Những Bài Thơ Xuân Xướng Họa Giữa Hai Danh Sĩ
Nguyễn Văn Siêu Và Đặng Huy Trứ
Hưng Thước
http://sachhiem.net/VANHOC/Thoxuan_DangHT.php
25-Jan-2014
Nguyễn Văn Siêu (1795-1872) tự Tốn Ban, hiệu Phương Đình, người huyện Thọ Xương - Hà Nội. Một danh nho đầu Lê cuối Nguyễn. Đỗ Phó bảng dưới triều Minh Mạng, làm quan trải các chức kiểm thảo viện Hàn Lâm, chủ sự bộ lễ, thị giảng học sĩ.
Năm 1841 ông bị cách chức vì có dính líu đến vụ Cao Bá Quát vì mến tài thí sinh mà chữa bài thi. Năm 1849, ông được sung phó sứ sang nhà Thanh, khi về thăng Học sĩ viện Tập Hiền, sau bị lỗi lại bị giáng xuống chức Hàn Lâm thị độc, sau đổi làm Án sát Hưng Yên. Khi Cao Bá Quát khởi nghĩa chống Triều đình, ông sợ bị liên lụy nên cáo quan về dạy học.
Trong văn học đã có lời tôn xưng "thần Siêu thánh Quát" hay "văn như Siêu, Quát vô tiền Hán". Ông là người học rộng nổi tiếng thơ văn nhưng không được triều đình trọng dụng. Ông mất năm 1872 để lại nhiều thơ văn và biên khảo.
Đặng Huy Trứ (1825-1874) tự Hoàng Trung, quê quán ở Thừa Thiên Huế. Năm 17 tuổi đã thi đỗ cử nhân, năm 23 tuổi, thi Hội trúng cách đỗ Tiến sĩ. Khi vào thi Đình trong bài văn sách đoạn nói về “đạo Gia Tô dùng lời lẽ mê hoặc rất thâm độc như cỏ dại làm hại lúa non vậy. Tôi dùng 4 chữ gia miêu chi hại (cỏ năn làm hại lúa non) không chú ý gia miêu là đồng âm với Gia Miêu Ngoại trang quê hương nhà Vua (nơi phát tích của nhà Nguyễn ở Tống Sơn –Thanh Hóa” [1] . Vì dùng chữ phạm húy nên ông bị truất cả Tiến sĩ lẫn Cử nhân, cuối năm ấy ông đi thi lại và đỗ Giãi nguyên.
Ông làm quan nổi tiếng thanh liêm cương trực, lại có đầu óc canh tân. Đương thời ông được người trong nước và cả nước ngoài ca ngợi tài năng và phẩm hạnh. Tô Vĩ Đường một sĩ phu Trung Quốc khi đề Tựa "Đặng Hoàng Trung thi tập" đã viết:
"Trữ trung mẫn tắc đẳng ư Đỗ Công Bộ
Tả tính linh tắc tỉ ư Bạch Hương Sơn"
(Giải tỏ lòng trung mẫn hẳn ngang với Đỗ Phủ)
Miêu tả bách tính sinh linh hẳn so được với Bạch Cư Dị")
Sau này, Phan Bội Châu trong "Việt Nam Quốc sử khảo" đã coi ông là một trong những người "trồng mầm khai hóa đầu tiên" ở Việt Nam.
Mặc dù cách biệt nhau về tuổi tác nhưng giữa hai ông có mối giao tình sâu đậm, quý trọng nhau về tài năng cũng như phẩm hạnh.
Đặng Huy Trứ đã viết trong bài thơ:
Nguyên Vận:
Tặng Phương Đình Nguyễn Tốn Ban Tiên Sinh
"Lý học ngũ phu tử [2]
Văn chương bát đại gia [3]
Kiếm hồ xuân tiến tửu
Nhĩ thủy ngọ phanh trà
Bạch phát tâm nhưng tráng
Thanh dương hựu nhật tà
Kinh trung như hữu vấn
Trùng vị phú Kiêm Hà" (1866)
(Về lý học, tiên sinh ngang với năm bậc thầy (đời Tống), về văn chương, có thể sánh với tám nhà văn lớn (đời Đường)...Tóc bạc nhưng lòng vốn trẻ, ngày đang xuân nhưng bóng đã ngã rồi. Trong Kinh như có ai hỏi (vì sao tôi kết bạn) xin đọc bài phú Kiêm hà (tên bài thơ trong Kinh Thi, trách nhà vua không biết dùng người hiền tài, khiến họ phải đi ở ẩn).
