩ ưu tú Thu Nguyệt, bà con ấp xóm lơ ngơ xớ rớ, dần ra mới biết một thời bà Mười từng là diễn viên múa nổi danh ở nhiều đoàn văn công lớn.

Bà trọng tuổi chính là người con duy nhất còn lại trong sáu người con của bà Tám Rầu. Nhiều người lớp tuổi của bà còn đây, biết rõ tên bà là Tư Trông nhưng lớp trẻ kêu theo biệt danh là Tư Ăng ten vì mọi chuyện nhân tình thế sự cho đến những chuyện trời trăng mây nước bà rành như sáu câu vọng cổ. Qua bà Tư, hai bà già lịch sử biết được những biến đổi chung quanh và xóm ấp biết hai bà già đáng kính ấy vẫn còn. Dù sao thì bóng dáng tuổi tác đã trùm lên bà và bà đang lẫn vào hai cái bóng già nua của mẹ và dì.

Lâu lâu có mấy cô cậu trên phố phường về đem theo sự nhộn nhịp và những món quà thành thị làm ngôi nhà vui lên ít hôm rồi lại đâu vào đấy: trầm lắng im lìm với ba bóng già thấp thoáng.

Đã như một người thân thiết, mỗi lần về thăm các bà, trước khi lan man kể cho nhau nghe hàng trăm thứ chuyện về mình, về đời, ông nhà văn thắp nhang vái vọng gia tiên và những người quá cố như một lời chào kính cẩn về sự hiện diện của mình. Tôi cũng làm theo.… Thấy tôi cứ tần ngần, quanh quẩn ở trang thờ nhỏ, đôi lúc kín đáo ngắm nhìn tấm hình những người quá cố mơ hồ, bí ẩn mà lòng thắc mắc… Lựa lúc lãng chuyện, tôi đến bên ông hỏi nhỏ...

Cũng là dịp cho tôi được làm thân, ông nói với bà con gái:                         

- Cô Tư  à! Để bạn nhỏ này làm quen với nhà mình đi!

Tôi chột dạ vì bị bất ngờ, dụt dè đưa tay bà nắm bước theo và được bà chỉ ảnh từng người giới thiệu:   - Đây là ba tui – thứ Hai! – người đàn ông mặc áo bà ba không cài nút cổ.    

- Đây là chú Tư, cũng là dượng lớn của tui! – một sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam, quân hàm đại uý, mũ mão cân đai tề chỉnh.                                    

- Đây là anh Hai tui! – một khuôn mặt khắc khổ, mặn mòi, áo nón rằn ri dã chiến, vai gắn hai bông mai bạc, cấp trung uý quân đội Sài Gòn.          

- Đây là anh Ba tui! – một người trẻ tuổi, vẻ rắn rỏi, đầu đội nón nỉ, vai mang sắc cốt, cổ cuốn khăn rằn – hình ảnh người chỉ huy du kích.              

 - Đây là chồng tui! – một người trai trẻ, nét mặt học sinh, mũ tai bèo, áo tô châu, ve áo mang quân hàm thượng sĩ – rõ là một anh lính Bắc trong đội ngũ Quân giải phóng miền Nam…

Kề bên là một bát nhang không có hình, bà giải thích:

- Đây là đồng đội của chồng tui… Hai người cùng hy sinh một lúc, một nơi!       

Trước ba tấm hình mấy người niên thiếu trẻ thơ, bà Tư trầm giọng xuống:

- Đây là mấy đứa em tui : Bé Năm! Thằng Sáu! Và Nhỏ Út – Nó chết tội lắm, lúc còn nhỏ xíu! – Bà Tư quay đi, giấu cơn xúc cảm.                                  

Tôi ngước nhìn quanh tường rồi nhìn lại tấm hình người anh lớn. Bà Tư chừng hiểu ý, giải thích:   

- Anh Hai tui chỉ còn một tấm hình đó thôi hà! Tui biểu mấy đứa nhỏ đem lên thành phố truyền thần lại, sửa cho ảnh mặc bộ đồ lớn, mang về, bà già biểu trông lạ hoắc, chưa từng thấy nó mặc bộ đồ này. Can cớ gì? Anh em con cháu mình, trưng ở nhà mình thì phải thiệt. Sống vào thời đó, vận bộ đồ lên người có phải theo ý mình lựa chọn được đâu! Người ta sống thì phân biệt oán hờn thù hận lẫn nhau nhưng chết là siêu thoát. Tha thứ hay hận thù là tùy ở người  sống thôi.

Thấy tôi chăm chú lắng nghe, bà Tư nói tiếp một hơi:

- Bao nhiêu những bằng danh dự, những kỷ vật gì gì… đều cất trong tủ kìa! Dì Mười tui biểu nhà mình trước sao sau vậy: thanh bạch, phong quang! Mỗi người trước sau sống theo nếp nhà, giữ trọn lòng trong, làm tùy sức, hưởng tùy tài, không dựa dẫm vào ai. Chỉ biết trưng khoe điều hay mà giấu đi điều dở là cách sống của kẻ tiểu nhân. Để vậy mà lòng mình thanh thản!

Trên đường về tự dưng tôi ít nói, có điều chi vui chỉ gượng cười thôi.

Ở đầu hồi nhà bà Tám, cũng như nhiều nhà ở đồng bằng Nam bộ, có những mái (lu) chứa đầy nước mưa. Ông nhà văn biểu hồi xưa người ta thường bỏ vào đó một trái bí đao. Để cả năm trời, trái bí rữa ra lắng dưới đáy, nhìn vào thấy nước trong khe! Những ngày nắng gắt, múc một gáo dừa đầy nước, uống ực một hơi, ngọt và mát lịm… Ngửa mặt nhìn trời cao trong xanh, hứng ngọn gió đồng, uống vào lòng nước của trời, trái của đất thấy tâm dạ lâng lâng quyện với hồn quê… Những âm thanh rì rầm của lòng mình và của lòng người rất thật.

Địa chỉ ấy cuốn hút tôi, đưa tôi gắn kết với gia đình bà Tám. Bỗng dưng tôi được coi như thành viên của gia đình và quen thuộc từng gốc cây, bờ kênh, con rạch cũng như nhiều bà con lớn nhỏ vùng quê Lương Hòa này mà với tôi không chỉ là một địa danh, hơn nữa đã như điều ước được sống lương thiệnhòa ái. Dù là hôm xưa, hôm nay, mỗi người trong gia đình này nối kết thành thiên chuyện dài dài.

Thiệt tình là tôi không dám nghĩ tới chuyện viết văn chớ chưa dám nói có một lúc nào nảy ra ý nghĩ dại dột được làm một nhà văn. Để cảm ơn tấm lòng nhân hậu của các bà cùng những tình cảm thân ái hòa  đồng của các anh chị trong nhà, tôi ghi lại những dòng cảm xúc chân thực về những con người của một thời đã qua như ông bà cha mẹ tôi, như bác nhà văn già mà tôi rất quý trọng và liều gởi bác coi.

“Vì cô bạn nhỏ nói rằng rất quý trọng tôi và tôi rất trân trọng tình cảm đó. Sau khi bàn được thuận ý cô, khúc “Nhật ký tìm chồng” và đoạn băng ghi âm cuộc “Hội ngộ âm dương” của bà Mười thì để riêng ra coi như tư liệu dành cho người cần tham khảo. Còn là không thêm bớt một chữ, một câu, chuyển y xì tới bà con vào dịp ngày lễ trọng. Cũng vì cô bạn nhỏ nhút nhát không có cái “ý nghĩ dại dột được làm một nhà văn” nên tôi chiều ý cô luôn, trình ra bạn đọc câu chuyện này gọi là Người của một thời”. 

XIN NGƯỜI TA ĐỪNG GIẾT TRẺ THƠ :

Người chết rồi không thêm tuổi nữa. Những người chết trẻ mãi vẫn là những chàng trai, cô gái đang độ hoa niên, những bé thơ tội nghiệp.

Tính theo năm sinh thì Út Hận thuộc lớp cô, dì của tôi nhưng Út đã dừng lại khi tuổi vừa tròn số chục nên tôi được gọi là bé Út.

Ở khu vườn sau nhà, trong số gần chục ngôi mộ đều giống nhau cả về khuôn mẫu và diện tích nhưng ai tới thăm nơi đây cũng bùi ngùi dừng lại rất lâu trước tấm mộ chí:

HUỲNH THỊ HẬN

– Sanh 1958 –

Chết ngày 10-5-1968 do đạn pháo Mỹ

có gắn kèm tấm hình một bé gái tươi xinh, đôi má lúm đồng tiền, nụ cười tự nhiên hồn hậu, chiếc nón che đầu, tay cắp cặp sách, tay cầm sợi dây dắt con trâu đang ngon lành gặm cỏ bên lề lộ lớn.

Với bà Tám, cả chục cái tang, cả chục nỗi đau, không nỗi đau nào giống nỗi đau nào. Nhưng nỗi đau ngày con bé Út chết bất đắc kỳ tử bên bờ ruộng mí biền cứ xót xa nhoi nhói trong lòng. Đến bây giờ không còn nhớ tuổi đời mình nữa mà mỗi khi nhắc đến, đôi mắt bà lại như dòng suối chảy ra những giọt nước mắt nặng nề. Dòng suối ấy như mạch nước ngầm không bao giờ cạn.

- Thời ấy chiến tranh, ở vùng quê bom đạn này mấy ai có dịp chụp hình đâu. Đó là một buổi chiều, ông thầy giáo đi đâu ngoài lộ, gặp lúc nhỏ tan học về, thấy con trâu nhà thả xổng đang chúi đầu gặm cỏ nơi bờ ruộng nó chạy tới dắt trâu về. Sẵn máy trong tay, không hiểu sao ông thầy kêu nó dừng lại và bấm máy… Sau hôm nó chết, ông thầy xuống viếng, đem theo tấm hình này. Cả đời nó chỉ được chụp hình có một lần. Con trâu cũng vậy. Nào ngờ cả hai đứa chết cùng một lúc!

Cô bé ngộ thiệt. Giá như còn được sống, ít ra cô cũng là một thôn nữ  làm say lòng lắm chàng trai. Nhưng thân phận con người thời tao loạn, đâu có kể chi già trẻ, lớn bé, gái trai, khác chi là hạt bụi, là chiếc lá giữa cơn gió lớn… Cái tên Hận cũng như một nghiệp chướng đeo vào bé từ thuở lọt lòng. Hơn mười năm mang tiếng có chồng nhưng vợ chồng gặp nhau đều trong những hoàn cảnh khác thường. Tên mỗi đứa con đã nói thay nỗi hoài mong của người vợ trẻ. Một thời gian ngắn ngủi thoáng qua, rồi là một sự cách xa đầy đọa đớn đau của cả vợ lẫn chồng. Sau ngày có cái hiệp định Gieo neo (Genève) ấy, ngày vui ngắn ngủn, ông Hai lại bị bắt vì tội yêu nước, đi theo kháng chiến chống giặc ngoại xâm! Ngày trước, cũng là sự xa cách, ông lại ở nơi mũi tên hòn đạn mà lòng bà vẫn khấp khởi mong một ngày vợ chồng xum họp hân hoan. Bây giờ dẫu nói đã có hoà bình mà vẫn chưa ngơi tiếng súng. Người người nháo nhác nhìn trước ngó sau, lủi chui lánh né, rủi ai sơ sẩy sa vào những cuộc truy càn ráp bố như chồng bà thì bị bắt bớ tù đầy. Ông Hai bị đầy ải qua năm bẩy trại tù nơi đất liền, nơi hải đảo. Thương chồng, bà Hai chắt chiu, dành dụm, chạy chọt đi thăm chồng năm lần bẩy lượt. Vợ chồng nhìn nhau qua hàng song sắt, qua rào kẽm gai, mặt mày quắt queo chai sạm mà miệng vẫn ráng tạo một nụ cười héo hắt khi trong lòng rầu thúi ruột. Tay trao cho chồng lon thịt ram mặn, hũ tép đồng rim, bịch mắm ruốc, gói lóc khô… và nhận từ nhau những lời nhắn vội run run trong ánh mắt đầy xót thương, đau khổ:

- Má nó ráng lo cho xấp nhỏ ở nhà! 

- Ba nó ráng giữ mình!

Vậy mà qua được mấy năm lận đận trông đợi nhớ thương, đến một ngày ông trở về như cái xác không hồn! Ông nhìn vợ con buồn rầu, ân hận, ăn năn, tủi hổ. Dường như ông không còn điều gì để nói với vợ con, nói với mọi người. Bà không dám hỏi chồng nhưng rồi dần cũng nhận ra. Thời buổi này muốn sống đã khó mà muốn chết cũng không dễ dàng đâu. Buồn lắm! Thương lắm! Hận lắm!… Vậy mà nó cô đúc lại để hiển hiện thành con bé nhỏ nhoi này! Còn trong bụng mẹ, con bé đã nhận ra những tủi hờn lắng đọng sâu xa là thế. Vậy mà nó vẫn lớn lên và đẹp lạ lùng. Những lần chợt nhìn con, bà Tám giật mình mơ hồ lo lắng : Mai rồi thành con gái mà đẹp lồ lộ ra dễ tai ương lắm. Không Trời phạt cũng Đời hành... Con bé đam mê múa hát. Thời ấy đâu có những bài hát riêng cho con nít. Những bài ca tân nhạc thường lả lướt, nhảm nhí, người chốn đồng quê nghe thấy khó vô. Nó nghe lỏm người ta ca cổ mà ca theo. Khi cái ladô phát ra những lời ca của Út Trà Ôn, Thanh Sang, Út Bạch Lan, Ngọc Giàu, Lệ Thuỷ, Thanh Nga… là nó như bị hút hồn, đố ai lôi nó rời ra được. Giọng nó lanh lảnh, trong veo theo gió quấn quít vào những rặng dừa nước mí biền kia. Bà Tám không quên lúc nó cất giọng rầu rầu đau khổ ngả mấy câu vọng cổ: … Má ơi! Khoa thi này không đỗ con chờ khoa thi khác / Mất một người mẹ thân yêu thì dù đốt đuốc khắp thế gian cũng không sao tìm ra một đấng… sinh… thành !

Bà Tám mắng yêu con:                      

- Tao đã chết đâu mà mày khóc sầu não thế?

Nó nghiêng ngó cười làm lành và chạy đến ôm chầm lấy bà lắc lư nghiêng ngả như thể bà có muốn ra đi nó cũng một lòng níu lại.

Vậy mà nó lại ra đi sớm thế trước bà, ở ngay bờ ruộng ngoài kia!

Bà nhớ rõ lắm, đấy là dạo tháng năm sau tết Mậu Thân, súng đạn tưởng đã im ắng rồi bỗng lại rộ lên. Dưới đất súng lớn súng bé ì ùng. Trên trời máy bay phản lực, trực thăng rầm rĩ. Lòng bà nôn nao. Hôm ấy trời sáng gắt lắm rồi, con bé giành dắt trâu ra bờ ruộng mí biền, bà vẫn để mắt canh chừng, tai bà còn nghe rõ nó hát véo von : Hò ơi!… Dòng sông chảy xiết… mái chèo… thuyền đi trên sông Vàm cỏ đông… nước chảy… ơ… ngược dòng… Bài hát quen thuộc nó vẫn hát lóm theo đài ngoài kia và bao giờ nó cũng chỉ hát một khúc tới câu … lệ rơi… chứa… chan… giống như lúc xuống xề của ba câu vọng cổ. Bom đạn thế này, bấy lâu nay bà đâu dám cho nó theo trâu vô mãi trong bưng… Vậy mà bà tá hoả lên khi đột nhiên một chập pháo bầy chụp xuống. Cả nhà chưa ai kịp vô hầm, đứng chết trân tại chỗ. Trong khói bụi mịt mù bà chỉ còn nghe tiếng con trâu hộc lên. Bà hốt hoảng gọi con :

- Út!… Út ơi!… – và te tái chạy ra mí biền. Con bà nằm gục xuống như một đống thịt nhày nhụa máu bên con trâu nằm phơi cái bụng đỏ lòm và phì phì những hơi thở dốc. Bà ôm chầm lấy con và thét lên đau đớn:       

- Ối trời đất ơi! Chúng nó giết chết con tôi rồi!

Người ta chất xác ba người lớn, bé lên ghe hè nhau chở ra cái bót Ngã ba ngoài lộ. Người ta tru chéo chỉ trời vạch đất oán chửi quân tàn ác bất nhân:

- Các ông bắn đui vậy, Việt cộng đâu không thấy, chỉ chết dân thôi!                    

Quan lính trong đồn đun đẩy nhau ra đối đáp xoa dịu bà con:

- Đấy là cụm pháo Mỹ ở Bình Đức nó chơi dàn nhạc Tân tây lan đó!

Dàn nhạc Tân tây lan: hai mươi bốn họng súng, mỗi khi bắn cùng khởi đề một lúc.         

- Mỹ với mấy ông một thầy một trò, một đồng một cốt, hè nhau giết ráo trọi dân rồi các ông ở với ai? 

- Thằng Mỹ nó nghi ai là nó bắn đại à… Đến tụi tui nó cũng chẳng từ đâu!

- Vậy thì đồng minh với độc lập mần chi? Hèn chi Việt cộng họ kêu các ông là ngụy!        

- Mấy người nói đặc giọng cộng sản, chết còn kêu chi?

- Vậy là các ông đẩy mọi người đi theo cộng sản. Cả mấy mươi triệu dân miền Nam này đi theo Việt cộng, chỉ trừ mấy người bám đít Mỹ thôi!    

Một chiếc trực thăng lạch bạch đáp xuống chặn ngay giữa lộ. Mấy thằng Mỹ trắng, Mỹ đen từ trong máy bay nhảy xuống, ngó nghiêng nhìn mấy cái xác nằm phơi giữa lộ rồi xồng xộc kéo vô đồn. Chút sau thằng đồn trưởng trèo lên lô cốt, cầm loa máy hét phóng ra:

- Quân lực America biểu rằng : Vùng này là vùng Việt cộng, quân lực Đồng minh không bảo đảm an toàn cho dân được!                                  

Mọi người thi nhau la toáng lên:                 

- Các ông đứng trên lô cốt nhìn vô thấy bà con làm trong đồng! Từ trong đồng nhìn ra thấy cây cờ ba xọc phất phơ! Lính trong đồn ăn nhậu la hét um xùm, dân nghe rõ! Vậy mà các ông biểu là đất của Việt cộng thì các ông còn chỗ đâu mà ở?                 

- Chúng tôi còn nhà cửa, ruộng vườn, kéo nhau ra lộ ở lấy gì mà ăn? Con gái không lấy Mỹ thì cũng đứng đường! Con trai không đi lính thì làm mặc rô, trộm cướp! Còn người già, con nít làm gì sống? Vậy là chết ráo cả sao?

Cự nự cãi lộn nhau chán chẳng nhằm nhò gì. Nó là cường quyền, có quân quả, gươm súng hùng hùng hổ hổ. Mình là dân, chỉ có cái lưỡi với hai bàn tay trắng thôi, làm gì được nó… Bà con lại mang xác về… Xót xa… Đau đớn…

Hôm chôn nó ở đây, ông Hai đưa cả cái đầu trâu xuống huyệt:

- Để cho nó có bầu bạn. Nó thương con trâu lắm!

Vậy mà lâu lâu đám lính, tề xã, bình định, phượng hoàng… còn hầm hè:            

- Ghi bia vậy là xúi giục mọi người chống Mỹ!

Năm trước, có một đoàn cựu chiến binh Mỹ qua thăm chiến trường xưa. Họ không nhận ra nơi chiến địa ngày nào. Làng mạc đông vui, nhà cửa san sát, đồng ruộng bát ngát xanh tươi. Nghe danh bà Mười Nghệ sỹ tài sắc một thời, lại đã từng ở bên kia chiến tuyến đối địch, họ xin được gặp. Nghe bà kể lại những ngày len rừng lội suối tới từng đơn vị phục vụ bộ đội, động viên tinh thần chiến sỹ vượt qua ác liệt hiểm nguy đánh giặc giữ nhà, giữ nước, những ngày bà bị đầy ải và đấu tranh quyết liệt trong tù… Một ông xúc động nói:         

- Trước đây tôi nghĩ các nữ du kích Việt cộng trong rừng sâu đại loại cũng như những nữ thổ dân ở trong rừng rậm Amazon bên nước chúng tôi… Chắc là thời con gái bà đẹp lắm!          

Bà đưa ông ra thăm nghĩa trang nhỏ của gia đình. Tám ngôi mộ. Tám con người lớn bé nằm ngang một hàng. Làm người mà họ không được sống trọn đời! Tất cả đều bị cắt ngang cuộc sống vì bom đạn của chiến tranh, mỗi người mỗi cảnh. Ông cảm động lắm. Ông đứng nghiêm, thành kính cúi gập đầu rất lâu trước những ngôi mộ đầy bí ẩn. Nhưng trước mộ của bé Hận thì ông không cầm lòng được nữa. Ông quì gối, dang hai tay ôm thành mộ, đầu gục xuống, nước mắt rơi lã chã. Lúc đứng lên, quay qua bà Mười, giọng ông run run :

- Chiến tranh là khủng bố!                 

Bà Mười nghiêm sắc mặt quay bước vào nhà. Bà trang trọng thắp nhang trước di hình những người thân đã khuất. Giọng bà nhỏ nhẹ nhưng rõ ràng, rứt khoát như không ai lay chuyển được ý của bà:            

- Đúng, cuộc chiến tranh do người Mỹ gây ra ở Việt Nam là khủng bố! Nhưng cuộc chiến tranh của chúng tôi chống lại các ông là cần thiết để bảo vệ phẩm giá của chúng tôi! Trước đó, cuộc chiến tranh của người Pháp ở Việt Nam cũng là khủng bố ! Cuộc chiến tranh của người Nhật cũng vậy! Xa hơn nữa, dân tộc chúng tôi từng chịu nhiều cuộc chiến tranh khủng bố của những thế lực tham vọng mọi thời! Và để tự vệ, chúng tôi phải chống lại. Đó là những cuộc chiến tranh tự vệ – giải phóng mình thoát khỏi sự nhục nhã của mọi hình thức nô lệ. Giải phóng cho cả những tư tưởng nhân văn của nhân loại không bị lợi dụng và bôi nhọ nữa. Trong cuộc chiến đấu ấy, chúng tôi có những người tử tiết và có không ít những nạn nhân. Chính những kẻ khủng bố đã gây ra thảm cảnh đau thương này!        

Ông cựu chiến binh già người Mỹ tươi nét mặt, nắm chặt tay bà lắc lắc, bập bẹ lơ lớ mấy câu tiếng Việt:

- Xin lỗi! Xin lỗi! Cám ơn! Cám ơn!

Và khi chia tay,  ông mong mỏi một ngày tái ngộ:

- See you again! Please!

Mười tuổi! Bé Út Hận đã phải khoác lên người những oan nghiệt trái ngang của cuộc đời và rồi chết gục ai oán bên con trâu nơi bờ ruộng! Con đường đi xa nhất của bé là ra khỏi cổng ấp, dọc theo mí lộ tới trường làng và vượt qua rặng tre sau nhà ra tới mí biền kia để dừng mãi đó! Bé chỉ ước mơ được sống bình yên với má, được thảnh thơi cắp sách tới trường, được thoải mái vui với con trâu, được yên tĩnh ngồi bên chiếc ladô nghe lỏm mấy câu ca tân, cổ rồi hát vang lên lúc vắng người ở trong nhà hoặc ở ngoài đồng…

Mười tuổi! Tôi đã được đi xa thật là xa, khắp cả nước mình, bằng mọi phương tiện trên bộ, trên nước, trên không! Có lần từ trên trời nhìn xuống, tôi thấy nhiều vạt đồi lỗ chỗ những hồ nước nhỏ to bị che khuất bởi những rừng cây bạt ngàn, tôi nghĩ tới những cuộc du ngoạn sinh thái, được câu cá thú vị với đám bạn bè nhưng hỏi ra mới biết đó là dấu tích của những hố bom khủng khiếp một thời! Tôi lớn lên ít đòi hỏi gì ở cha mẹ vì những nhu cầu cần thiết cho đời sống của tôi có sẵn hết rồi. Tôi thường mơ mộng về một tương lai xa vời. Cha mẹ thương tôi hay mơ ước viển vông, rồi đời sẽ khổ. Nhưng mỗi khi đến thăm Út Hận nằm yên với con trâu dưới rặng tre này, lòng tôi nao nao nhớ về một em bé Nhật chết vì bom nguyên tử ngày nào… Những em chết không còn lớn nữa!… Mãi mãi là bé thơ, đi gõ cửa mọi nhà xin cho em chữ ký làm quà / để người ta không giết trẻ thơ / cho con trẻ được quyền ăn kẹo!… Tôi suy nghĩ về mình, về gia đình, về những người chung quanh và tôi cảm thấy phải làm một điều gì thiết thực.

Tôi gắn bó và thường về với hai bà, với dì Tư Ăng-ten, với một chốn quê bình lặng phảng phất hơi hướng cổ xưa mộc mạc và linh thiêng là như thế. 

CHA  VÀ  CON :

Ông Hai Huỳnh Võ chết vào độ tuổi ngũ tuần. Cái tên Võ cũng là người ta thêm vào rồi thành danh luôn và cũng là danh tánh trong giấy tờ, sổ bộ. Hai người con ông : anh Hai Thương và anh Ba Nhơ, cùng chết một ngày với ông, đều còn trong lứa tuổi hai mươi.

Cuộc đời ông Hai thật đoạn trường. Tuổi trẻ ông sống sôi nổi đầy nghĩa khí mà lúc về chiều đời ông đầy những trái ngang và cái chết của cha con ông thật bi thương thảm thiết. Trong nghĩa phu thê ông gởi trọn tình thương sâu nặng mà lúc trai tráng vợ chồng lại xa cách dài một dòng sông và lúc được ở bên nhau thì tóc ông nhuốm đầy nắng bạc vì lòng ông chất chứa bao uất hận dầy vò.

Cũng như những chàng trai quê thời đó, 9-10 tuổi đầu mới bỏ cây viết lông với mấy câu Hán tự loằng ngoằng, cắp sách đi học đánh vần và cầm bút sắt viết mấy câu tiếng Phú lang sa và mấy câu quốc ngữ . Ông học vài ba năm để biết đọc tờ báo, tờ yết cáo, thảo được tờ đơn cớ, làm rành mấy phép tính cộng, trừ, nhân, chia… Cậu trai mới lớn nhỏ thó, săn chắc và hiếu động coi việc học chữ vậy là đủ rồi. Cậu bỏ học, theo bạn bè qua xã bên tìm thầy học võ. Cha cậu là ông Hương Quản coi việc trị an làng xóm. Ông Hương có học ít chữ nho nhưng nho học đã đến lúc bỏ đi, còn tây học trật ruộc chẳng ra gì. Tuy là chức sắc trong xã ấp nhưng ông cũng không ưa mấy thằng mắt xanh mũi lõ nên dù  nhà đủ khả năng cho con lên trường quận, trường tỉnh học nhưng thằng nhỏ nó không ham thì ông cũng chẳng ép nó làm gì. Vả lại nó đi học võ ông cũng thấy ưng trong bụng. Thời buổi nhố nhăng, người sống lẫn với sói hoang thế này, cho con đi học võ cũng là trước để hộ thân lỡ bị hiếp đáp bức bách thì phòng vệ, sau là mình mạnh mẽ thì cũng có thể đỡ được cho người.

Ông thầy Năm nổi tiếng một vùng không chỉ là võ nghệ cao cường mà tính ông cương trực và khí tiết nên người đời đặt danh là thầy Năm Hớn, ý chỉ thầy nghĩa khí như Hớn Minh thuở trước. Muốn nhập môn thầy không phải dễ. Ngày đầu xớ rớ tới, ông khoát tay như xua bầy vịt. Cậu nào tự ái nổi xung bỏ đi liền – thiếu chi người tài giỏi trên đời, cầu cạnh mần chi! Mấy cậu trì len lét đứng coi. Cả tháng trời còn vài ba cậu, ông vẫy tay lại hỏi:                               

- Coi chừng ham mấy thứ này! Học để mần chi?

Mỗi cậu trả lời một phách. Có cậu nói học để phòng thân. Có cậu biểu học để trị mấy thằng phách lối… Ông thầy cởi trần, tóc bới củ hành dựng ngược trên đầu, ngồi giữa sân nhâm nhi ly rượu, giọng thầy rắn rỏi, rành rẽ, sắt đanh như dao chém đá:         

- Để phòng thân thì cần có một nghề thật giỏi, nhất nghệ tinh – nhất thân vinh, lo được cho mình, cho cả gia đình. Mấy thằng phách lối chỉ là tiểu nhân, bận tâm sức về đám vô lại đó chỉ là tiểu khí. Học võ là để rèn cho mình thêm chí khí đặng đứng vững được ở đời. Cổ nhân đã dậy khí kỵ hung. Học võ mà để phô sức mạnh của mình ra dọa đời là rước họa vào thân!

