(TG&DT) - Quyển sách "Nguyễn Trường Tộ & Vấn Đề canh
Tân", tác giả Bùi Kha, Nhà Xuất bản Văn học xuất bản tháng 05/2011,
là một công trình nghiên cứu công phu với đầy đủ sử liệu, không thể
phủ bác, về một người đã được vinh danh sai lầm qua nhiều thế hệ.
Tác giả Bùi Kha sẽ dẫn độc giả đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên
khác một cách lý thú về một cao thủ núp bóng canh tân để dối gạt
triều đình và đánh lừa dư luận v.v. nhằm mục đích phục vụ cho ngoại
bang...
Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) là một tên tuổi mà có lẽ không
người Việt Nam có học nào trong thế kỷ XX và cả ngày nay chưa từng được một
lần nghe đến. Trong học đường và trong học giới, người ta biết đến ông như
một trí thức tân tiến của thế kỷ XIX, có tư tưởng canh tân, có tấm lòng yêu
nước, đã từng dâng lên triều đình vua Tự Đức lúc bấy giờ nhiều đề nghị cải
cách để làm cho dân giàu nước mạnh theo con đường văn minh của châu Âu.
Song tiếc thay, dân ta lạc hậu, vua ta ngu tối, không nghe
theo các điều trần đó. Cho nên khác với Nhật Bản, Việt Nam ta nước yếu, dân
hèn, bị nước Pháp chinh phục và đô hộ. Có mấy câu ca tôi được dạy từ hồi
còn học sơ học: "Nếu vua nghe lời/ Biết đường cải tổ/ Kén mặt dĩnh ngộ/ Trong
bọn trẻ trai/ Đi học nước ngoài/ Thì đâu đến nỗi/ Dân ta tài giỏi/ Giàu mạnh
bằng người/ Chắc rằng nước ngoài/ Hết nghề dòm dỏ...".
Mất nước vào tay người Pháp là vì vậy. Ở đời, mạnh được yếu thua, ngu hèn
thì mình chịu, lỗi đâu tại người.
Từ nhỏ cho đến trọn đời, tôi không bao giờ tin rằng
nhà trường, giáo dục là phi chính trị. Nguyễn Trường Tộ như một nhân vật lịch
sử và văn hóa xuất sắc, lỗi lạc không những là hiểu biết của chúng tôi khi
còn nhỏ dại mà của cả nhiều bậc thầy của chúng tôi. Lớn lên, chúng tôi được
dạy: Nguyễn Trường Tộ là nhà yêu nước sáng suốt (un patriote eclairé), nhà
cải cách cô đơn (un reformiste solitaire). Chúng tôi khâm phục ông, thương
cảm ông và tự an ủi rằng: Dù sao thì nước mình cũng có những người yêu nước
thông minh chứ không phải toàn bọn ngu dại cả.
Cách mạng tháng Tám rồi kháng chiến chống Pháp, kháng chiến
chống Mỹ, chế độ thực dân phong kiến bị xóa bỏ, nước nhà được độc lập, tự
do, nhiều nhận thức sai lầm thời thuộc địa được điều chỉnh, nhiều thần tượng
giả tạo mang tên Tây, tên Việt bị lật đổ, song cũng còn nhiều thần tượng
khác sống sót. Nguyễn Trường Tộ có lẽ là một thần tượng như vậy. Tôi về Huế
vẫn thường đi trên một con đường ở trung tâm thành phố mang tên Nguyễn Trường
Tộ, thường đi mà không băn khoăn gì. Cùng với thời gian, nhận thức của tôi
vẫn như xưa, mặc dù kiến thức có mở rộng hơn.
Quyển sách đáng tin cậy của tôi về văn học thế kỷ XIX là
Hợp tuyển thơ văn Việt Nam của NXB Văn Hóa Hà Nội có in tiểu sử và trích
thơ văn của Nguyễn Trường Tộ, nhưng tiểu sử thì vắn tắt, thơ văn thì trích
tuyển, không có gì khác hơn các truyền thuyết về ông. Về tác phẩm, sách trích
tuyển hai bài văn nổi tiếng nhất của ông là Thiên hạ đại thế luận và Tế cấp
bát điều. Đọc kỹ hai bài văn ấy, nếu chăm chú thì cũng thấy những chỗ "bất
cập" trong đó, ví như tầm nhìn quốc tế của ông còn rất sơ lược và thiên lệch,
những kiến nghị của ông cũng còn nhiều điểm đáng nghi ngờ.