Dịch thơ:
Lý học năm phu tử
Văn chương tám đại gia.
Xuân, hồ Gươm chuốc rượu
Trưa, sông Nhị pha trà.
Tóc bạc lòng còn trẻ
Ngày xuân bóng lại tà
Trong Kinh như có hỏi
Xin đọc thơ Kiêm Hà.
1866
KHƯƠNG HỮU DỤNG dịch
Mến tài đức ông kết bạn với Nguyễn Văn Siêu, mặc cho những lời dị nghị dèm pha của thiên hạ, ông cũng thẳng thắn trách nhà vua vì nghi kỵ nhỏ nhen mà bỏ rơi người hiền tài. Chỉ với bài thơ này chúng ta cũng thấy được chí khí của tác giả và tài học của Nguyễn Văn Siêu.
Cùng mối thâm tình, trong một bài thơ tặng Đặng Huy Trứ, Nguyễn Văn Siêu đã xem Đặng Huy Trứ là người bạn băng tuyết, có tư cách như hoa thủy tiên:
"Cửu vi băng tuyết bạn,
Hoa hữu thủy trung tiên".
(Lâu rồi bạn băng tuyết,
Hoa có dòng thủy tiên).
Là bạn tri kỷ, trong những dịp xuân về, hai người có thơ xướng họa với nhau. Trong những bài xướng họa này, ngoài tình bạn, còn gói gém tấm lòng ưu quốc ái dân:
“Danh lợi phi ngô ý,
Sơn hà hữu ẩn ưu”
(Danh lợi không phải là điều chúng ta mong muốn trong khi còn mang nhiều nỗi lo của đất nước trong lòng).
Dưới đây là nhũng bài thơ xuân xướng họa giữa hai ông:
Nguyên Đán Tức Cảnh Nguyễn Tốn Ban Tiên Sinh
Nguyên Vận:
Tự tác Sài Tang lão [4]
Tần canh giáp lịch xuân
Nhật hoa tư tụng đán
Trì thảo miện sinh tân
Tịch chước đài hoàn bạn [5]
Đường la cẩm tú nhân
Hòa phong lai mãn hộ
Hoa kính động hương trần.
Dịch thơ:
Làm ông già ẩn dật
Bao lần chào đón xuân
Nắng đẹp ngợi Nguyên đán
Cỏ non mừng canh tân
Chuốc rượu bạn bô lão
Gấm vóc khách đồng tâm
Gió ấm đầy nhà cửa,
Đường hoa thơm bụi trần
TRẦN LÊ VĂN dịch thơ.
Họa Nguyên Vận "Nguyên Dán Tức Cảnh" Của Nguyễn Tốn Ban Tiên Sinh
Bình dần tài tống lạp
Đinh mão dĩ nghinh xuân
Vân vật tam nguyên thủy
Giang sơn nhất vọng tân
Ba đào ông ký ngạn
Nhai đác ngã hà nhân?
Thả chước đồ tô tửu [6]
Bằng tha tẩy tục trần.
(1867)
Dịch thơ:
Bính dần vừa tiển chạp,
Đinh mão đã chào xuân.
Muôn vật lại khởi thủy,
Non ngước ngóng canh tân
Qua sóng, ông đến bến
Nghĩ mình, tôi vấn tâm.
Mời ông tạm chuốc chén
Mượn rượu rửa bụi trần.
TRẦN LÊ VĂN dịch.
Đinh Độc Tọa Hứng Thành Nguyễn Tốn Ban Tiên Sinh
Nguyên Vận:
Nguyên Vận:
Xuân miên trú bất thành [7]
Viên tĩnh điểu hy thanh
Đới nhật vi vân hiểu
Vô phong tế vũ sinh
Phô chi dung diệp thúy
Trước thụ đào hoa minh
Y cựu dư tam kính
Duy thanh vạn vật tình.
Cảm Hứng Ngồi Một Mình Trong Vườn Của Nguyễn Tốn Ban
Dịch thơ:
Ngày xuân mộng chẳng thành
Chim vườn vắng âm thanh.
Mây thưa, nắng thấp thóang
Gió lặng, mưa phùn sinh
Phù dung, phô lá biếc
Đào nở hoa phân minh
Ba lối mòn như cũ
Muôn vật đẹp tâm tình.