Mấy cậu nghe ngán ngẩm, lui dần. Chỉ còn lại cậu con ông Hương Quản lúc ấy còm rom. Ông thầy thu cậu nhập môn.

Cả năm trời, ông thầy không dạy cho miếng võ nào. Cậu Hai vẫn cần cù nhẫn nại phụ việc cùng hai cô con gái ông thầy: cô Tám, cô Mười. Những lúc rảnh rỗi, ba anh em trộm đứng xem thầy truyền dậy các môn sinh và họ hồn nhiên lén học những đường quyền, thế võ rồi tự ôn luyện với nhau. Thi thoảng bắt gặp, thầy cũng không rày, chỉ nhắc nhở học trò:

- Trai thời trung hiếu làm đầu – Quay qua con gái, ông nói nhỏ:… Gái thời tiết hạnh làm câu sửa mình!

Nhưng ông lại thở dài, ngửa mặt lên trời than:     

- Làm phận gái phải giữ tiết hạnh với kẻ bất nghĩa thật uổng đời! Làm thân trai mà trung với u vương càng đắc tội!

Dần dà anh Hai thành đệ tử ruột của thầy và cũng là người anh tin cẩn của hai cô em gái.

Lâu lâu có mấy ông Ba Tàu, khi là thầy lang, khi là thầy mãi võ tới thăm thầy Năm Hớn, ở lại ít ngày, có khi cả tháng. Các thầy cùng bốc thuốc, ôn luyện côn quyền, bên ly rượu trầm ngâm, rì rầm tâm sự . Ba anh em không dám tò  mò vào chuyện của mấy thầy, bảo nhau chăm lo cho các thầy bữa ăn, giấc ngủ. Anh Hai học được nghề võ và biết chút ít nghề thuốc cũng là từ đó.

Một ngày giữa tháng, trời về khuya, một vầng trăng trên trời, một thầy ngồi giữa sân, ly rượu lúc nào cũng long lanh sóng sánh trên tay, bên thầy một cây giáo dài, một cây đàn kìm. Thầy ngồi như thế không nhớ tự bao giờ và cũng không biết tới bao giờ. Bạn thầy lâu nay không tới. Thầy linh cảm điều gì u ám. Các môn sinh thầy cho xuất thế. Thầy càng cô đơn. Thương thầy, ba anh em lân la tới ngồi bên. Anh Hai đánh bạo hỏi:

- Sao lâu nay thầy buồn dữ đa?         

Thầy nhấp ly rượu, mắt nhìn xa xăm, giọng thầy run run già khác thường:                   

- Cổ nhân nói: Kẻ trượng phu ngẩng lên không hổ với Trời, cúi xuống không thẹn với Đất, ấy là lòng mãn nguyện! Ta ngước lên nhìn Trời thấy đầu tăm tối, cúi xuống nhìn đời đầy cảnh nhiễu nhương! Trí hèn, tài hẹp, có chút võ dõng không biết mần chi đành nhắm mắt đưa chân lúc nước non chìm nổi, bầy đàn tan tác thì lòng vui sao được?     

Thế sự xoay vần như cây chong chóng. Một thằng mũi dài, da trắng đã như cái ách giữa đàng. Lại thêm thằng mũi tẹt, da vàng choàng cái gông lên cổ. Hàng đoàn người bị xâu dây kẽm vào tay, dồn xuống tàu chở ra nhấn chìm ngoài biển khơi. Lớp lớp trai tráng bị ép cầm súng qua bên Xiêm La đỡ đạn. Bây giờ thế giới đánh nhau loạn xạ, bom đạn dội cả tới đây, dân tình điêu linh thống khổ. Ông nâng cây đàn tròn như mặt trăng nhẹ ấp vào lòng, ngước nhìn trời mắt long lanh ngấn lệ, vịn tay đàn bấm vuốt hai dây buông nên mấy cung rền rĩ nỉ non, giọng khàn khàn nghẹn ngào cất lời khúc Dạ cổ hoài lang:

- Từ là từ phu tướng / Bảo kiếm sắc phong lên đàng / Vào ra luống trông tin chàng / Năm ơ canh mơ màng / Em luống trông tin chàng / Ôi gan vàng quặn đau í a…

Mùa gió chướng càng khuya càng lạnh. Bóng trăng lúc tỏ lúc mờ. Bóng thầy nghiêng ngả trên sân. Tiếng đàn, tiếng hát gợi nhớ cái gì thân yêu xa xưa đã mất sao mà não nuột. Cái lạnh, cái buồn vẩn vơ lây sang mấy người niên thiếu…

Bỗng từ các lùm cây, khóm chuối lay động xôn xao. Thầy như đã dự cảm điều chẳng lành, quăng cây đàn ra xa, quơ cây mác, đứng bật dậy. Tay chống mác, tay khoát các con lui, ông quay mặt ra ngõ quát đĩnh đạc như viên võ tướng:   

- Cái nhục vong quốc là nỗi đau lớn nhất của kẻ trượng phu. Ta không thể sống như loài cầm thú!       

Cùng lúc ấy hàng chục bóng đen lùi lũi lao ra, nách thước tay dao ào ào xông tới. Ông thầy vung cây giáo tít mù, loang loáng dưới trăng. Những bóng đen la hoảng chạy dạt ra. Bỗng một giọng tây ồm ồm hung hãn : Haut la main! (Giơ tay lên!). Ông thầy võ giơ cây giáo lao thẳng vào cái bóng đen to lớn ấy. Tiếng  Ố… Ố… Ồ… Ồ… rống lên cùng lúc hàng loạt tiếng nổ và lửa đạn toé sáng… Ông thầy loạng choạng đầu chúi xuống, tay cắm mũi giáo xuống đất, tỳ người trên thân giáo, không chịu ngã ra. Mấy anh em xô tới vực thầy đứng lên bên xác thằng Tây nằm sóng xoài lênh láng máu.

Hai cô gái bị giam giữ  ít ngày rồi được thả về. Anh Hai bị tù đày, khảo tra mấy tháng trời. Nhờ sự chạy chọt và chỗ dựa của ông Hương Quản, anh mới được tha ra. Ngôi nhà bị thiêu cháy rụi. Ông thầy Năm Hớn được bà con táng ngay giữa sân nhà – nơi ông thường ngồi buồn vui thế sự và cũng là nơi ông trụ đứng lúc lìa đời. Anh Hai thường qua lại thăm nom, giúp đỡ hai cô em gái con thầy. Tháng qua, năm tới, ông Hương Quản cảm nhận tấm lòng tiết nghĩa của con nên đứng ra tác thành con trai mình với cô Tám con ông thầy võ được thành gia thất dù rằng với gia thế ấy, ông có thể làm bạn sui gia với những gia đình khá giả trong vùng.

Anh Hai ở bên nhà vợ, chăm lo hương khói cho thầy. Anh cũng tụ hợp bạn bè truyền nghề võ. Lúc này anh mới mang máng hiểu rằng thầy mình có tham gia cái Hội Thiên Địa gì đó của mấy người Tàu. Cái hội đầu ngô mình sở ấy đã làm cho chí bình sanh của thầy mai một! Anh Hai dần dà hiểu ra được nỗi bất đắc chí của thầy. Nhưng thế sự ngày càng rối rắm, ruột gan anh như mối tơ vò, cũng như thầy, anh gởi lòng vào đường quyền mũi kiếm.

 

Thấm thoắt ngày qua tháng lại, đôi vợ chồng trẻ sanh thằng cu Thương. Khi cu Thương biết bập bẹ kêu Ba… Ba… Má… Má… thì cả tổng này người ta rần rần kéo nhau đi giành chính quyền. Thằng Pháp nằm bẹp lền khên trong các nhà tù. Thằng Nhật như rắn mất đầu ném súng chạy te tua. Mấy lá cờ tam sắc, cờ chấm đỏ biến đâu bặt tăm bặt dạng. Giờ đây ngợp trời cờ đỏ sao vàng, cờ vàng sao đỏ phấp phới tung bay trông mát mắt. Anh Hai dẫn đầu một toán trai tráng hăm hở mang giáo, mác, phảng, tầm vông… ào ào kéo nhau lên quận, sục vào các đồn bót lục lạo kiếm súng, đạn , găm, lê… Vớ được khẩu mút và cây kiếm Nhật, súng khoác trên vai, hông đeo lúc lắc cây kiếm dài lê thê, anh Hai như người chỉ huy trẻ trung oai phong lẫm liệt. Đội quân của anh được điều lên tỉnh, tình cờ gặp người bạn từng là môn sinh của thầy, giao cho anh cây cờ nền vàng sao đỏ to đùng. Anh Hai giương nó lên cao, cả đoàn kéo nhau đi vòng vo quanh phố thị. Anh Hai bỗng trở thành người chỉ huy xông xáo. Anh bạn vốn con nhà giầu, theo học võ ít lâu, gia đình kêu về bắt lên Sài Gòn học chữ, giờ anh là cán bộ Việt Minh ở tỉnh này. Là Thanh niên tiền phong, anh Hai cũng ở trong tổ chức Việt Minh.

Thằng Nhật vừa cuốn xéo về nước thì thằng Pháp ỷ thế Đồng minh Anh quốc gây chiến lại. Chiến sự từ Sài Gòn mau chóng lan ra các tỉnh. Anh Hai thành người chỉ huy một Đội Vệ binh cộng hòacủa tỉnh, đánh giặc tưng bừng. Một hôm anh bạn đến gặp biểu anh:                  

- Ê Hai! Mày vô Dân chủ với tao đi! 

- Đã Tiền phong rồi, Dân chủ mần chi nữa? – Anh trả lời gọn hơ.                        

- Không! Tiền phong là của hết ráo thanh niên. Dân chủ là Đảng của những người như tao với mày, già trẻ bất kể, mà dám tranh đấu cho quyền lợi của mình là được.

- Vô Dân chủ có còn trong Việt Minh không? – Anh hỏi lại.                      

- Ngon quá đi chớ! Trong Việt Minh có cả Dân chủ, Cộng sản, Thanh niên, Nông hội, Công hội, Phật Thích Ca, Chúa Jésus, Phạm Công Tắc, Huỳnh Phú Sổ… miễn là cùng mục đích đánh ngoại xâm giành độc lập thôi. Bình đẳng ráo!

- Dân chủ với Cộng sản khác gì nhau?        

Anh bạn nắm hai vai anh lắc lắc:                

- Dân chủ là của những người hữu sản. Cộng sản là của những người vô sản không có gì ráo trọi. Như mày vô Dân chủ được rồi!         

Anh Hai gật đầu ra ý hiểu.                 

Mấy ngày sau, anh bạn kêu anh đến một phòng trống tuyềnh toàng, có vài ba anh nữa, nghiêm trang tuyên bố:

- Trong điều kiện đặc biệt vì chiến tranh, không thể tập trung đông đủ làm lễ kết nạp được. Tôi thay mặt tỉnh đảng bộ tuyên bố kết nạp đồng chí Hai Võ tức Huỳnh Võ từ nay chính thức là đảng viên Đảng Dân chủ Việt Nam!

Anh Hai trên mình đầy vũ khí, đứng nghiêm, trang trọng chấp nhận sự kết nạp ấy. Anh cảm thấy trách nhiệm của mình nhiều hơn và sức mạnh của mình cũng lớn hơn. Mọi người bắt chặt tay anh rồi tản ra về.

Thế là cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đã thật sự cuốn hút anh Hai. Lâu lâu tiện dịp anh ghé về thăm vợ. Lại có thêm cu Nhớ. Nó ra đời thế nào anh không hay. Nhưng một kỷ niệm về Đảng thì anh nhớ mãi. Những năm đầu chống Pháp, gian khổ thiếu thốn rất nhiều nhưng anh em vẫn hợp đoàn xôm tụ lắm. Một hôm có cán bộ của Kỳ bộ Việt Minh về Khu tuyên truyền, nói về trường kỳ kháng chiến. Những thanh niên của Dân chủ và Cộng sản được tập trung đứng làm hàng rào danh dự. Vũ khí tạp pín lù thì cũng được, trông càng vui mắt. Nhưng trang phục tùm lum : người quần phăng, áo bà ba; người áo sơ mi, quần lửng; người quần tà lỏn, cởi trần – mới cũ đủ loại: tầu tầu, mốc thếch, trắng xác, đen thùi; đầu trần, nón nhà binh, dân sự đủ kiểu; người đi giầy, bốt, dép lê, chân đất thoải mái. Trong hoàn cảnh thiếu thốn ấy đành vậy thôi, ai trách mần chi. Nhưng nhìn đội quân danh dự mà như vậy thì ô hợp quá! Giờ hành lễ tới nơi rồi! Anh Hai được giao chỉ huy, nghĩ ra một kế: Chúng ta là quân du kích, cũng không khác gì quân Lam sơn tụ nghĩa thuở xưa – mình trần, chân đất mà đồng lòng chống giặc ngoại xâm! Vậy là đứng dưới chân kỳ đài hôm ấy có một đội quân danh dự đặc biệt khác thường : ai cũng quần tà lỏn, mình trần, chân đất, đầu quấn khăn rằn, người khoác tôm xông, người đeo bá đỏ, người mang kiếm, người đeo lê, người vác tầm vông, người giơ cây phảng… Lịch sử quân sự thế giới xưa nay chưa từng có đội quân nào như thế. Vậy mà làm xôn xao xáo động lòng người. Các diễn giả nói hùng hồn hấp dẫn, khán giả nín thinh nghe rồi ào ào hưởng ứng. Đại diện Đảng Dân chủ là ông bác sỹ con ông Hội đồng đại điền chủ giàu cả lục tỉnh biết tiếng. Đại diện Đảng Cộng sản là ông người xứ Nghệ, cựu tù Côn đảo, từng tranh biện hùng hồn trước toà án thực dân. Diễn giả nói xong, xuống bắt tay, ôm hôn từng chiến sỹ danh dự trong tiếng vỗ tay vang trời, tiếng cười dậy đất và nhiều người trào nước mắt.

Cuộc kháng chiến kéo dài, anh Hai điểm quanh thấy những đảng viên Dân chủ ngày càng vắng bóng. Có người thấy anh trì, khuyên qua nhập Cộng sản cho rồi. Nhưng anh nghĩ đã theo ai thì phải một lòng trước sao sau vậy. Đảng nào mục đích cũng là hợp sức nhau lại đánh giặc ngoại xâm, mang lại độc lập cho dân nước chớ đâu phải là chuyện ham vui.

Anh đang từ  cương vị chỉ huy một đại đội chiến đấu, được điều qua làm công tác tài chánh của tỉnh vì anh có học hành chút đỉnh. Kháng chiến cần, anh dốc sức, dốc lòng. Việc nhà có vợ anh lo. Bé Trông, bé Chờ ra đời trong những ngày tháng ấy…

 

Khi có Hiệp định Genève, được phân ở lại ông thấy mừng. Mục tiêu sắp đến rồi! Lại về với xóm làng, đồng ruộng, người thân, lòng vẫn hướng về đồng đội chờ ngày hội ngộ trong cảnh dân nước thanh bình  độc lập. Em trai ông – Huỳnh Tư, vào bộ đội sau anh, đảng viên cộng sản, trong đoàn quân tập kết. Em vợ ông – cô Mười, trốn nhà đi theo đoàn nữ cứu thương, giờ cũng xuống tầu ra Bắc. Ông Hai nghĩ việc mình ở lại là hợp cả lý, tình. Ông Hương Quản mất rồi. Ông đem vợ con về ở nhà mình. Cu Hòa ra đời trong những ngày đầu hòa bình yên ổn ấy.

Nhưng sự yên vui đâu có được lâu.

Khi đã trấn áp xong các phe phái chống đối và truất phế được Bảo Đại rồi, chính quyền Ngô Đình Diệm quay qua đàn áp những người theo kháng chiến. Đấy là thời kỳ gieo neo của họ. Gia đình ông Hai bị liệt vào hàng nguy hiểm, trước cửa nhà có treo tấm biển đen, chữ trắng: Gia đình cộng sản! Ông bị quản thúc và thường xuyên bị kêu đi học lớp cải huấn làm ông mệt mỏi. Ông sống lương thiện, chỉ lo làm ăn chớ có chống đối ai đâu! Nhưng người ta không cho yên. Người ta muốn tẩy ra khỏi não những cái gì ông bị nhiễm từ thời đi kháng chiến. Người ta muốn ông phải nhận những việc làm đó là sai. Ông không chịu. Mấy tên xã ấp, hồi đó nó biến đi đâu, bây giờ trở về phách lối trù ém, đặt điều cho ông đủ chuyện. Ông ráng nín nhịn cho qua nhưng họ lại cho là ông ngoan cố âm thầm ăn cơm quốc gia – thờ ma cộng sản. Họ đưa ông đi trại tập trung cải huấn đằng đẵng mấy năm trời. Ở đấy ông gặp nhiều người quen biết từ thời lặn lội ở chiến khu. Mỗi người một tâm tư không dám lộ ra. Lòng dạ ai tự người nấy biết. Người nào cương chính, nếu không chết thê thảm thì cũng bị đày lên rừng, ra đảo khó có ngày về. Người nào yên phận thì phải nói sái lòng mình để rồi có sống thì cũng trong tâm trạng u uất dày vò chẳng dám nhìn ai. Một số ít người đang tâm làm trái đạo lý thì bị dồn ép phải làm những việc bất nhân, tàn ác không khác kẻ vô lương.

Viên trung uý người Huế trẻ măng, dáng thư sinh nho nhã, giọng ngọt như lưỡi dao bén rủ rỉ với ông:

- Gia đình ông khá giả, hàng chức sắc trong làng, sao không yên phận lại theo Cộng sản? 

- Tôi không phải Cộng sản, tôi là Dân chủ! 

- Thì Việt Minh với Cộng sản là một đó thôi!       

- Không, Việt Minh tập hợp tất cả những người yêu nước chống ngoại xâm!       

- Thiếu gì cách chống ngoại xâm. Ngô Tổng Thống đâu cần theo kháng chiến mà vẫn đẩy đi được cả người Pháp với ông vua bù nhìn Bảo Đại đấy thôi! Ngài một lúc đánh đổ cả hai kẻ thù là Đế quốc và Phong kiến đó!

- Người Pháp đi thì có người Mỹ đến!

- Mình là nước nhỏ phải dựa vào nước lớn chớ. Như cây leo mà không bám vào cây cổ thụ thì sao vươn lên được!

Ông Hai làm thinh. Viên sỹ quan tâm lý chiến lại giảng tiếp:                      

- Làm gì cũng để cho có ấm no yên ổn là được rồi. Cụ Hồ chả bảo : Độc lập mà không có tự do hạnh phúc thì đấu tranh giành độc lập làm gì đó thôi! Miền Nam mình phải dựa vào khối Thế giới tự do đứng đầu là Mỹ, cũng như miền Bắc phải dựa vào khối Cộng sản do Nga xô và Trung cộng đứng đầu. Sao các ông lại kêu chúng tôi là tay sai, là chư hầu chớ? Nay mai có tổng tuyển cử tự do, Cụ Hồ hay Cụ Ngô đắc cử thì cả tôi và ông, cả miền Nam, miền Bắc đều sống trong một quốc gia độc lập. Sao chúng ta lại không hợp tác trước với nhau đi?

Ông vẫn làm thinh. Viên trung uý cho ông về suy nghĩ tiếp… Rồi y cứ ngọt nhạt:         

- Chúng tôi biết ông không cố ý chống chúng tôi đâu. Những người cộng sản họ ương bướng vì họ làm theo chỉ thị, nghị quyết của Đảng họ. Còn Đảng ông có chỉ thị nghị quyết gì cho các ông không? Vậy hà cớ chi ông phải làm theo họ? Ông còn câu nệ gì mà không ly khai Đảng Cộng sản?

- Nhưng tôi có vô Đảng Cộng sản bao giờ đâu mà phải ly khai!

Viên trung uý gật đầu cười nhạt:                 

- Vậy chỉ cần ông thừa nhận ông không phải Cộng sản là được rồi!  

Ông gật đầu. Viên trung uý trẻ tươi lên, chìa tờ giấy ra cho ông ghi vào chữ : Tôi không phải là Cộng sản! và ký vào. Sự thật đúng là như thế mà sao tay ông cứ run bắn lên… Ông được chuyển ngay về trại khác.

Sáng sau, các trại viên ấy rục rịch chuẩn bị ra chào cờ. Ông cáo đau đầu nằm giấu mình một xó. Vẫn viên trung uý ấy phân tích cho ông:                            

- Lá cờ chẳng qua chỉ là mảnh vải, ai muốn tô kết thế nào tuỳ ý. Nhưng nó tượng trưng cho một quốc gia. Ngoài Bắc có lá cờ nền đỏ sao vàng thì ở trong Nam có lá cờ nền vàng sọc đỏ. Chừng nào hai miền thống nhất thì cả tôi và ông đều chào chung một lá cờ màu gì, mấy sao, mấy vạch là tuỳ theo lúc đó. Người thức thời phải hiểu vậy. Chớ có chấp nhất, tỏ ra thiển cận hẹp hòi chỉ tự mình hành hạ mình thôi. Vả lại bây giờ ông có muốn quay về trại cũ, các đồng chí của ông cũng không ai chấp nhận nữa đâu!…

Rồi một buổi sáng, các bạn tù thấy người tù Huỳnh Võ lủi trong đám người đứng giữa sân cúi đầu chào lá cờ ba sọc!

Ngay lập tức, ông nghe được trong hàng ngũ lính xì xầm:                          

- Một cán bộ trung kiên, ngoan cố cấp tỉnh đã quy hàng!                                    

Số bạn tù hiểu được lòng ông bắn lời nhắn nhủ:

- Anh mắc bẫy bọn tâm lý chiến rồi! Bây giờ nhân dân trông vào Đảng. Những người Cộng sản luôn đi đầu đấu tranh cho Tổ quốc Việt Nam hòa  bình, thống nhất và độc lập. Trong thực tế có không ít người tuy chưa đứng trong hàng ngũ của Đảng nhưng họ vẫn sát cánh cùng Đảng chiến đấu cho mục tiêu cao cả ấy. Bấy lâu nay anh vẫn tỏ rõ khí phách kiên cường trước kẻ thù không khác gì một đảng viên Cộng sản chân chính. Bây giờ anh tách ra khỏi Đảng cũng đồng nghĩa là anh từ bỏ mục tiêu bấy lâu nay theo đuổi!

Ông rũ người xuống tưởng như ông không còn gượng lên được nữa. Ông đã tự tách mình ra khỏi đội ngũ của ông! Ông nghĩ tới thầy Năm Hớn – người thầy nhập môn với tấm lòng u uất trước nỗi đau nhân sinh thế sự và cái chết hiên ngang của con nhà võ trước quân thù.

Ông trở về nhà với niềm đau, nỗi hận không biết chia sẻ cùng ai.

Tấm biển cách ly trước cổng đã được gỡ bỏ mà nhà ông vẫn vắng lạnh, người đi qua cổng vẫn bước vội như sợ một điều gì. Vợ con ông cảm nhận được sự rẻ rúng của xóm làng nhưng vì thương ông nên không dám nói. Bé Út Hận ra đời vào thời điểm ấy. Cũng là nghiệp chướng cho một sinh linh!

Vậy mà mấy thằng kỳ lại xã ấp vẫn không tha. Hai Thương đã bước vào tuổi thiếu niên uất không chịu được.

Một hôm, viên xã trưởng dẫn đám dân vệ vô kiểm soát nhà ông. Chúng kêu cả nhà ra đứng để điểm mặt từng người theo nhân khẩu. Chúng lục lạo trước sau. Tên xã trưởng đứng giữa sân cảnh báo bọn đàn em:        

- Nhà này cải tà nhưng chưa quy chánh!      

Ông Hai ngồi chết trồng giữa nhà, nén nuốt nước mắt vào trong. Hai Thương xót cha, đứng trước hè nhổ phì phì ra sân cự lại :                                

- Mấy người chớ làm tàng, dồn ép người ta quá lối sao chịu được!    

Tên xã trưởng cầm cây chống chỉ thẳng mặt Hai Thương dằn giọng:          

- Bọn này xanh vỏ đỏ lòng… Tao cho tù rục xương!

Hai Thương không kềm được nữa, chớp cây chống đập nhằm ống quyển viên xã trưởng. May cho y kịp nhẩy tưng lên nhưng té lăn cù giữa sân, miệng la ơi ới, thét bọn lâu la:

- Bắt lấy nó! Quân phản loạn!           

Hai Thương chạy ra ngõ còn quay đầu lại – mặt nó tái mét, hai mắt trợn trừng, tay chỉ thẳng vào tên xã trưởng văng lời chửi độc và thề:

- Đù… ù… má! Tao bắn bỏ tụi bay!  

Nó chạy vọt đi…

 

Hai Thương ra lộ , nhẩy xe lên thành phố…

Ở chốn rừng người này, một thân phận chỉ như bóng chim tăm cá ai mà tìm được. Biết bao nhiêu trẻ gái trai lang bạt đủ nghề, đủ cảnh. Chữ nghĩa cỡ nó nhằm nhò gì. Nó ta bà ra chợ xông vào phụ việc mang vác kiếm miếng ăn cũng bị bọn cũ tranh giành oẻ hoẹ. Nó lê la tới các chiếu bài, bói, xóc đĩa, cá cua… ngồi cả buổi cho đỡ cơn đói khát thèm ăn uống. Nó la cà ra đường lớn thấy các điểm đăng ký quân dịch ồn ào ầm ĩ  xôm tụ  lắm. Đủ các sắc lính mũ nồi xanh, đỏ, nâu, đen, lính biển, lính rừng, lính trâu, lính rồng, lính cọp… hì hà hung hãn oai hùng lắm. Mấy cha, mấy ả ca sĩ uốn éo lả lướt hát gào như điên. Mấy chàng sĩ quan, lính tráng chèo kéo, tán tỉnh, mời chào. Anh chàng thượng sĩ to đùng, đội mũ nồi nâu, hai giải tua đen lúc lắc, quần áo rằn ri nai nịt trông hì hà lắm, tóm tay Thương chặt cứng, miệng phà ra sặc mùi rượu chua nồng cùng với những lời dụ ngon lành như đã thuộc lòng:

- Ê, nhỏ! Bao nhiêu tuổi? Mười sáu hà? Ngon thôi! Lính Biệt động quân đi khắp đó đây, thoả chí tang bồng hồ thỉ, lên rừng xuống biển, vượt đèo lội suối, đồng vắng đồi hoang đâu đâu cũng in dấu chân người chiến sỹ anh hùng! Kiều nữ thị thành, thôn nữ  đồng quê, sơn nữ rừng sâu… đêm ngày trằn trọc dõi bước anh đi để một ngày kia dang rộng vòng tay đón chàng trai chiến thắng ngả vào lòng em… rực rỡ chiến công trên ngực, nặng trĩu quà tặng trên lưng và những… cục tiền đầy túi! Vô đi! Vô đi! Biệt động quân số dzách!…

Thấy mà ham! Cu Thương nghĩ tới những ngày lang thang vô định làm nó ngã lòng, lại nhớ tới cảnh bức hiếp gia đình của mấy thằng xã ấp làm máu nó trào lên cổ, chân tay nó ngứa ngáy không chừng. Nhưng từ tấm bé nó vẫn không ưa gì đám lính rằn ri mà người thân, bà con chòm xóm nó vẫn xì xầm là lính ngụy. Nó lảng đi…

Một bữa, Hai Thương đứng lơ ngơ trước một quán nhậu bên đường. Ngưới ta đa phần là lính. Lính càng bu tới đông thì dân nhậu các cỡ dầu rằng đang xỉn cũng phải tỉnh ra tản đi chỗ khác. Thấy thằng bé đứng xớ rớ ngẩn ngơ, viên thiếu uý mặt đỏ gay kéo tay ấn nó ngồi xuống ghế cười tả lả:

- Ê, nhỏ! Chịu chơi với lính không?   

Cả đám cười vang có thêm người bạn nhậu. Nó không lạ cảnh này. Gì chớ, với dân nhậu làm thân vô tư mấy hồi. Thế là nó đã coi mình là em út trong đám mấy anh lính phong sương… Cuộc nhậu lúc một ồn ào to tiếng. Người ta nói với nhau như cãi lộn, không cần biết người kia nói điều chi nữa… Và cuối cùng là bàn ghế đổ ngổn ngang, chén, dĩa, chai, ly, nỉa, muỗng… bay vèo vèo. Kẻ bò lăn dưới đất. Kẻ chạy tán loạn tháo thân. Viên thiếu uý ôm đầu chúi lủi, máu chảy ròng ròng. Cu Thương thấy tội nghiệp, cởi phăng áo ấp chặt vết thương, líu ríu dìu viên thiếu uý lánh đi. Vừa lúc tiếng còi xe quân cảnh rú hụ inh ỏi. Thương kè người bị nạn lủi tít vô sâu một con hẻm nhỏ. Viên thiếu uý nhận ra người cứu giúp mình, y lột bỏ bộ đồ lính, thì thào:

- Ra kêu taxi mau!                    

