|
29-Apr-2012 |
Vài Lời Về “Tôi”.
Trước hết tôi cần phải thú thực rằng, về ca nhạc của người Việt Nam
ở hải ngoại hay ở trong nước, và về các văn gia, nghệ sĩ Việt Nam,
đối với tôi thật là xa lạ. Ở Mỹ đã 37 năm mà tôi chưa từng bỏ tiền ra
đi xem hay mua DVD Paris By Night. Tôi cũng chưa từng đọc cuốn sách nào
của Nguyễn Ngọc Ngạn. Điều này không có nghĩa là các màn show Paris
By Night hay truyện của Nguyễn Ngọc Ngạn không có giá trị mà chỉ vì những
màn văn nghệ đó hay những tác phẩm của Nguyễn Ngọc Ngạn không nằm
trong lãnh vực sở thích của tôi, và tôi không có thì giờ để làm những
việc phí thì giờ đối với tôi.
Về nhạc thì sở thích của tôi là nhạc cổ điển Tây phương, tôi đã học
piano trong nhiều năm. Cách đây ít năm, đến nhà anh chị Nguyễn Mạnh
Quang, tôi đã nổi hứng chơi mấy bài ngắn của Beethoven, Chopin và Tekla
Badarzewska trước một số thân hữu của anh chị Quang. Về nhạc Việt
thì trước sau tôi chỉ “nghe được” có 4 bài: Thuyền Mơ của Dương
Thiệu Tước, Nụ
Cười Sơn Cước của Tô Hải, Chiều Hành Quân (không nhớ tên tác
giả), và sau này Hương Xưa của Cung Tiến, bài này của Cung Tiến
có ảnh hưởng rõ rệt của nhạc cổ điển Tây phương. Bài Chiều Hành Quân là
một kỷ niệm. Năm 1963, vợ chồng tôi đi tắm biển ở Nha Trang. Buổi
tối ngồi trước một quán ở bờ biển và suốt cả buổi tối, quán đó không
có gì hơn là vặn đi vặn lại cái đĩa hát Chiều Hành Quân. Nghe
mãi rồi nó cũng thấm vào người và thấy hay hay, vì khi đó tôi là một
sĩ quan, Trưởng Khoa Khoa Học trong Văn Hóa Vụ, Trường Võ Bị Quốc Gia.
Nhân mùa quân sự của sinh viên Võ Bị, nên các giáo sư trong Văn Hóa Vụ
nghỉ dạy. Ngoài ra, thình thoảng nghe vài câu Vọng Cổ, hay bài hát Chầu
Văn tôi cảm thấy rung cảm hơn là nghe nhạc của Phạm Duy hay Trịnh Công
Sơn [Xin lỗi các “fan” của Phạm Duy và Trịnh Công Sơn]. Về nghệ thuật,
cái gì làm cho ta rung cảm thì cái đó có giá trị với ta, không nhất
thiết phải có giá trị với người khác.
Về truyện thì trong thời còn đi học đã đọc khá nhiều truyện của Pháp
như của Victor Hugo, Alexandre Dumas, Lamartine v..v.. Sau này ở Saigon
thì đọc Kim Dung và tập truyện OSS 117 của Jean Bruce.. Từ ngày sang
Mỹ, năm 1975, ngoài những cuốn của John le Carré thì không còn đọc
truyện nữa, chỉ đọc những cuốn sách khảo cứu về khoa học, lịch sử,
tôn giáo… Vì thế nếu nói về truyện, hay hồi ký v..v… của các văn gia
hay chính khách Việt Nam thì tôi rất lạc hậu, không biết gì để nói. Tôi
nhớ và viết lại về những sở thích cá nhân để chứng tỏ tôi rất ít biết
về những cuộc trình diễn văn nghệ ở hải ngoại cũng như về MC Nguyễn Ngọc
Ngạn, chứ tôi biết chắc rằng những thông tin về cá nhân này chẳng có ai
cần biết đến hay quan tâm đến làm gì.
Tuy nhiên, tôi cũng phải thú thực là Paris By Night không hẳn là hoàn
toàn xa lạ với tôi, vì lâu lâu tôi cũng xem ké ở nhà người quen, hay
mượn một vài DVD về coi xem sao, không nhớ là những số mấy. Có những
người bạn, chỉ nghe tiếng hát là biết ngay là ca sĩ nào. Còn tôi thì
ngay cả nhìn mặt tôi cũng chẳng biết là ai. Đã lâu rồi, loáng thoáng
nghe thấy người ta chống đối Paris By Night 40 gì đó, làm như PBN 40 là
B 40 trong thời chiến. Tôi chẳng mấy quan tâm vì chưa hề coi PBN 40.
Xem vài DVD Paris By Night thì, đối với tôi, Nguyễn Cao Kỳ Duyên,
người đẹp nhưng đôi khi có giọng cười hơi thiếu duyên [xin lỗi, đây
chỉ là nhận xét thuần túy cá nhân]. Còn MC Nguyễn Ngọc Ngạn thì những
câu nói dí dỏm của ông ta đôi khi cũng gây được những trận cười trong
số khán thính giả. Nhưng điểm son của Nguyễn Ngọc Ngạn là ông ta rất
chịu khó làm bài tập [do home work], cho nên ông đã có thể khai sáng
cho khán thính giả nhiều về văn hóa và lịch sử Việt Nam. Tôi cho đây
là điểm rất đáng quý trong những buổi trình diễn văn nghệ của Paris
By Night.
Duy Chống Cộng Thị Nghiệp.
Một số nhỏ người Việt hải ngoại hành nghề “Duy chống Cộng thị
nghiệp” thường phát dị ứng với bất cứ cái gì mà đầu óc lệch lạc
của họ hoang tưởng là dính tới “Việt Cộng”, chứng tỏ mấy chục năm
rồi mà họ vẫn còn sợ “Việt Cộng”, khi không còn Cộng, ở nơi không
có Cộng..
Họ sợ một tu sĩ Phật Giáo từ Việt Nam được dân tỵ nạn CS mời sang giảng
đạo nhưng tưng bừng đón tiếp một “Chúa thứ hai” sang quyên tiền về xây
nhà thờ hay để làm gì chẳng ai biết. Họ sợ từ một cuộc triển lãm tranh,
một cuộc trình diễn văn nghệ, cho đến một bản nhạc của Trịnh Công Sơn.
Họ sợ màu đỏ và nương cao màu vàng, tin tưởng rằng đó là màu của chính
nghĩa và có một lịch sử huy hoàng, anh dũng nhất hành tinh. Với tâm cảnh
sợ và với ảo tưởng như vậy nên ngày nay mới có chiến dịch tố khổ Nguyễn
Ngọc Ngạn vì ông này chưa có phép của “cộng đồng” mà lại dám nhận làm
MC cho chương trình văn nghệ “Tình Ca Mùa Xuân” ở Berlin trong ngày 30/4/2012.
Tôi không biết tối ở Berlin thì ở Việt Nam là mấy giờ, ngày nào, nhưng
tôi biết rõ, nếu tổ chức ở Chicago tối 30/4 thì lúc đó là sáng ngày 1/5,
nghĩa là không còn là ngày “quốc hận”, hay “mất nước”, hay “Việt
Cộng cưỡng chiếm miền Nam” của chúng ta.
NNN bị chống nhưng các nhóm khác vẫn tổ chức show và còn đề rõ để ăn mừng ngày 30/4
Tôi biết được vụ ông Nguyễn Ngọc Ngạn bị tố khổ vì gần đây, trên trang
nhà Sách Hiếm, http://www.sachhiem.net/index.php?content=showemail&id=91 trong
mục “Thư, Ý kiến ngắn” có cái video clip về “Hoàng Anh Phỏng
Vấn Nguyễn Ngọc Ngạn”. Tuy chẳng mấy quan tâm đến nhân vật Nguyễn
Ngọc Ngạn nhưng tôi thường đọc tất cả những gì xuất hiện trên Sách Hiếm.
Cho nên tôi cũng tò mò xem cho biết. Xem xong rồi lại muốn biết nhiều
hơn lên tôi lại phải làm bài tập, vào Internet tìm hiểu thêm về nội vụ
sự việc, từ cá nhân Nguyễn Ngọc Ngạn cho đến những luận điệu chống đối
show ở Berlin ngày 30/4/12..
MC Nguyễn Ngọc Ngạn
Về Nguyễn Ngọc Ngạn thì tôi được biết một số chi tiết về tiểu sử, khuynh
hướng v…v…khi đọc bài: MC NGUYỄN NGỌC NGẠN NGOÀI ĐỜI VÀ TRÊN VIDEO do
một người viết từ năm 2008. Cuộc đời của ông ta cũng khá đặc biệt, và
sau 20 năm ông vẫn đứng vững trên “chiến trường hải ngoại” thì đó cũng
là điều đáng kể.
Xem video clip Hoàng Anh phỏng vấn Nguyễn Ngọc Ngạn và đọc những luận
điệu chống đối Nguyễn Ngọc Ngạn tôi thấy rõ ràng là Nguyễn Ngọc Ngạn và
những người chống đối thuộc hai lớp người khác nhau, trình độ khác nhau,
hiểu biết khác nhau, và do đó bất khả tương hợp, không thể nói chuyện
với nhau được. Trong video, ông Nguyễn Ngọc Ngạn có nói: không đồng
ý thì hãy đối thoại cùng nhau. Nhưng làm sao ông có thể đối thoại
với những người không thuộc lớp người như ông, không có hiểu biết như
ông, không có tâm tư như ông. Trong video cũng có những bài học của Nguyễn
Ngọc Ngạn cho những người chống đối, nhưng tôi e họ không thể lãnh hội
được, vì đầu óc họ đã mất đi một số thần kinh suy tư, hay thần kinh biết
ngượng, có thể từ khi họ gia nhập hay tự trói buộc mình trong một đoàn
thể nào đó..
