Văn Hóa Nào Đã Tạo Nên Con Người Chính Trị Ngô Đình Diệm?
Phùng Quân
http://sachhiem.net/LICHSU/P/PhungQuan1.php
23 tháng 10, 2010
LTS : Đó là một trong những tiểu tựa trong bài "Tháng mười một, chợt nhớ vài bài thơ về chế độ Diệm" của tác giả Phùng Quân. Sachhiem.net xin phép tác giả để được đăng những trích đọan rất giá trị và liên hệ trực tiếp đến đề tài chính: Văn hóa nào đã ảnh hưởng đến con người chính trị của Ngô Đình Diệm, cố tổng thống Đệ Nhất Cộng Hòa của miền Nam (1954 -1963).
"Đừng “xía” vô chuyện của dân tộc Việt Nam nữa" là lời khuyên của tác giả gửi thẳng đến Vatican và là cốt ý rốt ráo nhất trong bài. (SH)
...từ bài "Tháng mười một, chợt nhớ vài
bài thơ về chế độ Diệm"
Ngô Đình Diệm đã chết gần nữa thế kỷ nhưng tương lai của con chiên
Ngô Đình Diệm, dưới bàn tay phù thủy của Vatican, thì vẫn còn nhiều hứa
hẹn. Thật vậy, ý đồ của Vatican là:
Về mặt đạo, Diệm sẽ được nhào nặn vẽ vời để bôm lên thành một
thánh tử đạo Công giáo Việt Nam như các “thánh” phản quốc đã từng
được Giáo hoàng Gioan Phaolồ II hối hả và ồ ạt, thâu ngắn mọi thủ tục,
bất chấp sự thực lịch sử, bôm lên 117 con chiên Tây Ta chỉ trong một năm
1988. Hành động gấp rút nầy là để cứu nguy và hà hơi tiếp sức cho cái
giáo hội Việt Nam, lúc đó, đang bị tơi tả trong nước và tan tác ngoài
nước. Còn trường hợp “thánh tử đạo” Diệm tương lai, là để tô son trét
phấn cho cái tội gần 400 năm theo Tây phản quốc của lịch sử Giáo hội
Công giáo Việt Nam.
Về mặt đời, Diệm sẽ được rửa mặt và đánh bóng để làm một
biểu tượng chính trị hầu xây dựng lực lượng Công giáo và tập họp các
lực lượng chính trị vệ tinh (loại “đối kháng” trong nước hay “liên tôn
chống Cộng” ngoài nước) để bây giờ thì tìm cách thanh toán thế lực đương
quyền tại Hà Nội, và tương lai thì lại thiết lập một chế độ “Diệm
không Diệm” để Công giáo hóa nhân dân Việt Nam.
“Tương lai” hai vế đạo - đời đó phù hợp hoàn toàn với sách
lược bành trướng đạo Công giáo tại Á châu đã được huấn thị trong Tông
huấn “Giáo hội tại Á châu” (Ecclesia in Asia – John Paul 2, New
Delhi, 1999). Đồng thời, hình ảnh tương lai đó cũng sẽ nuôi dưỡng và
khích động được đám con chiên Việt Nam ở hải ngoại đang chao đảo trước
tình trạng mục rã và thoái trào của Giáo hội Công giáo trên toàn thế
giới mà cao điểm là đại biến cố hơn 5000 Linh mục sách nhiễu tình
dục gần 10.000 nạn nhân ấu dâm trên 26 quốc gia kéo dài
trên nửa thế kỷ ![1].
Đó là ý đồ tôn giáo và thế cờ chính trị của Vatican mà ai tinh mắt
một chút thì đều biết.
Vì thế nên từ gần 10 năm nay, tại hải ngoại, ta thấy một phong trào
“tâm lý chiến” mà các Linh mục thì xảo ngôn về văn hóa (như “ông Trời”
trong tín ngưỡng và phong tục Việt Nam vốn là hình ảnh … Chúa Trời trong
Cựu Ước!; hay Nguyễn Du được gợi hứng từ Kinh Thánh để sáng tác Truyện
Kiều, …); còn các con chiên loại Lâm Lễ Trinh, Nguyễn Văn Lục, Tú Gàn
Nguyễn Cần, Cao Thế Dung, Tôn Thất Thiện, và đám lau nhau mới nổi như
Chu Tất Tiến, Minh Võ, Nguyễn Lý Tưởng, …thì pha chế tài liệu, ngụy
trang nhân chứng để xuyên tạc và viết lại lịch sử thời đệ nhất Cộng hòa.