Hai Thương đỡ người bạn lớn mình trần ra xe. Anh ta kéo luôn thằng bé lạ vô ngồi kề bên, dựa đầu vào nó. Cu Thương nhìn lại: Dãy tiệm quán ấy tan hoang, vắng hoe, chỉ còn bóng mấy người trong quán ngán ngẩm uể oải ra vô dọn dẹp. Viên thiếu uý tỉnh ra, chửi thề:       

- Đù má…Tai bay vạ gió. Mấy thằng Thủy quân lục chiến nhậu đã, gây lộn để xù!

Gia đình viên thiếu uý thuộc loại khá giả, người Bắc di cư, rất cảm kích trước tấm lòng nghĩa hiệp của đứa trẻ cù bất cù bơ với con trai họ. Viên thiếu uý giữ thằng bé dễ thương ở lại nhà mình. Thương vẫn giữ kín tông tích, chỉ lộ chút lòng mình : Ở quê chịu không nổi với mấy thằng xã, ấp! Viên sĩ quan trẻ tức lây:

- Ô! Bọn đó chỉ như chó cậy gần nhà. Muốn trị lúc nào chẳng được!

Anh ta rủ Thương đăng lính. Mấy hôm sống trong ngôi nhà lính này, Thương không còn cái ác cảm vốn có như xưa nữa. Nó nói thật với viên thiếu uý:

- Cha tui đi kháng chiến nhưng không theo ra ngoải. Ở lại nhà mình mà bị tụi nó hành như thân con chó. Mà ổng có quậy chi đâu!                 

Viên thiếu uý hiểu ra nói liền một hơi:        

-  Vậy là muốn tìm cách rửa thù cho cha đây! Ông già từng là Việt Minh hả? Cha tao cũng từng theo đó, nhưng nhà tao đạo dòng, đành phải bỏ quê hương xứ sở mà đi thôi. Tao cũng chẳng có hận thù gì với họ, nhưng làm theo người lớn, theo cha đạo, theo giáo xứ. Cha tao làm vệ sĩ xứ đạo, rồi đôn dần lên làm sĩ quan cận vệ đức Giám mục, được tin tưởng đưa vào Tổng hành dinh. Tao học dở dang, không muốn đi lính đâu nhưng cứ trốn chui lủi mãi thì cũng hèn, cũng nhục. Trai thời loạn, chỉ có cách đăng lính là mau có quyền và có tiền thôi. Mình chẳng hiếp đáp, giết chóc ai, nhưng ai ức hiếp mình, hại mình là không được!         

- Sao mấy người lính hành quân ác quá hà? – Thương thắc mắc.                

- Thiếu chi những thằng mặc bộ đồ lớn, đồ lễ mà tàn ác gấp ngàn lần. Một cái lừ mắt, phẩy tay của họ vô số người mất mạng. Mình cứ ở lành Chúa hằng thương. Cùng lắm mình chỉ nhấn cò súng khi có ai nhắm bắn mình thôi. Chúa sẽ làm ngơ cho mình!

Trên ngực viên sĩ quan lủng lẳng tượng Chúa Jesus trên cây thập giá to đùng, vàng choé. Chắc là thần hộ mệnh. Vậy là Thương bùi tai đăng theo nghiệp lính.

Thương được xung vào đơn vị của viên thiếu uý – đã như người anh, người cha đỡ đầu cho nó. Gia đình viên thiếu uý cũng coi nó như con trong nhà. Nó nhập đạo lúc nào chính nó cũng không hay. Chỉ biết là nó đã quen những nghi lễ của nhà thờ, những bài thánh ca trong các buổi lễ chầu nó cũng có thể hát theo. Không biết bao nhiêu lần nó kể cho viên thiếu uý về mối thù cha nó bị hà hiếp nên nỗi nó phải bỏ nhà đi tha hương như thế này. Một hôm người anh vỗ về thằng em kết nghĩa:

- Ở nơi vùng xôi đậu trắng đen thì diệt mấy thằng chó ghẻ ấy khó gì!

Vào một buổi xế chiều, trụ sở xã Lương Hòa lơ thơ mấy tên dân vệ ngồi tán dóc bên ngoài, bên trong mấy tên nha lại đang mê mải nhậu lai rai, mặt thằng nào cũng đỏ khé, nói lè nhè, cười hềnh hệch. Bỗng từ ngoài lộ, hai chiếc GMC chở đầy lính  đầu đội mũ nồi nâu sậm phóng ào tới, bắn sối xả vào ngôi nhà trụ sở. Bọn dân vệ hoảng sợ chạy tán loạn. Từ trên xe, đám lính Biệt động quân đổ ào xuống chạy xộc thẳng vô. Bọn nha dịch sợ vỡ mật, đứa vọt qua cửa sổ lao đi các phía, đứa cập rập chui vô các xó. Viên đại uý tay lăm lăm cây súng ngắn hầm hầm:

- Bọn này phản loạn, ăn ở hai lòng! Tao bắn bỏ!

Viên xã trưởng ngớ ra, không hiểu sự thể làm sao, run rẩy quì xuống vái lia lịa:      

- Dạ, thưa ngài Đại uý, chúng con đâu dám!

Khi y đang quỳ mọp xuống thì một tên lính giọng còn non oặt, chĩa họng cây AR15 nhằm cái đầu đang chạm đất thét lên:                                  

- Chính nó đó!                                   

Khẩu súng ngắn trên tay viên sĩ quan toé lửa, tiếp theo là hàng loạt đạn từ khẩu súng trên tay tên lính trẻ bắn ra làm nát bấy thân hình viên xã trưởng. Viên đại uý khoát tay, cả đám lính ào ra xe và phóng như  bay về hướng nội đô.

Trong đám dân vệ có tên nhanh chân chui tọt được vô một nhà dân bên lộ, khi thấy đám lính Biệt động quân kéo nhau lên xe, y kịp nhận ra tên lính trẻ măng nhất đám giống như thằng Thương con ông Hai Võ.

Tin đồn lan ra thất thiệt. Người thì bảo Việt cộng cải trang đi diệt ác phá kềm. Người thì bảo thằng Thương làm lính cận vệ cho viên đại uý tiểu đoàn trưởng Biệt động quân về rửa hận cho cha. Người ta nể sợ cả bên này lẫn bên kia và nể sợ cả nhà ông Hai Võ. Ai đi qua nhà ông cũng lấm lét nhìn vô nhà mà chân thì bước cho mau. Người nể, người sợ. Và người ta càng xa lánh nhà ông. Tiếng đồn dần đến tai ông Hai, bà Tám. Bà xót xa đứng ngồi không yên, mấy lần bổ lên thành phố tìm con nhưng biết nó ở đâu mà tìm. Người nhà quê lên tỉnh sớ rớ, có lần bà còn bị bắt giam vì bị tình nghi là Việt cộng. Ông Hai càng im lặng và già xọm đi nhanh quá. Một hôm ông thở dài nói với bà:

- Khi người ta bị dồn đến thế cùng dễ quẫn… Cha lỡ dại rồi, con cũng mất khôn!

Thời gian trôi đi thật mau. Một hôm Hai Thương trở về trong sắc phục hạ sĩ Biệt động quân. Cả nhà đón anh thật lạnh nhạt. Anh lớn mau quá, đen đủi, rắn rỏi, mặn mòi và hơi phiêu bạc. Mọi người khó bắt chuyện với anh. Anh càng lầm lũi. Thừa lúc anh hỏi mẹ:   

- Ở nhà còn đứa nào dám tới hành hạ ổng không?

Má lắc đầu, ráng lắm bà mới nghẹn ngào trả lời con:

- Ai cũng sợ nhà này! Ở mần chi cho người ta thương, chớ để người ta sợ là vô phước con à!

Hai Thương loanh quanh ra vô một hồi rồi anh bận sắc phục chỉnh tề, đặt cọc tiền trên bàn, đứng giữa nhà, giọng bất bình và uất ức:                                    

- Sao mọi người coi tôi như kẻ thù vậy?

Anh giận dỗi bỏ đi.                  

Mấy đứa em, đứa trong nhà, đứa ngoài sân đứng nhìn bóng anh Hai khuất dần vừa thân, vừa lạ. Ông Hai nhìn con lầm lũi bước ra đến cổng mới bật đứng lên réo vọng:  

- Tao không cần tiền. Tao chỉ cần mày trở về đây!

Ông không còn đủ sức chạy ra cầm tay con níu lạị. Đôi mắt ông chảy ra những giọt nước nặng nề. Ông biết nó thương ông và đã vì ông. Ông càng thương nó. Nhưng con ơi, con đường ấy lầm rồi! Cha đã lầm và con cũng lại lầm. Lỗi ấy tại cha! Lòng ông quặn thắt. Ông tưởng như mình đứt hơi, không thở được. Ông ngồi xuống, mặt tái xanh. Cả nhà bu lại xoa dầu, cạo gió cho ông…

 

Mấy năm nay gia đình ông Hai sống tạm yên nhưng tóc ông bạc trắng. Đây đó, gần xa tiếng súng ngày một nhiều và lớn rộ hơn. Những tin tức từ truyền miệng, từ báo, đài… mọi người biết rằng chiến sự ngày càng mở rộng ra và ác liệt hơn. Người người thấp thỏm chờ tai họa giáng xuống, chỉ cầu mong nó chừa lại một nơi…

Một buổi chiều, có người đàn bà lạ tìm đến nhà ông Hai. Sau một lúc rào rậu, đón đưa, bà khách nọ đưa cho ông Hai tờ thư được giấu kín khó ai tìm ra được. Đúng là nét chữ của em trai ông – ông Huỳnh Tư:

  Kính gởi anh chị Hai !

Em đã trở về cùng bà con chiến đấu giải phóng quê hương. Em cũng biết phần nào cảnh ngộ éo le của anh nhưng em hiểu lòng anh. Điều bức thiết là không thể để các cháu đứng về phía bên kia chống lại Tổ quốc và nhân dân mình. Đừng làm hoen ố truyền thống yêu chuộng công bằng, chính nghĩa của ông bà mình. Cuộc chiến đấu giành độc lập, tự do và thống nhứt Tổ quốc của nhân dân ta cần rất nhiều những người con trung thành, dũng cảm, dám hy sinh vì nghĩa lớn. Sự nghiệp ấy là tất thắng.

Em Tư.

Lòng ông Hai náo nức vui lên. Ít ra thì cũng có thằng em nó hiểu lòng mình. Chưa bao giờ trong ông mờ nhoà cái mục tiêu cao cả ngay từ buổi đầu dấn thân vào con đường đầy những chông gai. Bây giờ cái mục tiêu ấy lại lấp lánh và trùng trùng người đi tới. Nhưng lòng ông càng tủi hận. Ông đã bị gạt ra khỏi đội ngũ rồi. Người ta coi ông như tên phản bội. Ông biết làm sao đây?

Lựa lúc vắng vẻ, ông bà ướm lòng con:        

- Ba! Năm nay đến tuổi quân dịch hà?        

- Đi để chết à! – Nó đáp chỏng lỏn.   

Ông bà lẳng lặng nhìn con. Nó nói giọng buồn:

- Nhà mình bị điều tiếng vậy rồi, chưa đủ sao?!

Ông nhìn con đau đớn. Lúc sau ông chìa ra tờ thư của em ông. Xem xong nó nhảy tưng lên:

- Con đi theo chú Tư nghen!              

Ông ngồi lặng thinh, mắt nhìn đâu đâu. Bà nước mắt chứa chan. Có người mẹ nào cầm lòng được khi con mình bước vào nơi mũi tên hòn đạn. Ba Nhớ hiểu lòng tía má, anh phân trần:      

- Không đi lính bên này cũng phải đi lính bên kia. Rủi chết cũng phải cho có lý!

Má hiểu lòng con nhưng con chưa hiểu lòng má, bà Hai thở dài nói ra nỗi lòng mình:    

- Vậy là từ nay anh em chú cháu một nhà cầm súng bắn nhau đây!  

Ông Hai rót ly rượu ngồi nhấm nhá. Giá như tin của chú Tư nó về sớm hơn, chắc nhà mình không đến nỗi này. Ông nghĩ tới thằng Hai, nó lội vô trắp xình rồi, làm sao rút chân ra được. Ông biết nó vẫn thương ông, ông càng thương nó. Mắt ông rơm rớm cay cay, vì rượu hay vì sự bi thiết của đời ông?

 

Các con ra đi không tin tức. Ngày tháng nặng nề trôi qua. Chiến tranh càng ác liệt. Những cuộc hành quân truy lùng qua đây có nhiều quân lực ngoại bang. Lính Mỹ da trắng, da đen; lính Úc, lính Thái, lính Đại Hàn… nhìn ai cũng là Việt cộng, xả súng bắn không thương tiếc. Nơi đây như vùng đất chết. Thôn xóm điêu tàn. Dân tình hoang mang thất vọng kéo nhau chạy ra ở dọc theo bờ lộ lớn, chờ lúc êm ắng người ta mới đáo vô đồng trông ba công lúa sống qua ngày. Cuộc sống chụm vô phố chợ. Duy chỉ có nhà ông Hai ở lì bám trụ không chịu dời ngôi nhà cổ ở thoi loi nơi mí biền hoang vắng. Ông củng cố trảng xê trong nhà, ngoài giậu, chỉ trừ khi tới số, một trái bom đìa trúng phóc là đành chịu vậy thôi. Đi đâu, ở đâu cũng phải làm mà sống. Mình chôn nhau cắt rún ở đây thì cũng sống chết ở đây. Ngôi nhà chịu bao nhiêu trận bom đìa, pháo chụp, pháo dùi… mà vẫn đứng trơ ra đó như thách đố, không ai giải thích được vì sao. Nơi đây thành vùng tranh chấp cực kỳ ác liệt. Người ta nói tự nó là địa bàn chiến lược của cả hai bên. Bên trong này muốn nống ra phải chọn chốn này làm chốt. Bên ngoài kia muốn ép lại phải tạo chỗ đứng ở đây. Bao nhiêu người con của mảnh đất này chết cho cả hai bên chưa ai để tâm đếm được.

Một buổi xế trưa, đột nhiên có người lạ đến kéo bà Hai ra sau rì rầm. Bà líu ríu choàng vô người chiếc áo trắng và chụp chiếc nón lên đầu cập rập bước xuống ghe. Chiếc ghe bơi sâu mãi trong bưng… và khi nó vừa cặp bờ con rạch nhỏ, một người ngồi đợi trong bụi cây từ bao giờ bật đứng dậy chạy ra… Bà Tám khụy xuống, người kia dồn sức dìu bà lên bờ, bà thều thào:

- Thằng Ba đó con?!…                      

Buổi chiều thật là ngắn ngủi…

Bà về thì thào với ông:                      

- Thằng Ba về đây rồi ông à!             

- Nó có mạnh không?

Ông chỉ hỏi vậy rồi nín thinh, không biết được trong bụng ông mừng hay lo nữa…

Bà như được cởi tấm lòng, từ nay có mẹ, có con.

Bà con vô làm ruộng trong bưng rồi dựng lều ở luôn trỏng. Người nọ theo người kia cùng làm. Ngoài ấp chiến lược vắng hoe, chỉ còn ông bà già và đám nhỏ đang đi học. Người ta kéo vô bưng ì xèo, càng làm tăng thêm uy thế của cách mạng. Chính quyền xã ấp không sao cai quản được.

Binh lính ở đồn này bất lực. Cấp chỉ huy chiến thuật Tiểu khu nghi ngờ đám lính ở đây ăn ở hai lòng nên thay về một dàn lính bình định mới, có viên thượng sĩ Mỹ làm cố vấn. Ngay chiều hôm đó dân trong ấp chiến lược xôn xao:

- Viên trung uý đồn trưởng mới chính là Hai Thương con ông Hai Võ và bà Tám Rầu!

Cả đêm ông bà không ngủ. Ông nín lặng như người câm, điếu thuốc vấn thay nhau không tàn trên môi. Bà trằn trọc chỉ mong trời mau sáng để được thấy mặt thằng con. Đời nó thật gian truân chìm nổi, bao lâu nay phiêu bạt, đôi khi bà nghĩ dại… lòng bà như dao cắt, chỉ biết vái Trời. Vậy là nhà mình còn tốt phúc. Thôi, lính gì thì lính, miễn con còn sống là được rồi… Gần sáng, ông mới nói ra nỗi lòng day dứt:

- Bà và tôi vô thế kẹt rồi! Chúng nó mỗi đứa mỗi nơi, phúc cho nhà mình thì con cái xa ra được mũi tên hòn đạn, rủi lỡ có làm sao thì nó ở đâu mình không thấy. Bây giờ cả hai đứa cùng về đây, mỗi thằng một phe, nó giương súng nhắm thẳng vào nhau mà bắn. Tôi với bà bất lực nhìn cảnh con cái nó bắn giết nhau. Cha mẹ ông bà đã nằm sâu dưới đất cũng phải kêu Trời!

Nỗi mừng vui được gần gụi con của bà tan biến. Người bà run lên, hụt hẫng. Bà rùng mình nghĩ tới cảnh chết chóc hàng ngày. Bao nhiêu tâm sức nuôi con đến ngày lớn khôn để rồi chúng lao vào nơi rừng gươm biển giáo. Bây giờ các con lại về bên mẹ. Không, bà nhất định không chịu để xảy ra cảnh gà cùng một mẹ đá nhau đâu.

 

Mới sáng sớm, bà Hai xồng xộc bước vô cổng bót. Tên lính canh nhảy ra đưa cây súng cản ngang, quát lên:

- Ê, bà già! Vô đây mần chi? Muốn chết sao?       

- Tui là má thằng Hai Thương, tui vô thăm nó!

Tên lính hạ cây súng dịu giọng, kéo tay bà năn nỉ:

- Đúng vậy thì má đứng qua đợi đây chút. Chờ con xin lệnh ông đồn trưởng đã!

Mấy người lính phía trong nghe ồn ào bước ra ngó coi.

Có người chạy vội vô trong. Lúc sau, một người lính lăng xăng chạy ra:   

- Phải là má Tám Rầu hà? Má vô đây! – Anh ta líu ríu dắt tay bà Hai đi thật lẹ.

Từ xa bà đã nhận ra dáng thằng Hai, bà vùng thoát khỏi  vòng tay người lính, chạy nhào tới ôm chầm lấy giọt máu đầu của bà:                                    

- Trời đất! Con ơi! Bấy lâu nay con bỏ đi đâu? –  Bà khóc hu hu.

Mấy người lính đứng gần đó toe toét cười rồi lảng đi. Hai Thương kéo má vô phòng khách. Vẫn là con bà đây. Nó có già đi, đen đúa, phong sương nhưng vẫn lầm lì ít nói. Bà không biết mình đã nói những gì và nó cứ ngồi thế lặng nghe. Mãi nó mới hỏi một câu:

- Ba giờ sao?                                      

- Ổng như người câm!               

Cuối cùng Hai Thương dỗ mẹ:           

- Thôi, má về đi! Rảnh con sẽ về!      

Bà Hai đứng lên, dùng dằng chưa dứt. Bà dặn dò con :

- Con sống về đây là má mừng rồi! Đây là quê hương, có ông bà, cha mẹ, anh em, con đừng đi đâu nữa! Mọi người quanh đây phi nội tắc ngoại, bà con láng giềng xóm ấp đã mấy mươi đời. Đừng coi nhau như kẻ khác máu tanh lòng!

Hai Thương nhìn quanh, anh biết những lời ấy má vẫn nói với các con từ ngày còn thơ dại nhưng lúc này nghe lại như giọng binh vận của phía bên kia. Anh nói lớn để mọi người cùng nghe được:            

- Thời chiến, sống được đến khúc nào là hay đến đó thôi! Dù là người gần, người xa, người thân, kẻ lạ, ai qui thuận quốc gia là đều được sống yên ổn cả thôi! 

Bà thở dài:                                         

- Thế cha mày không quy thuận quốc gia à? Thế mày có quậy phá ai đâu mà phải bỏ nhà, bỏ xứ ra đi? Tao chỉ mong không có cảnh nhà tan cửa nát, không có cảnh côi cút bơ vơ, tan đàn xảy nghé!

Tên thượng sĩ cố vấn Mỹ cùng với mấy người lính xăm xăm đi tới. Hắn lừng lững, đen thui như cây cột nhà cháy, đôi mắt trắng dã, cái miệng rộng hoác với hai hàm răng trắng ởn, hắn cong người cúi xuống ngang tầm với bà già bé nhỏ, hai tay ấp trên ngực trái cung kính chào bập bẹ mấy câu tiếng Việt:

- Kính chào bà mẹ Việt Nam!

Bà Hai cứng cỏi đáp lễ: 

- Chào ông lính Mỹ! 

- Ông Cố vấn Mỹ, má à!

Hai Thương sửa lời giùm má, rồi anh dắt tay má cùng đi ra phía cổng. Bà Hai cầm tay kéo con lại gần, giọng bà run run như muốn khóc:

- Thằng em mày nó cũng về đây. Anh em mày chớ giết hại nhau nghe con!

Hai Thương thở dài:

- Con biết thằng Ba đang làm Quận trưởng cộng sản ở đây… Nhưng mỗi đứa như một quân cờ trong tay người khác, biết tính làm sao!                   

Bà Hai giận dỗi bước đi nhanh. Hai Thương dài chân cho kịp mẹ. Tới cổng, nhìn con, bà lại thấy thương nó quá. Bà nhắc nhở con:                         

- Ở quê thiếu gì con gái nhà lành tử tế, biết từ gốc gác bà cố, ông sơ. Để xem đứa nào coi được, tao tính. Cha mẹ già rồi, mong được nhìn thấy mụn măng mà tụi bay cứ đi biền biệt lông bông hoài!

Có anh lính nghe lóm được đế vô:

- Ôi, má ơi! Trung uý có tới cần xé bồ, dại gì đưa chân vô thòng lọng!

Đám  lính cười phá lên. Bà mẹ mắng yêu con: 

- Ôi chui cha! Coi chừng mắc bẫy cạn đó con!

Trở về, bà Hai lần vô cứ trong bưng tìm Ba Nhớ. Bà biểu con:

- Cha mày như ngồi trên đống lửa mà tao thì rầu thúi ruột. Hai anh em mày bỗng nhiên thành kẻ cừu thù!

Ba Nhớ trầm ngâm:

- Nghe nói đám lính này dữ dằn lắm đó. Bọn Tiểu khu, Chi khu dư biết nhà mình. Nó đưa anh Hai về đây là kế ly gián cả hai bên. Má cứ về đi, để con báo lên tổ chức!

Bà Hai dưng dưng nước mắt:

- Ba à! Má không muốn nhìn thấy cảnh anh em mày bắn  giết nhau đâu! 

Ba Nhớ nét mặt rầu rầu:

- Có lẽ con xin chuyển địa bàn hoạt động!

- Không người mẹ nào muốn xa con, mà với má thì tai nghiệt quá. Má rầu thúi ruột! – Bà Hai nghẹn ngào.

Buổi đầu Hai Thương về thăm gia đình. Anh đi một mình, mặc thường phục, không lận súng trong người, không quân hộ vệ. Bà già nửa mừng, nửa lo. Ông già lâu lâu ngó nhìn con trai rồi mắt lại nhìn mãi đâu đâu. Hai Thương không biết bắt chuyện như thế nào, cứ đi loanh quanh luẩn quẩn. Cuối cùng thì ông Hai cất tiếng, không ra trách, cũng không ra khen:

- Cha… Gan cùng mình ta… Chưa ông trưởng đồn nào dám một mình mò vô ấp!

Bà Hai binh con:

- Thì nó về thăm nhà, thăm cha mẹ chớ nó có phá hại ai đâu mà sợ!

Hai Thương cười:

- Tui đi đường hoàng chớ việc chi phải mò mẫm chui lủi. Đây là quê hương tui mà. Tui đã hãm hại ai đâu mà bà con thù hận với tui?!

Ông Hai nhìn con thương hại:

- Dần dà rồi muốn được việc thì cũng phải nhúng tay vô chàm thôi. Ở với Phật thành người, ở với quỷ thành ma con à!

Hai Thương cãi lại:

- Tui muốn thanh bình cho xứ sở. Tui chỉ mong bà con sống yên lành, lo mần ăn, đừng tiếp tay cho Cộng sản quấy rối, phá hại an ninh quốc gia là mọi người được sống tự do, không ai được đụng tới mình! 

Ông Hai thở dài bất lực:  

- Nghe nói mày kéo lính về trừng trị thằng xã trưởng để rửa hận nhà. Mà thằng xã trưởng khi ấy hành hạ cha mày, nó cũng nói giọng điệu y như vậy! Mày về đây tưởng là để cho quê hương mày được yên đó hả? Ừa, có thể là nhà này được bình an nhưng nhà khác thì tai họa. Rồi ra là cảnh nồi da xáo thịt đó con!

Hai Thương bặm môi, đi vòng quanh trong nhà, rồi anh đứng giữa cửa, giang hai tay ra, hỏi to lên:

- Tại sao mọi người chỉ đổ tội vào mình tui? Tui sinh ra ở đời, tui phải được sống chớ! Làm người, tui phải có chỗ đứng chớ! Người ta nhắm vào tui mà bắn thì tui phải bắn lại chớ!

Anh quay ra, đi thẳng. Bà Hai cố níu con ở lại ăn bữa cơm xum họp gia đình mà không được.

Từ ngày Hai Thương về làm xếp bót này, anh thường về thăm nhà, thăm bà con xóm ấp. Lũ lính thừa dịp đó túa ra, vừa canh chừng, vừa xục xạo xăm xoi từng nhà. Những cơ sở kháng chiến đều chựng lại, một số bị lính gom về đồn. Viên cố vấn Mỹ rủ rỉ lời chiêu dụ:

- Quân đội đồng minh đến Việt Nam là để bảo vệ thế giới tự do. Chúng tôi tôn trọng nền độc lập của người bản xứ. Ông đồn trưởng đây cũng là đội trưởng Bình định. Ông là con dân xã này. Chúng tôi để các ông các bà tự  trị lấy nhau, loại trừ Cộng sản, mang lại thanh bình cho xứ sở này và đề phòng hậu họa cho thế giới tự do!

Mọi người im re. Cuối cùng một ông già xin nói:

- Vùng này từ trước đến nay vẫn thuộc quyền cai quản của Quốc gia mà sao dân chúng tôi vẫn điêu linh khổ ải? Chúng tôi chưa thấy người Việt cộng nào tới đây bắt bớ, bắn giết dân lành!

Tên cố vấn Mỹ trố mắt nhìn viên đồn trưởng. Hai Thương khoát tay nói lớn:

- Tui đảm bảo từ nay không ai đụng tới một cọng lông chân của bà con miễn là đừng có ai ăn ở hai lòng!

Mọi người ồn ào đứng lên. Vẫn ông già đó nói rỡn to lên để mọi người cùng nghe:

- Ai cũng chỉ có một bộ đồ lòng thôi. Có chăng người ta chỉ có thể thay lòng đổi dạ!

Hai Thương sa sầm nét mặt. Viên cố vấn nhìn Hai Thương vẻ thăm dò.

 

Ba Nhớ nhắn bà già vô cứ. Bà Hai mặt buồn so không giấu được nỗi âu lo. Ba Nhớ thương mẹ, anh nhẹ nhàng giải thích:

- Không được má à! Anh em gốc gác ở đây còn chẳng mấy người. Phải điều người từ nơi xa lạ tới, xớ rớ lơ ngơ tổn thất càng nhiều. Mình mà nhụt chí là thua ý đồ thằng giặc. Đây cũng là dịp thử thách lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. Con quyết bám đất, bám dân, một tấc không đi – một ly không rời mảnh đất quê hương!

Bà Hai nước mắt chảy thành dòng, không nói được gì. Ba Nhớ nhìn mẹ mà thương . Anh hỏi nhỏ:       

- Má xem con có nên gặp anh Hai?    

Bà Hai tươi lên:

- Được chớ sao không! – Rồi bà lại chần chờ lo lắng:… Mà liệu có xảy ra chuyện gì?

Ba Nhớ quả quyết:

- Tổ chức cũng đã gợi ý rồi nhưng con còn suy nghĩ. Về phía con, đảm bảo không có chuyện gì xảy ra cho ảnh!

Bà Hai vội vã về nhà thủ thỉ với chồng:

- Người ta bé thì con mẹ con cha, lớn là con vua con chúa. Tôi chỉ sợ lỡ chúng nó nghe người ta xúi!