Thật vậy, về các luận điệu chống Nguyễn Ngọc Ngạn thì tôi không thể
ngờ là trình độ của những người chống đối lại thấp đến thế. Tôi có cảm
tưởng là họ viết để mà viết, chống để mà chống, bất kể lý lẽ, hầu như
là chính họ cũng không biết mình viết cái gì, có hợp tình hợp lý hay không.
Điều rõ ràng là những người chống đối Nguyễn Ngọc Ngạn cho rằng Nguyễn
Ngọc Ngạn cũng phải nghĩ như mình, phải có cảm xúc như mình, phải thù
hận như mình, phải đau đớn như mình v…v… về ngày 30/4, ngày mà họ vẫn
ngu ngơ gọi là ngày “quốc hận” hay “mất nước”. Quốc là nước, nhưng mà
là nước nào đây, miền Nam thua chứ có mất đi đâu, và thử hỏi trên 80 triệu
người Việt Nam hiện nay, kể cả một số không nhỏ ở hải ngoại, có bao nhiêu
người coi ngày 30/4 là ngày “quốc hận”? Chẳng có ai cấm ai coi ngày đó
là ngày “quốc hận”, nhưng muốn mọi người khác cũng phải dùng một từ vô
nghĩa như mình, nghĩ như mình thì là một điều hoang tưởng, chưa kể cái
mà mình gọi là “quốc hận” đặt căn bản trên sự hiểu biết thiếu sót và sai
lầm về lịch sử Việt Nam trong chính trường quốc tế. Đó chỉ là cảm tính
cá nhân của một số người ít văn hóa, không phải là sự thực lịch sử. Và
cảm tính cá nhân thì chỉ có giá trị đối với cá nhân mà thôi, không thể
diễn giải để tổng quát hóa, muốn mọi người khác cũng phải có cùng một
cảm tính như mình. Có lẽ những người chống NNN không hiểu được như vậy.
Những Luận Điệu Chống Nguyễn Ngọc Ngạn:
Đọc một số những luận cứ chống Nguyễn Ngọc Ngạn của Thụyvi (Thư
của người vợ lính); Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc (Thư Không
Niêm Gởi Ông Nguyễn Ngọc Ngạn Và Trung Tâm Thúy Nga Paris); Nguyễn
Đan Quốc, Germany (Berlin Báo Động: Nguyễn Ngọc
Ngạn, Ý Lan, Nguyễn Hồng Nhung, Minh Tuyết, Bằng Kiều,
Đan Nguyên Tham Gia "Liên Hoan VC 30-4"); Lý
Mỹ Tâm, CHLB Đức ; Nguyễn Bá Chổi (Thư gửi Nhà văn
MC Nguyễn Ngọc Ngạn); Đinh Lâm Thanh (NHÂN NGÀY 30.4 –
NÓI CHUYỆN VỚI NHÀ VĂN NGUYỄN NGỌC NGẠN); Dược sĩ Lê Ngọc
Túy Hương (phê bình Giá Không Có Tôi) và vài thư ngỏ chống
đối, tẩy chay v…v… show ở Berlin, đôi khi kèm theo những từ thiếu văn
hóa mà trong video Nguyễn Ngọc Ngạn cho là “không trong sáng”, tôi
thấy tất cả những người này đều có một quan điểm chung: phát dị ứng
với ngày 30/4 vì coi ngày đó là ngày “quốc hận", “ngày để tang cho
cả nước” “ngày Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam” v…v…, và hiển nhiên
là quan điểm chung của họ là: “bất cứ ai không đồng ý với “họ”, “không
chống Cộng như “họ”, “không thù hận Cộng như họ”, “không dằn vặt đau
đớn về ngày 30/4 như họ” v…v…, đều là “CS nằm vùng”, hay “thân Cộng”,
hay “làm tay sai cho CS”, hay là “phản bội quốc gia, phản bội căn cước
tỵ nạn”, hay là “Việt Cộng” cả. Họ nhân danh cả cộng đồng người
Việt tỵ nạn, họ nhân danh cả nước, và đưa ra quan niệm là “trong
mùa quốc hận, không ai được ăn mừng vui vẻ, không được đi nghe Tình
Ca Mùa Xuân, không ai được vui chơi, mà phải biểu tình để kỷ niệm ngày
quốc hận, phải hát “anh là ai” của Việt Khang, quên rằng lời lẽ trong
bài hát của Việt Khang chỉ là những hoang tưởng, ấu trĩ, thiếu hiểu
biết, và đoán mò những việc chưa xảy ra về Trung Cộng, về đất nước,
và cả ngàn sau v…v… Tiện đây có vài ý kiến về bài “Anh là ai?”
Xin hỏi anh là ai?
Không cho tôi xuống đường để tỏ bày
Tình yêu quê hương này, dân tộc này đã quá nhiều đắng cay!
[Xuống đường 5 lần biểu tình là đủ rồi, chuyện quốc gia đại sự
không thể giải quyết bằng cách xuống đường]
Xin hỏi anh ở đâu?
Ngăn bước tôi chống giặc Tàu ngoại xâm
[Xuống đường biểu tình không thể chống được giặc Tàu ngoại xâm, chỉ
để
bày tỏ một thái độ, một lập trường, và không thể kéo dài ngày này sang
ngày khác.
Hãy đọc lịch sử để xem ông cha ta chống giặc Tàu ngoại xâm như thế
nào]
Xin hỏi anh ở đâu?
Sao mắng tôi bằng giọng nói dân tôi?
[Bởi anh nông nổi và ngu quá đi]
Dân tộc anh ở đâu?
Sao đang tâm làm tay sai cho Tàu?
[Đây là một khẳng định vô trách nhiệm (affirmation gratuite) và láo
xược]
Để ngàn sau ghi dấu
Bàn tay nào nhuộm đầy máu đồng bào
[Đoán mò, làm sao biết ngàn sau bàn tay nào ghi dấu nào]
Tôi không thể ngồi yên
Khi nước Việt Nam đang ngã nghiêng
Dân tộc tôi sắp phải đắm chìm
Một ngàn năm hay triền miên tăm tối
[Không ngồi yên, nhưng không thể cứu nước bằng một bài hát lãng xẹt,
ngu si, vô trí. Đoán mò, sắp là bao giờ]
Tôi không thể ngồi yên
Để đời sau cháu con tôi làm người
Cội nguồn ở đâu?
Khi thế giới nay đã không còn Việt Nam
[Nói bậy, bao giờ thì không còn Việt Nam? Việt Nam đã tồn tại trên
4 ngàn năm,
Đã chiến thắng các cường quốc như Tàu, Pháp và Mỹ, và nay là một nước
Độc lập, thống nhất được cả thế giới công nhận, có mốc biên giới phân
định
ranh giới giữa Tàu và Việt Nam]
Những tiếng hát ngu si, vô trí, đoán mò, sỉ nhục quốc gia như vậy
mà người ta cũng hồ hởi ca tụng và ký thỉnh nguyện thư để xin quan
trên can thiệp cho Việt Khang bị bắt vì tội nói láo thì không hiểu
đầu óc của những người này thuộc loại nào. Có vẻ như bất cứ cái gì
nói xấu về chính quyền, nói xấu về quốc gia dân tộc là tập thể phi dân
tộc cũng hồ hởi lên tiếng tung hô, ủng hộ, bất kể phải trái, bất kể đúng
sai.
Đọc những lời chống đối Nguyễn Ngọc Ngạn, tôi không hiểu họ
đang sống ở Mỹ, Pháp, Đức, Gia Nã Đại, hay ở Bùi Chu, Phát Diệm, Hố
Nai, Gia Kiệm mà trong những nơi đây con người phải suy nghĩ và hành
động theo sự chỉ đạo. Sau đây chúng ta hãy đọc vài luận điểm của họ
để xem họ thuộc lớp người nào. Tôi không để tên tác giả vì thấy không
cần thiết.
- NNN nói ông Sĩ "là một bầu show chuyên nghiệp". Việc
ông tham gia tổ chức những chương trình từ thiện không có nghĩa là
ông có tinh thần quốc gia, lại càng không thể chứng tỏ rằng ông có
tinh thần chống cộng.
[Vậy thì sao ! Tại sao ông Sĩ lại phải có tinh thần quốc gia hay tinh
thần chống Cộng nếu ông ta không muốn.]
- Một người có tinh thần Quốc Gia , không ai có thể vui mừng tổ
chức Đại nhạc hội vào ngày tang đất nước.Dù cho có là người
vô cảm đi nữa, cũng phải biết ngày 30/4 đối với cọng đồng tỵ nạn là
ngày không thể nào vui.
[Thế nào là tinh thần quốc gia? Đệ nhất hay đệ nhị Cộng Hòa? Tinh thần
đó như thế nào? Đối với cộng đồng tỵ nạn? Cộng đồng tỵ nạn nào? Tỵ nạn
chính trị hay tỵ nạn kinh tế? Thành phần ở những lớp tuổi nào. Bao nhiêu
phần trăm sinh sau 1975, và sinh ở ngoại quốc. CS làm gì họ mà họ phải
tỵ nạn. Cái gọi là Cộng đồng tỵ nạn ngày nay chỉ còn lại một thiểu số
già nua, một thế hệ khác đã trưởng thành và hầu hết thế hệ trẻ này không
coi mình là người tỵ nạn, trừ khi bị các bậc cha mẹ làm ô nhiễm đầu óc
để tiếp nối sự thù hận. Ai có tư cách để nói thay cho cộng đồng tỵ nạn?