Không nói cái "đại thế thiên hạ" của ông rõ rệt có ý đề
cao các nước đế quốc phương Tây, xem như chúng hoành hành khống chế thiên
hạ, không gì ngăn cản được. Riêng trong "tám điều tế cấp" của ông lại có
kiến nghị dùng chữ Hán đọc theo âm Việt để làm quốc ngữ, quốc văn. Tôi lấy
làm lạ một người gọi là tân học tiên giác như ông mà lại không biết đến chữ
Nôm và chữ Quốc ngữ. Nhưng lại nghĩ rằng: Dù sao ông cũng là người thế kỷ
XIX, không thể giống với chúng ta ngày nay, dù sao như thế cũng đã là "đi
trước thời đại" rồi.
Liên hệ với bản thân, tôi cho rằng, đa số người Việt
Nam, kể cả giới trí thức và học giả, chỉ biết về Nguyễn Trường Tộ một cách
gián tiếp qua truyền thuyết mà không để công đi sâu nghiên cứu, chỉ tin
vào các công trình thời Pháp thuộc. Chúng ta biết về ông một cách sơ sài, nhiều sự
kiện về ông vẫn còn trong bóng tối hay sương mù. Còn các tác phẩm của ông
thì ngoài hai bài chính mà tôi đề cập trên đây (vốn bằng chữ Hán chưa được
dịch toàn văn mà chỉ trích tuyển), các bản điều trần khác đều chưa được biết
đến.
Vấn đề Nguyễn Trường Tộ được quan tâm nhiều hơn do hai hoàn cảnh đặc biệt
sau đây:
1. Sau ngày nước nhà được hoàn toàn độc lập, thống nhất
(1975), tiến vào công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh, trước tình
hình và nhiệm vụ lịch sử mới, không phải do tình thế một lúc mà còn do chiến
lược lâu dài, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đường lối đổi mới, trong đó có
vấn đề nhìn lại quá khứ để nhìn đúng hiện tại và nhìn rõ tương lai. Suy nghĩ
(hay tư duy) của chúng ta trong hòa bình, độc lập, thống nhất, xây dựng,
trên các vấn đề nhất định, phải đổi mới so với thời kỳ trước đó.
Chúng ta có điều kiện để làm những việc trước đó phải gác
lại. Không còn sức ép của chiến tranh, của ngoại xâm, đầu óc và tâm hồn chúng
ta thoáng đãng, rộng rãi, tỉnh táo, toàn diện hơn. Và chúng ta cũng có thời
gian và phương tiện để tìm hiểu nhiều vấn đề về lịch sử, văn hóa gần và xa,
xưa và nay, ngoài và trong, thâu thái kinh nghiệm lịch sử và kinh nghiệm
quốc tế để đổi mới nước nhà, phục hưng dân tộc.
Nhìn lại quá khứ, không chỉ tinh thần ái quốc, ý chí quật
cường của các thế hệ đi trước mà cả những đau thương, tủi hận, những thất
thố, sai lầm của họ cũng trở thành thân thiết, dưới mắt nhìn nghiêm túc và
bao dung, sáng suốt và thông cảm của thế hệ chúng ta. Giữ nước và dựng nước
là sự nghiệp gian nan, khó khăn, đã chắc gì thế hệ chúng ta sáng suốt, khôn
ngoan, tài trí hơn các thế hệ trước, phải rút kinh nghiệm từ thành – bại,
cả từ những yếu kém, sai lầm của họ để làm vốn liếng tinh thần cho hiện tại
và tương lai.
2. Riêng về nhân vật Nguyễn Trường Tộ cũng như các nhân
vật tương tự như ông, sau hòa bình thống nhất, chúng ta có điều kiện để
tìm hiểu nhiều hơn về ông, bổ khuyết những chỗ còn thiếu sót trong thân thế
và sáng tác của ông. Công việc này được một người tri thức Công giáo yêu
nước nổi tiếng ở miền Nam nay đã quá cố, Linh mục Trương Bá Cần, Tiến sĩ
Sử học, từng nhiều năm sưu tập tư liệu và nghiên cứu về Nguyễn Trường Tộ.