Ông Hai trầm ngâm:

- Chúng nó gặp nhau cũng được thôi. Không sợ chúng nó bắn giết nhau trước mặt mình đâu. Có điều là không đứa nào lôi kéo được nhau đâu. Mỗi đứa đều lún sâu quá rồi. Bà biểu thằng Hai phải làm sao để thằng cố vấn Mỹ không biết chuyện này!

Bà Hai nhắn Hai Thương về.

Như thường lệ, mấy thằng lính đi theo la cà trong xóm, bà Hai dễ dàng nói chuyện với con. Hai Thương nhận lời ngay:

- Được thôi! Nhưng chỉ đi một mình, không ai được mang theo vũ khí.

Bà Hai mắng yêu con: 

- Cha mày… Nhà này chưa đến hồi vô phước để nên nỗi anh em con cháu chém giết nhau đâu!

Nhưng bà vẫn tỏ ra lo lắng điều gì. Hai Thương hiểu ý mẹ, khoát tay:

- Chuyện đó khỏi lo. Tuần tới thằng Mỹ qua Philippine nghỉ phép!

Xế chiều…

Ba Nhớ giả dạng một ông nông dân vác cuốc, khoác áo trắng, đội nón lá từ đồng bưng trở về nhà trên chiếc tam bản nhỏ. Xa xa phía trước, chiếc ghe của con bé Sáu dẫn đường.

Trên đường ra ấp, Hai Thương mặc thường phục thủng thẳng đi về nhà, nét mặt tươi vui, qua nhà ai anh cũng ghé chào. Bà con tả lả nói cười nhưng mắt vẫn ngó trước nhìn sau. Hai Thương nhiều lần về nhà một mình như thế.

Hai anh em cùng đứng nhìn thẳng vào nhau và đáo mắt dò xét chung quanh. Không ai chịu cất lời chào trước. Bà Hai nhắc khéo:

- Người dưng gặp nhau ngoài đường còn có lời chào huống chi là anh em máu mủ ruột rà!

Ba Nhớ nể mẹ cất lời:

- Chào ông Trung uý đồn trưởng quân lực Việt Nam Cộng hòa… – Anh nhếch mép cười và châm thêm:… kiêm Đội trưởng Bình định nông thôn!

Hai Thương hất hàm:

- Chào ông tiểu đoàn…  quận trưởng cộng quân!

- Quân giải phóng! – Ba Nhớ sửa lại.

Ông Hai thở dài:

- Những quân ấy gặp nhau chỉ có bom rơi đạn nổ… Kẻ nào không chết cũng thành phế nhân!

Bà Hai nghiêm nét mặt:

- Trong nhà này chỉ có cha mẹ, anh em và các con tao chớ không có thứ quân nào hết!

Hai người nghe mẹ, trùng lại nét căng trên mặt, cùng ngồi đối diện với nhau, đứa bên mẹ, đứa bên cha. Không ai biết vào đầu câu chuyện thế nào. Vẫn là bà Hai đi trước:

- Ba má già rồi. Con cái cả bầy lớn tầy quầy mà chưa đứa nào nên vợ nên chồng. Chúng tao lỡ có làm sao thì chết không nhắm mắt!

Bà xụt xịt, kéo vạt áo lên lau nước mắt:

- Khóm tre già phải có cụm măng thì mới tốt giống bền cây được chớ!

Lòng thương mẹ làm các con bà thấy gần nhau. Hai Thương ánh mắt dịu đi nhìn Ba Nhớ, giọng chân thành:

- Chú Ba bám trụ lâu dài ở quê thì má kiếm cho một chốn đi. Chớ con như chim trời cá biển nổi trôi theo ngọn gió đưa, theo dòng nước chảy biết làm sao mà hò với hẹn!

Ông Hai thấy không khí gia đình  đầm ấm lại, dịu lời khuyên con:

- Mưa nắng cũng có tuần có cữ. Loạn ly binh lửa cũng có lúc có cơn. Đời người mấy nỗi, được đến đâu tính tới đó đi. Chúng tao ngán quá rồi. Chỉ mong cho thanh bình yên ổn.

Ba Nhớ được dịp nói luôn:

- Thằng Mỹ mà cút xéo đi thì rồi sẽ không lâu đâu!

Nhìn thẳng vào người anh Hai, anh nói ra cái ý đã nung nấu từ lâu:

- Anh Hai mà quay về với nhân dân lúc này là rất hợp lý, hợp tình!

Hai Thương đỏ mặt đập bàn đứng lên:

- Cha cha… Mấy thằng Bình định đi chiêu dụ cán binh Cộng sản… vô phương!… Giờ lại dẫn thân về quy hàng Cộng sản đây… Ha ha!

Ba Nhớ cũng đứng lên đập bàn nói lớn:

- Không ai chiêu dụ được người Cộng sản! Chính nghĩa thuộc về chúng tôi… Chúng tôi nhất định thắng!

Hai ông bà ngồi chết trân. Hai Thương mặt đỏ gay, anh đi đi lại lại:

- Hỏi ba đây! Ba là chính nghĩa hay phi nghĩa? Nhưng bên đây thì bảo ông xanh vỏ đỏ lòng! Bên kia thì bảo ông không trung thành, phản bội! Ông đã phản bội ai? Tại sao bên nào cũng bắt ông phải là cộng sản? Bao lâu nay mày xem ổng sống hay là chết?

Anh phanh áo ngực ra: chiếc dây truyền vàng to đùng, cây thập giá nặng nề lủng liểng và khuôn mặt một người trai trẻ tươi cười. Anh nâng tấm hình cho mọi người coi:

- Chính người này đã giúp tôi trả được thù nhà! Chính người này đã chỉ cho tôi chỗ đứng ở đời. Bây giờ tuy tôi không chức trọng quyền cao nhưng tôi dám ngẩng mặt nhìn đời. Hỏi đứa nào dám đụng tới tôi? 

Ba Nhớ đốp luôn:

- Anh hùng kiểu lính cộng hòa của anh chỉ hù được bà già, con nít, mấy kẻ yếu gan thôi. Chỗ anh em tôi bảo thiệt… Tôi khuyên anh là để có lúc anh khỏi phải cúi đầu xuống đất hổ ngươi với đời đó thôi. Anh còn thì giờ suy nghĩ!

Những biến động của cuộc đời như cơn thác lũ trôi giạt gia đình này mỗi người một nẻo. 

Hai Thương trong lúc bế tắc tình cờ gặp người sĩ quan trẻ ấy. Gia đình anh ta hiền lành nhân hậu, mở lòng đón nhận anh vì lòng nhân ái chớ không có mục tiêu vụ lợi, chèo kéo một đứa trẻ cù bất cù bơ để làm gì. Họ cũng không muốn cho con cái họ phải đi vào nơi hiểm nguy đầy những mũi tên hòn đạn mà chẳng đem lại lợi lộc gì. Nhưng thời tao loạn này họ không cưỡng lại được . Họ chỉ còn biết trông cậy đấng bề trên. Ông cụ có lúc rì rầm tâm sự với các con, anh ngồi đấy cũng được nghe:

- Thằng Tây, thằng Mỹ, thằng nào cũng mắt xanh mũi lõ, là ngoại nhân xâm lược cả. Nhưng nước mình  đất đai thì bé tẹo mà con người lại hay phản phé chành chọe lẫn nhau thì làm sao trọi được với người ta. Cụ Hồ đuổi Nhật, đánh Tây, bây giờ đánh Mỹ, người Việt Nam ai cũng kính phục. Không đi theo Cụ bằng chân thì lòng cũng hướng về ông Cụ. Nhưng còn cái chủ nghĩa cộng sản thì mình biết gì đâu, lại nghe theo xứ đạo, theo lời bề trên, chỉ thấy những việc trái khoáy chướng tai là mình sợ hãi, bỏ cửa nhà quê hương phiêu bạt vào đây. Tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa! Là con chiên mình chỉ biết tin ở Chúa. Là dân lành mình phải biết theo ý chính quyền. Thời nào người lương thiện cũng phải đổ bát mồ hôi đong đấu gạo thôi. Con người ta cũng như cây lau cây sậy, phải biết uốn mình theo chiều gió… Các con cháu mặc chiếc áo lính này cũng là một cách uốn mình thôi!

Anh sĩ quan trẻ đã như một người anh lớn dìu Hai Thương đi từng bước. Nhưng khi đã đứng trong đội hình chiến đấu thì phải theo lệnh người chỉ huy. Và khi con người ta cầm khẩu súng trong tay đứng trước kẻ đối địch với mình thì phải nhấn cò. Anh có bắn lên trời cũng không ai biết trong khi có kẻ đang nhắm vào anh. Anh Thiếu uý đã lên cấp đại uý và Hai Thương được anh đỡ đầu nên có từng bước đi chắc chắn. Chốn sa trường tên bay đạn lạc, rồi cũng có lúc mũi tên hòn đạn nó tìm mình… Viên đại uý toàn thân máu đỏ, mắt trợn trừng, miệng thở ngáp, bàn tay lạnh giá mềm nhũn trong tay anh. Hai Thương như con thú trúng tên, anh trút toàn bộ hờn căm về phía đối phương. Nợ máu phải trả bằng máu. Hận thù chồng chất thêm lên. Anh đã đứng hẳn về một phía không quay lại được. Đối địch với anh bây giờ là phía bên kia mà đã một thời cha anh ở đó và anh từng hướng tới. Bên đó bây giờ là một đội quân quyết tử với anh và một chính thể khe khắt mà những ngừơi như anh không tồn tại được. Người ta dậy anh cộng sản là bàn tay sắt, là bóp chết dân chủ tự do, là vô thần vô đạo, không cho ai thờ Chúa, thờ Phật nhưng lại bắt mọi người thượng ảnh thờ những ông tây, ông ta ngoại đạo, là chung ráo trọi, là không cho ai được làm giàu, là cùng khổ… Từ bờ bên kia bước sang bên đây, nhìn lại đã thành xa cách, là sự đối đầu không khoan nhượng được.

Ba Nhớ gặp một làn sóng khác, nó đưa anh hoà nhập vào dòng nước của những con kênh quê hương xứ sở. Cũng như người anh hai, Ba Nhớ bước ra khỏi lũy tre làng vẫn là cậu trai quê ít học nhưng bằng cảm giác trực quan, anh mang máng thấy lòng mình ngả theo một phía nên có dịp là đi. Dần dà anh mới xác tín được rằng bước đi của mình là thuận. Sống chung với những người cộng sản, anh thấy họ cũng gần gụi bình dị như cha chú của anh. Nói họ vượt qua được mọi gian khổ hiểm nguy vì họ xuất thân từ đói nghèo là không đúng. Anh biết không ít người bước ra từ hoàn cảnh giàu có cao sang nhưng họ tự nguyện dấn thân vì lòng yêu nước lưu truyền đã như một hành động tự nhiên. Họ sẵn sàng từ bỏ sự giàu sang sung sướng để tranh đấu cho độc lập thống nhất của tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân. Họ hướng tới xây dựng một xã hội tốt đẹp, công bằng, dân chủ, văn minh, gọi là xã hội chủ nghĩa… Kẻ nào cản trở con đường ấy là chống lại tổ quốc và nhân dân. Những người yêu nước thật lòng không chấp nhận.

Hai con người ấy đều từ một lòng mẹ sinh ra, bây giờ họ ngồi đối diện nhau và là hai thái cực đối kháng nhau quyết liệt. Tưởng như nếu không có sự hiện diện bằng xương bằng thịt của cha mẹ ở đây để nhắc nhở họ về một nguồn cội thiêng liêng với những luân lý đạo đức ràng kết dòng tộc, hẳn là họ có thể nhảy bổ vào cắn xé nhau để chứng tỏ sức mạnh lý trí của mình. Nhưng chắc chắn là ở một nơi nào đó họ không khoan nhượng.

Ông già co rúm lại, đau đớn nhìn con bất lực, rên rỉ:

- Tụi bay cầm súng để mang lại sự yên bình đoàn tụ thì xóm làng anh em còn hòa giải được. Chớ chúng mày tranh sự hơn thua ở chốn Thiên đàng – Địa ngục, là cuộc Thánh chiến rồi. Nếu có kẻ được người thua cũng tàn khốc lắm… Chiến tranh sẽ không bao giờ dứt. Chúng tao dù không muốn vẫn phải dính líu vào!

Hai Thương phẩy tay:

- Ai thờ chủ nấy. Thắng thua còn là ý của bề trên!

Ba Nhớ không chịu:

- Tự mỗi người quyết định vận mệnh của mình thôi… Vì thương ba má nên tui nói thiệt.

Bà Hai giận dỗi mà quyết liệt:

- Tao nhất định không chịu để anh em mày bắn giết nhau đâu!

Mắt bà mờ đi, nhấp nhoá bóng thằng Hai xăm xăm đi ra cổng trước trong khi thằng Ba lui ra phía sau nhà nhẩy xuống chiếc ghe áp bờ con rạch.

Từ ngày Hai Thương về làm đồn trưởng vùng này, lính đồn hàng ngày túa xuống các xóm ấp hà rầm suốt ngày – chơi bài với lũ lau nhau mới lớn, bắt bồ với các cô gái, cả với những bà giá, với các bà nạ dòng có chồng đi xa, rủ rê được một số trai ham vui hám tiền đăng lính, tổ chức được mấy cô gái ngựa trời vào tổ Phượng hoàng làm tai mắt. Có một số người ngã lòng đi kêu chồng con đang theo kháng chiến nhưng vì lâu dài mệt mỏi nản chí bi quan trước tình hình chiến sự ngày một ác liệt hơn. Hai Thương đi lại tự nhiên thăm hỏi bà con, nhiều khi có cả viên cố vấn Mỹ cùng đi. Anh không hung hăng rúng ép, sách nhiễu bà con như mấy đám lính trước đây. Anh biểu:

- Tui với bà con cô bác đây không trong thân tộc cũng người cùng xóm ấp, biết nhau tới tận thời ông cố, ông sơ. Bà con làm ăn cũng là để kiếm sống nuôi thân, vun đắp gia đình. Tôi là lính cũng vậy thôi. Tất cả chúng ta cần sự yên ổn, an cư lạc nghiệp, bà con thì được việc mình, tui cũng được việc với trên. Bom rơi đạn nổ ở đâu chớ ở đây tui không nổ súng vào ai và cũng không ai được quyền nổ súng vào tui. Vậy thì hai bên cần phải có thiện chí chân thành hợp tác với nhau!

Những cơ sở kháng chiến co lại nghe ngóng. Một số người bị bắt, người yếu lòng thì anh chiêu dụ dược, những ai cứng cỏi anh gởi lên trên nhưng với gia đình họ anh không hành hạ, anh biểu:

- Việc ai làm người nấy chịu. Chí hướng không ai bức ép được ai. Chỉ có điều muốn yên thân người khôn phải biết tuỳ thời!

Khí thế kháng chiến trong vùng chựng lại và vùng quốc gia kiểm soát mở rộng ra. Hai Thương được lòng cấp trên còn dân địa phương thì ngán. Có mấy trận đột kích của Quân giải phóng đều không thành, có khi để lại thương vong. Tiếng tăm của Hai Thương càng đáng nể.

Ba Nhớ điên đầu. Địa bàn của anh bị thu hẹp lại. Quần chúng hoang mang. Có mấy lần căn cứ của anh bị đánh điểm nhưng lần nào anh cũng thoát. Có tiếng rì rầm: bà Tám Rầu là cơ sở hai mang! Bà giữ lặng thinh, ai hiểu thế nào mặc họ. Con bà, đứa  nào bà cũng thương, cũng xót…

 

Một buổi chiều, trời vừa sập tối, Hai Thương cùng viên cố vấn Mỹ về nhà dẫn theo đám lính bận đồ rằn ri dã chiến, súng đạn cùng mình, lặng lẽ, kín đáo, lẻ tẻ từng người. Ông bà Tám bối rối, biết là có sự bất thường vì bấy lâu nay không có chuyện này. Bà Tám loanh quanh luẩn quẩn vào ra. Tên Mỹ vai khoác cây súng dài, tay lăm lăm cây súng ngắn nói như ra lệnh:   

- Từ giờ phút này không ai được bước ra khỏi nhà. Ai không tuân lệnh bắn bỏ!

Ông Hai tức điên lên quát:

- Đây là nhà tui!

Tên Mỹ cười khẩy:

- Vùng này nằm trong sự kiểm soát của quân lực Đồng minh!

Ông Hai vẫn lớn tiếng:

- Tôi không cho phép ai lấy nhà tôi làm nơi bắt bớ, bắn giết người ta!

Tên Mỹ không cười nữa:

- Luật thời chiến, không có vùng cấm với người lính khi cần thiết phải phòng vệ

Ông Hai vung tay lên:

- Không ai cần các ông phòng vệ cho chúng tôi!

Tên Mỹ cười gằn:

- Chính phủ của các ông. Tổng thống của các ông và cả ngài Trung uý con ông đây… Nếu không có chúng tôi họ không tồn tại!

Ông Hai quắc mắt nhìn con. Hai Thương tỏ ra lúng túng như người bị động. Viên cố vấn Mỹ khoát tay:

- Mọi người trong nhà vô trong kia. Ngoài này là của chúng tôi!

Ông Hai vẫn chống cự:

- Không ai ra lệnh được cho tôi ở trong nhà này!

Tên Mỹ hất hàm ra hiệu. Mấy tên lính tới kéo đẩy ông. Ông Hai vùng vằng thành cuộc xô đẩy. Hai Thương đứng đấy ngó trân bất lực. Bà Hai líu ríu cầm cây đèn níu tay kéo chồng vô trảng xê. Tên Mỹ nhìn Hai Thương nghiêm giọng:

- Dân tộc này ương bướng ngang ngạnh vậy thì làm sao có được tự do?!

Mấy tên lính lăng xăng đốt những cây đèn cầy sáng trưng nhà. Tên Mỹ ra hiệu tắt bớt đi:

- Cho ánh sáng như mọi ngày!

Y chỉ xếp vị trí từng người như người chỉ huy thật sự, cả Trung uý, Thiếu uý đồn trưởng, đồn phó cũng nhất nhất làm theo chỉ dẫn của y. Cuộc ra quân này y trực tiếp nhận chỉ thị từ Bộ Chỉ huy hành quân Mỹ. Không ai biết điều gì sẽ xảy ra. Viên cố vấn Mỹ phân trần:

- Chúng tôi biết người Việt các ông sống nặng tình. Ngay cả cái ranh giới Quốc gia – Cộng sản các ông cũng không rạch ròi nên các ông cứ nhởn nhơ trong khi người Mỹ chúng tôi đổ biết bao tiền của và cả xương máu nữa!

Y nhìn Hai Thương giảng giải:

- Từ ngày tôi và ông về đây như một cái đinh. Việt cộng có chùng tay nhưng không có nghĩa là ta đã thắng. Họ không lộ diện nhưng âm thầm chờ cơ hội. Ông không thích cộng sản nhưng ông cũng không có lý do gì căm thù họ. Cha ông không phải là cộng sản nhưng nặng lòng vương vấn họ. Cuối cùng sự nghiệp của các ông mà người Mỹ chúng tôi phải chết thay!

Y cười đắc thắng:

- Lần này họ táo bạo mượn con đường đi qua đây, kéo nhau xuống vùng lõm phía Nam hội nghị bàn cách nhổ cái đinh này. Ha… Ha… Cơ hội là đây…  Toàn những con cá lớn!

Y nói riêng với Hai Thương:

- Gia đình ông thật phức tạp… hai mang! Cả xứ Việt Nam cộng hòa này là vậy. Chúng tôi khó thắng… Nhưng là người lính, chúng tôi phải hết mình!

Y ghé sát hai viên đồn trưởng, đồn phó thì thào:

- Chúng ta không chỉ đón lõng ở đây. Một trung đội biệt kích tôi đã điều về phục sẵn ngoài bưng. Phải đặt bẫy con cáo, con chồn xa cửa hang của nó!

Hai Thương bồn chồn.

Ông bà Hai ngồi trong trảng xê mà lòng như lửa đốt. Ông bà không biết gì về việc này nhưng chắc là có chuyện. Bên đây nó bố phòng như thế chắc là bên kia khó thoát! Liệu có thằng Ba trong đám này không? Hai ông bà nhìn nhau không nói một lời nhưng hiểu lòng nhau.

Trời về khuya, trong cái yên ắng của đồng bưng, nghe tiếng con cú rúc: Cu…!  Cu…! Cu…!… tưởng như tiếng chim rời rạc kêu sương lúc một gần. Ông bà Hai đưa mắt nhìn nhau, lòng dạ bồn chồn, thở hổn hển… Nghe tiếng người lội nước… dụt dè… lõm bõm… xăm xăm… Đột nhiên ông Hai lao vọt ra, xô bật chiếc bàn, ly chén rớt loảng xoảng, cây đèn phụt tắt… Ông Hai lao ra phía vườn sau hét lớn:  

- Bớ… Người ta!… Bớ… Người ta!   

Cùng lúc tiếng súng ngoài bưng nổ rào… rào… cùng tiếng mìn claymore (định hướng) chói tai với ánh sáng rực loé lên. Tên cố vấn Mỹ rượt theo, khẩu tiểu liên trong tay y rung liên hồi vạch thành một đường đỏ rực đuổi theo ông… Mọi người nhốn nháo ào ra. Mấy chiếc đèn pin lấp loáng… Ông Hai nằm xấp… máu đẫm trên lưng. Tên cố vấn Mỹ dùng mũi giầy hất ông ngửa lên… Mắt ông mở trừng trừng, miệng ngáp ngáp trào máu ra… Tên cố vấn Mỹ dí khẩu súng vào mặt ông, miệng xì xồ:

- Vi Ci…! Vi Ci…!         

Khẩu súng trong tay Hai Thương chĩa thẳng vào mặt y. Y hốt hoảng há hốc mồm lùi lại… Hai Thương tọng nòng súng vào cái mồm toang hoác ấy. Những chớp lửa lóe lên với liên hồi tiếng nổ cùng tiếng anh thét lớn:

- Đù má mày… Vi Ci đây nè!            

Tên lính Mỹ đổ vật xuống như cây chuối bị đốn… Viên Thiếu uý đồn phó hớt hải thốt lên:   

- Ông Trung úy!… Ngài Cố vấn!…   

Sự việc xảy ra nhanh quá, chưa ai kịp phản ứng ra sao… Hai Thương đứng y như trời trồng. Tay súng anh giơ lên dí sát màng tang… Một ánh lửa loé lên cùng với tiếng nổ chát chúa… Hai Thương đổ xuống… đè lên cha. Bà Hai nhảy bổ tới choàng lên xác chồng và con:

- Ối… Trời… ơi…!                  

Cùng lúc tốp lính từ ngoài bưng lội ào vô kéo theo xềnh xệch một… thây người chết, ném vật ra bên ba xác người nằm đấy… Mấy đứa nhỏ lao tới… hét lên:

- Anh Ba! Má ơi! Anh Ba chết rồi!     

Bà Hai run rẩy đi từng bước đến với Ba Nhớ. Bà không còn hơi sức để khóc nữa. Giọng bà thều thào:

- Ông Hai ơi! Các con ơi! Chết hết cả rồi! –  Bà xỉu lăn ra đất.

Viên đồn phó điện về Trung tâm :     

- Một toán Cộng quân lọt vô ổ phục kích của quân lực Việt Nam cộng hoà. Cộng quân tan tác, tháo chạy, bỏ lại xác viên Quận trưởng và tên Việt cộng nằm vùng! Bên ta tử thương ngài Thượng sĩ Cố vấn Mỹ và ông Trung uý Đồn trưởng kiêm Đội trưởng Bình định nông thôn!

Y quay qua đám lính hăm he:            

- Tụi bay phải giữ mồm giữ miệng kẻo bị điều ra mặt trận là bỏ xác ráo thôi!

Hôm sau, trời còn mờ sáng, một chiếc trực thăng lạch bạch đỗ ngoài mí ruộng… Bọn lính vội vàng nhét xác viên cố vấn Mỹ vô bọc mủ, ì ạch khiêng ra máy bay mang xác y đi mất hút…  

HỒNG  NHAN  ĐA  TRUÂN:

Tôi được xem mấy tập ảnh lưu niệm của gia đình. Không thể ngờ rằng con thiên nga với đôi chân đi trên những ngón thẳng băng, đôi tay như cánh vỗ nhịp nhàng cùng với thân hình uyển chuyển uốn lượn trong bộ cánh trắng toát run rẩy giữa sương khói kia lại là bà già đang ngồi đây, trước tôi. Bà Mười thời trẻ đẹp thật. Nay tuổi bà xấp xỉ bẩy mươi nhưng dáng người còn thanh mảnh, cao sang, thấp thoáng bóng hình người nghệ sĩ danh tiếng một thời.

Khi theo đoàn quân tập kết ra Bắc, cô gái mười bảy tuổi tươi trẻ vui vẻ làm nhiệm vụ hộ lý trong một Quân y viện. Tuổi trẻ mấy ai không ham hát múa. Cô coi đấy là niềm vui chung, cho mình và cho những người chung quanh. Hơn nữa, với các anh thương binh, tạo cho họ một sự lạc quan thư thái cũng là một phần trong những công việc của người chăm sóc, làm sao để các anh quên đi nỗi đau thể xác và sự dằn vặt về nỗi nhớ quê. Ước vọng được trở thành người thầy thuốc trong cô cứ lớn dần lên nhưng cô lại lọt vào mắt xanh của Đoàn cán bộ văn nghệ đi tuyển chọn những người năng khiếu. Cô gái trẻ nhiều lần lên gặp cấp trên với những lời năn nỉ và cả những giọt nước mắt ngắn dài: 

- Được trực tiếp chăm sóc, chữa bệnh cho anh em đồng đội, bà con quê hương mới là nguyện vọng lớn của em. Ca múa cho vui thôi!

Cấp chỉ huy vừa động viên vừa dỗ dành:

- Kiếm người đi học văn hóa rồi học làm kỹ sư, bác sỹ dễ ợt nhưng kiếm người có năng khiếu văn công, văn nghệ thì đỏ con mắt. Thôi, ráng đi. Mai mốt lên sân khấu ca múa, các anh ủng hộ hết mình, vỗ rát tay, gào đứt cổ họng cho coi!

Thế là cô gái ngúng nguẩy cầm tờ quyết định tập trung về Đoàn văn công mà chẳng thèm chào ai.

Trong số lính văn công mới tuyển về, cô gái trẻ đẹp có dáng hình thích hợp và lại bộc lộ ra có năng khiếu nhiều về múa. Cô nhanh chóng tiếp thu những kỹ thuật cơ bản và nhập vai khá nhuyễn. Chẳng bao lâu nghệ sỹ múa Thu Nguyệt sớm nổi danh. Ngay cái tên của cô cũng do đồng đội vun đắp cho. Từ bé Mười Ngộ thời thiếu nữ thành Mười Nguyệt, đẹp như trăng cũng là trùng ý, trùng vần. Ánh trăng thu càng đẹp mê hồn.

Nghê sỹ Thu Nguyệt đặc biệt xúc động mỗi khi được về đơn vị cũ của mình biểu diễn. Niềm vui của đồng đội và của cô càng được nhân lên. Cũng còn một lý do nữa là có một phần quê hương cô ở đó – anh Tiểu đoàn trưởng pháo binh chính là em chồng của chị cô. Anh hơn cô cả chục tuổi nhưng tình quê hương, tình gia đình càng xa càng đậm đã làm cho cô gái trẻ khao khát tình cảm coi anh như chỗ dựa tinh thần. Giá như trong điều kiện bình thường, mối tình của hai người khó nảy sinh. Nhưng trong tình cảnh đặc biệt thế này, cả tập thể đồng hương, đồng đội hùn vô, cô gái dễ xuôi lòng. Và họ đã nên duyên chồng vợ.         

Những ngày vui hạnh phúc chẳng bao lâu. Anh Huỳnh Tư là một trong những cán bộ quân đội tập kết sớm được điều trở về miền Nam chiến đấu. Họ chia tay nhau khi trong cô đã nẩy một mầm sống mới. Nhớ thương và hy vọng. 

 

Nữ nghệ sỹ Thu Nguyệt sanh thằng Hoài Nam. Nó là hiện thân của tình yêu, của quê hương và của tình máu mủ ruột rà. Giữa con và công việc cô càng bề bộn thêm nhưng cô không thể đặt ra cho mình trách nhiệm nào nặng, nhẹ! Thật sự cô đã quên đi sắc đẹp và tuổi trẻ của mình. Thằng bé tròn năm thì cũng là lúc Đoàn văn công của cô được điều vào phục vụ nơi tiền tuyến. Tiếng gọi của quê hương sao thiêng liêng đến thế! Tiếng súng xa từ tiền tuyến vọng về không làm cho lớp người như cô run sợ. Thơ Tố Hữu đã nói hộ tiếng lòng những người con trai, con gái một thời :

Nếu con hỏi quê nào đẹp nhất

    Bóng dừa xanh quanh sóng biển lam

    Óng xanh lúa chan hoà mặt đất

    Xanh ngắt trời… Quê ấy: Miền Nam !