TRẦN LÊ VĂN dịch .
Họa Nguyên Vận Bài:
“Viên Đình Độc Tọa Hứng Thành” Của Nguyễn Tốn Ban
Xuân ngâm hứng ngẩu thành
Hỉ pháo tứ liên thanh.
Cựu hữ duy mao đỉnh
Hùng đàm hữu khúc sinh
Tang bồng hòan tự hứa
Mai liễu xảo tương nghinh
Thùy khả luận tâm giả
Lân ông vô hạn tình.
1867
Dịch thơ:
Họa Nguyên Vận Bài:
“Cảm Hứng Ngồi Một Mình Trong Vườn”
Thơ xuân hứng ngẩu thành
Bốn phía pháo liên thanh.
Bạn cũ sớm huơ bút
Ý hùng men nảy sinh
Tang bồng lòng tự hẹn
Mai liễu khéo tương nghinh
Cùng ai bàn tâm sự
Hàng xóm biết bao tình
TRẦN LÊ VĂN dịch.
Hối Lập Xuân Ký Đắc
(Nguyễn Tốn Ban Tiên Sinh Nguyên Vận)
Trừ tịch dư hàn chuyển
Lai minh phục đán thiền
Nhãn gian tranh đắc tuế
Xuân sắc bổ tàn niên
Mi thọ tửu thiên chước
Đông giao gá cấp thiên
Cửu vi băng tuyết bạn
Hoa hữu thủy trung tiên
Ngày Lập Xuân Cuối Tháng Chạp
(Nguyên Vận Của Nguyễn Tổn Ban)
Dịch thơ:
Sớm mai ngày nguyên đán
Giao thừa rớt lạnh thêm
Nhân gian mừng tuổi mới
Xuân sắc thay tàn niên
Tặng già mời rượu trước
Xóm đông chia tay liền
Lâu rồi bạn băng tuyết
Hoa có dòng thủy tiên
KHƯƠNG HỮU DỤNG dịch.
Họa Nguyên Vận Hối Lập Xuân Ký Đắc Của Nguyễn Tốn Ban Tiên Sinh.
Lạp vĩ xuân đầu nhật,
Nùng Sơn, Nhĩ Thủy thiên.
Phong trần do tác khách,
Thanh khí hạnh vong niên
Tây xá hữu sơ thục
Đông quân giá dĩ thiên
Lân ông tương xướng họa
Bất tục tức vi tiên
(1866).
Dịch thơ:
Đầu xuân ngày cuối chạp,
Nhị, Nùng trời đẹp thêm.
Phong trần thân lữ khách
Thanh khí bạn vong niên
Xóm tây rượu vừa cất
Chúa xuân xe sang liền
Cùng lân ông xướng họa
Chẳng tục tức là tiên
BỒ GIANG dịch.
_________________
Chú thích:
Thơ trong bài này trích từ cuốn “Đặng Huy Trứ con người và tác phẩm”. Nhà XB Tp HCM- 1992
[1] Đặng Dịch Trai ngôn hành lục –Đặng Huy Trứ, nhà xuất bản Hôi Sử học -1993.
[2] Ngũ phu tử: Năm vị danh nho đời Tống đó là, Chu Đôn Di, Chu Hy, Trình Hiệu, Trình Di, Trương Tái.
[3] Sài Tang: Núi Sài Tang, nơi Đào Tiềm về ở ẩn.
[4] Bát đại gia: Tám nhà văn lớn đời Đường và Tống đó là, Hàn Dũ, Liễu Tôn Nguyên, Âu Dương Tu, Vương An Thạch, Tô Tuân, Tô Thức, Tô Triệt, Tăng Củng.
[5] Đài hoàn: do chữ "Hòan khải đài bối" chỉ người già da nhăn nheo như cá khô
[6] Đồ Tô tửu: Thứ rượu cất bằng cỏ Đồ tô, uống trong dịp đầu năm.
[7] Xuân miên: tức xuân mộng. Có câu: "Xuân nhật thị miên, nhị ư nhập mộng giã" ngày xuân thích ngủ để nằm mộng. Về chữ "trú" ban ngày, Kinh Thi có câu: "tỵ trú tác dạ" (lấy ngày làm đêm), ý nói không để ý đến chính sự. Nguyễn Văn Siêu lúc này đã về hưu.
Trang Văn Học