Phong trào nầy, dĩ nhiên, chỉ huy động được các con chiên múa may ngòi
viết mà thôi, còn những thành phần khác của dân tộc thì tuyệt đại đa số
chẳng ai thèm tham dự vào cái màn phịa sử bất lương nầy cả.
Hai luận điệu của đám “sử gia” hoài Ngô nầy thường dùng là:
1- Phong trào Phật giáo chống Diệm là do Cộng sản lãnh
đạo, còn tướng lãnh lật đổ Diệm là tay sai của CIA, cả hai phối hợp với
nhau để giết ông Diệm vì ông Diệm bảo vệ quyền tự quyết chống lại Mỹ.
Đây là một luận điệu vừa phi lịch sử vừa … ngu ! Ông Diệm đã được Mỹ
“bồng” về, kinh viện quân viện đổ vào miền Nam như thác cho Diệm làm con
cờ xây dựng tiền đồn chống Cộng. Đến lúc vì độc tài thối nát nên bất lực
không đóng nổi vai trò con cờ nữa, lại phản chủ bắt tay với kẻ thù Cộng
sản nên bị chủ dẹp đi, thì đó là thân phận đương nhiên của kẻ, từ đầu,
đã chịu nhận làm con cờ cho ngoại bang. “Tự quyết” chổ nào, càng nói
càng thêm nhục !
Thật ra thì Mỹ không dẹp cũng không được vì nhân dân miền Nam chống
Cộng, trong đó có Phật giáo, muốn như thế. Đó là tất cả cái dynamique
của chính trị miền Nam trong 4 năm 1960, 1961, 1962 và 1963. Không có
lòng công phẩn cuồn cuộn của toàn quân toàn dân miền Nam, thì chẳng CIA
nào, chẳng Cộng sản nào, chẳng Phật giáo nào một mình lật đổ được
triều đình Diệm-Nhu-Cẩn với 1 đảng Cần Lao sắt đá, 6 cơ quan công an mật
vụ tàn bạo, 4 đoàn thể quần chúng, và 1 Giáo hội Công giáo thiên la địa
võng cả. Chỉ trong 8 năm cầm quyền (1955-1963) mà đã 7 lần bị phe cùng
chiến tuyến chống đối
[2] , nghĩa là hầu như năm nào cũng có chống đối, thì
đủ biết dù có Mỹ và Vatican sau lưng, Diệm đã chết trong lòng quân dân
miền Nam từ lâu rồi. Nói như nhà văn Doãn Quốc Sỹ: Mỹ chỉ đến để lượm
cái xác của Diệm
[3] mà thôi.
2- Vì lật đổ ông Diệm cho nên …..mất nước vào tay Cộng sản !
Làm như ông Diệm bị đổ năm 1963 thì đến năm 1965 đã phải “tháng tư
gãy súng” rồi. Tương quan nhân-quả dĩ nhiên là có nhưng sự
kiện lật đổ Diệm, sau 12 năm dài và phức tạp (1963 đến 1975), không
phải là cái “nhân” chính yếu và duy nhất dẫn đến sự sụp đổ của
miền Nam vào năm 1975. Ta biết rằng đệ nhị Cộng hòa kéo dài được những
12 năm thăng trầm, vậy thì “mất nước” chủ yếu là tại vì những yếu tố gì
khác trong 12 năm dài đó chứ không thể giản lược quy về chỉ một
nguyên nhân “lật đổ ông Diệm” từ hơn một thập kỷ trước như nhóm hoài Ngô
gian xảo ngụy biện. Ngược lại là khác, nếu ông Diệm còn tại vị thì miền
Nam đã tiêu tùng ngay sau khi Ngô Đình Nhu lén lút quân dân miền Nam (và
đạp lên Hiến Pháp nhân vị chống Cộng 1956) để đi đêm với “đồng chí” Phạm
Hùng từ năm 1963 rồi !