Kết quả là tập sách Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo được xuất bản.
Mục đích công trình này của vị linh mục cũng dễ dàng nhận
thấy: Ông muốn qua con người và di thảo của Nguyễn Trường Tộ để minh họa
một điều mà có lẽ trong thâm tâm ông còn vương vấn: Đó là tấm lòng thiết
tha với đất nước và những đóng góp trí tuệ của một người Công giáo Việt Nam
cho vận mệnh của tổ quốc Việt Nam trong một giai đoạn lịch sử đen tối, đau
thương của đất nước này.
Đó là một người đã từng là linh mục như bản thân tác giả,
trong nghịch cảnh của lịch sử và của thân phận mình đã tìm cách bày tỏ lòng
yêu nước và việc làm ích nước theo khả năng và tâm niệm của mình. Và đó cũng
là một điểm son đáng kể trong truyền thống yêu nước của những người Công
giáo Việt Nam.
Dù bị định kiến như thế nào, truyền thống đó vẫn là chủ
lưu trong dòng chảy tâm thức, tâm linh của người Công giáo Việt Nam kính
Chúa yêu nước. Đó cũng là con đường trước đây là "tìm về dân tộc" và ngày
nay là "sống Phúc Âm trong lòng dân tộc". Chính nhờ tâm thức đó của người
tu sĩ yêu nước, cộng với thái độ cầu thị của nhà sử học, công trình Nguyễn
Trường Tộ, con người và di thảo, với những tư liệu phong phú làm cơ sở của
mọi nghiên cứu, thảo luận và tranh luận từ đó đến nay.
Bản thân tôi cũng nhờ vào công trình của Linh mục Trương
Bá Cần mới biết rõ thêm về con người và di thảo của Nguyễn Trường Tộ trong
bối cảnh mới của đất nước để có được những thông tin mới và suy nghĩ mới.
Từ những tư liệu mới bổ sung, tôi ngộ thêm ra hai điều sau đây mà trước
đó chưa thấy:
1. Về thân thế của ông, có hai sự kiện mới đối với tôi:
Đó là ông cùng với Giám mục đỡ đầu của ông là Gauthier đã có mặt trong nhóm
các giáo sĩ Pháp và Việt Nam dẫn đầu bởi Giám mục Pellerin đến Đà Nẵng để
đón tiếp đoàn quân viễn chinh Pháp năm 1958 đánh vào Cửa Hàn, khởi đầu cuộc
chiến tranh xâm lược của Pháp đối với nước ta. Vì Rigault de Genouilly nhận
thấy thời cơ bất lợi (còn chiến tranh ở Nam Trung Quốc) và lực lượng không
đủ nên không dám tiến sâu vào nội địa của ta theo khẩn cầu của nhóm giáo
sĩ này, nên buộc họ trở về nhiệm sở, còn thầy trò Gauthier và Nguyễn Trường
Tộ thì theo yêu cầu của R. de Genouilly phải lánh sang Hồng Kông. Cho đến
đầu năm 1861, lại theo yêu cầu của Phó Đô đốc Pháp Charner, hai thầy trò
trở về Gia Định để giúp Tướng Charner tiến công và mở rộng chiếm đóng 3 tỉnh
miền Đông Nam Kỳ.
Trong thời gian này, ông cộng tác với quân Pháp, cùng với
Trương Vĩnh Ký và Tôn Thọ Tường làm việc phiên dịch tài liệu từ chữ Hán ra
chữ Pháp cho Bộ Tham mưu quân Pháp. Ông còn có lúc làm trung gian hòa đàm
giữa đại diện triều đình Huế với đại diện quân Pháp, giúp đạt được hưu chiến
tạm thời, sau khi Pháp chiếm xong 3 tỉnh miền Đông cần nghỉ ngơi để củng
cố lực lượng và ổn định vùng đất mới chiếm được. Còn hơn cả Trương Vĩnh Ký,
thời gian này, ông và Giám mục Gauthier còn liên lạc với triều đình Huế để
gởi các "điều trần" cho triều đình, thậm chí có lúc nhận lãnh sứ mệnh của
triều đình sang Pháp mua máy móc, mời giáo viên về mở trường kỹ thuật ở Huế.