Xin đừng lấy cảm tính của mình làm cảm tính của cả cộng đồng]
- Tại sao các ca nhạc sĩ không dành ngày thứ hai 30.4 này để tham
gia biểu tình quốc hận tại các nước Âu Châu rồi sau đó sẽ trình diển
tiếp vào ngày 1.5 ? Làm như vậy thì đây là một chứng minh hùng
hồn nhất rằng họ coi trọng ngày quốc hận, đứng chung chiến tuyến với
người VN quốc gia tại Đức chống cộng sản.
[Câu hỏi ngớ ngẩn. Tại vì họ không muốn bị người khác sai khiến làm
theo ý của người khác. Họ có quan niệm riêng và suy tư riêng. Tại sao
họ phải chứng minh hùng hồn (sic) rằng họ “coi trọng” (sic) ngày “quốc
hận” (sic). Mặt khác người VN quốc gia ở Đức chống cộng sản có đủ tư
cách và có đáng để cho họ đứng chung chiến tuyến không?]
- Khi ông và những ca sĩ của Trung tâm Thúy Nga Paris chọn trình
diễn trong ngày 30.04 tức là quý vị đã bước sang chiến tuyến khác.
Chiến tuyến khác, tức là đã đứng về phía nhà cầm quyền Cộng Sản Việt
Nam.
[Cái chiến tuyến đó nó nằm trong đầu của các ông chứ không nằm trong
đầu của chúng tôi. Không có một lý do nào để ông nhét cái chiến tuyến
đó vào đầu chúng tôi. Lực lượng của các ông ở phía bên này chiến tuyến
là bao nhiêu. Biểu tình, kiến nghị, thỉnh nguyện thư, chụp mũ, xuyên
tạc, văn phong chửi rủa thô tục, hay “không trong sáng” (theo Nguyễn Ngọc
Ngạn), đó là tất cả những gì các ông có thể làm được. Chúng tôi có quan
niệm riêng, có suy tư riêng và hiểu biết hơn, không có bổn phận phải nghe
theo bất cứ ý kiến nào của người khác. Vậy tại sao chúng tôi phải đứng
về phía chiến tuyến của các ông. Các ông là những ai, tư cách ra sao,
khả năng như thế nào và tại sao chúng tôi phải đứng về phía chiến tuyến
của các ông, nếu thực sự có một cái gọi là “chiến tuyến”. Các ông có hiểu
được như vậy không. Ông đang ở nước Mỹ, Pháp, Đức, hay đang đóng vai
Chúa Sơn Lâm ở trong rừng?]
- Bao nhiêu năm qua, cộng đồng Việt Nam hải ngoại đã bảo-bọc,
nuôi nấng ông cùng Trung tâm Thúy Nga, cho dù có những giai đoạn quý
vị gặp khó khăn kinh tế, nhưng không vì lẽ đó lại đi hợp tác với kẻ
thù, bỏ đi sự bảo-bọc nuôi nấng của cộng đồng Việt Nam hải ngoại.
Như thế có còn đúng với ý nghĩa câu nói bên trên hay không?
[Ông nói bậy. Lại là cộng đồng, cộng đồng hải ngoại là số người đi
xem PBN hay mua DVD PBN? Trình diễn văn nghệ là một thương vụ. Chúng
tôi bán hàng, ông thích thì mua, không thích thì thôi, có ai bắt buộc
ông đâu. Chẳng có ai bắt ông phải mua hàng của chúng tôi. Đối với
tôi, Thúy Nga Paris có cho không vé tôi cũng không đi coi, vì những
thứ đó không thuộc sở thích của tôi. Ông bỏ tiền ra để mua vui cho chính
ông chứ đâu có phải ông muốn bao-bọc cho ai]
Trên đây là vài luận điệu chống NNN điển hình. Đại cương thì đa
số những luận điệu chống đối đều thuộc loại như vậy cả. Huênh hoang
nhân danh cộng đồng, nhân danh cả nước v..v.. NNN đã nói rất đúng trong
video. Họ tự trói buộc mình trong những gì mà họ cho là liên hệ đến
CS. Đây không phải là chống đối mà chỉ là mặc cảm. 37 năm qua, sống
trong những đất nước văn minh tự do nhất thế giới mà vẫn chưa hiểu thế
nào là tự do, là quyền suy tư cá nhân v…v của người khác.
Vài Quan Điểm Của Giới Trẻ:
“Các bác” chống NNN hăng say như vậy nhưng có cảm thấy ngượng, nếu
trong đầu còn một số thần kinh biết ngượng, với đám trẻ thuộc hàng
con cháu của mình khi đọc những hàng chữ sau đây:
- Ông MC này lại bị bà con phàn nàn chuyện đi show 30-04-2012 ở Berlin
Xin lổi nha CC thì sao ngày đó là ngày người buồn thì cứ đi kiếm
rượu uống hay chửi VC.
Tại sao người ta đi kiếm tiền lại phản đối, tui thiệt hết biết
CC theo kiểu gì đây!
Tại VN kìa có bao nhiêu trò vui giải trí nhân ngày 30/04 sao không
vận động thân nhân họ ở nhà tẩy chay 30/04 đi.
- Ông ghét là cá nhân ông ghét, không ảnh hưởng gì tới chuyện show
bên Berlin, người tổ chức show ở Berlin cho người ở Berlin coi, ông
ở chổ khác thích thì bay qua đó coi, không thích thì ở nhà leo lên
net chửi tẩy chay v.v.. Xứ tự do mà ông?
- KD [Kỳ Duyên] chỉ thắc mắc... ngày 30 tháng 4 là ngày thứ
hai thì mọi người Việt Hải Ngoại (ở Mỹ, Canada, Úc...trừ Âu Châu vì
đó là ngày lễ) trong mọi ngành nghề đều phải đi, ĐƯỢC đi làm, duy
có nghệ sĩ và bầu show là không được đi làm?
Hay là các bạn thử gọi vào sở sáng thứ hai nói với ông chủ là mình
không đi làm được vì đó là ngày 30/4 coi ông ta nói làm sao? Ồ...nhưng
thôi nhỡ ông ta không cho nghỉ, các bạn đành phải lấy ngày "vacation
day off" thì "Các Bác" lại mắng là mình đang ăn mừng!
Có nghĩa là đi làm cũng không được mà nghỉ làm cũng không xong
với "Các Bác"? Biết làm thế nào đây? Ủa mà "Các
Bác" này là ai mà mình phải sợ dữ vậy?
- Nếu mà phải đào sâu thêm vào cái biến cố 30/4 thì ngay tại nước
Mỹ cũng sẽ nổ ra một cuộc chiến tranh hiềm khích giữa những người
VN đi bằng tàu đến được bến bờ tự do và những người được đi máy bay
qua đoàn tụ với gia đình một cách nhanh chóng hạnh phúc.
Sự chênh lệch và không cộng bình rất hiển nhiên trong cái xã hội
mà chúng ta đang sống đây, làm sao có thể tránh được, làm sao bắt
buộc tất cả mọi người phải suy nghĩ giống nhau hay đồng quan điểm như
nhau được vì hoàn cảnh của họ khác mình.
Về Video Hoàng Anh Phỏng Vấn Nguyễn Ngọc Ngạn:
Thường thường thì khi xem hay đọc một cái gì đó, chúng ta có thể rút
tỉa ra những gì mà chúng ta có thể học và dùng trong đời. Thí dụ,
trong những truyện chưởng của Kim Dung, Cổ Long hay xem những phim lịch
sử chúng ta cũng có thể học được nhiều triết lý trong đó. Đó là khuynh
hướng đọc sách và xem phim của tôi.
Đọc những luận điệu chống NNN chúng ta học được những gì? Có nên học
sự thù hận phản ánh những cảm tính cá nhân bắt nguồn từ sự thiếu hiểu
biết, trong khi đọc câu kết trong cuốn truyện Cửu Nguyệt Ưng Phi của
Cổ Long điều mà chúng ta có thể học được là: “Nếu một người vẫn
không thể quên thù hận, há chẳng ngu xuẩn lắm sao?”
Nhưng trong video Hoàng Anh phỏng vấn Nguyễn Ngọc Ngạn chúng ta có
thể học được vài điều hữu ích.
Trước lời than phiền của Hoàng Anh là
giới trẻ phải đọc những lời công kích thô tục trên Internet, NNN đã
khuyên “các Bác” đại khái là: Những lớp người nhiều tuổi hãy nhìn lại
chính mình. Hãy nghĩ đến con cái. Mình dạy chúng không được ăn nói
thô tục mà chính mình lại phát ra những lời đó thì làm sao có được sự
kính trọng của con cái mình. Và NNN cho rằng những người như vậy cần
phải biết ngượng với chính mình. NNN cũng đưa ra một nhận xét là một
số người chỉ đánh giặc hình thức và giặc đây là chúng ta đã tạo ra trong
cộng đồng của chúng ta chứ không ở đâu khác. NNN nói đúng, đây là một
sự kiện khiến cho nhiều người không cảm thấy thoải mái vì mình ở trong
một cộng đồng có những thành phần như vậy. NNN cho rằng những người
chụp mũ, xuyên tạc, dùng lời lẽ thô tục chỉ là những kẻ bất chính trong
cộng đồng và ông khuyên hãy bỏ đi những chửi bới, nặc danh, có giận
thì nuốt giận, không đồng ý thì đối thoại với nhau, không nên làm gương
xấu cho giới trẻ. Ông nói là những hoạt động của ông, những lời phê
bình của ông đối với những tệ đoan tham nhũng lạm quyền ở trong nước
chỉ có mục đích là muốn cho nước Việt Nam tiến lên ngang bằng với những
văn minh tiến bộ trên thế giới và con người khá hơn. Cá nhân tôi rất
đồng ý với NNN, vì ai mà không muốn như vậy?