Nhưng khổ một nỗi là hai điều ngụy biện đó vẫn có người nghe vì ở hải
ngoại không phải ai cũng chịu khó nghiên cứu, biết cách tìm tòi và xử
lý tài liệu, và nhất là chịu suy nghĩ. Đã thế, tuyệt đại đa số các cơ
sở truyền thông đều do Công giáo không chế, tạo thành một bệ phóng để
tung hỏa mù lịch sử đầu độc người đọc. Ngoài ra, những cái gọi là
“nghiên cứu lịch sử” nầy bao giờ cũng được bảo chứng bằng những con dấu
“chống Cộng” to tổ bố và vài cái nón cối phât phơ trên đầu để uy hiếp
những ai “dám” phản biện lại họ.
Tuy nhiên, nỗ lực bất lương chính trị và mạo hóa lịch sử đó của
Vatican dù có thuyết phục được một số người nào đó trong một khoảng thời
gian nào đó, thì cũng không thay đổi được lịch sử, và nhất là không thay
đổi được bản án mà dân tộc đã dành cho chế độ Diệm. Nhân chứng lịch sử
và vong linh những nạn nhân của chế độ Diệm, cả Quốc gia lẫn Cộng sản,
còn nằm trên bàn thờ hương khói hầu như khắp miền Nam (cũ). Số lượng
tài liệu cả bằng Việt ngữ và ngoại ngữ, trong cũng như ngoài nước, còn
tràn đầy ra đấy…
Đặc biệt, có một mảng tài liệu mà người viết cho rằng có giá trị
trung thực và lâu bền nhất, đó là thơ văn và phong dao truyền tụng trong
dân chúng. Những tài liệu nầy thì trung thực vì mô tả sự kiện có
thực ngay thời điểm vừa xảy ra, và lâu bền vì được nhân dân chấp
nhận có đãi lọc, rồi học thuộc lòng mà truyền khẩu vượt thời gian từ
thế hệ nầy sang thế hệ khác.
Người viết bài viết nầy đã trên 60 tuổi, hiện ở Mỹ, chỉ căn cứ trên
trí nhớ của mình và vài người bạn cùng trang lứa, Cộng thêm cái tủ sách
Việt ngữ của người con rễ, mà hôm nay cũng có thể ghi lại được một số
bài thơ và câu vè “không bao giờ quên” về chế độ Diệm, để gửi đến
Vatican với lời khuyên đừng “xía” vô chuyện của dân tộc Việt Nam nữa.
Gần 400 năm đào tạo con chiên Việt Nam cúi đầu làm đạo quân thứ Năm cho
giặc ngoại xâm chưa đủ sao ?
◄ ● ►
Văn hóa nào đã tạo nên con người chính trị Ngô Đình Diệm.
Con người ông Diệm là tổng hợp của ba chiều kích văn hóa: Văn hóa
phong kiến Tống nho, văn hóa Công giáo thời Trung cổ, và văn hóa Tây
thuộc địa, trong đó ứng xử chính trị của “ông quan” Ngô Đình Diệm là
phần thể hiện rõ nét nhất ba thuộc tính nầy. Vì vậy mà khi nói đến chế
độ Ngô Đình Diệm thì người Việt Nam gọi ngay bằng hai chử “Ngô Triều”.
Ông Diệm lớn lên và được đào tạo bởi những quan lại già nua lạc hậu
không theo kịp với dân trí mỗi ngày một tiến bộ, và đa số những vị quan
này là những nịnh thần tham nhũng, làm tay sai cho Pháp. Bài thơ của Cụ
Nghè Ngô Đức Kế dưới đây đủ nói lên cái tư cách “cu li” của lớp quan lại
áo mão xênh xang nầy:
Cu li đành phận chớ ra oai,
Chuyên chế ăn quen thói cũ hoài.
Quân chủ cờ bay vui trước mắt,
Dân quyền trống đánh chán bên tai.
Bài, Liêm giảo hiểm khoe tài trí
Huề, Thụ thông minh gọi bất tài.
Cấm hết công môn tiền hối lộ,
Ngoài ra Tiềm Để mặc lòng ai.[4]
“Bài, Liêm, Huề, Thụ” là tên bốn vị Thượng thư mà Bài là ông
Nguyễn Hữu Bài, người đỡ đầu cho ông Diệm; và Huề là ông
Thân Trọng Huề, ông ngoại của bà Ngô Đình Nhu.