Tất cả những việc này ông làm trong thời gian giặc lần lượt
chiếm hết Nam Kỳ và vua Tự Đức còn sống. Kể ra, triều đình đối xử với thầy
trò ông cũng không đến nỗi kỳ thị. Bình Tây sát Tả là chuyện mãi về sau.
Cho đến cuối đời (1871), ông và Gauthier còn có vai trò liên lạc giữa quân
Pháp và triều đình Huế không để đưa ra nhiều kiến nghị canh tân? Một sứ mệnh
như vậy, Trương Vĩnh Ký phải đợi đến sau 1884 mới làm theo ý của Paul Bert
bên cạnh vua bù nhìn Đồng Khánh với nội dung khác. Nguyễn Trường Tộ mất sớm
ở quê nhà 5 năm sau cái chết của Phan Thanh Giản và bi kịch thất thủ toàn
bộ 6 tỉnh Nam Kỳ và quân Pháp khởi đầu âm mưu tiến ra Bắc. Cho đến cuối đời,
quan hệ của ông với Gauthier như thế nào? Có phải suốt gần
20 năm họ chung lòng sát cánh giúp quân Pháp vận động triều đình hòa giải
với Pháp để canh tân đất nước?
2. Về tác phẩm của ông, công trình của Linh mục Trương Bá
Cần cung cấp cho chúng ta các bản dịch toàn văn hầu hết các bản điều trần
của Nguyễn Trường Tộ mà Trương Bá Cần gọi là các di thảo. Nhờ có được trước
mắt một cách tương đối có hệ thống và đầy đủ các văn bản đó chúng ta mới
có thể xét đoán được toàn bộ nội dung của chúng, toàn bộ tư tưởng canh tân
cũng như thực chất tinh thần yêu nước của ông.
Đối với tôi, điều mới mẻ trước tiên mà toàn bộ tư liệu về
tác phẩm của Nguyễn Trường Tộ đã làm sáng tỏ là bối cảnh lịch sử và khung
cảnh thời gian trong đó Nguyễn Trường Tộ viết và gởi các bản điều trần của
mình.
Hóa ra là như thế này: Theo trình tự thời gian, bản điều trần thứ
nhất: Thiên hạ đại thế luận được viết năm 1863 khi thầy trò ông trở về Gia
Định (có thể sớm hơn) và bản cuối cùng Nên mở cửa không nên đóng kín được
viết năm 1871, năm ông qua đời. Như vậy, thời gian gói
gọn là từ khi nước ta mất 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ đến lúc mất nốt 3 tỉnh
miền Tây Nam Kỳ.
Trong thời gian này, Nguyễn Trường Tộ cùng với Giám mục
Gauthier ở vị trí như ông nói là "người
bầy tôi của nước Đại Nam trốn ra nước ngoài", từ phía người Pháp để liên lạc với vua
quan nhà Nguyễn. Các bản điều trần được lần lượt gởi
lên triều đình trong các năm ấy, trong quá trình nước ta mất dần 6 tỉnh Nam
Kỳ. Nhận rõ tính thời
gian của các điều trần đó, đối với tôi, một vấn đề được đặt ra là: Giá
thử Nguyễn Trường Tộ viết các bản điều trần đó với tấm lòng yêu nước ưu
dân thật sự và với mong muốn chân thành nước nhà canh tân nhanh chóng theo
các kiến nghị của ông, thì liệu triều đình nhà Nguyễn có thể thực hiện được
không, khi lúc này giặc đã từ ngoài ngõ vào đến trong nhà, nguy cơ diệt vong
đang diễn ra trước mắt?
Đó là chưa nói từ đầu đến cuối, Nguyễn Trường Tộ thuyết
phục triều đình giảng hòa với Pháp để có điều kiện canh tân thì điều đó trên
thực tế phái chủ hòa trong triều đình với những người có thế lực như Trần
Tiễn Thành – Thượng thư Bộ Binh, Phan Thanh Giản – Đại sứ lưu động, Kinh
lược Nam Kỳ, chuyên cầu hòa và giảng hòa với Pháp, đã hết lòng thực hiện
chính sách để cuối cùng từ mất 3 tỉnh miền Đông đến mất toàn bộ Nam Kỳ và
sau đó mất cả nước. Thế thì tóm lại một lời, toàn bộ các điều trần đó ngoài
những lời lẽ khoa trương, hoa mỹ (có người gọi là hào nhoáng và lừa dối),
liệu có giá trị thực tế gì và tấm lòng yêu nước trong đó liệu có phải là
thành thực hay đây là một thứ "quân trung từ mệnh" của Nguyễn Trường Tộ từ
Bộ Tham mưu quân xâm lược gởi để "địch vận" thuyết hàng đối với triều đình
Đại Nam([1])?