Vài Suy Tư Cá Nhân:
Tùy theo tâm tư cá nhân, ngày 30/4 có nhiều tên khác nhau. Đối với
một số người thì đó là ngày “quốc hận” hay ngày “mất nước” hay ngày
“Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam”, ngày “cả nước để tang”. Đối với
tuyệt đại đa số người dân Việt Nam thì đó là ngày “Thống nhất đất nước”,
vì đây là một sự kiện lịch sử bất khả phủ bác.
80 tuổi đầu mà tôi vẫn không hiểu “quốc” với “nước” của họ là nước
nào, và Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam như thế nào. Đồng minh, đúng
ra là ông Chủ chi tiền, tháo chạy và chúng ta chạy theo, Việt Cộng tiến
như đi vào chỗ không người, hoàn thành mục đích thống nhất đất nước trong
một thời gian kỷ lục, vậy “cưỡng chiếm” ở chỗ nào. Miền Nam là một
phần đất của Việt Nam, vì hoàn cảnh lịch sử nên tạm thời bị chia cắt,
nhưng trước sau gì rồi đất nước cũng phải thống nhất. Có vẻ như sự hiểu
biết về lịch sử của họ là một con số không vĩ đại. Ngày nay, dùng “cưỡng
từ” để “đoạt lý” là chuyện của thời Trung Cổ hay thời đại của sự man rợ
và đen tối trí thức.
Chúng ta hãy đọc vài ý kiến của giới trẻ trên kbchn.net:
longthanh - longk97@gmail.com -
27/04/2012 06:43
Ngày non sông liền một dải "vui sao nước mắt lại trào" mà
gọi là tháng tư đen thì pó tay.Xin thưa với các vị tôi chỉ thấy 1 điều
dù hiện nay trong nước có những thành tựu to lớn về phát triển kinh
tế ,vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Nhưng chưa bao giờ nước Việt Nam
độc lập, tự do, người dân Việt Nam chưa bao giờ có niềm tin lạc quan
về tương lai tươi sáng của dân tộc như ngày nay .Tôi biết chắc chắn
rằng nếu VNCH mà lãnh đạo đất nước thì Việt Nam không bao giờ được như
vậy.
tran hung - 27/04/2012 05:18
Nhân đọc bài “ viết cho giới trẻ : ý nghĩa của ngày quốc hận
30/4 “ của cái gọi là GS có tên là Trần Thuỷ Tiên ( Không biết
đàn ông hay bàn bà ) trên trang mạng của SMCĐ. Bài viết có đoạn như
sau:
“Ngày Quốc Hận là ngày buồn thảm, vì đó là ngày mà chúng ta,
những người Việt ở Miền Nam Việt Nam, bị mất đất nước vào tay cộng
sản Bắc Việt tàn ác, từ Hà Nội, bằng sự xâm lăng bạo lực và bất hợp
pháp của bộ đội Miền Bắc vào lãnh thổ tự do của dân Miền Nam, năm
1975.”
Không biết cái gọi là giáo sư ấy là GS gì? Nên chăng nên đổi
lại là Pháp sư Trần thuỷ Tiên. Chỉ có pháp sư là người có phù phép
cao cường biến trắng thành đen , biến đúng thành sai và ngược lại.
Một trí thức như vậy thì không có gì để nói. Xin mời các bạn bình
luận giúp
Nguyễn Hoàng An - 27/04/2012 05:28
Ui cái thứ GS gió bay ấy thì nói làm cái gì , 1 thằng đầu óc ngu
dốt về chính trị lịch sử thì k nên nói chuyện với nó, nói như nước đổ
đầu vịt thôi, cái thứ này k biết cái quái gì về CS hết, tui thách nó
biết đc chủ nghĩa CS là như thế nào, XHCN là như thế nào đấy, với cái
đầu óc dốt đặc như thế này thì còn lâu mới hiểu đc.
NNN nói lớp người lớn tuổi phải biết ngượng với con cháu mình. Tuy
tôi chẳng dính líu gì vào chuyện này nhưng cũng cảm thấy ngượng. Ngượng
vì chúng ta đã thua CS về quân sự, nay chúng ta lại thua về hiểu biết
và đạo đức.
Tại sao sau 37 năm rồi mà chúng ta vẫn còn mang những quan niệm sai
lầm về ngày 30/4? Tại vì chúng ta tự giam mình trong hào quang của những
ảo tưởng. Ảo tưởng cho rằng chúng ta giỏi hơn, văn minh hơn, dân chủ
hơn, nhân đạo hơn đối phương. Ảo tưởng cho rằng CSVN gây ra cuộc chiến
ở Việt Nam, làm tay sai cho Nga Tàu nên phải theo lệnh của Nga, Tàu.
Ảo tưởng cho rằng Pháp trở lại Việt Nam và Mỹ can thiệp vào VN vì VN là
Cộng Sản. Từ những ảo tưởng này đưa chúng ta đến những hành động sai
lầm, và trong mấy chục năm nay, chúng ta tiếp tục dùng mọi thủ đoạn, từ
bịa đặt cho đến xuyên tạc, từ những hành động hạ cấp phi dân chủ tự do
cho đến khủng bố, vu khống để gây thù hận, với hi vọng là mọi người sẽ
theo ý của chúng ta, chống Cộng đến người CS cuối cùng. Nhưng kết quả
như thế nào, chúng ta vẫn chưa tỉnh, tiếp tục sống trong sự mê sảng.
Đối với những người Công giáo chống Cộng cho Chúa vì cho rằng CS vô thần,
từ chối không chấp nhận Chúa, nên phải tiêu diệt đến người cuối cùng,
thì không nói làm gì. Nhưng chúng ta là đa số người Việt Nam không bị
mê hoặc bởi cái bánh vẽ trên trời, còn có đầu óc thì chúng ta cũng nên
dùng đến đầu óc để suy nghĩ và tìm hiểu sự thật, chứ không thể cứ mãi
mãi sông trong ảo tưởng.
Có gì vô lý hơn khi người trong nước đã quên đi mối thù đối với kẻ
thù chính, Pháp, Mỹ, và tái lập bang giao và giao thương với các nước
này, để đưa nước nhà tiến lên, trong khi một thiểu số trong chúng ta
tiếp tục nuôi dưỡng sự thù hận và chống chính những đồng bào của chúng
ta, cho rằng mọi người ở hải ngoại và ở trong nước phải tin vào những
lời tuyên truyền sai sự thật của chúng ta: Vì ngày 30/4 cho nên VN
trở thành đói khổ nhất thế giới, không có tự do tôn giáo v…v… và thỉnh
nguyện những quốc gia một thời đã tàn phá đất nước chúng ta phải xía
vào những chuyện nội bộ của Việt Nam để cho một thiểu số chúng ta được
hài lòng. Chẳng có ai có thể phủ nhận là ngày 30/4 đã gây cho một số người
không nhỏ người Việt ở miền Nam những vết thương lòng. Nhưng thay
vì tìm hiểu để chữa lành vết thương thì chúng ta lại cứ làm chấn thương
thêm vết thương đó. Người Mỹ gọi là “add insult to injury”, nghĩa là
làm cho tình trạng xấu xấu hơn. Nếu chúng ta chịu khó tìm hiểu về mọi
khía cạnh của cuộc chiến thì vết thương của chúng ta đã lành từ lâu rồi.
Và tôi đã tự chữa lành vết thương của tôi từ lâu rồi. Ai nói là phải
bỏ nhà, bỏ xe, bỏ địa vị, ra đi với tay không, mà lòng không bị thương.
Nhưng chữa lành như thế nào? Qua sự hiểu biết.
Kết cục của cuộc chiến vào ngày 30/4 đã đưa đến cho tôi một thắc mắc
và ấm ức trong vài năm đầu sống ở Mỹ sau 1975. Thắc mắc và ấm ức đó
là:
Tại sao chúng ta lại thua?
“Miền Nam có hơn một triệu quân, một thời cộng với hơn nửa
triệu quân Mỹ, với đầy đủ vũ khí, đạn dược, và có ưu thế tuyệt đối
về máy bay chiến đấu, về B52 để trải thảm bom từ trên thượng tầng
không khí, xe tăng, tàu chiến, và cả thuốc khai quang Agent Orange
để cho Việt Cộng không còn chỗ ẩn núp v..v.. nhưng tại sao vẫn không
thắng nổi đối phương để rồi Mỹ phải tìm cách Việt Nam hóa cuộc
chiến, rồi “tháo chạy” [từ của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng], và
cuối cùng, Việt Cộng vẫn “cưỡng chiếm” được miền Nam? Vậy ngoài yếu
tố quân sự, những yếu tố nào đã quyết định cuộc chiến? Phải chăng phe
Quốc Gia của chúng ta có vấn đề về chính nghĩa, về chủ quyền? Phải
chăng quân dân miền Nam không tích cực chống Cộng? Hay phải chăng yếu
tố quyết định là truyền thống yêu nước của người dân Việt Nam? Thực
ra thì Quốc Gia và Cộng sản bên nào có Chính Nghĩa? Bên nào hợp lòng
dân và được dân ủng hộ? Nếu không được người dân miền Nam ủng hộ và
che chở, Bắc Việt có thắng được không? Ý chí và khả năng chiến đấu
của binh sĩ hai bên ra sao? Khả năng chỉ huy của các cấp lãnh đạo dân
chính cũng như quân sự? Và còn những gì gì nữa?”