Trong cái môi trường “giảo hiểm”, “bất tài”, “công
môn tiền hối lộ” đó mà anh em giòng họ Ngô Đình lại thăng quan tiến
chức vượt bực (Trong chế độ phẩm trật phong kiến phức tạp và nặng nề
đó mà ông Diệm mới 33 tuổi đã làm Thượng thư đầu triều, tương đương với
Thủ tướng) thì hẵn phải nhờ một lý do đặc biệt nào đó. Lý do đặc biệt đó
đã được giới quan trường đương thời thú vị làm thơ chế giễu “vây cánh
Ngô Đình” như sau:
LÀM QUAN NAM TRIỀU
Lênh đênh chiếc bách buổi ba đào,
Chèo lái xem chừng khó biết bao.
Tôi tớ mấy người dâng lễ hậu,
Quan thầy mấy kẻ nặng hầu bao.
Chật trong bể hoạn thêm mình nữa,
Theo hết rừng “Hàn” biết kiếp nao.
Vây cánh Ngô Đình ghê gớm thật,
Mềm lưng dẻo gối chóng lên cao.
[5]
“Vây cánh Ngô Đình” chủ yếu gồm những ai? Gồm Ngô Đình Khả, Nguyễn
Hữu Bài, Thân Trọng Huề … mà con đường hoạn lộ là những bước làm tay sai
đắc lực cho hai thế lực là Bộ máy Thực dân đô hộ Pháp và Hội Truyền giáo
Hải ngoại Paris (MEP: Société des Missions Etrangères de Paris).
Bản chất chế độ Diệm
Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, đường Công Lý thì đi một chiều, đường Tự
Do thì cấm xe xích lô, xe đạp, còn cổng chính của Tòa án thì bị đóng
kín, thường dân phải đi cổng bên, nên thời đó có câu truyền tụng lúc đầu
còn ở Sài Gòn nhưng sau lan ra khắp nước, rằng:
Công Lý một chiều
Tự Do hạn chế
Tòa án đi cổng hậu
để mô tả nền độc tài và xã hội bất công của chế độ lúc đó[6],
một chế độ tuy gọi là “Cộng hòa” với tam quyền phân lập, nhưng thực
tế là do một gia đình phong kiến và cuồng tín thao túng mọi định chế và
sinh hoạt của quốc gia. Vì thế mà từ đầu năm 1961, dân chúng miền Trung
đã âm thầm viết thành bản án lịch sử để lại cho hậu thế đời đời qua hai
câu ca dao truyền miệng về bốn nhân vật trụ cột của gia đình đó:
Nhà Ngô có bốn gian hùng
Diệm ngu, Nhu ác, Cẩn khùng, Thục
điên
Bản chất của chế độ và chân tướng của cấp lãnh đạo lại càng hiện rõ
hơn vào tháng 2 năm 1962 trong và sau khi dinh Độc Lập của anh em Ngô
Đình Diệm bị 2 phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử oanh tạc. Ông
Nguyễn Đôn Dư, bút hiệu Quỳ Ưu, ở Thừa Thiên đã ví sự kiện nầy như tình
trạng “cháy nhà ra mặt chuột” và đã bí mật phổ biến bài thơ sau đây
trong vòng bạn bè:
CHÁY NHÀ RA MẶT CHUỘT
Đục khoét xưa rày núp ở đâu?
Cháy nhà thấy chuột chạy lao nhao
Dương oai bà Hỏa vừa lên mái
Khiếp vía ông Thiên vội ló đầu
Rường cột rã rời phơi mặt địa
Cống chù quay quắt chổng hàm râu
Tai bay vạ gió đà ra rứa
Chĩnh nếp dòm vô đã sạch làu.[7]
Rồi đến mùa Hè năm 1963, sau 9 năm kềm kẹp nhân dân miền Nam và đẩy
đại bộ phận quần chúng vào vòng tay “Mặt trận Giải phóng”, đồng thời làm
tiêu hao sinh lực quốc gia, gia đình Ngô Đình phóng tay đàn áp Phật giáo
và định dứt điểm tôn giáo nầy, ít nhất là trên nước Việt Nam, với kế
hoạch Nước Lũ đêm 20 tháng 8. Ngày 22 tháng 8, với tư cách là
Ngoại trưởng của chính phủ Diệm, ông Vũ Văn Mẫu cạo trọc đầu và sau đó
từ chức Ngoại trưởng để phản đối nhà Ngô.