    Hãy nghe tiếng những người đang sống

    Như biển động ầm ầm tiếng sóng

    Và hãy nghe cả tiếng người xưa

    Như gió khơi reo vọng rừng dừa !

    Tất cả nói một lời : Giải phóng !

    Cứu Miền Nam ! Cứu Miền Nam !

    Ôi cửa Phật cũng dầu sôi lửa bỏng

    Dẫu thiêu mình làm đuốc cũng cam !

Nghệ sỹ Thu Nguyệt gởi lại đứa con nhỏ rứt ruột vào Trại nhi đồng miền Nam để cùng đồng đội ra tiền tuyến.

Mấy năm trời Đoàn văn công của cô phục vụ cho công cuộc mở đường ra phía trước. Con đường Trường sơn lại được chính các phương tiện truyền thông của đối phương đặt danh chính xác lưu truyền thiên cổ: Đường mòn Hồ Chí Minh. Con đường ấy ngày càng nổi tiếng, công khai, không còn là con đường mòn nữa. Nó ngày càng dài ra vươn hướng về Nam, chĩa thẳng vào buồng tim lá phổi của quân thù mà chúng không sao ngăn cản được. Các nghệ sỹ cũng là chiến sỹ. Họ cùng chịu chung mọi gian khổ của cuộc sống thường ngày cũng như mọi sự tàn khốc của chiến tranh. Cũng có lúc họ phải cầm súng trực diện trước địch quân. Không biết do sự ngẫu nhiên hay có sự che chở bởi phép mầu của đấng siêu nhiên mà người nghệ sỹ ấy đã vượt qua được tất cả những nguy hiểm và khốc liệt qua hàng ngàn ngày đêm gội bom tắm đạn… Nhưng tai nghiệt thay, cô lại bị những cơn sốt rét rừng đánh qụy, tưởng đã thành phế nhân!

Khi bệnh binh Thu Nguyệt được chuyển ra tới hậu phương lớn miền Bắc, những người thân và bạn bè khó lắm mới nhận ra cô. Đó chỉ là một thân thể teo đét, run rẩy, xanh xạm, trên đầu ba cọng tóc lơ thơ, ngây ngô nghễnh ngãng, đôi mắt trước kia tươi sáng long lanh là thế mà giờ đây đờ đẫn, mệt mỏi, lơ đễnh xa xăm không tập trung vào một người hay một vật nào. Dường như mọi chuyển động của cuộc đời này không còn tác động tới cô!

Cả năm trời trị bệnh cô mới dần lại sức. Khi đứa con nhỏ năm tuổi được đưa đến với mẹ thì nó lạ lẫm giương đôi mắt tròn xoe nhìn người đàn bà kỳ lạ, ốm tong teo, cái miệng cười làm cho khuôn mặt càng nhăn nhúm trùm quanh đôi hàm răng trắng xanh và đôi bàn tay run rẩy, dài ngoẵng, nhăn nheo như chiếc lá khô quắt queo lay lắc như hù dọa thì thằng bé hốt hoảng khóc ré lên, lùi lại, quay đầu ấp chặt vào cô bảo mẫu. Người mẹ đau đớn không còn sức nói, chỉ biết ngồi yên trên giường bệnh, đôi mắt nhoà đi sau làn nước mắt trước sự cảm thông của bao nhiêu đồng đội.

Thời gian lâu sau, thằng bé quen dần và không còn sợ hãi khi gặp mẹ! Nó có thể đứng im không phản ứng khi được người đàn bà ấy vuốt ve chiều chuộng nhưng dường như nó cảm thấy khó chịu phải đáp lại những câu hỏi của bà. Nó chỉ chịu kêu người đàn bà ấy là trong khi nó không chút ngập ngừng kêu với cả chục cô bảo mẫu. Cho đến nay trong cô vẫn nhói lên những cảm giác xót xa ngày nào về tình cảm thiêng liêng của người mẹ bị tổn thương. Cô càng khoẻ lên  thì công việc lại càng dồn tới nên việc gần gũi chăm sóc đứa con thơ bé không thường nhật dù cho cô có ráng đến mức nào. Tình cảm đứa bé với cô vẫn còn cách một khoảng xa. Cô tự an ủi đó cũng là sự hy sinh phải chấp nhận, so với sự mất mát của bao người thì cô còn có được chút hạnh phúc dù chỉ nhỏ nhoi.

Thế nhưng Hoài Nam lớn lên trong sự chăm sóc của cộng đồng. Khi biết nghĩ nó lại cảm thấy sự mất mát ấy là không thể nào chấp nhận :

- Có mất mát nào lớn hơn với một đứa trẻ là không được hưởng tình thương của mẹ?

Hoài Nam thành đạt, có địa vị và thường ở nước ngoài. Bao giờ vợ con cũng phải ở bên anh. Bà Mười thèm có đứa cháu ở bên để bà được an ủi và vui lên trước sự trống trải cô đơn của tuổi già. Nhưng anh bảo:

- Con thật không thể hiểu nổi sức mạnh tinh thần của mẹ tới mức độ nào mà mẹ đang tâm quẳng đứa trẻ thơ mới bi bô gọi má vào nhà nuôi trẻ để ra đi biền biệt… Tới lúc trở về thằng bé thấy người mẹ đẻ ra mình lại xa lạ hơn những cô giữ trẻ? Đứa trẻ ấy lớn lên trong lòng tập thể không khác gì sống trong trại lính! Má biết không, bao tháng năm ròng con ăn tập thể, ngủ tập thể, mấy đứa chung một tấm chăn, cùng chung nhau nỗi nhớ, cùng nhau đọc chung một lá thư để rồi cùng khóc, cùng nghêng ngang giậm chân tại chỗ gân cổ lên hát vang những bài ca hào hùng khí thế, cùng nhau rầm rập bước đều tới nhà ăn, thẳng tiến đến một mâm ghi số đã chia đều những khẩu phần ăn… Quen dần đi tới mức những tình cảm riêng tư, gia đình đã như là một thứ xa sỉ phẩm! Con không thể nào để cho mấy đứa trẻ này phải sống như con nữa ! Tất nhiên bây giờ không tồn tại cái tập thể hoang sơ kiểu ấy. Nhưng người ta lại nhồi nhét đầy vào đầu nó bao nhiêu những chuyện cổ tích như dã sử thì dù đã bước sang thiên niên kỷ thứ ba của loài người mà vẫn lập trình ra những người sơn dã!

Bà lặng đi cay đắng, không biết trả lời con như thế nào. Bà ngậm ngùi phân giải:          

- Mẹ thèm được như các con cháu bây giờ lắm. Nhưng thế hệ mẹ là phải giành quyền sống. Các con sẽ hỏi: Quyền sống là gì? Mẹ mong lịch sử sẽ không bao giờ lặp lại để mẹ khỏi phải trả lời các con điều đó! Để chiến thắng, người ta phải biết quên mình. Đó là suy nghĩ và hành động của đa phần những người con gái con trai thời mẹ. Đời người như dòng sông xuôi chảy một chiều. Mẹ cầu chúc cho con cháu không gặp những khúc sông như mẹ đã qua. Dù sao mẹ cũng không hề ân hận và mừng là đã vượt qua được khúc sông trắc trở nhất của đời người!

Nhưng khi còn lại một mình, từ đôi mắt đẹp và tinh anh của người nghệ sỹ già chảy ra những dòng lệ đục nặng nề. Những lời chì chiết của con cứ như những mũi kim đâm vào gan ruột…

Khi sức khoẻ cô bình phục, tổ chức sắp xếp cho cô đi học biên đạo múa ở nước ngoài với ý định đào tạo cán bộ nòng cốt để phát triển ngành múa mai sau. Thời gian cô đang tập trung học ngoại ngữ thì cả guồng máy rùng rùng chuyển động chuẩn bị cho một cuộc quyết chiến lớn lao. Đoàn văn công của cô lại nhận nhiệm vụ lên đường ra phía trước. Cô cảm nhận giờ phút lịch sử ấy thật lớn lao. Lòng dạ cô bồn chồn bứt rứt. Chuyện học hành có thể thư lại nay mai. Bây giờ là lúc cần sự cố gắng của mọi người. Cô không còn trẻ nữa nhưng cô vẫn còn khả năng đóng góp sức mình. Cô không đành lòng lùi lại phía sau trong khi đồng đội của cô lao ra phía trước. Cô học sinh văn công vắng bóng trên lớp học. Cô khoác ba lô trốn khỏi trường trở về đơn vị, nằng nặc xin được cùng đi.

 

Đoàn văn công theo một đơn vị hành quân tốc chiến bằng đủ mọi phương tiện tầu, xe, ghe, mảng, đi bộ tốc hành… Khí thế bừng bừng. Tới mỗi trạm dừng chân, trong khi bộ đội lăn ra nghỉ thì đội văn công phân tán nhỏ ra từng nhóm, từng người đến với từng tốp, từng căn hầm, từng lán trại múa hát động viên anh em bộ đội và cả những thương bệnh binh đang nằm dưỡng bệnh. Là nghệ sỹ múa nhưng cô còn tham gia đóng những tiểu phẩm kịch nhỏ vui nhộn và hát cả tân nhạc với ca cổ nữa. Một kỷ niệm cô mang nặng trong lòng: Sau một buổi trình diễn ngắn trong hầm bệnh, cô hỏi:

- Các đồng chí muốn gì nữa không?   

Một thương binh nằm trên võng nơi góc hầm đầy mình băng trắng, đụng đậy bàn tay ra dấu gọi. Cô tiến tới gần. Người thương binh thì thào, cô phải ghé sát miệng anh mới nghe được lời đề nghị ngập ngừng khẩn khoản:

- Cho em xin một… nụ hôn của người con gái!

Không một giây chần chờ suy nghĩ, cô xúc động áp sát má mình trên đôi môi khô nháp và người thương binh ấy không còn đủ sức hít vào cái hương vị đàn bà. Cô đặt môi trên đôi gò má nham nháp pha lẫn mùi mồ hôi chua và tanh tanh mùi máu, cô hít vào thật mạnh cùng lúc phát lên tiếng hôn Chụt!… Chụt!… Căn hầm lặng đi tưởng không còn một tiếng thở nào. Cô đứng lên, nhận ra người thương binh ấy ngắn ngủn… đôi chân không còn! Cô hai tay bưng mặt, nước mắt sối sả và nói thầm trong bụng:         

- Em ơi! Chị không còn là con gái nữa… Nhưng nếu em còn được sống, hãy nhận ở nơi đây tình thương của người chị gái. Nếu em phải nằm lại mãi ở chốn này thì em đã có được niềm an ủi rằng… Em ra đi mang theo nụ hôn chân tình của… một người phụ nữ!     

Chỉ có sức mạnh tinh thần mới cho cô vượt qua mọi khó khăn gian khổ và cả những cơn bệnh rập rình.

Mấy tháng hành quân thần tốc theo dọc dải Trường Sơn, cô đã đến vùng hậu cứ kháng chiến của miền Nam. Lúc này mọi người mới biết ta đang dồn mọi sức người, sức của vào một cuộc Tổng công kích, tổng khởi nghĩa khắp toàn Miền. Không khí thật sôi nổi và khẩn trương. Mọi người háo hức và phấn khởi mong được giao những nhiệm vụ gì nơi tuyến trước. Và một niềm vui thật bất ngờ: Cô được gặp chồng! Cô bàng hoàng không tin được cuộc trùng phùng đến mau như thế trong hoàn cảnh thật đặc biệt này dù là lòng cô vẫn hằng mong ước. Cả chiến trường rộng lớn mênh mông, mỗi người một nẻo, nhiệm vụ mỗi người một khác… Thế mà hạnh phúc chợt đến với cô…

Trung tá Huỳnh Tư đang từ người chỉ huy một đơn vị chiến đấu được điều chuyển về cơ quan Binh địch vận. Cô không nhớ thời gian mấy ngày ở gần nhau ấy hai người đã nói những gì ngoài buổi gặp đầu tiên, cô kể cho chồng chuyện người thương binh, rồi cô ôm siết lấy anh, trao cho anh những cái hôn ngợp thở trong lời âu yếm: 

- Những nụ hôn của tình yêu thật sự em vẫn dành cho anh!              

Hạnh phúc này thật lớn quá nhưng trách nhiệm của mỗi người với công việc chung thật nặng nề. Trong không khí ào ạt xuống đường, họ tất bật chia tay nhau hẹn ngày gặp lại trong thắng lợi vẹn toàn. Ông Tư đi theo đường hợp pháp vào nội đô chỉ đạo một tuyến tiền phương. Cô Mười phụ trách một tổ văn công theo bộ đội hành quân nhắm hướng thành đô hối hả xuống đường.

Cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân năm ấy, đã mấy mươi năm rồi nhớ lại, cô Mười vẫn hằn in trong đầu những hình ảnh hùng tráng, bi thương lẫn lộn. Lúc nó làm cô phấn chấn tự hào, lúc nó làm cô đau đớn xót xa và mệt mỏi. Cô đã thấy những tấm gương dũng cảm kiên cường của nhiều đồng đội trong cuộc chiến đấu đơn phương không cân sức mà sự hy sinh của họ quân thù nể phục. Cô cũng từng nằm dưới đống đổ nát hoang tàn lòng đầy khinh bỉ và căm phẫn nghe những giọng ồm ồm eo éo réo gọi chiêu hồi của mấy tên đầu hàng phản bội, mấy ngày trước còn lên giọng đắc thắng hùng hổ trước ba quân nhưng khi thất cơ nguy hiểm thì bi quan, sợ sệt, hèn nhát đầu hàng.

Các chiến sỹ văn công bám sát những chiến binh trong các chiến hào, trong các đội hình chiến đấu. Giữa những phút im ắng hiếm hoi tại chiến trường, họ có thể lúc cao giọng hát, lúc ghìm âm lượng hát vừa đủ cho mấy chiến sỹ im lặng ngồi nghe. Cô bảo:        

- Đừng tưởng nơi chiến trận đầy máu lửa là chiến sỹ mình thích nghe những bài hát bốc lửa căm thù, những bài nghe như tiếng kèn xung trận đâu. Trái lại, họ thích nghe những bài hát gợi nhớ về quê hương, nhớ về một tình bạn, tình yêu xa xăm nào đó!

Tôi may mắn đôi lần được nghe người nghệ sỹ múa già ấy, trong những phút giây xúc động, bà hát còn đúng âm độ những bài ca ấm áp tình đồng đội, tình người:… Mùa xuân về trong chiến khu…  Quê hương anh nước mặn đồng chua…

Và có những lúc người chiến sỹ văn công cũng phải nâng trên tay và nhấn cò khẩu súng. Đã không ít đồng đội của cô ngã xuống trên mình đẫm máu. Và chính cô phải trực diện trước kẻ thù.

Cô bị bắt vào đợt hai, tháng 5 năm 1968 tại một vùng ven đô thành Sài Gòn sau hai ngày liên tục chiến đấu, cầm cự và tử thủ trong những xóm phố đổ nát. Đơn vị cô tan tác. Người cô đầy thương tích.      

Cô cũng không giải thích nổi vì sao lúc ấy cô đã ngất lịm đi nhưng khi lũ lính xúm lại kéo lên và dựng cô đứng dựa vào tường thì cô từ từ mở mắt… Đám lính lùi ra… giương súng lên… Cô nghĩ là súng sẽ nổ và cô ngã xuống tại đây… Một sức mạnh nào đó khiến cô rướn người lên, mắt nhìn thẳng vào những họng súng đen ngòm và từ miệng cô bật ra thành lời: “Nơi thành đô trong ánh điện quang tiếng nấc nghẹn câu cười”… Cô không biết là mình đang hát hay là nói nhưng rõ ràng là cô dồn hết sức hết hơi lên ngực rồi bật ra cửa miệng và phát ra thành tiếng nghe như là tiếng hát vì những âm thanh trầm, bổng, ngắn, dài. Giữa quang cảnh hoang tàn tường siêu, gạch đổ, khói bụi nghi ngút sặc mùi thuốc súng và tanh nồng mùi máu ấy, cô rướn người muốn hét thật to lên: “Sài Gòn ơi ta đã về đây ta đã về đây”… Bỗng tai cô nghe rõ tiếng súng AK quen thuộc của đồng đội nổ nhịp ba tặc… tặc… tặc… và trước mắt cô những họng súng kia hạ xuống, đám lính tản ra ngồi nép vào những bờ tường. Có phải họ đang chăm chú lắng nghe một người con gái của miền Nam đang đứng đây trước họng súng quân thù giữa quê hương đổ nát thét lên: “Tiến về Sài Gòn ta quét sạch giặc thù / Tiến về Sài Gòn giải phóng thành đô”… Cho đến bây giờ cô vẫn chưa giải thích được chính những tiếng súng kháng cự lẻ tẻ mà quyết liệt ấy của đồng đội đã thôi thúc cô thét nữa đi, thét to nữa đi! Hay là chính tiếng thét của cô như tiếng hát ấy đã làm thức dậy những đồng đội còn lại đang kiệt quệ vì thương tật và đau đớn, họ cố giương súng lên cho tiếng đạn nổ hoà nhịp với cô như là tiếng nói cuối cùng bất khuất của những người chiến bại…

Cô thót ruột nhớ lại cảnh đám lính lôi cô ra mặt đường cùng với số đồng đội tả tơi thân xác bị kéo lê xềnh xệch và quẳng lên chiếc xe tải chồng chất ngổn ngang cả người sống lẫn người đã chết…

 

Nữ nghệ sỹ Thu Nguyệt đã thành tù binh. Đối phương cũng không mất nhiều thì giờ khai thác ở cô : Cô là lính văn công văn nghệ đi theo bộ đội ca hát để động viên tinh thần chiến đấu. Điều ấy cần gì phải giấu. Đối phương cũng dễ nhận ra và tin cô. Từ đấy cô đã qua hàng chục trại tù cả trong đất liền và ngoài hải đảo…

Một ngày nào đó, cô nhận ra trong mình lại mang một mầm sống nữa. Cô nhớ tới chồng và xót xa: Cuộc chiến đấu ác liệt như thế liệu anh có vượt qua được hay không? Lòng cô đầy những lo lắng và hy vọng.

Dần dà, cô liên hệ được với tổ chức trong tù. Cô không còn cảm thấy lẻ loi đơn độc nữa. Cô cảm thấy như đã được về với đồng đội của mình và phát huy năng lực của người chiến sỹ văn công. Các bạn tù nay dù lớn tuổi, lâu lâu gặp lại nhau vẫn còn nhớ hình ảnh người phụ nữ gầy guộc mà vẫn lộ ra những nét đẹp và duyên dáng hát hay, múa giỏi luôn làm đầu trò những cuộc vui trong tù. Có bao nhiêu những nữ tù kháng chiến từng không chỉ một lần dưới bàn tay nhịp nhàng như múa của người phụ nữ này đã cùng nhau hát: “Từng đôi chim bay đi / Tiếng ca rộn ràng cánh chim xao xuyến giữa mùa xuân / Gửi lời chim yêu thương tới miền Nam quê hương / Nhắn rằng ta ngày đêm mong nhớ”… Âm hưởng của bài ca trầm buồn, đầy thương nhớ mà vẫn tin vào một ngày mai tươi sáng.

Một đường dây ngầm liên hệ với bên ngoài. Nhiều tin tức vui buồn lọt tới các bạn tù. Cô nhận được tin chồng mất tích khi cô sắp đến ngày sanh nở. Chẳng lẽ những ngày vợ chồng bên nhau ngắn ngủi và chứa chan hy vọng ấy lại kết thúc bằng cuộc chia ly đau thương như thế?… Và một sinh linh mới ra đời sau những song sắt nhà tù…

Bé Hoài Thương lớn lên theo nghề mẹ và bây giờ cô đang là một nghệ sỹ múa nổi danh cả sắc lẫn tài. Nhưng bé không sao hình dung ra được thân phận một đứa trẻ sơ sinh sống như thế nào ở trong tù mặc dù cả một thời ấu nhi bé đã từng qua. Những lúc vắng vẻ chỉ có hai mẹ con thôi, cô ôm chặt bé vào lòng, tim gan quặn thắt nghĩ rồi ba đứa nhỏ liệu có thấy mặt con?! rồi tương lai con sẽ thế nào?!…

Khi bé Hoài Thương tròn tuổi mụ, cô liên hệ được với gia đình. Bà Tám tìm nhận về chăm nuôi đứa con người em gái của mình. Ngày chia tay con, mẹ ở lại trong tù, cô thẫn thờ, thơ thẩn không biết bao lâu. Liệu rồi sự chia ly này có như cuộc chia ly đau đớn với chồng?! Và đứa bé gái không cha, không mẹ số phận con sẽ ra sao?

 

Năm 1973, sau Hiệp định Paris, những tù binh của hai bên được trao trả cho nhau. Chiếc máy bay chở tù từ đảo về hạ cánh xuống sân bay Lộc Ninh. Những tù binh nữ thấy lúng túng khi những đồng đội nam chỉ giữ lại chiếc tà lỏn trên mình. Họ vứt bỏ đi tất cả những gì liên quan đến một chính thể luôn đối nghịch với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân hằng là mục tiêu cao cả để họ hiến thân. Nhưng rồi những bạn nữ tù nắm chặt tay nhau cùng hát vang lên bài Giải phóng miền Nam như một bài ca chiến thắng, như lời thôi thúc mọi người tiếp bước cho thắng lợi trọn vẹn ngày mai. Hàng ngàn người tù, hàng ngàn người đứng chào đón cùng hát vang lên. Nhiều khuôn mặt đầm đìa nước mắt sướng vui cho ngày đoàn tụ, cho thắng lợi này. Nó cuốn hút hàng chục phóng viên quay phim, chụp ảnh của cả chính phía bên kia vừa làm công việc của mình, vừa nhịp chân hưởng ứng bài ca chiến thắng:  “Ôi xương tan máu rơi / Lòng hận thù ngất trời”… Những người tù gầy guộc , ốm đau dìu nhau, nước mắt tràn trề mà mặt sáng ngời lên, tay nắm tay nhau say sưa hát mãi: “Đây Cửu Long hùng tráng / Đây Trường Sơn vinh quang / Thúc giục đoàn ta xung phong đi giết thù / Vai sát vai chung một bóng cờ”…

Nữ nghệ sỹ Thu Nguyệt lại trở về với nghề nghiệp cũ của mình. Cô từ chối sự ưu ái cho cô được nghỉ ngơi và học tập. Với cô, công việc lúc này không chỉ vì một mục đích chung, nó còn hướng tới một ước vọng riêng tư lúc nào cũng nhức nhói trong lòng: Được nhìn thấy chồng, con.

Chỉ sau ngày 30 tháng tư năm 1975 mấy hôm, trên chuyến xe đò từ Sài Gòn về lục tỉnh, một người đàn bà đứng tuổi, dáng thanh mảnh, da xanh mai mái, với bộ bà ba giản dị, chiếc túi nhỏ trên tay, đôi dép râu dưới gót, mắt đăm đăm nhìn các bờ tre, đồng ruộng bên đường… Xe chạy nhanh mà khách vẫn lộ vẻ sốt ruột bồn chồn. Ai cũng biết đó là một cán bộ giải phóng. Mọi người nhìn cô với con mắt kính phục mà e dè. Một cô gái mạnh bạo làm quen:      

- Thưa dì Hai… về đâu?           

Vẫn không quay lại, lời đáp nhỏ như nói với ai:        

- Tôi về… nhà tôi!                    

Và khi chiếc xe vừa dừng bánh, cô lao xuống trứơc khác hẳn với phong thái từ tốn của cô… Nữ nghệ sỹ Thu Nguyệt nôn nóng về quê tìm lại đứa con gái tội nghiệp mới sanh ra đã chịu thân tù. Cảnh quê đổi khác nhiều. Có chỗ trước kia hoang vắng nay thành nơi đô hội. Có những xóm ấp bây giờ hoang tàn xơ xác. Cô dò tìm nhận đường nhắm thẳng về nhà người chị Tám.

Hai mẹ con mới chợt nhìn mà như đã có ma lực hấp dẫn nào hút chặt lấy nhau. Tấm thân bé nhỏ nằm gọn trong lòng mẹ. Tiếng khóc của mẹ và con nức nở hoà trộn vào nhau, đau thương, sung sướng. Hai nét mặt ấy như đúc từ một khuôn ra. Bà Tám tiều tụy ôm chặt cả hai thân hình máu thịt của mình, vừa an ủi vỗ về vừa tức tưởi khóc theo. Bé Hoài Thương không xa lạ mẹ vì từ ấu thơ má Tám vẫn gợi cho bé bóng dáng, tình thương của người mẹ thật. Hai mẹ con nhìn nhau tưởng như mỗi người đều nhận ra mình.

Cả chục năm sau bà Mười mới gặp lại người con trai. Anh được ra nước ngoài học với tiêu chuẩn thiếu niên đỡ đầu của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam. Anh về nước với bằng cấp cao và thành đạt. Bà Mười ra sân bay đón con du học trở về. Dù đã nhìn hình con nhiều lần nhưng bà cũng không ngờ nổi con bà nó như tây ấy. Bà nhìn con sững sờ, không tin ở mắt mình. Con trai bắt tay bà. Tay bà lần trên thân hình nó như để nhận ra phần da thịt của mình… Bà gục đầu vào lòng con khóc không thành tiếng. Con bà tươi cười vỗ trên vai mẹ:

- Vui lên má! Đoàn viên mà! Còn chi buồn nữa?

Con trai bà sớm có địa vị xã hội và thăng tiến vòn vọt. Bà có khả năng sắp xếp học hành và công việc cho các con cháu. Bà thảnh thơi một bề. Làm nghệ sỹ múa thì cái sắc là hàng đầu mà bà thì đã luống tuổi rồi. Vốn kiến thức chuyên môn và bản lĩnh nghề nghiệp chỉ có hạn thôi. Bà tự nhận ra mình đã hết thời rồi. Người nghệ sỹ thực thụ phải biết rời khỏi sân khấu đúng lúc. Bà xin nghỉ hưu sớm. Bà về quê với chị. Tuổi thơ hai chị em sớm dựa vào nhau. Về già, vẫn hai chị em đỡ đần nhau sớm tối.

 

Bao lâu nay lòng bà canh cánh nỗi xót thương chồng. Bà cũng nghe nói ông Tư đã hy sinh và linh cảm bà cũng tin như thế mặc dù bà không phải là người duy tâm, mộng mị. Nhưng bà muốn biết ông hy sinh trong hoàn cảnh nào và thân xác đang gởi ở đâu? Đêm ngày trăn trở. Đầu bà luôn nhức nhói tưởng như lúc nào cũng có vật nặng đè lên, không sao cất đi được. Bà lặn lội xuôi ngược gần xa tìm kiếm tung tích của chồng. Nhưng ông hoạt động nội thành đơn tuyến. Lần dò theo đường dây đứt không để lại mối nào. Đơn vị ghi nhận Trung tá Huỳnh Tư (Bí danh Hoàng Tú) mất tích trong công vụ mà không thể lý giải xác minh để xét cấp bằng Tổ Quốc Ghi Công. Bà long đong vất vả nhiều, gan ruột héo hon. Bà lo sợ tuổi ngày một cao, không còn sức để bôn ba đây đó, lỡ khi nằm xuống mà nắm xương của chồng vẫn vùi nơi vô định thì bà khổ đau ân hận lắm.

Cho đến một ngày, nhờ sự mách bảo của bạn bè cùng cảnh ngộ, bà Mười quyết đi tìm chồng nhờ vào sự cứu cánh nơi cõi tâm linh. Tôi may mắn được là người tâm đắc nên bà đã cho xem “Nhật ký tìm chồng”, cho nghe băng ghi âm “Cuộc hội ngộ âm dương” qua một ông thầy ngoại cảm mà nhiều người đã từng biết tiếng.

Sau nhiều ngày kiên trì vất vả mới tìm đúng nơi ông bị vùi xác sau khi chịu đòn khảo tra đến chết trong tù. Dưới mảng tường lớn, cốt người mủn nát nhiều, chỉ còn từng phần không nguyên vẹn nữa. Duy hai chiếc răng cửa giả hàm trên niềng chặt với nhau là đặc điểm để nhận ra ông. Ngoài ra còn một còng sắt hoen rỉ và nuồi dây dù với mối thắt như là thòng lọng. Theo lời của ông thầy, bà cho vét lớp đất đen mủn hốt vô tiểu sành, chia ra từng phần: đầu, cặp răng, mình, tay, chân, đặt theo vào những mẩu xương vụn, chiếc còng sắt, khúc dây dù làm kỷ niệm cho ông.