Những thắc mắc trên cứ ám ảnh đầu óc tôi, cho nên sau vài năm, khi
việc làm và đời sống kinh tế gia đình đã ổn định, tôi đã để thì giờ
tìm hiểu, và đọc rất nhiều sách viết về cuộc chiến ở Việt Nam, phần lớn
là sách Mỹ, sách Pháp, mà tôi tin rằng các tác giả không tự trói buộc
mình trong sự phân biệt Quốc-Cộng ở Việt Nam. Phần lớn họ là những học
giả, giáo sư đại học, những viên chức cao cấp trong chính quyền và trong
Quân lực Mỹ, và những tác phẩm của họ, xuất bản nhiều năm sau khi chiến
tranh đã chấm dứt, chỉ là những công cuộc nghiên cứu nghiêm chỉnh trong
lãnh vực học thuật.
Ngày nay, lịch sử đã rõ ràng. Với những kiến thức đúng về cuộc chiến
thì chúng ta đã rõ, cuộc chiến trước 1954 là cuộc chiến chống xâm
lăng, xâm lăng của thực dân Pháp toan tính tái lập nền đô hộ trên
đầu dân Việt Nam, bất kể là Việt Nam có phải là Cộng sản hay không, với
sự hỗ trợ về quân cụ, vũ khí rất đáng kể của đế quốc Mỹ. Ngày 14 tháng
8, 1945, Tổng Thống Pháp De Gaulle bổ nhiệm Tướng Leclerc làm Tổng Chỉ
Huy lực lượng ở Đông Dương và chỉ định Thierry d’Argenlieu làm Cao Ủy để “cắm
lại lá cờ tam tài của chúng ta ở đó” (y replanter notre drapeau). Và
Mỹ đã giúp hơn 80% chiến phí cho Pháp trong mục đích thực dân này.
Còn cuộc chiến hậu Geneva là cuộc chiến chống xâm lăng của Mỹ. Đây
là kết luận của các học giả Tây phương, xét theo những sự kiện lịch
sử chứ không xét theo cảm tính phe phái Quốc-Cộng của người Việt Nam.
Chúng ta thường cho rằng Mỹ can thiệp vào Việt Nam để giúp chúng ta
chống Cộng, thực thi tự do dân chủ trên đất nước.. Sự thực không phải
vậy, đó chỉ là một chiêu bài. Sự thật là, Mỹ tự ban cho mình quyền
của một cảnh sát quốc tế, ép buộc mọi quốc gia phải theo sự xếp đặt
của mình, nghĩa là, áp dụng luật rừng và cường quyền thắng công lý của
kẻ mạnh để gây ảnh hưởng và nhất là cho những mục đích kinh tế. Theo
những tài liệu hiện hữu của một số học giả Mỹ, cuộc can thiệp của Mỹ
vào Việt Nam nằm trong chủ trương bá quyền của Mỹ trên khắp thế giới
chứ không phải chỉ riêng ở Việt Nam. Mỹ đã can thiệp vào nội bộ của
nhiều nước: El Salvador, Dominican Republic, Philippines, Thailand v..v..
Và ngày nay, Mỹ đã xuất cảng tự do dân chủ sang Iraq, Afghanistan, Syria,
Libya v…v… với hậu thuẫn của máy bay tàng hình, của bom đạn, trong đó
có cả “bom áp nhiệt” mà một nữ khoa học gia Việt Nam của chúng ta đã
có công lớn góp phần chế tạo để tạ ơn nước Mỹ.
Thật vậy, trong thời điểm đó, hơn 1/4 thế giới theo Cộng Sản. Cuba
ở ngay sát nách Mỹ là Cộng Sản, toàn thể Đông Âu theo Cộng Sản, và
hai Cộng Sản gộc là Nga và Tàu, tại sao Mỹ không chống ở những nơi đó mà
lại đi chống ở một nước nghèo, nhỏ, xa xôi như Việt Nam, vừa mới giành
được độc lập sau một cuộc chiến đấu gian khổ dài 9 năm, nhân dân mệt mỏi,
tài nguyên kiệt quệ, và nhất là không có khả năng gây bất cứ sự nguy hại
nào cho Mỹ? Chúng ta đừng quên là Mỹ đã giúp 80% chiến phí cho Pháp để
Pháp tái lập nền đô hộ Việt Nam. Và chúng ta cũng đừng quên là ngay sau
đệ nhị Thế Chiến, TT Eisenhower đã hỏi Tưởng Giới Thạch là có muốn Đông
Dương không, trong đó có Việt Nam, làm như Việt Nam là một sản vật của
Mỹ, Mỹ muốn cho ai thì cho. Nhưng với kinh nghiệm lịch sử, Tưởng Giới
Thạch đã từ chối.
Bởi vậy cho nên Mục Sư Tin Lành Robert McAfee Brown, Giáo sư Tôn Giáo
Học tại đại học Stanford, viết trong cuốn Việt Nam: Sự Khủng Khoảng
của Lương Tri (Vietnam: Crisis of Conscience, Association Press,
N.Y., 1967), trang 79:
Thật là khôi hài, ngay khi mà chúng ta nói rằng chúng ta phải “chặn
đứng Cộng Sản” ở Việt Nam, thì ở những nơi khác chúng ta lại sống chung
với Cộng Sản, soạn thảo những hiệp ước với Nga Sô, mở rộng giao thương
với Đông Âu, ủng hộ Tito ở Nam Tư. Ở những nơi khác, chúng ta rõ ràng
quyết định là sống chung hòa bình với Cộng Sản, và khuyến khích những
xã hội Cộng Sản độc lập, không cần đến sự liên kết với nhau trong khối
Cộng sản.
(It is ironic that at precisely the moment we are saying that we must
“halt communism” in Vietnam, we are coming to terms with it elsewhere,
working out new treaty agreements with Russia, extending trade in Eastern
Europe, giving support to Tito in Yougoslavia. Elsewhere, we have clearly
decide to coexist with communism, and to encourage independent Communist
societies that will be increasingly free of the need for alliance with
one another.)
Mục sư Brown nhận định không sai. Ngày 4 tháng 11, 1956, xe tăng
Nga tiến vào Budapest, thủ đô Hung Gia Lợi, một sự xâm lăng trắng trợn
để dẹp một chính quyền Cộng Sản ngỏ ý cho dân được bầu cử tự do. Mỹ
chỉ can thiệp bằng miệng, dùng đài phát thanh VOA khuyến khích dân Hung
chống trả, hứa suông là sẽ đem quân vào can thiệp, rồi án binh bất động.
Việt Nam không có quân xâm lăng từ ngoài vào. Vậy tại sao lại là Việt Nam?
Cho nên, những lý do Mỹ viện ra để can thiệp vào Việt Nam không chính
đáng. Giáo sư Mortimer T. Cohen viết trong cuốn From Prologue To Epilogue
In Vietnam, Publisher Retriever Bookshop, N.Y., 1979, trang 208:
Trong 21 năm bị lôi cuốn vào Đông Dương, Chính Phủ Mỹ đã đưa
ra những “lý do” về những hành động của mình. Những lý do này
vô giá trị. Lý do duy nhất mà Mỹ vào Đông Dương là để ngăn
chận vùng này khỏi rơi vào tay Cộng Sản bằng một cuộc bầu cử, một cuộc
cách mạng nội bộ... Và đó cũng đủ là lý do.
Thêm nhiều lý do. Và thêm nhiều lý do nữa. Chúng mọc
lên như măng tháng 5. Trước khi chiến tranh Đông Dương chấm
dứt, những lý do có thể chứa đầy một cuốn sách. Không lý
do nào có giá trị.
(During the course of its 21 years of involvement in Indochina, the
United States Government offfered “reasons” for its actions. These
reasons were worthless. The only reason for the American being in
Indochina was to prevent the area from going Communist by an election,
by an internal revolution... And this was reason enough...
More reasons. And more reasons. They sprouted like asparagus
in May. Before the Indochina War came to an end, a book could have
filled with reasons. None of them were valid.)
Vậy thì, thực chất cuộc can thiệp của Mỹ vào Việt Nam là gì? Phải
chăng đó là để giúp Nam Việt Nam chống Cộng (tại sao phải chống ở Việt
Nam?) hay chỉ là một cuộc xâm lăng ngụy trang đàng sau chiêu bài
giúp Nam Việt Nam để có tự do dân chủ. 9 năm dưới chế độ Ngô Đình
Diệm có tự do dân chủ không? Ngày nay, chúng ta có thể đọc vài tài
liệu về thực chất cuộc can thiệp của Mỹ vào Việt Nam, do chính
người Mỹ viết, và viết sau khi chiến tranh Đông Dương đã chấm dứt từ
lâu.
Sau đây là vài đoạn điển hình trong cuốn The Pentagon Papers,
tài liệu của Ngũ Giác Đài, hiển nhiên không phải thuộc loại phản chiến
hay thiên Cộng:
Tài liệu Ngũ Giác Đài nói, tình báo Mỹ ước tính trong thập niên 1950
là chiến tranh phát khởi phần lớn là do sự nổi dậy ở miền Nam để
chống chế độ tham nhũng và càng ngày càng đàn áp dân chúng của Ngô Đình
Diệm .
Tài liệu Ngũ Giác Đài nói về những năm 1956-1959, khi mà cuộc
nổi dậy bắt đầu, hầu hết những người đứng lên cầm vũ khí là những
người Việt miền Nam và những nguyên nhân họ chiến đấu không có cách
nào có thể bảo đó là do kế hoạch tính toán trước ở Bắc Việt.