“Cảm phục khí phách và phong độ kẻ sĩ Vũ Văn Mẫu, ông Hoàng Đại Sâm
(tức thi sĩ Hoàng Hoa Trang), một nhân viên cao cấp của Bộ Ngoại Giao,
bèn nhờ bạn là ông Võ Khắc Văn viết cho mấy chữ Hán để khắc vào bức
hoành phi tặng cho vị chỉ huy khả kính của mình. Ông Văn bèn viết bốn
chữ: “Ngoại Vật Hoàn Giao”, vừa có chữ của nhà Phật, vừa có chữ
“ngoại giao”, vừa nói lên được ý nghĩa thâm thúy của một hành động đầy
triết lý sâu sắc.
Sau khi viết cho bạn bốn chữ để tặng vị Bộ trưởng vì chính nghĩa mà
“cạo đầu từ quan”, Võ Khắc Văn cảm xúc trước một biến cố vừa đau thương
vừa chua chát bèn làm một bài thơ, ghi lại một sự kiện lịch sử có tính
cách “Giai thoại Làng Nho” hầu lên án Ngô triều để làm gương cho hậu
thế. Bài thơ này may mắn được một bạn thân của ông Võ Khắc Văn hiện ở
Hải ngoại còn nhớ, viết lại rồi gởi cho tôi để hiện diện trọng tập hồi
ký này:
TRANH THỜI SỰ 1963
Chín năm bốn bận tráo quân bài,
Lừa lọc toàn tay dễ khiến sai,
Hót Cụ: Thuần Lương mồm bép xép,
Ôm Bà: Hiếu Nghĩa miệng lai rai,
Vỹ đem hiến Cố màu xanh trẻ,
Khương ước dâng Cha áo đỏ dài,
Riêng Mẫu cạo đầu, Tâm bị bắt,
Hỏi hàng khanh tướng đến phiên ai?
Bài thơ nhằm mô tả và đánh giá bản chất của chế độ qua những nhân sự
tay sai mà trong chín năm cầm quyền, nào là cụ Diệm, nào là bà Nhu, nào
là Cố vấn Nhu, nào là cha Thục, dù có muốn tráo trở quân bài thì cũng
chỉ dùng toàn những tay “dễ khiến sai” như các Bộ trưởng Nguyễn Đình
Thuần, Bùi Văn Lương, Ngô Trọng Hiếu, Huỳnh Hữu
Nghĩa. Cũng bị liệt vào “hạng lừa lọc” là Cao Xuân Vỹ, Tổng
Giám đốc Thanh niên Cộng hòa áo xanh, và Nguyễn Xuân Khương, Đại
biểu Chính phủ Trung Việt đã quyết liệt đàn áp Phật giáo để Cha Thục
được mặc áo Hồng Y màu đỏ. Trong hàng khanh tướng sạch dơ lẫn lộn đó chỉ
còn ôngVũ Văn Mẫu là khí tiết từ chức và Bác sĩ Phạm Biểu Tâm,
Khoa trưởng Đại học Y khoa Sài Gòn, công phẫn chống đối nên bị Mật vụ
nhà Ngô bắt.”
[8]
Tội ác của chế độ công an trị Ngô Đình Diệm
Nói đến chế độ Ngô Đình Diệm là nói đến chế độ gia đình trị,
chế độ Công giáo trị. Và dĩ nhiên, Công an trị. Ở ngoài
Trung, Ngô Đình Cẩn có cho tân trang chín cái hầm chứa vũ khí của quân
đội Nhật dưới đất ở ngoại ô thành phố Huế để nhốt tù chính trị, nhốt
Phật tử và những kẻ mà Cẩn định làm tiền. Ái Huyên, một nữ sinh Đồng
Khánh Huế, nạn nhân của Cẩn, trong khi bị giam ở Chín Hầm đã sáng tác
bài thơ:
Trước phong cảnh hữu tình ai có biết,
Rằng nơi đây địa ngục trần gian,
Nơi chứa chấp một chế độ bạo tàn,
Và cạnh đấy là cung vàng điện ngọc.