Bà đưa ông về nằm trong nghĩa trang gia đình. Bà nói: “Anh em con cháu lúc sống vì những biến động đành phải chia ly. Nhưng rồi lá rụng về cội. Chừng nào từ biệt cõi đời này, tôi lại nằm bên anh”!

Cũng từ đấy, bà Mười hết chứng đau đầu. Vì cái tường không còn đè trên đầu ông Tư nữa? Hay vì bà đã cất đi được nỗi đau âm thầm dằn vặt bấy lâu? Trong chuyện này, khoa học hiện đại còn đòi hỏi lắm điều: phải lấy mẫu di thể để xác định ADN cùng với người sống chung huyết thống… Nhưng trong gia đình không có ai hồ nghi gì hết.

Và tôi cũng thoả mãn vì bà Mười kính mến của tôi bớt đi một mối dầy vò.

MỘT  KHỐI  TÌNH  CON :                                                    

Tôi kêu là dì Tư , chắc dì hơn tuổi mẹ tôi. Và tôi cũng biết tên thiệt của dì là: Huỳnh Thị Trông nhưng ở đây mọi ngừơi thường kêu “Bà Tư Ăng ten”, quen tới mức mấy người mới lớn không hề nghĩ rằng đó chỉ là biệt danh thôi. Người ta mặc nhiên coi đó là danh xưng đích thực của bà. Dáng người mập mạp, chắc nịch, bước đi mạnh như trâu. Thoắt đây, thoắt đó, lúc nào cũng nói lớn cười to. Mấy cha bạo mồm kháo nhau:       

- Xưa nay không đứa nào dám sáp gần cổ vì sợ… lộ!

Chuyện trên trời dưới đất, trên rừng dưới biển, ngoài bắc trong nam, bên tàu bên tây… chuyện gì bà cũng có thể bàn vô đáng nể lắm. Người ta bảo thời chiến bà phải là lính xe tăng thiết giáp. Lấy chồng phải cỡ mãnh hổ thiên lôi. Ấy vậy mà bà lấy chồng… du kích! Mãi tới lúc có con mà vẫn còn nhiều người nghi hoặc.

Khi anh Hai Thương, Ba Nhớ còn sống, cô em như con thoi thoắt lúc ngoài lộ, thoắt lúc trong bưng. Lính ngoài đồn, lính trong khu cô rành lắm. Thời nào cũng vậy, con gái lớn lên phải tìm chồng, con trai lớn lên phải tìm vợ. Mà con trai trong ấp xã này cứ lớn lên là biến, không đăng vô lính quốc gia thì cũng tìm vô du kích. Mấy cha lớn tuổi buồn tình ra ngồi quán rượu tốp ba tốp bảy sừng sừng rồi kháo:

- Con gái thời nay lớn lên khó lấy chồng! Em nào kiếm được một mẩu là mừng hú! Mà rồi vô phước lại giường không chiếu lạnh!                   

Bà giá các cỡ cả bầy. Đàn ông xóm ấp trố mắt, nuốt nước miếng ngó mấy thằng áo đen (Bình định nông thôn) ở mãi đâu về quậy! Bọn này đi, bọn khác đến, có khi để lại mấy cái bầu ngày một lớn ra không còn giấu ai được nữa. Nghe mấy cha tào lao đàm tiếu, mấy bà chạm nọc chửi độc:

- Đàn ông xứ này vô dụng!                

Mấy ông tức khí càng nhậu dữ. Ông nào liều mạng xáp vô thì đã tan cửa nát nhà lại chuốc thêm họa vào thân!

Cô Tư 16 – 17 tuổi, đầy đặn mỡ màng. Lính trong đồn lấy nhà cô làm nơi tụ họp vui vẻ nhưng vì là em ông đồn trưởng nên không đứa nào dám làm quá cỡ. Bà Tám dò ý con, cô Tư lắc đầu quầy quậy:                

- Đám này cà chớn! Đứa nào cũng năm thê bảy thiếp, con rơi con rụng đùm đề. Đến kỳ lương một lũ đàn bà con nít bám theo đít hành quân. Tiền bạc vơ vét của người lại ném vào rượu trà, cờ bạc, điếm đàng. Không dưng mình rước của nợ về cho thêm cực!

Lúc anh Ba còn, cô thường vô cứ tin tức và tiếp tế cho anh. Có chuyện gì lạ về lại thì thào với má. Những lần hai má con cùng vô là một dịp để mấy chú lính của anh Ba tụm lại chuyện như pháo nổ, hát hò xôm lắm. Bà để ý một thằng cứ lăng xăng phụ việc cho nhỏ Tư, hai đứa rù rì gì đó, con gái bà cười mím chi… Về nhà cô rủ rỉ với má:

- Mấy anh lính Bắc hiền khô lại có học, hay làm thơ, nói chuyện vui lắm kìa!

Bà biểu:                                             

- Chui cha… Nghe tiếng Bắc líu ríu, tao hổng biết tụi nó nói chi!     

Con bà cười :                                     

- Thì giọng Nam mình cũng vậy! Nghe riết quen hà! Mấy ảnh biểu lúc mới vô nghe người Việt mình nói cũng hổng hiểu chi, vậy mà cứ gật đầu cười đại. Gặp mấy cha nói tầm bậy cũng cười nên họ nói chọc là tự nhiên như người Hà Nội đó!            

Bà Tám tròn mắt:           

- Vậy cái thằng cứ líu ríu với mày là Bắc kỳ đó hà con?

Bé Tư chúi đầu vào vai má. Bà thương con:         

- Này, chớ nghe lời đường mật của đám đàn ông con trai rồi bị nó dụ khị đó con!

Con gái rụi đầu đặt trong lòng mẹ. Bà thở dài chép miệng:               

- Tội nghiệp! Mấy đứa trong đây lâu lâu còn thấy cha mẹ… lỡ có sao thì cũng gần quê hương. Chớ mấy thằng ở ngoải vô như đi biệt tích, sống chết, gian khổ làm sao… cha mẹ, quê hương ai biết !                 

Thấy con hay nhắc chuyện trong cứ anh Ba, bà chia sẻ với lòng con gái nhưng còn phân vân:  

- Coi chừng nghe con! Nó ở mãi đâu sao biết được chuyện cửa nhà gia thế nó?

Cô Tư giải thích:                                

- Bên Cách mạng người ta có kỷ luật lắm chứ bộ!

Mẹ nhìn con ái ngại:                          

- Có con mà gả chồng xa. Một là mất giỗ, hai là mất con!                 

Con gái nói an lòng mẹ:                     

- Con ra điều kiện chứ bộ!                 

Bà thở dài :

- Con gái lấy chồng rồi như con cá lọt vô nơm… Càng quẫy đạp càng đau đớn!

- Con bắt phải ở đây với má chứ bộ!

Bà nhìn con thương xót:                    

- Muốn được má lại muốn được cả chồng! Sao con tham dữ vậy?     

Cô Tư cười hí… hí… Bà thăm dò:     

- Mà chuyện tới đâu rồi? Anh Ba mày có biết không?

- Con … sợ… lắm!

Cô ôm chặt má, nước mắt long lanh…        

Má thở dài nghĩ làm thân đàn bà con gái thời ly loạn này cực lắm… Mà sao nó cứ đằng đẵng bám hoài… Cứ như là nghiệp chướng truyền đời.

Sau ngày Hai Thương, Ba Nhớ mất, gia đình bà thành mối nghi kỵ với cả hai bên. Phải mất thời gian lâu bà Tám mới qua được cơn choáng quá lớn ấy. Bà dần tỉnh lại… và nhận ra rằng Bé Tư đã thành chỗ dựa chính của cả nhà này. Nhưng con bà cũng khác đi nhiều. Nó bỗng nhiên ít nói, buồn so, mặt mày ủ dột đăm chiêu mà lòng dạ nó lại như bồn chồn bứt dứt. Nhiều lúc thấy con gái mắt đỏ hoe, bà hỏi sao nó cũng làm thinh lảng tránh. Tới lúc không dằn lòng được nữa, bà vừa giận dỗi vừa vỗ về con:

- Giờ má chỉ còn trông vào con mà mày cứ như treo lơ lửng giữa trời thì má biết sống làm sao?    

Cô Tư ôm mẹ thổn thức:                    

- Muốn sống được đâu phải chỉ riêng mấy má con mình. Chung quanh người ta xa lánh! Đám lính đồn cũ bị điều đi ráo rồi. Thằng Đồn trưởng mới về biểu nhà mình Việt cộng nằm vùng nên cứ hăm he! Hôm con vô bưng, từ xa đã có người ra nói bắn tin biểu trong cứ chuyển đi ráo rồi! Dù có chuyển đi thì cũng lòng vòng quanh đó chớ đâu. Là ý không muốn cho mình vô trỏng! Họ nghi mình ăn ở hai lòng!        

Bà Tám chỉ còn biết tự thở than:                 

- Rầu thúi ruột! Làm người dân bây giờ cực hơn con chó! Được bên này thương thì khổ! Được bên kia thương thì nhục! Mình cứ như chiếc ghe nát giữa vàm, có ai cần quá giang chịu lụy chốc lát mà lòng vẫn sợ. Mặc cho sóng to gió lớn chông chênh không ai thương xót mần chi!

Một buổi lúc trời vừa chạng vạng, lẫn trong đám xuồng ghe chở người, chở lúa từ đồng sâu về ấp, có một chiếc xuồng tam bản quẹo vô rạch bà Tám Rầu. Chiếc xuồng bơi chậm lại nghe ngóng rồi từ từ thận trọng cặp bờ. Cô Tư nhìn ra thấy hai người đội nón xùm xụp, bận đồ trắng nhưng trông dáng lạ. Cô giật mình hỏi lớn:

- Ai đó cà?                                

Một người tay xách cây súng nhảy phóc lên bờ bước nhanh vô nhà. Mấy mẹ con hoảng hốt chụm lại với nhau. Người lạ nhìn khắp nhà, rỡ nón xuống, nói vừa đủ nghe:

- Thím Hai không nhận ra con sao?

Anh xoay người sẽ gọi :

- Bé Tư !      

Cô Tư líu ríu kêu lên:                         

- Anh Út!

Vội quay qua má giải thích:

- Anh Út Bình chỗ anh Ba mình đó má!      

Út Bình dựng cây súng bên vách, quay qua nhìn Bé Tư. Sau chút vui bột phát, cô Tư lấy lại tự chủ, nguẩy mặt quay đi. Bà Tám sau phút đường đột, nhìn thẳng vào anh lính trẻ trút ra những tấm tức bấy nay:        

- Chồng con tao chết không đứa nào đến thăm hỏi chia sớt khổ đau! Tụi bay còn bầy đặt nghi ngờ nữa chớ! Con tao tao thương nhưng tao không làm hại ai. Lòng dạ tao sao, có Trời - Đất biết!    

Út Bình tháo chiếc dây nịt đầy trái đạn đặt lên bộ ngựa rồi đứng lặng thinh hứng nhận tất cả những lời trách móc của mẹ người thủ trưởng. Bé Tư nhìn anh vừa giận vừa thương. Cô quay qua má nài nỉ bà già đừng xài xể anh nữa, tội nghiệp! Chờ cho bà má đã qua cơn xúc động nặng nề, anh thanh minh:          

- Anh Ba hy sinh là một mất mát lớn, tụi con đau lắm! Nhưng tình hình phức tạp quá, má ơi! Căn cứ bị động liên miên. Một số mất tinh thần chao đảo. Các cơ sở hoang mang nằm im nghe ngóng. Không biết xác minh thiệt giả làm sao!

Anh tiến tới nắm tay bà má:

- Tụi con cũng hiểu anh Hai. Anh chót lỡ trớn rồi, không dám quay lại nữa! Chung quy lại là má gồng lưng gánh cả hai vai!

Giọng anh thật chân thành:

- Bây giờ tụi con là con của má, được không?

Anh quay qua Bé Tư :

- Nhà mình vẫn là cơ sở chí cốt của Cách mạng, của chúng con!                

Cô Tư giả bộ còn giận dỗi quay đi.

Bà Tám trùng nét mặt, thở dài, trở về thực tế:      

- Giờ tụi bay tính sao?                       

Anh Út đến ngồi bên bà má, như nói với mẹ mình:

- Phải nắm lại các cơ sở. Phải lập lại đường dây!  Anh đi đến chủ động đặt tay trên vai bé Tư thân thiết:

-  Phải làm cho mọi người tin là Cách mạng vẫn còn, vẫn trụ vững ở đây!          

Cô Tư ngước nhìn anh, xốn xang trong lòng, giận thương lẫn lộn

Khi Út Bình trở ra, cô Tư lễ mễ mang theo một bao nặng đặt xuống xuồng. Đây là những thứ lương thực, thực phẩm cần thiết cho anh em phải sống lâu ngày cách biệt. Út Bình chần chờ, mãi lâu mới run run được mấy lời:       

- Nhớ… Tư quá!                       

Bé Tư giục:                                        

- Thôi… anh đi… đi! Bữa nào em mang đồ tiếp tế vô. Coi chừng đó… Bọn nó rình rập, lùng sục bất tử lắm!

Chiếc xuồng lướt đi trong đêm để lại tiếng mái chèo khua nước nhè nhẹ… Cô Tư cứ đứng đó nhìn mãi vào bóng đêm… Nơi xa sâu ấy là bưng.

 

Gia đình bà Tám là cơ sở đầu tiên dám liên hệ với anh em kháng chiến còn lại ở đây. Nhưng tình hình vẫn căng thẳng lắm, chưa biết lòng dạ mọi người ra sao. Cô Tư lặng thinh nghe ngóng. Bọn lính trong đồn đắc thắng huyênh hoang đã trốc rễ Việt cộng khỏi vùng này. Đây là Khu trù mật an toàn của Việt Nam cộng hoà. Bọn tỉnh, quận phô trương thành tích thừơng tổ chức rình rang những cuộc tiếp rước đại biểu tứ phương đến tham quan, uý lạo. Có cả nhiều đoàn quốc ngoại như Thái, Úc, Mã, Phi, Đại Hàn, Đài Loan… và ở mãi tận đâu đâu. Mỗi lần đón rước là xe cộ đầy đường, lính tráng rầm rập, máy bay ì xèo… Nhà nào cũng phải treo cờ. Dân chúng lại phải tập trung hò reo, phất cờ, hô khẩu hiệu mỏi miệng: Ủng hộ Quốc gia! Đả đảo Cộng sản!… Người ta lặng lẽ kín đáo nhìn nhau thăm dò… Mấy đứa gặp thời ra mặt làm tàng. Mẹ con bà Tám thấy mà đau ruột. Những lần vô cứ gặp anh em, cô Tư kể lại chuyện này, mắt đỏ hoe, cánh mũi phập phồng. Mọi người ngồi nghe tức muốn trào máu họng. Nhưng lực lượng của mình mới nhen nhóm lại còn mong manh quá, không thể manh động được. Chủ lực thì ở mãi đâu đâu…       

Cuộc họp Quân – Chính địa phương quyết định phải có một đòn gây được tiếng vang cảnh tỉnh bọn đương thời đắc thế để bà con thấy lực lượng kháng chiến vẫn còn khả năng áp đảo quân thù. Cái bót Ngã ba đầu xã là mục tiêu phải đánh. Cô Tư được giao nhiệm vụ điều nghiên.

Lính trong đồn không lạ gì nhà bà Tám – nó vừa ở tiền tiêu lại vừa có hai cô con gái ngon lành. Mỗi khi xuống nhà chúng được bà Tám dễ dàng, các cô rộng rãi đãi đằng. Mỗi lần qua bót, mấy chú lính canh thường kêu cô Tư lại kiếm chuyện nói dóc chơi. Cô Tư vui vẻ bắt chuyện hàng giờ. Lúc từ chợ về, cô còn ghé vô gởi chút quà gì đó cho mấy anh bị cấm trại giải sầu lai rai. Cô nắm chắc quân số, trang bị vũ khí, lịch trình ruồng bố và số người còn lại mỗi khi lính đồn đi dã ngoại hành quân.

Ban chỉ huy quân sự quyết định đánh đột kích táo bạo bất ngờ, chiếm lĩnh đồn trong thời gian ngắn rồi rút gọn, gây tác dụng trấn áp tinh thần bọn tề ngụy tay sai, tạo dựng thanh thế cho Mặt trận giải phóng ở địa phương…

Một ngày, vào buổi xế trưa, có năm người lính hành quân dã ngoại trở về bót, đứng nghêng ngang giữa ngã ba đường, vẫy chiếc xe lam đang bon bon rồ tới. Chúng đuổi ráo người ngồi trên xe và giục đồ của họ xuống. Bọn lính nhảy ào lên mang theo lỉnh kỉnh những súng ống, đạn dược. Điều ấy là chuyện thường với đám lính hành quân. Tài xế được lệnh phóng nhanh về hướng bót.

Chiếc xe lam vừa giảm tốc độ chưa kịp dừng bánh, cả tốp lính nhảy ào xuống, bắn xối xả vào đám lính canh và ập vô đồn. Cuộc đột kích do Út Bình chỉ huy thật chớp nhoáng bất ngờ. Mấy tên lính thủ trại ngơ ngác, hoảng loạn, không kịp phản ứng gì, nháo nhào bỏ chạy tán loạn, hầu như bị tiêu diệt gọn. Một tên lính thông tin ôm máy bộ đàm rút vào boong ke kêu cứu. Quân du kích thu gom súng đạn rút nhanh khỏi đồn. Út Bình và một chiến sỹ nán lại đặt trái phá, gắn kíp nổ phá tung lô cốt. Họ ra sau cùng thì vừa lúc lính Chi khu đến tiếp cứu bít hết đường lui. Hai người cố thủ trong đồn, chống trả quyết liệt. Bọn lính kéo về lúc một đông, kêu cả trực thăng chi viện, công phá tới tấp vào đồn. Trong tiếng đạn nổ rầm rầm, tiếng máy bay ầm ỹ, tiếng loa đe dọa gào thét kêu gọi đầu hàng thì tiếng súng kháng cự thật lẻ loi, yếu ớt. Dân quanh vùng lấp ló trong nhà ngó qua phía đồn lo lắng. Tiếng súng dần thưa thớt… lẹt đẹt tiếng một như người hết hơi… Đám lính thúc ép đun đẩy nhau lò mò từng bước luồn vào trong cái đồn đổ nát. Một người… Hai người… Một tốp đã lọt vô… Im ắng quá… Chắc là chết ráo cả rồi!… Vài ba tốp lính hùng hổ xông xổng nhào vô, súng trong tay nhăm nhăm nhả đạn… Bỗng từ trong đồn vang ra tiếng thét dõng dạc oai hùng:

- Quân giải phóng sinh Bắc tử Nam không biết đầu hàng!

Tiếp ngay là một tiếng nổ U…  ù…   ng!… Khói bụi bốc lên đen đặc. Cùng lúc cái tháp canh lênh khêng nhô cao trên lô cốt sụp đổ xuống. Cái bót kềnh càng nghênh ngang bao lâu nay giờ chỉ còn là một đống gạch ngổn ngang nghi ngút khói… Mặc cho những tiếng kêu la thảm thiết từ bên trong vọng ra, không một tên lính nào dám mò vô nữa!

Mãi sáng hôm sau, với đủ mọi phương tiện xe xích, xe ủi… đám lính mới dám thu dọn chiến trường. Cả chục xác chết được lôi ra. Xác lính thì dễ nhận vì thây còn nguyên vẹn. Có hai cái xác tanh bành, đen thui khói đạn, được tìm thấy ngay nơi hố trái nổ dưới chân lô cốt, không còn vóc dáng hình hài… Chắc chắn đó là hai người lính giải phóng quân cảm tử… bị lôi ra ném giữa đường ngay cổng bót. Người qua lại ngoảnh mặt chạy ào đi. Từng tốp lính kéo tới ngó coi. Có tên giương súng nhắm vô đó hầm hầm xả đạn… Hai cái xác càng thêm bấy nát!

Mấy ngày sau xác chết phân huỷ bốc mùi. Người sống chung quanh không chịu nổi. Dân chúng rủ nhau kéo lên gặp viên chỉ huy đơn vị lính đóng dã chiến chờ xây đồn mới, xin được mai táng hai thi thể không người nhận. Mẹ con bà Tám lãnh đem về chôn cất vì vườn đất nhà bà rộng rãi lại ở sâu mãi trong đồng, còn như ngoài lộ thì đất chật người đông…

Trước kia hai ngôi mộ ấy cũng được xây phần nhưng không có mộ bia dù rằng gia đình biết rõ đó là hai chiến sỹ Út Bình và Năm Thiết. Hai anh đều là lính đặc công chủ lực về chiến đấu ở đây rồi bị thương, đơn vị gởi lại địa phương chăm sóc. Khi lành vết thương, cũng không ai biết đơn vị đã chuyển đi đâu, hai anh nhập vào bộ đội địa phương này. Là người lính thì gặp giặc ở đâu cũng phải đánh thôi… Mãi sau hòa bình mới dám làm mộ chí nhưng nào phân biệt được ai. Dì Tư làm chung một bia mộ đặt giữa hai người:    

Liệt sỹ ÚT BÌNH – Quê Miền Bắc.

Liệt sỹ NĂM THIẾT – Quê Miền Trung.

 Hy sinh ngày 20 tháng 5 năm 1970 tại bót Ngã Ba xã Lương Hòa

Đã mấy lần địa phương đặt vấn đề di hài cốt về nghĩa trang liệt sỹ. Dì Tư khăng khăng:

- Một trong hai người nằm đây là chồng tui. Vợ không bao giờ muốn xa chồng. Con cũng không muốn xa cha dù chỉ là nấm đất. Hai người ấy là đồng đội sống chết có nhau bao lâu nay rồi. Cứ để các ổng nằm đây. Ngày giỗ, ngày tết mẹ con tui lo hương khói chu toàn cho cả hai người!

Cái nỗi đau nhức nhói ấy cho đến nay mẹ con dì Tư vẫn không san sẻ được cùng ai.

 

Anh Út Bình hy sinh đã đành một phận. Nhưng anh để lại cho người tình một nỗi đoạn trường. Ngày ấy, anh chết đi rồi, hai mẹ con dì thật là điêu đứng. Bọn tề xã ấp hoài nghi rình rập trong khi mẹ con dì hoang mang bối rối. Vào một buổi đêm khuya khoắt, Bé Tư trằn trọc, thổn thức ôm choàng lấy mẹ:

- Má ơi… Con… lỡ… “bị” rồi! 

Bà Tám bật ngồi dậy. Linh cảm cho bà nghĩ tới chuyện không hay dễ xảy ra với đời con gái:

- Mà nó là thằng nào?              

Cô càng nức nở:                       

- Là anh Út đó!                         

Nó thương thằng ấy thì bà đã cảm nhận được từ lâu rồi, bà cũng ưng thôi. Nhưng ngặt nỗi bây giờ nó đã thành người thiên cổ. Con bà chưa gả mà đã thành góa bụa! Càng xót xa cho con gái, bà càng tủi phận mình. Chồng chết. Các anh nó chết. Bà cũng không lo được cho những đứa con còn lại. Bà không trách gì nó. Con trai con gái thậm thụt đi về hôm sớm, nhà dưới vườn sau, bờ kênh bãi vắng… thì làm sao giữ được khi chúng nó đã thương nhau. Nhưng bây giờ giữa làng, giữa nước thế này! Nhà này xưa nay vẫn là nền nếp. Bia đá lâu rồi cũng mòn nhưng bia miệng còn ác nghiệt hơn. Làm sao tránh được những con mắt xăm soi dòm ngó, những cái lưỡi như  rắn độc của thế nhân đây? Sau những ngày đêm suy nghĩ vắt óc, bà quyết định đưa Bé Tư lên thành phố. Trên đó bà đã gởi cả Năm Chờ và Sáu Hòa để lánh xa nơi rốn bom biển đạn này, lỡ có sao gia tộc này còn có người nối dõi. Chỉ còn lại mình bà, ráng sức già quên đi mệt mỏi. Bà chỉ khấn cầu Trời Phật cho bà sáng đôi con mắt, chặt đôi đầu gối để bà lo cho cháu cho con. Ấy vậy mà có kẻ ác phao lên rằng: Bé Tư ở quê đã lộ mặt rồi, giờ chuyển lên thành phố hoạt động nội đô!

Nhà bà luôn bị dòm ngó, kiểm tra không lúc nào yên.

Chừng hơn một năm qua đi, cô Tư trở về mang theo bé gái Bắc Phương. Hai mẹ con phải kháo lên rằng người ta sanh con hoang bỏ chợ, cô Tư thương tình xin nó làm con. Nhưng gái son với gái một con làm sao qua được mắt người đời. Thế là làng xóm lại rầm rĩ lên. Mấy cha cà chớn lai rai quán nhậu tối ngày, lúc sừng sừng bốc lên, cha nào cũng tranh làm tía đứa bé, có lúc gây gổ um sùm tới mức muốn dộng nhau cho đã. Mấy mẹ cà chớn đâm lời châm chọc:

- Thời nay gái khôn cần chi phải lấy chồng. Chỉ một phút qua đường là có con bồng con mang. Khỏi phải ôm cái hũ hèm cho nhọc nhằn thân xác!

Ngày hòa bình, bé Bắc Phương đi học cần có giấy khai sanh. Dì Tư ra Ủy ban khai sự thật người cha của bé chính là liệt sỹ Út Bình. Nhưng hỏi đến họ thì dì không biết. Dì lấy theo họ của mình: Huỳnh Văn Bình. Người ta cười mà ghi theo nhưng lòng nghi hoặc.

Tưởng dì Tư ồn ào vậy mà không thiếu lúc trầm tư  buồn thế sự. Dì biểu:

- Điều mình buồn nhất là cái lòng mình ngay mà người đời lại bẻ queo đi theo cái lòng của họ!       

Gặp người tâm đắc, dì thở dài tâm sự:        

- Ngày ấy thương nhau đâu có dễ như bây giờ. Mỗi người lại trong một nghịch cảnh éo le. Thương nhau thầm lén vậy thôi. Ngoài này mà biết, nó sẽ hành đủ kiểu, làm sao sống được. Trong ấy mà hay, ảnh sẽ bị kiểm điểm vì quan hệ với gia đình phức tạp dù cho nhà mình vẫn là cơ sở để họ đi về. Nhìn nhau thấy cái người, cái nết thì ưng chớ đâu có thì giờ mà đi tìm với hiểu. Nghe người ta kêu thứ Út, tên Bình là biết rồi, hỏi thêm cái họ làm chi. Người ta kêu tên chớ ai kêu họ. Quê hương thì cũng hỏi, biết là tỉnh Hà Bắc rồi đó nhưng huyện, xã, ấp, xóm với thôn có nhắc tới đó nhưng đâu có ghi vào sổ sách thì làm sao nhớ được. Mà có ghi thì cũng không giữ được. Cái thân mình còn không giữ được nữa là… Với lại mới thương nhau đâu biết chuyện gì sẽ tới. Cái sống với cái chết cận kề. Thoáng mới gặp nhau đã lại phấp phỏng lo ngày mai có còn được gặp nữa không… Nên đã thương nhau thì dẫu sao cũng chịu… Tưởng rủi lại hên. Ảnh chết đi vậy mà còn có người hương khói. Con nào mà không nhớ tới cha! Rồi là con, cháu nó vẫn nhắc tới ông, tới cố. Mắc cười con Bé Hai, lúc còn đi học, nghe tui kể chuyện hồi xưa, mỗi khi gặp tui ảnh thường hát: “Chị Hai xinh… chị đứng một mình… xinh lại càng xinh”… có nghĩa là ảnh biểu tui ra đứng một mình với ảnh đó… Con bé nó biểu: Vậy cha đúng là người Bắc Ninh rồi! Ở Bắc Ninh hàng năm có hội Lim quan họ! Nó chưa biết mấy anh lính Bắc miệt quê, anh nào không biết mấy câu ca chèo và mấy câu quan họ, cũng như người miệt vườn sông Tiền, sông Hậu mình ai mà không biết mấy câu ca cổ. Hai ba lần tui biên thư về tỉnh nhờ quân đội, chính quyền tìm giúp may ra mẹ con bà cháu gặp nhau, mẹ con tui cũng mãn nguyện mà bà già nếu còn sống thì cũng được an ủi phần nào. Mãi lâu sau mới nhận được lá thư hồi âm :

Kính gửi chị Huỳnh Thị Trông

và cháu gái Huỳnh thị Bắc Phương !

Ban chính sách Tỉnh đội đã nhận được thư của chị nhưng thật đáng tiếc là chúng tôi không thể giúp chị đạt được điều mong muốn! Hà Bắc trước đây là tỉnh sáp nhập nhưng nay lại chia về như trước là tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Bắc Giang. Các đồng chí bộ đội đi chiến đấu ở khắp các chiến trường A – B – C – D rất đông và nhiều đồng chí thay tên đổi họ. Nếu không biết gốc gác thì không thể dò tìm được. Nếu như sự hy sinh của đồng chí Bình có xác thực của đơn vị thì chị và cháu liên hệ với Ban chính sách địa phương qui tập hài cốt về Nghĩa trang liệt sỹ theo qui định của Bộ Thương binh  Xã hội.