Chỉ có rất ít bằng chứng là Bắc Việt đã chỉ đạo, hoặc có khả năng
để chỉ đạo, những sự bạo động ở miền Nam (3 tháng cuối 1957:
75 viên chức địa phương bị ám sát. Ngày 22 tháng 10, 1957,
13 người Mỹ bị thương trong 3 cuộc nổ bom ở Saigon)
Từ năm 1954 đến năm 1958 Bắc Việt tập trung vào sự phát triển
nội bộ, hiển nhiên là hi vọng vào một cuộc thống nhất đất nước hoặc
qua cuộc bầu cử theo như Hiệp Định Genève hoặc là kết quả của sự
sụp đổ đương nhiên của chế độ Diệm yếu ớt. Cộng sản để lại
ở miền Nam một bộ phận nòng cốt khi họ đi tập kết ra Bắc năm 1954
sau cuộc chiến với Pháp chấm dứt, nhưng những cán bộ được lệnh
chỉ được “tranh đấu chính trị” [để sửa soạn kiếm phiếu trong
cuộc bầu cử mà Bắc Việt hi vọng, và điều này không vi phạm hiệp định
Genève].
Tháng 5, 1959, các nhà lãnh đạo Bắc Việt quyết định nắm quyền
cuộc nổi dậy càng ngày càng lớn mạnh ở miền Nam. [Vì hi vọng
thống nhất đất nước bằng hòa bình qua một cuộc Tổng Tuyển Cử không
thể thực hiện do sự can thiệp của Mỹ vào miền Nam]
Tài liệu Ngũ Giác Đài nói, cả tình báo Mỹ và các tù binh Việt
Cộng đều cho sự thành công nhanh chóng của Việt Cộng sau 1959 là
do những sai lầm của Diệm.
Tài liệu Ngũ Giác Đài mô tả trạng thái tâm lý của Ngô Đình
Diệm như là của một “Đại Phán Quan Tây Ban Nha).
(American Intelligence estimates during the 1950s show, The Pentagon
account says, that the war began largely as a rebellion in the South against
the increasingly oppressive and corrupt regime of Ngo Dinh Diem.
“Most of those who took up arms were South Vietnamese and the causes
for which they fought were by no means contrived in North Vietnam,” the
Pentagon account says of the years from 1956 to 1959, when the insurgency
began.
There is only sparse evidence that North Vietnam was directing, or
was capable of directing, that violence (Last quarter of 1957: 75 local
assassinated or kidnapped. On October 22, 1957, 13 Americans were
wounded in three bombings in Saigon)
From 1954 to 1958 North Vietnam concentrated on its internal development,
apparently hoping to achieve reunification either through the election
provided for in the Geneva settlement or through the natural collapse
of the weak Diem regime. The Communist left behind a skeletal apparatus
in the South when they regrouped to North Vietnam in 1954 after the war
with the French ended, but the cadre members were ordered to engage only
in “political struggle.”
North Vietnam’s leaders formally decided in May, 1959, to take control
of the growing insurgency.
The Pentagon account says that both American intelligence and Vietcong
prisoners attributed the Vietcong’s rapid success after 1959 to the Diem’s
mistakes.
Diem’s mentality is described in the account as like that of a “Spanish
Inquisitor”.)
Đến đây, có lẽ chúng ta cũng nên tìm hiểu chút ít là chính quyền Ngô
Đình Diệm đã làm những gì để cho người dân miền Nam phải nổi dậy chống
đối, và như chúng ta đã biết, không phải là chủ trương của Bắc Việt cho
đến năm 1959. Đây không phải là chỗ đi vào chi tiết những hành
động khủng khiếp của chính quyền Diệm đối với người dân, các đảng phái,
và tôn giáo khác. Quý độc giả nào muốn biết rõ hơn thì có thể tham
khảo nhiều cuốn sách hiện hữu ngày nay bằng tiếng Anh, tiếng pháp, hoặc
hai cuốn “9 Năm Máu Lửa Dưới Chính Quyền Ngô Đình Diệm” của Nguyệt
Đam và Thần Phong và “Đảng Cần Lao” của Chu Bằng Lĩnh. Ở
đây, tôi chỉ đưa ra vài nét chính qua những nhận định của Giáo sư Mortimer
T. Cohen trong cuốn From Prologue To Epilogue In Vietnam, trang
240, 41, 61:
Diệm là một người Công Giáo thuộc thời Trung Cổ - ông ta đúng,
mọi người khác đều sai. Chân lý (Phúc Âm) có quyền ưu
tiên, những sự sai lầm không có. Và, biết rõ bản chất bất ổn định
của quyền cai trị của ông ta, ông ta bị ám ảnh bởi ý tưởng là người
nào phê bình bất cứ điều gì về chế độ của ông ta cũng là những kẻ thù
thâm căn cố đế.
Ông ta là thánh Dominique (Người được Giáo Hội Công Giáo giao
cho nhiệm vụ phát động những Tòa Án Xử Dị Giáo (The Inquisition)
trong thời Trung Cổ).
Tháng 5 1955, ông ta mở chiến dịch Tố Cộng. Hiệp Định
Genève đặc biệt cấm không được trả thù chính trị.
Do đó, Diệm đã khởi sự những sự thù nghịch. Chính
hắn, bằng chính sách tấn công tiêu diệt Việt Minh, đã khởi
sự cuộc chiến ở miền Nam. Và chúng ta cần nhấn mạnh là,
hắn ta hành động như vậy không phải là để trả đũa bất cứ sự khiêu
khích nào của Việt Minh, nhưng từ sự thúc đẩy là phải tiêu diệt
Cộng đỏ - tinh thần của một tên Công Giáo thời Trung Cổ đi săn lùng
kẻ lạc đạo...
(Diem was a medieval Catholic – he was right, the others were wrong. Truth
has privileges, error đoes not have. And, well aware of the precarious
nature of his rule, he was obsessed with the idea that all who criticized
anything about his regime were inveterated enemies.
He was St. Dominick.
June of ’55 he opened an “Anti-Communist Denunciation Program”. The
Geneva Accord specifically forbade political reprisals.
Thus, Diem began the hostilities. It was he, who by his assault
on the Vietminh, began the fighting in the South. And, it must
be emphasized, that he did this not in response in any Vietminh provocations,
but out of his compulsion to exterminate the Reds – the spirit of the
Medieval Catholic heretic-hunter.)
Phê bình chiến dịch Tố Cộng với những kết quả khủng khiếp của nó qua
một vài con số trích dẫn mà tôi không muốn kê ra ở đây, Avro Manhattan
viết trong cuốn Vietnam: Why Did We Go, 1984, trang 99, như sau:
Đằng sau cái bề mặt (Tố Cộng), mục tiêu thực của nó là Công
Giáo hóa quốc gia. Sự đàn áp của Công Giáo ở Nam Việt Nam
không phải là sự tác động của một cá nhân cuồng tín, hay của một nhóm
cá nhân thí dụ như ba anh em của Diệm, hiến thân cho chính sách Công
Giáo hóa một nước Phật Giáo. Nó là phó sản của một chính sách
dài hạn đã được tính toán cẩn thận, nhận thức và đẩy mạnh bởi những
bộ óc mà những mục tiêu căn bản là bằng mọi giá, bành trướng một tôn
giáo mà họ tin chắc rằng là một tôn giáo chân thật duy nhất trên thế
giới.
Người gây cảm hứng chính và theo đuổi chính sách này, như chúng
ta đã thấy, là Giáo Hoàng Pius XII. Chính sách đó hoàn toàn
hợp điệu với chiến lược toàn cầu của ông ta, nhắm tới hai mục tiêu
căn bản: tiêu diệt Cộng Sản, và bành trướng Giáo Hội Công Giáo.
[Behind its facade its real objective was the Catholicization of the
Country. The Catholic repression of South Vietnam was not the work
of a fanatical individual, or a group of individuals, like the three Diem
brothers, dedicated to the Catholicization of a Buddhist country. It
was the by-product of a well calculated long range policy conceived and
promoted by minds whose basic objectives were the expansion at all costs,
of a religion which they were convinced was the only true religion on
earth.
The main inspirer and prosecutor of such a policy, as we have seen,
was Pope Pius XII. Such policy was totally consonant with his globl
strategy, directed at two fundamental objectives: the destruction of Communism,
and the expansion of the Catholic Church.]
Chúng ta biết rằng, sở dĩ Diệm được đưa về Việt Nam là do lệnh của
Giáo hoàng Pius XII cho Francis Spellman và do vận động của Hồng y Spellman
với chính trường Mỹ chứ không phải là vì tài đức của Diệm. Ở Việt Nam
rất ít người biết đến Diệm, Lansdale phải thuê một số người đi đón Diệm
khi Diệm được đưa về nước. Mỹ là nước theo Ki Tô Giáo, vào thời đó, trên
70% theo Tin Lành và Tin Lành chưa có gì ở Việt Nam nên Mỹ dùng Diệm để
từ đó Mỹ có thể bành trướng đạo Tin Lành của mình như lịch sử đã chứng
minh. Tin Lành chỉ phát triển ở Việt Nam từ thời Diệm và tuy rằng Công
giáo đối nghịch với Tin lành nhưng Diệm không thể làm gì vì Tin Lành là
Mỹ, và Tin Lành không phải là một lực lượng đối đầu được với Công Giáo
ở Việt Nam. Do đó sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam bản chất là một cuộc
xâm lăng có mưu tính.
Có lẽ không có gì rõ ràng hơn là đoạn sau đây của Daniel Ellsberg
trong cuốn Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers, Viking, 2002,
p.255:
Không làm gì có chiến tranh Đông Dương thứ nhất và thứ nhì, chỉ
có một cuộc xung đột nối tiếp trong một phần tư thế kỷ..