Du khách hỡi! Dừng lại đây nghe tiếng khóc,
Của oan hồn tử sĩ chết đau thương,
Những nấm mồ vô chủ suốt đêm trường,
Như quằn quại theo từng cơn gió buốt!
Trên nệm ấm kẻ bạo tàn đâu có biết,
Bao thân người chui rúc dưới tanh hôi,
Và nghe hồn khóc kể mãi không thôi!
[9]
Nhà ngục Chín Hầm đó của Ngô Đình Cẩn ghê rợn đến nỗi trong bài thơ
Vịnh Chuồng Cọp, một ẩn sĩ ở Huế đã tặng cho ông Cẩn một hỗn danh
để lưu truyền lại cho hậu thế:
Một kiếp tàn hung Hùm Xám đó,
Muôn dân ghê rợn ác ôn này!
[10]
Trong khi đó thì tại Sài Gòn, gần sở thú đô thành, Ngô Đình Nhu cho
xây trại giam P-42 để tra khảo những thành phần quốc gia đối lập với chế
độ. Một trong những người đó là cụ Trần Văn Hương, một trí thức “uy vũ
bất năng khuất” của miền Nam, và sau nầy là Tổng thống một tuần (từ 21
đến 28-4-1975), đã từng cùng với 17 nhân sĩ khác ký bản Tuyên bố
“Caravelle” để phản đối chế độ Diệm..
Ngồi trong tù, mỗi lần hồi phục được một chút tàn lực sau những lần
thẩm vấn và tra tấn, cụ Hương thường làm thơ để giết thì giờ.
NGỒI TÙ MỘT LŨ
Này anh, này cụ, này là chú,
Lóc cóc vào đây ngồi một lũ,
Những tưởng buồn như chó mất nhà,
Nào ngờ vui quá bàn xôm tụ,
Thân này dẫu vướng chốn lao lung,
Nỗi ấy vẫn ghi trong phế phủ,
Xuống chó lên voi lắm chuyện đời,
Xưa nay diễn biết bao nhiệm vụ.
[11]
Và hãy nghe cụ Hương tả cảnh nhà ngục P.42 để thấy chế độ Diệm đã đày
đọa người quốc gia như thế nào:
P.42 – SỞ THÚ
Danh đồn khét tiếng đã từng nghe,
P.42 đúng thiệt nè!
Điện tụ, bình quay kêu ới ới,
Xà bông nước đổ, nuốt the the,
Tra đi tra lại kinh chưa hả?
Khai tới khai lui mệt quá hè.
Cụ, Cố, Cậu trù, Ma trổ ngón,
Thân tù dưới búa lại trên đe.
[12]
(Ghi chú: Cụ là ông Diệm, Cố là ông Nhu, Cậu là
ông Cẩn, trù là trù yểm, Ma trổ ngón là bọn mật vụ Cần Lao trổ tài tra tấn)
Nhiệm ý Thiên Chúa
Ông Diệm và những người đồng đạo của ông tin rằng mọi sự trên đời
đều do Chúa định đoạt. Nhưng khi gặp những sự kiện cực kỳ vô lý không
thể giải thích được (như vì sao Chúa lòng lành mà lại tạo ra dịch
hạch giết hàng vạn người, hoặc tại sao Giáo hoàng có Chúa Thánh Thần che
chở mà vẫn phải di hành bằng xe Pop Moble bọc thép chống đạn, …) thì
họ cho rằng đó là Ý muốn mầu nhiệm của Thiên Chúa, loài người kh6ng thể
hiểu được. Vì vậy mà cuối những bài diễn văn chính thức gửi quốc dân
đồng bào, bất chấp 93% dân chúng không tin vào Chúa, ông Diệm vẫn luôn
luôn kết thúc bằng câu “Xin Thượng Đế ban phước lành cho chúng ta”.