Chúng tôi rất thông cảm và chia sẻ tâm trạng với chị và cháu !

Chào đoàn kết.             

Nhưng ai là người xác thực anh Út là chồng của tui, là cha của cháu đây?! Mình đến với Cách mạng bằng cái tình nhưng bây giờ nhà nước xử với mình theo cái lý! Chỉ tội nghiệp cho con bé Bắc Phương thôi, lúc nhỏ thì không dám nhận cha, lúc lớn thì có cha đó nhưng không ai thừa nhận!

Những ngày giỗ, tết dì ra thắp nhang cho cả hai ngôi mộ. Dì thường thơ thẩn bùi ngùi đứng đó rất lâu. Là hai nấm đất giống nhau. Là hai ngôi mộ như nhau với một tấm bia chung ghi tên hai người đàn ông ở hai xứ sở xa nhau nhưng nằm sâu dưới ba thước đất kia là hai con người có thịt có xương, có cha mẹ nhà cửa quê quán hẳn hòi, có tên có tuổi rõ ràng mà bấy lâu sao nỡ hững hờ im lặng vô tư đến thế trước lời tìm gọi thiết tha ròng rã của người vợ goá bất hạnh khổ đau:

- Anh ơi! Anh nằm đâu ? Cho em được khóc với anh một tiếng!

 

THÂN  CÒ  LẶN  LỘI :

    Con cò lặn lội bờ sông

    Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non…

Câu ca dao cổ ấy thấm vào ký ức tuổi thơ của tôi và lúc gặp bà Tám Rầu tự nhiên nó bật ra… Con cò ấy như vận vào bà… Thân già gầy guộc, quắt queo mà đôi chân vẫn cứng, đôi mắt vẫn tinh để lại đêm ngày lặn lội... thân cò!

Bà mất mẹ từ khi còn thơ bé. Ông cha như người bất đắc chí lúc nào cũng trong tâm trạng cảm khái và u ẩn. Từ nhỏ bà đã phải thay mẹ quán xuyến mọi công việc từ trong nhà cho đến ngoài đồng, chăm lo cha và em bé gái. Ông thầy Năm Hớn chết trong đồng sâu trước mắt chị em bà như một hảo hán Lương sơn bạc. Cái nộ khí xung thiên của cha trong những giây phút cuối của đời người cứ hằn sâu trong ký ức của bà như  một mối hận khôn nguôi. Mối hận đó có lúc  được nguôi ngoai đi, lòng bà dịu lại. Ấy là thời ông đi theo kháng chiến đánh Tây. Bà vừa đảm đang gánh vác công việc nhà cả hai bên, vừa tần tảo nuôi con, dành trọn tình cảm cho chồng. Tên mỗi đứa con đều gắn lòng bà với những biến động của cuộc đời: Thương – Nhớ – Trông – Chờ – Hoà – Hận ! Và mối hận ấy có lúc nó tấy lên nhức nhói. Ấy là thời gian ông bị cầm tù và khi ông được thả về trong tâm trạng u uất dày vò. Tội nghiệp con bé Hận. Nó nằm trong bụng mẹ khi mối hận trong lòng bà nhoi nhói. Quãng đời ngắn ngủi non thơ mà nó phải chứng kiến những điều ngang trái, những mối sầu uẩn trong lòng mẹ cha. Và cái chết của nó là tột đỉnh nỗi uất hận của bà.

Các con bà lớn lên như những mụn măng trồi lên ở vườn sau. Một lúc nào bà chợt nhận ra chúng đã thành những cây tre. Rặng tre già cằn cỗi không đủ sức chắn gió cho khóm tre non. Nó ngả nghiêng theo gió chiều này, nó nghiêng ngả theo gió chiều kia. Trong những lúc bão giông thân tre già cũng răng rắc gẫy. Thằng Hai, thằng Ba lớn lên gặp lúc cảnh đời bức xúc khác nhau, mỗi đứa đi theo một hướng. Nhưng dù đi theo con đường nào thì chúng cũng trở về với mẹ… Và chúng đã gặp nhau trong tan nát bi thương. Bà đã làm hết sức mình để che chắn cho chúng nó, để ngăn cách chúng nó ra rồi hoà chúng nó lại nhưng kết cục là cái nỗi đau thương tột đỉnh ấy ập đến với bà! Giá như Trời thương cho bà cùng qụy xuống lúc đó với ba cha con nó thì cũng như cho bà trút đi được gánh nặng cuộc đời. Nhưng Trời không cho chết, chớ lấy ai gồng gánh phần còn lại của nhà này. Vậy là bà còn phải sống, cứng cáp, dẻo dai… chỉ có thân hình teo tóp lại.

Sau ngày Hai Thương chết ít hôm, viên Thiếu uý phó đồn dẫn đến một người đàn bà còn trẻ với đứa nhỏ trên tay. Người ấy đứng giữa nhà chìa thằng bé cho bà:

- Đây là con của anh Hai Thương. Tui không nuôi nổi nó. Tui đem nó trả về nhà nội!

Viên thiếu uý lấm lét gãi tai:

- Tụi con chứng nhận rằng mỗi kỳ lương tháng, cô em đây có mang thằng nhỏ này tới để nhận trợ cấp của cốtrung uý đồn trưởng Hai Thương!

Thằng bé chưa đầy năm, trố mắt ngơ ngác nhìn mọi người. Con mắt bà nhướng to ra ngơ ngác cũng như nó. Nhưng người mẹ trẻ đã ấn thằng bé vào bà. Nếu hai tay bà không kịp đưa ra đỡ lấy thì nó rớt xuống đất rồi. Dường như thằng bé cảm nhận được cái thân phận bạc bẽo mong manh của nó sắp bị người mẹ bỏ rơi, hai tay nó chìa ra níu chặt và nép vào bà. Người kia chỉ chờ có thế, kịp rút tay lại và quay quả bỏ đi không một lời chào. Viên Thiếu uý ái ngại bứt rứt trước tình cảnh trớ trêu ấy, đứng nán lại an ủi bà:         

- Bác ơi! Bác cứ coi như giọt máu của anh Hai để lại!

Bà thở dài vỗ vào lưng thằng bé như chấp nhận một sự đã rồi. Bà hỏi bâng quơ:

- Nó tên chi?

Là mẹ thằng bé hay là thằng bé? Nhưng viên Thiếu uý trả lời đại đi:

- Tụi con vẫn quen kêu nó là thằng Cu! Vậy bác Tám kêu nó là thằng Cu Rớt đi! Không biết Trung uý có bao nhiêu đứa…  rớt?! 

Viên Thiếu uý kịp dừng lại, có thể trong đầu y cùng một suy nghĩ như bà mà không ai nỡ nói ra: Biết đâu chừng nó cũng là… rớt của ai? Nhưng thôi, bây giờ nó rớt vào... tay bà!

Bà Tám bồng thằng nhỏ ra khấn trước mồ con trai:

- Hai ơi ! Nếu nó đúng là giọt máu của con thì cũng là phước cho nhà này còn có người nối dõi ! Bằng không thì từ bi hỷ xả bao bọc một sinh linh cũng là việc phước ở đời. Con cứ nhận nó đi và phò hộ cho nó nên người. Má sẽ chăm nuôi nó lớn khôn để sau này có người hương khói thay con!

Với thằng Cu Rớt, bà Tám vừa là nội vừa là mẹ nó.

Lại một người đàn bà âm thầm lặng lẽ tới tìm bà. Sau một hồi nhìn quanh quẩn, hỏi những chuyện đâu đâu, người khách ghé tai bà:

- Này chị! Tôi có tin Mười Ngộ !

Bà Tám nhìn thẳng vào mắt người lạ thăm dò:

- Các người muốn gì nữa đây?

Người ấy xích lại gần:

- Chị tin tôi đi! Tôi không phải là bọn ăn chìm đi khiêu khích đâu! – Bà móc ra mảnh giấy nhỏ nhàu nát giúi vào tay bà. Bà Tám đẩy tay người lạ:

- Tui không biết chữ. Chị đọc coi chơi! 

Bà kia nhìn ra phía đường rồi kéo bà Tám lại gần:

- Chị cảnh giác quá ta! Em chị đang ở tù! Chị nghe đây...

Bà Tám run bắn người lên, giật lấy tờ giấy nhưng tay bà run quá, nước mắt cứ ròng ròng chảy ra. Bà khách cũng rưng rưng cảm động, cầm lại tờ giấy, sụt sịt đọc từng lời rời rạc:

Chị… Tám ơi !

 Con bé Mười Ngộ em chị đây! Em nhớ và thương chị lắm! Em muốn nhìn chị một lần thôi! Người này sẽ nói rõ cho chị biết!

Em Mười.

Bà Tám không giữ gìn gì nữa, khóc nấc lên từng hồi…

Hai chị em gặp nhau ở nhà lao. Mười mấy năm rồi…  Chị nhìn em… Em nhìn chị… Võ vàng – Già nua – Tóc bạc – Ốm đau – Xanh xao – Run rảy… Thương xót lẫn nhau, mỗi người nghiến chặt hàm răng lại để người kia không biết rằng mình cũng lòng đau ruột thắt… Em bà bị đày ra đảo! Bà Tám nhận bé Hoài Thương về thay em làm mẹ nó. Rồi em bà có trở về không? Con bé này cũng là một giọt máu của mình đây. Càng thương em lại càng thương cháu. Càng thương cháu lại càng nhớ em !

Đến bây giờ Hoài Thương vẫn kêu bà là má. Chị có hai má: Má Tám và Má Mười. Trong nhà này không ai có suy nghĩ phân biệt đâu là má ruột đâu là má vú của chị. Nhưng có một điều mà ai cũng biết là suốt tuổi thơ vất vả bơ vơ, ở bên bé lúc nào cũng là má Tám. Má Tám chăm bẵm, chở che cho bé và cho bé cả niềm tin để đợi chờ sẽ có một ngày được ngã vào lòng má ruột của mình.

Bà Tám nhớ mãi ngày trái phá nổ banh cái bót Ngã Ba kia thì Bé Tư – con gái bà xụp xuống. Người nó lạnh ngắt như cái xác chết trôi…  Và những ngày nó thẫn thờ phờ phạc như cái xác không hồn…  Rồi một đêm nó báo cho bà biết trong bụng nó đang có một bào thai! Mà cha đứa nhỏ đã thành người cõi trên với cái xác phàm đang nằm trong dãy mộ vườn sau! Để che mắt thế gian, bà tạm cho con gái lánh xa đi, bao bọc cho nó giữ cái thai được thành người… Ngày cô Tư mang đứa bé từ thành phố trở về, nó cười lộ ra mấy cái răng trắng bong. Bà tay dắt con gái, tay bồng cháu ra khu mộ, khấn chào ông ngoại, cậu, dì…  Đứng trước hai ngôi mộ không tên, bà nắm hai tay đứa bé chắp lại và nói to lên:

- Các con đều chết vì nghĩa cả, lòng má thương đều. Nhưng tình nghĩa vợ chồng chỉ có một thôi. Má cho con Bé Tư làm vợ thằng Bình. Con về đây mà nhận vợ nhận con đi!

Cả hai người đàn bà một già, một trẻ lòng đầy đau đớn, nước mắt tuôn trào ra trong khi đứa bé giương đôi mắt đen tròn sáng trong nhìn đời thật vô tư, nhe răng cười như những hạt nắng sớm mai reo rắc trong vườn.

 

Trong sáu người con thì chỉ có cậu Sáu Hòa được sanh ra trong niềm vui lớn nhất của ông bà và cũng là của chung làng xóm – Ấy là vào dịp có Hiệp định hoà bình năm 1954 – Hòa bình cho xứ sở. Hòa bình cho cả xóm làng. Bao nhiêu gia đình hòa hợp. Ông cùng chia sẻ với bà cái tên Hòa vì nó trùng hợp ý ông. Đó là mong ước của bao thế hệ. Nó là hy vọng của quá khứ và bây giờ bao người tưởng như đã nâng nó trên tay. Không ai ngờ được rằng từ Giơ neo đã thành nỗi gieo neo cho bao nhiêu người lương thiện… Và ngay cả cậu Sáu Hòa cũng bị chìm trong bao ngày tháng gieo neo trốn chạy định mệnh mà vẫn không thoát khỏi cái chết oan trái khi vừa bước qua tuổi thiếu niên.

 Hai Thương, Ba nhớ chết rồi, Sáu Hòa còn độ tuổi thiếu niên đã thành con trai độc nhất của gia đình. Bằng mọi cách phải giữ gìn cho nó tránh được những rủi ro, ấy là trách nhiệm thiêng liêng của bà với chồng và gia tộc. Con trai thời chiến đang độ tuổi này, nhất là ở vùng quê trước sau rồi cũng phải khoác lên người chiếc áo lính thôi – không ở bên này cũng phải ở bên kia! Đời lính chiến ra đi rồi cha mẹ mấy khi thấy lại mặt con. May chăng có đứa trở về thì cũng không còn nguyên dạng .

Bà gởi con trai lên thành phố và cho con chị Năm Chờ lên đó trông em.

Con trai nhà quê nghèo chạy lên phố trốn lính thì quanh năm ngày tháng chui lủi xóm này xó nọ, mái nhà góc bếp chớ đâu dám tới chỗ chợ đông phố xá. Đứa nào ham vui kìm chân không nổi chường mặt ra chỗ người ta đô hội trước sau gì rồi cũng lọt vô các cuộc bố ráp ngày đêm. Có đứa tặc lưỡi xung vào đủ các sắc lính sau những lời mời mọc chèo kéo ngọt ngào với những viễn ảnh một anh trai nghèo bỗng dưng trở thành thần tượng. Cô chị Năm Chờ học việc lúc thợ may, lúc thợ dệt kiếm tiền phụ mẹ nuôi em. Việc lo miếng ăn không mấy gì nặng nhọc. Gạo, khô, mắm… từ quê chuyển lên, tằn tiện, nín nhịn lần hồi cũng qua. Nhưng nặng như cái gông trên cổ là việc phải lo lót chạy vạy hết năm này tháng nọ từ ông nhỏ cho đến ông to, từ ông xa cho đến bà gần. Nhiều lần cậu Sáu cùng đường phải kịp thời cúng biếu mới được thoát thân. Có lần bí quá, cậu Sáu nhảy đại vô cái lu đầy nước, cô Năm đậy vội lên trên tấm ván, vét túi đặt lên tờ bạc Đức Thánh Trần, mặt cô tái mét, tim đập thình thình như vó ngựa phi, miệng lập bập cầu khấn Chư Thánh linh thiêng phù trợ cho cậu em thoát nạn … Viên sỹ quan cảnh sát dã chiến tảng lờ, ghé tai cô cười bả lả:

-  Cô em… 500 Đồng một mạng người, quá rẻ! – Y kéo quân đi còn ngoái lại nhìn.

Sáu Hòa từ lu nước chui ra, người ướt như chuột đồng mùa nước nổi, mặt tái xanh vì ngạt thở, làu bàu:

- Chịu hết nổi rồi!

Cậu Sáu vọt về quê với mẹ. Con trai đến tuổi đăng lính, nhà lại mẹ goá con côi, làm sao bịt được tai mắt mấy ông xã, ấp. Nếu cho con vô trỏng theo chân anh Ba nó thì rồi sẽ lại mất con! Ruột gan bà nôn nao cào xé. Bà bày cho con cách trốn lính tại nhà…

Ở ngay nhà mình mà cậu Sáu lúc nào cũng như con chuột chũi. Cặp giò chỉ quanh quẩn trong nhà, không bước qua cửa ra tới ngoài sân. Thấy động là thụt ra sau vườn, lủi vội vô bưng. Lúc kẹt quá đành phải chun xưống hầm bí mật (HBM) trong buồng mẹ. Những lúc bố ráp liên hồi, cậu ở lỳ trong bưng như người dân đi làm trong đồng sâu. Nhưng lúc trời chạng vạng, mọi người lục tục quay về ngoài ấp thì cậu Sáu lấm lét lân la quẩn quanh với mấy anh em du kích. Cùng quê hương cả, đâu ai có lạ chi ai. Người ta không nói ra nhưng không mặn mòi và lảng tránh. Mấy anh trốn lính bể bạc dễ thành chỉ điểm, chiêu hồi... Cậu Sáu tự ái và buồn tủi, có lúc tấm tức với mẹ già:

- Má ơi! Má muốn cho con sống mà con lại không được sống như người! Thôi thì chết già chết trẻ ai cũng phải chết một lần. Má cho con theo đại một bên đi!

Bà Tám thương con, năn nỉ nó mà giọng bà chìm trong nước mắt:

- Con thương má đi! Cả dòng tộc này chỉ còn độc mình con. Suy cho cùng thì nhà mình cũng chẳng lỗi đạo gì. Ba mày cũng già nửa đời người lặn lội, đi tuy chẳng cùng đường cũng vì thời thế, ai hiểu sao mặc họ nhưng lòng ông không bỏ chí ông. Anh Ba mày coi như đã làm tròn phận nó với nhà với nước. Anh Hai mày trong lúc cùng bức lạc đường nhưng nó vẫn biết điều phải quấy. Gan ruột mình bầy tỏ như thế được rồi, không phải hổ ngươi với ai hết! Kẻ nào khinh chê mặc xác nó! Nhiều lúc má muốn chết còn sướng hơn là sống như đầy ải thế này. Nhưng cha con nằm xuống rồi, má phải thay ổng lo cho các con, lo cho cả gia tộc nhà này. Con mà lỡ làm sao thì má phạm trọng tội với vong hồn cha con đó!

Cậu Sáu vì thương má mà sống nhưng rồi cậu cũng không sống được. Cậu là người lạ len vô ở lẫn trong căn cứ thì ai dám chỉ cho cậu rành rọt địa hình đường đi lối lại. Một bữa cậu lọt vô vùng tử địa! Trái gài nổ theo dây truyền. Cậu Sáu chết gục ngay bên bờ kênh mắt chưa kịp nhắm!

Nghe tin dữ, bà Tám chết đi sống lại. Cô Tư vô chở xác em về. Bà Tám không còn sức để khóc con nữa. Không biết bao lâu, cứ ngày ngày đêm đêm bà luẩn quẩn loanh quanh bên mộ người con trai út, miệng bà lẩm bẩm rì rầm:

- Con ơi! Má muốn con sống để thay cha trả nghĩa ông bà mà Trời vẫn bắt con đi!

Bà không dám trách Trời, chỉ còn biết than thân trách phận mình bạc phước!

Cậu Sáu bỏ về quê. Cô Năm còn ở lại trên phố. Cô cặm cụi làm việc, tằn tiện, dành dụm phụ giúp mẹ lo mọi việc dưới quê. Con gái lớn lên, cho dù có thiếu thốn về vật chất chịu dần rồi cũng quen đi nhưng tình cảm thì nhu cầu ngày một lớn. Ở đâu cũng phải có bạn bè.

Viên sỹ quan cảnh sát tình cờ gặp gỡ ngày nào quen đường, quen xóm, quen người…  tìm đến lân la. Chuyện lúc đầu chẳng là gì nhưng dần dà quen mặt, biết tên. Tình cảm mới chẳng là đâu nhưng chuyện dài dài nghe cũng lọt tai. Lúc đầu chỉ một người nghe nhưng lâu rồi bắt chuyện. Cô Năm chưa kịp phân biệt được đâu là tình yêu, đâu là tình cảm gái trai. Con gái xa nhà không người sát sao chỉ bảo khác nào như cửa nhà không khoá trái cài then, mặc cho gió sau, gió trước lùa vào thì dầu là chưa đến lúc hoa đào cười với gió đông nhưng chuyện lay dèm chuyển chướng cũng xảy ra.

Bà Tám biết được thì sự đã rồi. Càng thương con gái, bà càng tủi thân trách phận mình không bảo bọc được cho con. Xóm trong, xóm ngoài to nhỏ thì thào!… Con gái ở thành lấy chồng không là lính hay cảnh sát thì còn lấy ai? Thằng đàn ông dầu già hay trẻ miệng dẻo quẹo những lời bùi ngọt, con gái xiêu lòng, đến lúc trao thân gởi phận mới chợt tỉnh ra phận mình thê thiếp thì ván đã đóng thuyền rồi! Bà tặc lưỡi, thở dài an ủi rằng số kiếp đàn bà muôn thuở như tấm lụa đào phất phơ giữa chợ! Thế là con gái bà an phận… Dù sao thì con nó cũng có cha, mẹ con nó cũng có nơi nương dựa.

Sau ngày 30 tháng 4 năm ấy, từ tỉnh đến quê, xã trên ấp dưới nháo nhào. Mấy kẻ làm tàng huyênh hoang thuở trước giờ như chó cụp tai. Mấy nhà có con cháu đi lính quốc gia giờ lấm la lấm lét. Số người đi kháng chiến hai mùa lác đác trở về. Nhiều nhà sửa sang bàn thờ, khói nhang nghi ngút toả quanh di hình thân nhân bỏ mình vì nước. Công việc hôm nay ngút ngàn bề bộn, người ta bao nhiêu cũng thiếu, lại một lớp người mới nhảy ra. Mấy thằng cùng trốn lính với con bà may được thoát thân, giờ bỗng thành người trong sạch, lăng xăng chạy ngược chạy xuôi…

Cô Năm kín đáo trở về vào một buổi chiều trời vừa sập tối. Chỉ một đêm thôi, mẹ con, chị em thì thào sụt sịt với nhau. Chồng cô Năm không dám ra trình diện, giờ cũng đang chui lủi, đến nhà ai người ta cũng sợ, bây giờ tính cách vượt biên trốn ra nước ngoài thôi. Dì Tư khuyên em gái:

- Mày cứ biểu nó ra trình diện đi, có ai giết chóc gì đâu! Dầu có bị tập trung đi học tập cải tạo ít bữa rồi về. Khó dễ, lâu mau là tự nơi mình. Hòa bình rồi, mọi người tính chuyện làm ăn yên ổn, gia đình xum họp, chớ sao còn cảnh bầy đàn tan tác, tha phương cầu thực mần chi?

Cô Năm tuyệt vọng:

- Dầu rằng họ không bắn giết mình nhưng rồi là cứ đói khổ mà chết dần mòn… Đi thì cũng là cách liều thân của kẻ cùng đường… Thôi đành “một là cá ăn con, hai là con ăn cá” như người ta vậy!

Bà Tám thương con đành để lòng thêm rầu nát vậy thôi, chớ thuyền theo lái, gái theo chồng, phận đàn bà mười hai bến nước, bỏ cha bỏ mẹ thì được chớ sao rứt được con ra mà đứa con không cha cũng là vô phước!

Lúc sớm mai trời còn nhập nhoạng, con gái bà ra đi như người chạy trốn trong cái dáng nghiêng ngả bước thấp bước cao… Bà đứng lặng như cây khô đầu ngõ nhìn theo cái bóng con xiêu vẹo mù mờ tan biến dần đi mà ruột bà như đứt ra từng khúc!

Từ ấy bà bặt tin con! Con bé nó sống nặng tình, thương cha mẹ, anh chị em nhiều lắm. Mấy chục năm rồi, nếu Trời cho sống, nó phải trở về nhìn mẹ thăm quê… Như cô Công Chúa Huyền Trân thuở trước, dẫu lên ngôi Hoàng Hậu xứ người mà vẫn từ bỏ ngọc ngà nhung lụa lần tìm về quê mẹ… Bà càng não lòng nghĩ cảnh con cháu bà gởi thây nơi góc bể chân trời giữa muôn trùng sóng nước! Ngày cô Năm ra đi, bà lấy làm ngày giỗ. 

Không có ngôi nhà nhỏ ở vườn sau nhưng cô có chỗ bên cạnh cha anh trên trang thờ trong nhà – Một thiếu nữ chừng 16 – 17 tuổi, dáng người nhỏ nhắn, hai má bầu bầu, đôi mắt thật hiền… dáng dấp một bà mẹ thật phúc hậu nếu cô còn được sống.

Bà Tám vẫn bảo đời người như giấc chiêm bao. Hơn bảy mươi năm tưởng ra thì dài mà nó chỉ như một chớp mắt thôi. Lúc chưa kịp lớn, bà gánh cái tang cha. Trên con đường đời bão giông thác lũ vẫn mình bà hứng chịu tang chồng và năm cái tang những đứa con dứt ruột… Những nỗi đau ngày nào của họ vẫn luôn nhoi nhói trong bà, chưa ai oan giải được. Cuộc sống cứ phơi phới đi lên, người ta dần quên đi những khổ đau bất hạnh của những lớp người… Nhưng bà vẫn còn đây, nó vẫn là một khối đau nặng trịch trong lòng, không thể san sẻ cùng ai mà cũng không ai dám nhận. Trời đày ai nấy chịu! Ngay cả khi chết đi, bà vẫn mang theo nó xuống mồ. Vui sướng thì mau quên. Khổ đau thì nhớ mãi…

Người bà khô héo quắt queo nhưng đôi mắt còn tinh và đôi chân còn chắc. Tuy vậy lâu nay bà Tám ít ra ngoài. Bà chỉ quanh quẩn trong nhà, sân trước, vườn sau – đấy là thế giới của bà. Giờ đây trong tiềm thức của bà cái sống cái chết thật mơ hồ. Chồng con bà vẫn còn hiển hiện nơi trang thờ kia, còn vương hơi ấm nơi góc bàn này và đang mơ màng chợp mắt nơi vườn sau dưới rặng tre kẽo kẹt vi vu gió thổi đồng sâu. Những ngày mưa to gió lớn, không ra thăm mộ được, bà bồn chồn đi lại trong nhà, bứt rứt nhìn ra khu mộ. Ngôi mộ nào cũng được bà cho tô xây cao ráo khang trang, lại có cả mái che như một ngôi nhà nhỏ, nhưng bà vẫn se sắt trong lòng: Mưa to gió lớn thế này ướt ráo!Và bà thắc thỏm:Liệu có biết đường vô nhà không? Bà không nghĩ tới cái chết cận kề. Bà bận tâm mong mỏi một điều: Tao chết đi rồi, liệu mấy đứa có canh chừng mả mồ và hương khói nữa không? Xem ra xấp nhỏ bây giờ lơ là với những người khuất bóng !

Mỗi khi về thăm nhà, được ngồi bên bà Tám, tôi có cảm giác như được sự chở che. Bà ít nói nhưng tình thương bao la. Tôi thường liên hệ bà với thân phận con cò, bài ca dao cổ bật ra:

    Con cò mà đi ăn đêm

    Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao

    Ông ơi ông vớt tôi nao

    Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng

    Có xáo thì xáo nước trong

    Đừng xáo nước đục đau lòng cò con…

Chao ôi! Cò mẹ sắp bị đem xáo măng rồi mà vẫn thương cò con động lòng vì mẹ. Không, mẹ ra đi nhẹ nhàng thanh thản lắm con ơi!

Lâu dần rồi tôi mới hiểu ra vì sao trong nhà này bà Mười không chịu cho trưng lên những tấm bằng vinh dự, những tấm huân chương… mặc dù những thứ đó bà Mười không thiếu và nó đã cho bà một thời vang bóng.

Ngôi nhà ấy lúc nào cũng yên lặng mênh mông chất chồng những kỷ niệm về quá khứ  đầy tình sâu nghĩa nặng biết bao nhiêu.

LỚP  HẬU  SINH:

    Tôi thật may mắn được hội tụ với lớp hậu duệ gần gũi của hai bà. Chúng tôi thuộc lớp người mới lớn, tuổi sấp sỉ nhau, hơn chăng chỉ là lớp trên lớp dưới nhưng tất cả đều liên can tới chiến tranh mà sao chúng tôi cảm thấy nó vừa gần vừa xa vừa quen vừa lạ?! Nghĩ tới chiến tranh, chúng tôi thường liên tưởng đến những cảnh bi hùng như trên phim ảnh, như trong viện bảo tàng, trong những câu chuyện về nguồn ôn cố tri tân …  Dù sao nó cũng chỉ thoáng qua thôi rồi chúng tôi lại bị hút vào những bề bộn đời thường… Đột nhiên nhắc tới chiến tranh chúng tôi muốn… lảng!

Trong mấy anh chị, anh Hai Rớt là đơn côi vất vả nhiều. Anh là kết quả của mối tình lang chạ gió trăng đời lính chiến. Anh ít nói mà cộc tính nhưng chăm chỉ cần cù. Những việc nặng trong nhà gặp tay anh là gọn hơ. Những lúc anh có mặt ở nhà, khu vườn sau sạch bong. Bà nội khen:

- Thằng này có tâm hiếu !