Dùng ngôn từ thực tế, đứng về một phía (Mỹ), ngay
từ đầu nó đã là một cuộc chiến của Mỹ: mới đầu là Pháp-Mỹ, sau đến
toàn là Mỹ. Trong cả hai trường hợp, nó là một cuộc đấu tranh
của người Việt Nam – không phải là tất cả người Việt Nam nhưng cũng
đủ để duy trì cuộc đấu tranh – chống chính sách của Mỹ và những
kinh viện, ủy nhiệm, kỹ thuật gia, hỏa lực, và cuối cùng, quân đội
và phi công, của Mỹ.
Cuộc chiến đó không có gì là “nội chiến”, sau 1956 hay 1960,
như nó đã không từng là nội chiến trong cuộc tái chiếm thuộc địa
của Pháp được Mỹ ủng hộ. Một cuộc chiến mà trong đó một phía hoàn
toàn được trang bị và trả lương bởi một quyền lực ngoại quốc – một
quyền lực nắm quyền quyết định về bản chất của chế độ địa phương
vì những quyền lợi của mình – thì không phải là một cuộc nội chiến.
Bảo rằng chúng ta “xía vào” cái gọi là “đích thực là một cuộc
nội chiến”, như hầu hết các tác giả Mỹ, và ngay cả những người có
khuynh hướng tự do chỉ trích cuộc chiến cho rằng như vậy cho đến
ngày nay, đơn giản chỉ là che dấu một sự thực đau lòng hơn, và cũng
chỉ là một huyền thoại như là luận điệu chính thức về một “cuộc
xâm lăng từ miền Bắc”.
Theo tinh thần Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và theo những lý
tưởng mà chúng ta công khai thừa nhận, đó là một cuộc ngoại xâm,
sự xâm lăng của Mỹ.
(There had been no First and Second Indochina Wars, just one continuous
conflict for almost a quarter of century.
In practical terms, on one side, it had been an American war almost
from its beginning: at first French-American, eventually wholly American.
In both cases it was a struggle of Vietnamese – not all of them but enough
to persist – against American policy and American financing, proxies,
technicians, firepower, and finally, troops and pilots.
It was no more a “civil war” after 1955 or 1960 than it had been during
the US-supported French at colonial reconquest. A war in which one side
was entirely equipped and paid by a foreign power – which dictated the
nature of the local regime in its own interest – was not a civil war.
To say that we had “interfered” in what is “really a civil war”, as most
American writers and even liberal critics of the war do to this day,
simply screened a more painful reality and was as much a myth as the earlier
official one of “agression from the North”. In terms of the UN Charter
and our own avowed ideals, it was a war of foreign agression, American
aggression.]
Tại sao Daniel Ellsberg lại có thể viết như vậy. Không phải vì Ellsberg
phản chiến mà vì Ellsberg là viên chức trong chính quyền Mỹ, đã từng đọc
được những tài liệu mật nhất của Mỹ và biết rõ nhất về thực chất cuộc
chiến ở Việt Nam. Chính ông là người đã tiết lộ Tài Liệu Ngũ Giác Đài.
Và ông viết đoạn trên năm 2002 chứ không phải là trong thời kỳ “phản chiến”
sôi nổi trên đất Mỹ. Nếu chúng ta đã đọc một số những sách viết về cuộc
chiến Việt Nam, viết sau 1975, của các học giả và cựu quân nhân Mỹ, thì
chúng ta sẽ thấy rằng đa số đồng ý với Daniel Ellsberg về điểm này.
Sau đây là một tài liệu khác về bản chất của cuộc chiến ở Việt Nam
cách đây trên 30 năm. Trong cuốn Chiến Tranh Việt Nam Và Văn Hóa Mỹ (The
Vietnam War and American Culture, Columbia University Press, New York, 1991),
John Carlos Rowe and Rick Berg viết, trang 28-29:
Cho tới năm 1982 – sau nhiều năm tuyên truyền liên tục mà hầu như
không có tiếng nói chống đối nào được phép đến với đại chúng – trên
70% dân chúng vẫn coi cuộc chiến (ở Việt Nam) “căn bản là sai
lầm và phi đạo đức”, chứ không chỉ là “một lỗi lầm.”
Tưởng cũng nên nhớ lại vài sự kiện. Mỹ đã dính sâu vào
nỗ lực của Pháp để tái chiếm thuộc địa cũ của họ, biết rằng kẻ thù
là phong trào quốc gia của Việt Nam. Số tử vong vào khoảng nửa
triệu. Khi Pháp rút lui, Mỹ lập tức hiến thân vào việc phá hoại
Hiệp Định Genève năm 1954, dựng lên ở miền Nam một chế độ khủng
bố, cho đến năm 1961, giết có lẽ khoảng 70000 “Việt Cộng”, gây
nên phong trào kháng chiến mà từ 1959 được sự ủng hộ của nửa miền
Bắc tạm thời chia đôi bởi Hiệp Định Genève mà Mỹ phá ngầm.
Trong những năm 1961-62, Tổng thống Kennedy phát động cuộc
tấn công thẳng vào vùng quê Nam Việt Nam với những cuộc thả bom trải
rộng, thuốc khai quang trong một chương trình được thiết kế để lùa
hàng triệu người dân vào những trại (ấp chiến lược?) nơi đây họ được
bảo vệ bởi những lính gác, giây thép gai, khỏi quân du kích mà Mỹ
thừa nhận rằng được dân ủng hộ.
Mỹ khẳng định là đã được mời đến, nhưng như tờ London Economist
đã nhận định chính xác, “một kẻ xâm lăng là một kẻ xâm lăng trừ phi
được mời bởi một chính phủ hợp pháp.” Mỹ chưa bao giờ coi những
tay sai mình dựng lên là có quyền hợp pháp như vậy, và thật ra
Mỹ thường thay đổi những chính phủ này khi họ không có đủ thích thú
trước sự tấn công của Mỹ hay tìm kiếm một sự dàn xếp trung lập được
mọi phía ủng hộ nhưng bị coi là nguy hiểm cho những kẻ xâm lăng,
vì như vậy là phá ngầm căn bản cuộc chiến của Mỹ chống Nam Việt Nam. Nói
ngắn gọn, Mỹ xâm lăng Nam Việt Nam, ở đó Mỹ đã tiến tới việc
làm ngơ tội ác xâm lăng với nhiều tội ác khủng khiếp chống nhân lọại
trên khắp Đông Dương.
(As late as 1982 – after years of unremitting propaganda with virtually
no dissenting voice permitted expression to a large audience – over 70%
of the general population (but far fewer “opinion leaders”) still regarded
the war as “fundamentally wrong and immoral,’ not merely “a mistake”..
It is worth recalling a few facts. The US was deeply committed to
the French effort to reconquer their former colony, recognizing throughout
that the enemy was the nationalist movement of Vietnam. The death toll
was about half a million. When France withdrew, the US dedicated itself
at once to subverting the 1954 Geneva settlement, installing in the south
a terrorist regime that killed perhaps 70000 “Viet Cong” by 1961, evoking
resistance which, from 1959, was supported from the northern half of the
country temporarily divided by the Geneva settlement that the US had undermined.
In 1961-1962, President Kennedy launched a direct attack against rural
South Vietnam with large-scale bombing and defoliation as part of a program
designed to drive millions of people to camps where they would be “protected”
by armed guards and barbed wire from the guerillas whom, the US conceded,
they were willinggly supporting. The US maintained that it was invited
in, but as the London Economist accurately observed, “an invader is an
invader unless invited in by a government with a claim to legitimacy.”
The US never regarded the clients it installed as having any such claim,
and in fact it regularly replaced them when they failed to exhibit sufficient
enthusiam for the American attack or sought to implement the neutralist
settlement that was advocated on all sides and was considered the prime
danger by the aggressors, since it would undermine the basis for their
war against South Vietnam. In short, the US invaded South Vietnam, where
it proceeded to compound the crime of aggression with numerous and quite
appalling crimes against humanity throughout Indochina.)
Qua sự phân tích những sự kiện lịch sử và qua một số tài liệu đã dẫn
chứng ở trên, chúng ta có thể thấy rằng, theo truyền thống chống xâm lăng
của người dân Việt, ngày 30 tháng 4 tất nhiên phải đến, trước sau gì,
không có ngày 30/4 này rồi cũng có ngày 30/4 khác, vì đó là niềm khao
khát nếu không phải của toàn dân thì cũng của đa số người dân.. Bất kể
là Tàu, hay Nga, hay Mỹ có muốn Việt Nam thống nhất hay không, điều này
không quan trọng, người Việt Nam muốn và đã thực hiện được, thế là đủ.
Đối với những người còn mang nặng trên vai cuộc xung đột Quốc – Cộng
trong quá khứ, và còn muốn tiếp tục cuộc Thánh Chiến Chống Cộng, thì họ
chỉ có thể nhìn thấy khía cạnh tiêu cực của ngày 30/4/75, vì thế chúng
ta mới thấy xuất hiện những từ như “mất nước”, “Quốc Hận”, hay “cưỡng
chiếm”. Nhưng nhìn vào khía cạnh tích cực của ngày 30/4/75, chúng ta
cần phải nhìn vào ngày đó như nó thực sự là như vậy (To see it as it really
is).
Cuộc chiến vô lý mà một nước nhỏ bé như Việt Nam bắt buộc phải gánh
chịu ngoài ý muốn đã giáng trên đất nước Việt Nam những tổn thất về
nhân mạng và vật chất như thế nào. Chúng ta hãy đọc vài con số thống
kê, chắc chắn không đầy đủ:
Theo tài liệu trong cuốn The Vietnam War Almanac, General Editor:
John S. Bowman, Barnes & Noble, Inc., New York, 2005, trang 358, để
cho chúng ta có thể nghĩ lại và hiểu rõ hơn bộ mặt thật của cuộc chiến:
- Mỹ: Chết 57702;
bị thương 313616, cộng với hơn 1000 chết không phải do chiến trận.