Nhưng mặc bao nhiêu cầu xin của chính ông và đồng đạo, cuối cùng ông
vẫn chết thê thảm đúng luật Nhân-Quả. Biết sẽ chết như thế là “Nhiệm
ý của Thiên Chúa” nhưng trước đó ông vẫn cãi lời Chúa của ông với
lời trối trăn cho tàn dư của ông rằng “nếu tôi chết thì trả thù cho
tôi”.
Một “nhiệm ý Thiên Chúa” khác là sau ngày cách mạng 1-11-1963, một
trong các biểu tượng của chế độ là tượng Hai Bà Trưng ở bến Bạch Đằng
tại Sài Gòn đã bị sinh viên và dân chúng kéo đổ sập. Đây là bức tượng
tạc Hai Bà nhưng từ khuôn mặt cho đến vóc dáng thì lại giống như Bà Nhu
và con gái Ngô Đình Lệ Thủy. Bà Nhu là Đệ Nhất Phu nhân, là Thủ lãnh Lực
lượng Phụ nữ Bán Quân sự, là Chủ tịch Phong trào Phụ nữ Liên đới, và
nhất là vợ ông Cố vấn thét ra lửa trong dinh Độc Lập… nên bà nghĩ bà và
con gái nếu không hơn thì cũng bằng hai bà Trưng Trắc Trưng Nhị khởi
nghĩa chống quân Hán và dẹp yên 65 thành ở đất Lĩnh Nam, nên bà đáng
được dựng tượng cho nhân dân miền Nam tôn thờ..
Trước hành động kiêu căng vô văn hóa đó của bà Nhu, nhà thơ Đông Hồ
đã có bài thơ “Tượng Ai Đâu Phải Tượng Bà Trưng”
[14] như sau:
Tượng ai đâu phải tượng bà Trưng
Tóc uốn lưng eo kiểu lố lăng
Đón gió lại qua người ưỡn ẹo
Chờ chim Nam Bắc dáng tung tăng
Khuynh thành mặt đó y con ả,
Điêu khắc tay ai khéo cái thằng!
Chót vót đứng cao càng ngã nặng
Có ngày gãy cổ đứt ngang lưng.
Đây một hình xưa nhục nước non
Thay hai hình mới đứng thon von
Mình ni lông xát lưng eo thắt
Ngực xú chiêng nâng vú nở tròn.
Tưởng đứng hiên ngang em với chị
Hóa ra dìu dắt mẹ cùng con
Dòng sông Bến Nghé, dòng sông Hát
Lưu xú lưu phương tiếng để còn.
Ngoài ra, khi nhìn gia đình họ Ngô tán gia bại sản để tiếng xấu muôn
đời (không biết có do ý Chúa không), nhà văn lão thành Lãng Nhân Phùng
Tất Đắc đã ví von anh em ông Diệm, từ em ruột đến em dâu,
như giặc “Hoàng Sào”, một đám giặc cỏ ở tỉnh Sơn Đông cuối đời nhà Đường
bên Tàu:
NGÔ TRÀO
Trải qua một cuộc bể dâu,
Trông vời cố quận biết đâu là nhà?
Khéo oan gia, của phá gia,
Này là em ruột này là em dâu!
Cửa nhà dù tính về sau,
Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào!
[15]
Vì là một loại Hoàng Sào nên dù ông Diệm không chết trong ngày chế độ
ông bị lật đổ thì ông cũng đã chết trong lòng dân tộc từ lâu rồi. Cái
chết của ông Diệm là một sự sụp đổ thê thảm của danh phận phẩm giá.
Thê thảm đến độ học giả Lãng Nhân Phùng Tất Đắc và nhân sĩ Hoàng Trọng
Thược đã phải ghi vào sách sử lời lên án năm anh em nhà Ngô bằng những
câu thơ “nghìn năm bia miệng” để đời
[16]
Vùi nông đôi nấm giữa đêm sâu,
Mười thước sau chùa đủ bể dâu.
Ba cỗ quan tài bốn lỗ huyệt,
Năm thằng Trời đánh một con Mầu.
Mới vừa Hăm Sáu còn nguyên thủ,
Mà đến Mồng Hai đã vỡ đầu.
Bảy Tám thu trường Ngô với Đĩ,
Ngô thì chín rụng Đĩ chơi đâu?