Mấy anh chị chọc:

- Ổng gọn sạch để mời ông già về nhậu. Lỡ sỉn thì lăn ra ngủ tại chỗ khỏi phiền ai!

Anh cũng nói chơi:

- Lúc hai cha con tàng tàng tui mới dám hỏi: Sao ba không là liệt sỹ cho tui nhờ? Ổng biểu: Tao như kẻ lạc loài, sanh – tử đều không đúng lúc! Tui lại hỏi: Vậy ba sanh tui có đúng lúc không? Ổng biểu: Đúng lúc mà mày không gập vận! Rồi hai cha con uống quắc cần câu!

Anh học hành chẳng là bao. Lớn lên theo chúng bạn rủ đi làm. Trai quê ít học ra thành phố chỉ kiếm việc phụ hồ là dễ. Anh có sức và siêng năng, việc đến tay anh làm không sanh nạnh nhưng điều gì gai mắt là nổi đoá lên, không cãi lý được thì chửi khùng hoặc lỳ lợm rồi bỏ việc. Bạn bè kêu anh là Hai Thiềm Thừ vì con cóc một khi đã nhép miệng kêu lên oọc ẹec là nó sẽ không chịu ở yên một chỗ. Lâu lâu về quê thăm nội, toòng teng gói quà là mấy cái bánh mua ở bến xe, trong túi may ra còn vài tờ bạc lẻ. Bà Tám khuyên:

- Mai mốt tao không còn, mày chỉ có một thân, làm lụng phải lo dành dụm phòng hờ cho mình chớ!     

Anh càu nhàu:

- Làm thằng thợ hồ chuyên đi phục vụ mục tiêu lý tưởng cho kẻ khác thôi chớ mình sống qua ngày được là may lắm! Chủ chẳng thèm biết mình là ai! Bao nhiêu thằng thầu lớn nhỏ, cai đầu ngắn đầu dài chúng nó ăn dọc ăn ngang, đến mình chỉ còn mớ gạch đá chưa đủ lấp cái ổ gà. Đứa nào ương bướng, không ưng nó đuổi liền!

Bà Tám biểu cháu ở nhà, chỉ được ít bữa, ngứa giò anh lại đi. Bà nội lại ấn vào túi cho chút đỉnh. Bà Mười quen biết rộng, gởi cháu cho đội thi công cầu đường. Anh được học nghề thành thợ đổ bê tông cầu, đi khắp đó đây. Dạo làm cầu Mỹ Thuận, anh cặp với cô gái ở bờ Nam. Dường như có mặc cảm nên anh êm re, tự quyết định duyên phận của mình. Đến một ngày, anh ngồi bên bà Tám rù rì:

- Nội ơi! Con có thằng con trai!

Bà Tám nhướng mắt ngạc nhiên, ngỡ tai già lãng:

- Bây nói chi? Thiệt hôn?

- Con đâu nói rỡn với nội bao giờ!

- Mà gia đình nó có đàng hoàng tử tế hôn? Sao bay không biểu tao lo ?    

- Nó có cha mẹ! Nhà cửa làng nhàng! Người giàu mình đâu dám rớ tới. Nội già rồi, lo chi cho mệt. Bạn bè mấy đứa công nhân, bữa nhậu là xong!  

Bà Tám thở ra một hơi dài :

- Bay sống hoang giống thằng cha mày quá!

Vậy rồi bà Tám cũng tất tưởi sửa mâm đồ lễ tới nhà người ta nhận con nhận cháu cho phải phép. Chị Hai xuất thân lam lũ, khoẻ mạnh, xốc vác, chân chất thiệt thà. Bà Tám muốn anh Hai cho vợ con về ở cùng bà. Anh Hai không dám nói chi. Chị vợ rủ rỉ với hai bà:

- Công nhân đi làm xa nhà buồn và cực lắm. Được đồng lương là bạn bè rủ rê đa mang, đam mê đủ thứ, dễ hư người. Tính ảnh hiền nhưng ham vui, nể bạn, nhiều lần lỉn xỉn hết biết trời đất là gì, sợ lỡ sa đà vào những chuyện động trời thì khó gỡ ra. Bây giờ ở những công trường lớn đều có khu gia đình cho công nhân ở. Nội cho con theo ảnh thời gian, chừng nào ảnh tự chủ được, con về với nội!

Bà Tám thì sao cũng được nhưng bà Mười nghiêm lắm:

- Mỗi người phải tự quyết định đời mình! Hay dở là lỗi ở mình. Không ai kềm kẹp mình mãi được. Ai bảo cứ là công nhân là phải sa đà, đam mê dung tục?

Anh Hai thương bà Tám, có điều chi bà chỉ rủ rỉ vài lời rồi ừ ào cho qua. Chớ bà Mười thì mỗi lời có gai có cạnh, dứt khoát rõ ràng nên anh sợ và ít diện kiến bà. Cuộc đời với anh thật đơn giản: Người ta phải làm mà sống. Ai có học thì làm bằng đầu, ít học thì làm bằng chân tay. Người nghèo bao giờ cũng phải đi làm thuê. Người giàu nào cũng trục lợi, ham của, ham quyền. Càng có quyền, càng có lợi và lợi nhiều, tiền lắm, càng dễ có quyền nhiều hơn… lại càng giàu hơn… quyền thế hơn lên! Cứ thế… Họ móc nối với nhau, dựa vào nhau, bao che bênh vực cho nhau. Nhưng suy cho cùng thì họ chỉ biết lo cho mình, chẳng thương ai, chẳng một lòng với ai, có khác nhau chỉ là kẻ ác khẩu, kẻ dẻo miệng, kẻ gặp thời, kẻ lỡ vận mà thôi. Mình có sức voi, chẳng cần dựa dẫm vào ai. Vui thì làm, chán thì về nhà với nội. Hạt gạo, con cá, con lươn kiếm mấy hồi, không chết đói cũng không giàu có. Anh thương nội. Anh chăm sóc khu vườn sau như một khu yên tĩnh tinh thần cho nội lúc sống cũng như lúc chết. Nội là nguồn an ủi, tin cẩn nhất của đời anh.

Chị Bắc Phương là người con gái mạnh mẽ gây nhiều ấn tượng. Lúc nhỏ, bé Phương sống trong hoài nghi về cha mình. Khi bé biết hỏi cha đâu, bà và mẹ chỉ ra đám mộ sau nhà. Bé không hiểu nên không tin vì ba phải là người như ba mấy nhỏ bạn cùng xóm chớ ba không thể là mấy cái nhà nhỏ xíu kia. Khi bé hiểu được thì bé muốn biết rạch ròi ngôi nhà nào là nơi ba nằm đó? Bà và mẹ đều lảng chuyện… Thật khó hiểu! Khi lớn lên, đã biết giao du bạn bè lối xóm, bé nghe người ta nói nửa thật nửa chơi rằng:       

- Ba mày ở trên phố, giàu lắm!

Bà và mẹ không giải thích cho bé thoả mãn. Bé giận lắm! Giận lây cả hai ngôi mộ im lìm kia. Giận cả người đàn ông vu vơ nào ở trên thành phố… Bé buồn vì cảm thấy trên đời này không ai thật bụng với mình… Mãi khi bé đi học lớp lớn hơn cũng là lúc thời thế đổi thay, má mới kể cho bé biết sự thật về cha. Lần đầu tiên trong đời đứng trước hai ngôi mộ, bé bật khóc và gào lên “Cha ơi!” nhưng bé không thể khụy xuống ôm nấm mộ nào!

Nỗi u hoài trong bé Phương lại trở thành niềm chua xót khi xã hội không thừa nhận bé là con của người nằm đó. Dì Tư thương con, đã làm hết cách nhưng vẫn hoài công. Lá thư tìm chồng, tìm cha cho con của má, Bắc Phương vẫn giữ làm kỷ niệm, ít người được đọc:

Kính gởi Ban chỉ huy quân sự  tỉnh Hà Bắc.

Tôi là Huỳnh Thị Trông, tức là Tư Trông, quê ở Ấp Biền, Xã Lương Hoà, Huyện Mộc Hoá, Tỉnh Long An. Trong thời cả nước chống Mỹ, tôi thương yêu một anh bộ đội tên là Út Bình, quê ở Hà Bắc. Chẳng may anh hy sinh ngay tại quê hương tôi trong khi đứa con gái của anh chưa ra đời. Cháu tên là Huỳnh Thị Bắc Phương và nay đã lớn khôn, muốn tìm về quê nội. Mong tổ chức tận tình giúp đỡ cho tôi tìm về cội nguồn của chồng tôi và để con gái tôi được nối kết tình cốt nhục…

Chờ được hồi âm!

Mới hay ở đời chuyện vui thì chia được cho nhiều người nhưng nỗi buồn không sớt được cho ai. Sau lưng có người còn phịa chuyện tào lao! Coi như chuyện ấy cho qua.

Học xong trung học, Bắc Phương nghe mẹ thi vào ngành nông nghiệp bởi nghĩ rằng người ta đời nào vẫn cần có gạo để ăn. Đất nhà trong vườn, ngoài bưng thiếu gì. Nhưng chỉ học được một năm, chị bỏ vì xem ra nghề này bèo bọt lắm! Chị quay qua học luật. Ngoại thấy ưng:

- Con này lý lắc, làm thầy cãi giỏi đấy!

Nhưng cũng chỉ một năm, chị biểu:

- Làm luật là bảo vệ công lý. Nhưng công lý là gì thì mỗi thời một khác. Có ngày chết oan!

Chị bảo làm nghề giáo tuy có nghèo nhưng lòng thanh thản. Bà Mười khuyên:

- Làm nghề nào mà mình cứ tận tâm tận lực phục vụ nhân dân đều quý cả!

Thời gian học sư phạm, vốn chị có eo vóc đẹp, dáng vẻ mềm mại, nét mặt dễ ưa, được chị Hoài Thương dìu dắt làm người mẫu thời trang nghiệp dư. Mấy bà phản đối quyết liệt:

- Hay gì cái nghề õng ẹo khoe mẽ nghênh ngang trước bàn dân thiên hạ!

Nhưng không ai cản được . Chị nói:

- Phàm cái gì phơi bày công khai đều phân biệt rõ thật-giả-tốt-xấu. Chỉ cái chi úp mở mập mờ mới dễ lẫn lộn hay-dở-trắng-đen!          

Chị vốn mạnh dạn lại có khả năng giao tiếp, ghé một chân qua ngành du lịch. Học xong sư phạm, chị không thiếu việc làm ở nơi thành phố dù là có trái ngành. Dì Tư buồn con nhưng chị bảo:                 

- Học là một chuyện nhưng hành là chuyện khác. Má cứ tin con đi!

Chị đi nước ngoài như đi chợ. Khắp đất nước chỗ nào cũng biết. Chị đưa mẹ về thăm Kinh Bắc. Thật khó tả cảm xúc của hai mẹ con đã đặt chân tới quê chồng, quê cha rồi mà vẫn ngẩn ngơ, lưu luyến. Hai mẹ con về Thuận Thành viếng chùa Bút Tháp. Chị thấy lòng buồn mênh mang khi nhìn mẹ nước mắt dàn dụa ngước nhìn Phật Bà Quan âm ngàn mắt ngàn tay, cầu một ngày tìm về tới nơi núm ruột của chồng… Chị là người năng nổ giỏi giang và thực tế nhưng vẫn giữ được cái tình quê, là sợi dây nối kết, níu kéo lớp hậu duệ của hai bà đang xa dần gốc gác.

 

Quan hệ giữa bà Mười với anh Hoài Nam và chị Hoài Thương cứ như cái cầu tre lắc lẻo. Chị Hoài Thương nối nghiệp bà. Chị được đào tạo bài bản, công phu và với năng khiếu bẩm sinh được di truyền từ mẹ, chị sớm nổi danh. Chị là diễn viên múa chủ công và tài năng còn phát triển. Chị biết khai thác tối đa nghề nghiệp của mình đúng mức và chăm lo cho đời sống riêng. Đấy là mâu thuẫn nặng nề giữa hai mẹ con. Có lần bà Mười gay gắt:

- Mẹ không thể chấp nhận sự cò kè bớt một thêm hai cái giá cát xê trước khi người nghệ sỹ bước ra sân khấu!

Chị nghiêm chỉnh đáp lời mẹ:

- Ngày xưa mẹ vừa là nghệ sỹ vừa là chiến sỹ, mỗi người dân đều là dũng sỹ. Ăn thế nào cũng được, mặc thế nào cũng xong, quan hệ xã hội đều là tình đồng chí “đầu súng trăng treo”! Cần tiền làm chi? Thời nay ai cũng mong trở thành “phú sỹ”! Quần chúng bây giờ khác với quần chúng thời hồng hoang của mẹ. Họ phè phỡn, đầy hầu bao lại đòi thưởng ngoạn. Ngay cả với người cộng tác, nếu không tỉnh thì mình húp nước để người ăn cái! Tại sao mình không được đòi một sự công bằng? Khi cần con sẵn sàng làm từ thiện!

Chỉ có chị Bắc Phương mới có thể làm chùng lại những cuộc tranh cãi gay go:

- Ôi…  chui cha! Nghệ thuật là cái vô cùng. Người ta chỉ tranh cãi khi không có việc gì làm hoặc là muốn khoe khoang, trừng trị nhau thôi. Nghệ thuật vĩ đại nhất là biết điều hòa những khác biệt của nhau để mọi người cùng sống chung vui dưới một mái nhà!

Tiếng cười của chị vang lên hồn nhiên, chân thật làm tan đi mọi nỗi bất đồng. Dì Tư chỉ quan tâm tới một điều:

- Chèng đéc cha mẹ ơi… Con gái lớn tướng rồi, không lo chồng con, chỉ lo làm giàu… Mai thành bà cô rồi thì tiền của để cho ai?!

 

Anh Hoài Nam được coi là trí thức nhất nhà. Anh sống ở nước ngoài nhiều năm và tiếp thu nhiều kiến thức. Về nước anh giảng dạy ở một trường đại học lớn rồi lại được đi tu nghiệp để hoàn thành luận án Tiến sỹ khoa học. Nhưng khi Liên Xô tan vỡ, anh bỏ dở công trình nghiên cứu, quay qua liên kết với bạn bè làm cuộc đổi đời. Bà Mười buồn phiền. Anh bảo:   

- Không bản luận văn khoa học nào giá trị bằng bản thân cuộc sống! Không thiếu gì người tài để bánh xe lịch sử nghiền nát chính mình. Khoa học và kinh doanh là hai lĩnh vực khác nhau nhưng cần thiết cho nhau!

Anh đem vợ con qua ở nước ngoài. Bây giờ anh là nhà kinh doanh thành đạt. Anh đi tứ xứ và quan hệ rộng. Anh mời mẹ đi một tour du lịch đây đó dài ngày. Bà Mười đi nửa chừng đòi về:

- Thôi, biết vậy đủ rồi! Người ta hơn mình nhiều. Nhưng nghĩ lại buồn!

Anh bảo:

- Bởi mình từng đố kỵ với sự giàu mới sinh ra nhiều tật. Ai không ham sướng mà mình lừa đời, che mắt thế gian, xúm nhau vụng trộm? Đến khi thiên hạ vỡ ra thì họ coi khinh, xa lánh, chẳng thèm nghe nữa!

- Khi được giàu sang sung sướng rồi, người ta mau chóng quên đi cả chính mình!

Bà Mười thở dài nhìn  con.

- Khốn khổ qúa hóa mụ người đi! Có của rồi phải biết giữ thân, giữ của mới tính điều khôn dại!

Về nhà, mẹ con chỉ nói chuyện gia đình, tránh những chuyện nhân tình thế sự. Dường như anh dị ứng khi nhắc lại chuyện chiến tranh. Có lần anh buột miệng:

- Chiến tranh để làm gì?

Bà Mười phật ý, dằn lòng không được:

- Người ta có đói khát mới thèm ăn uống, có bị làm nhục mới thấy uất hận, có bị đày đọa mới muốn vùng lên, có bị làm nô lệ mới mong được làm người.  Thế hệ của mẹ rất ý thức được phải cầm súng để làm gì. Buồn là sự thực trái khoáy… Bây giờ có kẻ không cầm súng mà chỉ giao súng cho người thôi!

Anh không phản đối cũng không chấp nhận:

- Thua người là nhục. Không nỗi nhục nào giống nỗi nhục nào. Tự thỏa mãn sẽ không bao giờ ngoi lên được!

- Bao giờ vận mệnh cũng trong tay mình!

- Đó vẫn là điều ao ước!

Hai mẹ con khó đồng cảm với nhau. Nhưng anh vẫn thương kính mẹ:

- Thời của mẹ đầy những huyền thoại. Nhà này cũng là một kho huyền thoại. Nhưng bây giờ một cô gái nói rằng vì đạp lên những dấu chân ai đó khác thường mà mang thai, sanh ra đứa bé tiếng khóc như chuông, hai bàn tay nắm chặt chữ sơn hà – xã tắc thì nếu không bị bắt vì tung chuyện hoang đường cũng sẽ bị tống vào nhà thương điên vì bệnh tâm thần!

Bà khuyên con:

- Muốn xem xét lịch sử, con đứng ở thì vị lai để nhìn tổng thể nhưng con phải lùi về quá khứ để hiểu con người!

Anh trào ra suy nghĩ của mình:

- Lịch sử là một dòng chảy liên tục. Thế hệ sau thừa hưởng của thế hệ trước mọi điều hay-dở-tốt-xấu… Biết chọn lọc, tiếp nhận hay vứt bỏ cái gì là sự thích nghi bản năng. Tuy nhiên khôn dại mỗi thời một khác nhưng điểm giống nhau là thời nào người ta đều muốn được sống cho ra sống, đàng hoàng. Mỗi thời con người có ước vọng khác nhau, hướng tới đích cao hơn. Thế mới là tiến hoá!

Bà Mười chỉnh lại :

- Phải coi lịch sử của mình, của gia đình, quê hương, dân tộc là hành trang không thể thiếu của mỗi con người !

- Túi hành trang nặng nhẹ chưa hẳn là điều quyết định số phận người ta hôm nay. Trí khôn mới là cần thiết. Mọi phản ứng thích hợp đều khởi phát từ sự thức tỉnh của lý trí. Lời thơ tiếng hát có thể làm người ta khuây nỗi buồn, vui lên chốc lát nhưng nó không phải là cuộc sống!

Không biết bao giờ hai mẹ con mới đồng thuận được với nhau mặc dù họ vẫn thương yêu nhau và đều cảm thấy xót xa trống vắng khi thiếu một người… Nhưng bà đang đi vào dĩ vãng và anh là hiện tại.

So với mấy anh chị, tôi gặp may hơn. Ông nội tôi thuộc lớp lão thành tiền khởi nghĩa. Tôi vẫn ghi trong lòng lời cụ kể vui khi con cháu đoàn tụ đầy nhà:

- Trong chiến tranh bom đạn nó tránh mình chớ mình đâu tránh được nó! 

Trong đầu tôi lúc còn thơ trẻ, ông nội tôi là người cao số. Cha tôi ẩn số ông tôi nên được hưởng lộc dài dài. Hầu như cả tuổi thanh niên cha tôi đều ở nước ngoài. Suốt cuộc chiến tranh cha tôi là người ủng hộ. Khi trở về thì đất nước đã thanh bình, cha tôi thành tài sản quốc gia với học vị cùng mình. Anh em tôi lớn lên thuận buồm xuôi gió và đi du học theo ý của mình. Riêng tôi, cha mẹ vừa chê vừa thương bởi tính khí khác thường. Cha bảo:

- Nó mang type nghệ sỹ như sống lơ lửng trên mây!

Mẹ bảo:

- Nó hay đa cảm, viển vông, xa nhà thì khổ!

Tôi cũng không ham đi xa vì ở nhà tôi chẳng thiếu gì, lại gần cha mẹ cưng chiều, thế là quá đủ. Tôi tuổi Giáp Tý. Người ta bảo tuổi trùng đầu cả Can – Chi là hên lắm. Tôi thầm cảm ơn ông bà cha mẹ cho tôi được hưởng cả lộc thánh, lộc trần.

Không hiểu tại sao tôi chọn học ngành Lịch sử. Có thể tôi là đứa nhút nhát yếu đuối, không dám xô vào mọi cuộc cạnh tranh nên né tìm chỗ khuất, tỷ mẩn tò mò đứng xem người khác làm gì. Có lẽ tôi được đầy đủ chẳng phải lo chi mới làm những việc vô công rồi nghề ấy. Người ta nói lịch sử như một bức tranh, như một pho tượng, như một di vật, một xác ướp… trên đó người ta tha hồ suy luận, tưởng tượng và thổi hồn vào nó theo ý của mình. Vậy nên nó vừa thú vị lại vừa vô vị. Liệu điều ấy có đúng hay không

Trên lớp, thầy tôi giảng: Lịch sử nói chuyện đã qua song viết sử không dễ đâu và nó không thể dành cho người yếu. Ai cũng nói phải vô tư nhưng để ngòi bút không chịu áp lực của cường quyền thế sự thì phải có gan to lắm và để nó thoát khỏi thiên kiến của người cầm bút thì phải có tấm lòng ngay thẳng và sự hiểu biết vững vàng sâu rộng. Hãy viết sử như chính nó vốn có chớ không được luận sử trong khi quá khứ bao giờ cũng bị phủ bụi thời gian làm nó mù mờ. Ấy là chưa kể bị người ta tô vẽ hay bôi xóa nhằm những ý đồ riêng khó kiến giải cho minh! Thế cho nên không ít chuyện lịch sử lâu lâu bị người ta bới tung lên tranh biện.

Có người nói rằng: “Đánh giá, sử dụng những sự kiện lịch sử như thế nào là thuộc trách nhiệm của các nhà lãnh đạo chính trị, nhưng đối với các nhà sử học thì tính chân thực của lịch sử là quan trọng”. Tôi là con nít không dám bàn đến chính sự. Phải hỏi ý nội tôi – Người được cả nhà tôi kính nể đã đành mà ra xã hội người cũng được coi như bậc trưởng thượng rất được nể vì. Người bảo chính trị cũng có ba bảy đường. Để được việc trước mắt có lúc phải nói theo thời nhưng chẳng thể lừa người mãi được. Làm chính trị với mục tiêu chân chính bao giờ cũng phải hướng về sự thật. Sử học là cái nền của chính trị. Một khi chính trị với lịch sử trái chiều nhau thì kiểu chính trị ấy không bền. Ai làm nên lịch sử? Chính là nhân dân! Chính trị để làm gì nếu không phải là để phụng sự tổ quốc và nhân dân? Vậy nên nhà lãnh đạo chính trị với nhà sử học chân chính không có sự đối lập với nhau.

Mỗi người trong gia đình bà Tám Rầu vừa là chứng tích vừa là chứng nhân của một thời lịch sử. Với họ, mọi chuyện đều xưa rồi mà với tôi thì mới quá! Rõ ràng là lịch sử một gia đình hay một dòng tộc thì dễ nhìn ra. Nhưng lịch sử một cộng đồng hay một dân tộc thì không dễ có chung một lời phán xét.

Thành phố  HỒ CHÍ MINH

tháng 9 năm 2002 – Tân Tỵ

 

(đón đọc Chương 2: KỶ NIỆM KHÔNG QUÊN)

Link http://sachhiem.net/VANHOC/N/NguyenvThinh_NCMT.php

26-Apr-2017

_________________

• Các bài của Nguyễn Văn Thịnh: link http://sachhiem.net/VANHOC/N/ListNVTh.inc.php

Trang Văn Học




Đó đây


2024-04-19 - Israel Tấn Công Trả Đũa Iran -

2024-04-19 - 80 Năm Thực Dân Pháp Đô Hộ Việt Nam - Văn minh hay bóc lột? -

2024-04-19 - HOÀNG NAM: DÂN TA ĐÃ QUÁ NHÂN TỪ VỚI HỌ NGÔ - Gửi Hoàng Nam, chủ kênh Challenge Me.

2024-04-18 - "THUẾ THUỘC ĐỊA" - 60 NĂM CHÂU PHI VẪN LÀ BÒ SỮA NUÔI BÉO NƯỚC PHÁP -

2024-04-18 - Ổi Xanh: 274. Ông Võ Văn Thưởng từ chức. Thái độ của HDH và một số YouTuber... bố đời. -

2024-04-17 - Sidney, Úc: 1 Giám mục bị đâm trong lúc làm lễ - Không biết Chúa làm gì mà bắt các giám mục của Chúa phải đổ vỏ! Các đây mấy năm, có viên chức chính phủ đề nghị treo bảng ở các nhà thờ "Đây là nơi nguy hiểm cho trẻ con"

2024-04-16 - Đọc báo QĐND - Bài viết: Không "chính trị hoá" các vụ án kinh tế -

2024-04-14 - Trực tiếp tại Ấp Chiến Lược Bolsa? Quê hương Nhà dâm chủ cuội Nguyễn Văn Đài Rè - Bạn có tin ở đây là Hưng Yên, gần Hà Nội? Cứ tưởng như một thành phố ở Châu Âu!

2024-04-13 - Nhận Diện Cách Mạng Màu Tại Việt Nam -

2024-04-12 - 326-2: Vì Sao Không Thể Đặt Tên Đường Lê Văn Duyệt Ở Quãng Ngãi? -



▪ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 >>>




Thư, ý kiến ngắn
● 2024-04-19 - “CỬA LÒ - KHÁT VỌNG TOẢ SÁNG” - Nguyễn Tiến Trung -

● 2024-04-16 - Bất bình trước sự san bằng, trộn lẫn CHÍNH /TÀ của những người mù sử: HOÀNG NAM - Chủ kênh Challenge Me - FB Lý Thái Xuân -

● 2024-04-01 - Phim ĐÀO PHỞ & PIANO -Tại sao không nên đánh dấu người yêu nước bằng biểu hiệu của một tập thể thiểu số - Lý Thái Xuân -

● 2024-03-21 - CHỐNG CỘNG: Chuyện cười ra nước mắt ở Sở Học Chánh Tacoma, Wa - Lý Thái Xuân -

● 2024-03-09 - Tổng thống Nga, Vladimir Putin đọc thông điệp gửi Quốc hội Liên bang (29/2/2024) - Gò Vấp -

● 2024-03-09 - Các hoạt động của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc trong những năm 1942-1954 - trích Hồi ký Nguyễn Đình Minh -

● 2024-03-08 - Hồi ký lịch sử 1942-1954 - Liên Quan đến Giám mục Lê Hữu Từ, Khu tự trị Phát Diệm, Công Giáo Cứu Quốc - VNTQ/ Khôi Nguyên Nguyễn Đình Thư -

● 2024-02-15 - Trương vĩnh Ký dưới con mắt của người dân - Trần Alu Ngơ -

● 2024-02-14 - Các nhà hoạt động ẤN ĐỘ GIÁO phản đối chuyến viếng thăm của Giáo hoàng John Paul II - FB An Thanh Dang -

● 2024-02-09 - “KHÁT VỌNG NON SÔNG” của VTV1 và chuyện Trương Vĩnh Ký - Nguyễn Ran -

● 2024-02-05 - Góc kể công - Đồng bào Rô ma giáo cũng có người yêu nước vậy! Đúng. - Lý Thái Xuân -

● 2024-02-01 - Câu Lạc Bộ Satan Sau Giờ Học Dành Cho Trẻ 5-12 Tuổi Sắp Được Khai Trương Ở Cali, Hoa Kỳ - Anh Nguyen -

● 2024-01-29 - Giáo hội Rô ma giáo Đức "chết đau đớn" khi 520.000 người rời bỏ trong một năm - The Guardian -

● 2024-01-29 - Một tên Thượng Đế-Chúa ngu dốt về vũ trụ, nhưng thích bốc phét là tạo ra vũ trụ - Ri Nguyễn gửi Phaolo Thai & John Tornado -

● 2024-01-29 - Kinh "Thánh" dạy Con Chiên Giết Tất Cả Ai Theo Tôn Giáo Khác - Ri Nguyễn vs John Tomado -

● 2024-01-29 - Nhân Quyền Ở Nước Mỹ: Vụ Án Oan, 70 Năm Sau Khi Tử Hình Bé George Stinney - - Giác Hạnh sưu tầm -

● 2024-01-29 - NOEL - Ba Giáo Hoàng John Paul II, Benedict XVI, Francis I Thú Nhận Đã Bịp Chiên- Cừu Chuyện Jesus Ra Đời - Ri Nguyen -

● 2024-01-29 - Một dàn đồng ca, ngày càng đặt câu hỏi về quyền lực của Giáo hoàng - John L. Allen Jr. -

● 2024-01-29 - Tỷ lệ phá thai nơi người công giáo lại cao hơn nơi người ngoài công giáo! - Lê Hải Nam -

● 2024-01-29 - Kinh Khải Huyền Cho Biết Jesus Là Một Tên Ác Qủy Đê Tiện, Man Rợ - Ri Nguyễn -


▪ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 >>>