- Nam Việt Nam: Chết
185528; bị thương 499026.
- Bắc Việt: Chết
924048; số bị thương ước tính ít nhất gấp đôi.
- Cả hai miền: 415000
thường dân chết; 936000 bị thương.
- Nam Hàn: Chết
1107.
- Thái Lan: Chết
350.
- Úc và New Zealand: Chết
475.
- 8 triệu tấn bom đã thả
xuống Việt Nam, Cambod, và Lào (vào khoảng gấp hơn 2 lần
tấn bom mọi phe dùng trong đệ nhị Thế Chiến.)
- Viện trợ của Nga Sô
Viết và Trung Cộng cho Bắc Việt ước tính khoảng 3 tỷ Mỹ Kim.
- Mỹ đã tiêu ở Việt Nam
khoảng 300 tỷ Mỹ Kim (viện trợ và quân phí).
Ngoài ra, Mỹ cũng đã trải trên đất nước Việt Nam 76.954.806 lít hóa
chất trong đó có 49.268.937 lít chất độc màu da cam (Nguyễn Văn Tuấn, Chất
Độc Màu Da Cam Và Cuộc Chiến Việt Nam, Giao Điểm 2005, trang 52). Tác
hại lâu dài của các loại hóa chất, nhất là chất độc Da Cam, trên môi sinh
và con người Việt Nam vô tội, kéo dài cho đến tận ngày nay, là một sự
kiện không ai có thể phủ nhận.
Nhìn vào những con số trên, chúng ta cảm thấy thế nào, khi biết rằng
không phải là Việt Cộng là Cộng sản, hay Việt Cộng gây chiến, mà là
do Mỹ can thiệp vào Việt Nam, đưa Công giáo Ngô Đình Diệm về Việt Nam,
không thi hành Hiệp Định Geneva 1954, toan tính Công giáo hóa miền Nam,
lập miền Nam như là một chư hầu của Mỹ. Nhìn vào cuộc chiến, “Việt nam
hóa” chiến tranh có nghĩa gì, phải chăng Ellsberg đã nói đúng: từ đầu
đến cuối, đó là cuộc chiến của Mỹ. Và khi đồng minh tháo chạy, cúp viện
trợ thì miền Nam sụp đổ. Sự thực đau lòng của lịch sử là ở chỗ đó. Tại
sao chúng ta không nhìn thấy. Tại sao chúng ta vẫn tiếp tục nhìn vào
ngày 30/4 một cách biến dạng qua một lăng kính để rồi có những tư tưởng
thái độ không thích hợp với sự thực lịch sử?
Chúng ta hãy quên đi sự thù hận một chiều và nhìn
vào khía cạnh tích cực của ngày 30/4. Khía cạnh tích cực nhất
của ngày 30/4/75 là trên đất nước không còn cảnh bom đạn, cảnh đồng
bào bắn giết nhau, và nhất là đất nước đã vắng bóng quân xâm lược.
Một khía cạnh tích cực khác của ngày 30/4/1975 là nó mở đầu cho một
cuộc di dân vĩ đại chưa từng có trong lịch sử Việt Nam. Qua nhiều
năm, hơn hai triệu người, đi chính thức cũng như vượt biên, hiện
đang sống ở nước ngoài. Sau một thời gian khó khăn trong việc hòa
nhập vào một xã hội mới, sau khi đã ổn định được đời sống qua công
ăn việc làm, đa số người Việt lưu vong không từ bỏ quê hương, dù
rằng có một số tên đầu bò hô hào không về Việt Nam, không gửi tiền
về Việt Nam, không mua hàng Việt Nam v…v…. Như là một nghịch lý,
khối người Việt lưu vong cũng đã đóng góp không ít cho quốc gia dân
tộc, và đã giúp cho chế độ bên nhà bền vững, một chế độ mà một số
hội đoàn, tổ chức hữu danh vô thực, kể cả thế lực đen và tổ chức
lãnh tiền của NED Mỹ để chống phá Việt Nam, thường hô hào cần phải
lật đổ, giải thể, hay cất lên tiếng kêu vô vọng: “Cha đã tiên phong
góp phần giải phóng quê hương Cha, và tiếp đến sẽ là quê hương chúng
con”..
(SH: Lời Giáo Hoàng John Paul 2) mà không bao giờ nhìn thấy đất
nước ngày nay đã phát triển như thế nào, đời sống của người dân đã cải
tiến ra sao, số lượng khách ngoại quốc du lịch Việt Nam là bao nhiêu,
và số lượng người Việt ở nước ngoài về thăm quê hương là như thế
nào. Từ 1986, số tiền người Việt lưu vong gửi về mỗi năm không ít,
và ngày nay mỗi năm có mấy trăm ngàn “Việt kiều” về thăm quê hương,
mang về mỗi năm trên dưới 7,8 tỷ đô la, và không phải là không có
những chuyên gia mang những kiến thức mới về Việt Nam hay những nhà
doanh nghiệp về làm ăn ở Việt Nam. Danh sách 300 trí thức cấp cao
mà một số người thiếu đầu óc cho là “nằm vùng” là một chứng minh.
Đất nước đã mở mang phát triển về nhiều mặt tuy chính quyền còn nhiều
điều bất cập. Tệ nạn tham nhũng, lạm quyền và địa phương không tuân
theo trung ương, giáo dục xuống cấp v..v.. là những vấn đề cần phải
giải quyết, nhưng cần thời gian, không thể một sớm một chiều có thể
thực hiện được. Nhưng không ai có thể phủ nhận là, qua thời gian,
chính quyền Việt Nam đã cải tiến rất nhiều, và tôi hi vọng chính
quyền tiếp tục đặt nặng nỗ lực trên vấn đề cải tiến xã hội, mở mang
dân trí, và coi dân là trọng.
Hi vọng những hiểu biết, qua những công cuộc nghiên cứu lịch sử ở
trên, có thể phần nào đóng góp cho việc tìm hiểu những vấn đề nhức
nhối giữa những khối người Việt có chính kiến khác nhau về cuộc chiến
tranh trên ba mươi năm trước, những vấn đề nhức nhối đáng lẽ không
nên có.
Trong Tứ Vô Lượng Tâm, có vẻ như hạnh “xả” là một hạnh khó khăn nhất
đối với những người hành đạo cũng như không hành đạo. Dĩ vãng đã qua.
Theo tôi, sống với dĩ vãng, dù là dĩ vãng của sự vinh quang hay dĩ
vãng của hận thù, chẳng qua cũng chỉ là tự mình làm khổ mình mà thôi.
Khổ một nỗi, có vẻ như con người lại cứ thích tự mình làm khổ mình,
không quên được sự vinh quang của dĩ vãng, phần lớn là do thời thế
tạo nên chứ chẳng phải do tài cán gì, hay không dứt bỏ được hận thù của
dĩ vãng, không những thế, còn nuôi dưỡng hận thù, lao đầu vào nghiệp vụ
đi buôn hận thù, và truyền lại hận thù cho thế hệ sau. Thật là tội nghiệp
cho đám trẻ nếu bị các bậc cha mẹ truyền lại mối hận thù của đời họ.
Trần Chung Ngọc
Grayslake, Ilinois.
Các bài thời sự cùng tác giả
▪
22 Năm Giao Điểm: Trừ Tà - Hiển Chánh và Độ Sinh -
Trần Chung Ngọc
▪
Chủ Nghĩa Khủng Bố và Diệt Chủng -
Trần Chung Ngọc
▪
Cuốn Triumph Forsaken của Mark Moyar -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Người Máy Chống Cộng -
Trần Chung Ngọc
▪
Tại Sao Những Người Tin Chúa Lại Thù Ghét Những Người Vô Th -
Trần Chung Ngọc
▪
Tản Mạn về Chống Cộng -
Trần Chung Ngọc
▪
Ăn Cơm Quốc Gia Thờ Ma Cộng Sản - Một Câu Chữ Của Những Kẻ U Mê -
Trần Chung Ngọc
▪
ĐĐ Thích Nhật Từ và Các Xóm Đạo Washington D.C. -
Trần Chung Ngọc
▪
Đọc "Món Hàng Xuất Cảng Làm Chết Người Nhất Của Mỹ: DÂN CHỦ" -
Trần Chung Ngọc
▪
Avro Manhattan: Cơn Ác Mộng Của Một Quốc Gia -
Trần Chung Ngọc
▪
BA MƯƠI THÁNG TƯ VÀ TÔI TỪ KIẾN THỨC ĐẾN LẬP TRƯỜNG -
Trần Chung Ngọc
▪
Bang Giao "Bắc Kinh-Vatican" (?) Một Kinh Nghiệm Quý Giá Cho Việt Nam -
Trần Chung Ngọc
▪
Bang Giao Với Vatican? Bang Giao Như Thế Nào ?? -
Trần Chung Ngọc
▪
Công Nghiệp Cuối Cùng -
Vài Suy Tư Xung Quanh Sự Ra Đi Của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp -
Trần Chung Ngọc
▪
Cựu Tổng Thống Mỹ Jimmy Carter & Liên Hiệp Quốc Lên Án Mỹ Vi Phạm Quốc Tế Nhân Quyền -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện Phịa Thời Sự: Tin Vịt Truyền Thông -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện Thời Sự Về Bức Thư “Chê Chúa” Của Einstein -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện Thời Sự - Về Bức Thư “Chê Chúa” Của Einstein -
Trần Chung Ngọc
▪
Kiến Thức 30/4 Qua Các Danh Nhân - Tại Sao Chúng Ta Thua ? -
Trần Chung Ngọc
▪
Kiến Thức 30/4 Qua Các Danh Nhân - Tại Sao Chúng Ta Thua ? -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 ▪
>>>