[Ghi chú : “Năm thằng” là các ông Thục, Diệm, Nhu, Cẩn, và
Luyện. Và “con Mầu” là Trần thị Lệ Xuân, tức bà Nhu]
◄ ● ►
Chép và đọc lại mấy bài thơ trên để thấy một khi dân tộc đã lên
tiếng, rằng :
Nhà Ngô có bốn gian hùng
Diệm ngu, Nhu ác, Cẩn khùng, Thục
điên
Và:
Nước nguy vong vì lũ Diệm tham gian,
Gây nghiêng ngửa cơ đồ tuy nửa mảnh.
thì nỗ lực của đám tàn dư hoài Ngô tại hải ngoại, càng theo lệnh
Vatican đánh tráo lịch sử thì càng làm rõ thêm căn tính nô lệ phi dân
tộc của họ mà thôi. Thật tội nghiệp !
Phùng Quân
Long Beach, cuối tháng 10/2010
|
|
|
Biến cố 11-11-60 Trần Tương |
Người Việt đáng yêu Doãn Quốc Sỹ |
Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi Hoành Linh Đỗ Mậu |
[1]
http://en.wikipedia.org/wiki/Roman_Catholic_sex_abuse_cases_by_country
[2] (i) Vụ mưu sát ông Diệm của tín đồ Cao
Đài Hà Minh Trí tại Ban Mê Thuột, (ii) Vụ nổi loạn có võ trang
của Quốc Dân đảng tại chiến khu Ba Lòng, (iii) Vụ 18 nhân sĩ và
cựu Cộng tác viên ra tuyên ngôn tại khách sạn Caravelle tố cáo
và đòi cải cách chế độ, (iv) Vụ binh chủng Nhảy Dù và đảng phái
chính trị làm binh biến, (v) Vụ hai phi công Phạm Phú Quốc và
Nguyễn Văn Cử ném bom dinh Độc Lập, (vi) Vụ Phật giáo đấu tranh
đòi bình đẳng tôn giáo và công bằng xã hội, và cuối cùng (vii)
Cách mạng của quân đội vào tháng 11 năm 1963.
[3] Doãn Quốc Sỹ , Người Việt đáng yêu, Sáng
Tạo, Sài Gòn, 1965
[4] Hoàng Trọng Thược,
Tinh Thần Trào Phúng trong
Thi Ca Xứ Huế, Sài Gòn 1973, tr. 317.
[5] Hoàng Trọng Thược,
Tinh Thần Trào Phúng trong
Thi Ca Xứ Huế, Sài Gòn 1973, tr. 273.
[6] Tôn Nữ K.C., Bây Giờ Tháng Mấy, bán nguyệt
san Việt Nam Hải Ngoại (số 23 ngày 1-5 1978), tr. 43.
[7] Hoàng Trọng Thược,
Tinh Thần Trào Phúng trong
Thi Ca Xứ Huế, tr. 272.
[8] Hoành Linh
Đỗ Mậu, Việt Nam Máu lửa Quê Hương Tôi, Văn Nghệ, 1993, Chương 15, trang 511
[9] Hoàng Trọng Thược,
Tinh Thần Trào Phúng
trong Thi Ca Xứ Huế, tr. 275.
[10] Hoàng Trọng Thược,
Tinh Thần Trào Phúng trong
Thi Ca Xứ Huế, tr. 274
[11] Trần Tương, Biến cố
11-11-60, tr.
82. Sài Gòn: Đức Phổ, 1971
[12] Trần Tương, Biến cố 11-11-60,
tr. 58. Sài Gòn: Đức Phổ, 1971.
[14] Tạp chí Bút Hoa ngày 1-4-1964. Trích lại
từ Đời Viết Văn Của Tôi” (trang 200, 201). Nguyễn Hiến Lê
[15] Lãng Nhân Phùng Tất Đắc,
Chơi Chữ, tr. 73. Chơi Chữ. Texas: Zielekz, 1978.
[16] Lãng Nhân Phùng Tất Đắc,
Chơi Chữ, tái bản tại Hoa Kỳ năm 1979, tr. 186-187.
Và Hoàng Trọng Thược, Thi Ca Châm Biếm Và Trào Lộng Việt
Nam, Sài Gòn 1970, tr. 370-381.
Những bài về Ngô Đình Diệm