Sau cái chết của Phan Thanh Giản ở Vĩnh Long là sự hy sinh của Nguyễn Tri
Phương rồi sự tử tiết của Hoàng Diệu ở Hà Nội: "Mười
năm thương ước, lẽ nào tin được địch tâm?".
Lời di biểu của Hoàng Diệu đã tổng kết chủ trương cầu hòa,
chủ hòa của triều đình. Liên hệ với bối cảnh lịch sử lúc đó, "vạn ngôn thư" của
Nguyễn Trường Tộ nếu không phải lời xảo trá của kẻ manh tâm dụ hàng thì cũng
là lời trống rỗng của kẻ nho giả vu khoát? "Sự nghiệp" vận động của Nguyễn
Trường Tộ với triều đình Tự Đức từ sau hiệp ước 1862, sau khi ông chết sẽ
được Trương Vĩnh Ký tiếp tục ở "tầm cao mới" bên cạnh vua bù nhìn Đồng Khánh,
từ sau hiệp ước 1884.
Công trình của Linh mục Trương Bá Cần: Nguyễn Trường
Tộ, Con Người và Di Thảo đã cung cấp tư liệu để thấy rõ hơn nhân vật này qua
màn sương của quá khứ và của những truyền thuyết về ông từ trước cho đến
lúc này trong nhận thức của tôi. Cũng như đối với Trương Vĩnh Ký, tôi đã
thay đổi nhận thức và đánh giá của mình đối với ông.
Vì không phải là nhà sử học, chỉ là người học sử để dạy
văn, mà Nguyễn Trường Tộ không phải là nhà văn đáng lưu ý của thế kỷ XIX,
cho nên tôi chỉ bằng lòng với nhận thức đã thay đổi của mình mà không tìm
cách đi sâu thêm nữa.
Khi Trung tâm Hán – Nôm của Viện Khoa học Xã hội tại Thành
phố Hồ Chí Minh mở cuộc hội thảo về Nguyễn Trường Tộ, ở đó vợ tôi là nhà
nghiên cứu Hán học Phạm Thị Hảo có bản tham luận về các kiến thức và quan
điểm sai lầm trong các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ có liên quan đến
văn học và văn hóa truyền thống Trung Hoa, tôi không tham dự và sau đó cũng
không tán thành mọi nhận định quá đáng về nhân vật này. Tôi cũng hiểu rõ
động lực nào đã thúc đẩy những mối nhiệt tình quá đáng đó. Tuy nhiên, cũng
vì lý do đã nói trên, tôi không công khai phát biểu điều gì.
Sau đó không lâu, tôi đọc được trên mạng thông tin và nội
dung cuốn sách Nguyễn Trường Tộ, thực chất con người và di thảo của hai tác
giả người Việt ở Hoa Kỳ là Nguyễn Kha và Trần Chung Ngọc. Cuốn sách này bình
luận và phản biện tập sách của Linh mục Trương Bá Cần. Tôi có nhiều điểm
đồng tình với hai tác giả, nhất là phần nghiên cứu của Nguyễn Kha. Về cơ
bản, công trình của Nguyễn Kha đáp ứng được hai băn khoăn còn tồn tại trên
đây của tôi về Nguyễn Trường Tộ với những trích dẫn từ các điều trần của
Nguyễn Trường Tộ liên hệ với các sự kiện lịch sử đương thời được minh chứng
bằng nhiều sử liệu chuẩn xác, thuyết phục. Những chỗ còn nghi ngờ của tôi
về con người và di thảo của Nguyễn Trường Tộ được giải đáp bằng nhiều sử
liệu có liên quan, tuy chưa phải tất cả. Cũng vì nghĩ mình không phải là
nhà sử học, cho nên dù tán thành hay đồng ý, tôi cũng chỉ mình biết lấy mình,
tự mình giải tỏa băn khoăn cho mình, còn làm sáng tỏ vấn đề hơn nữa thì cần
đợi các thức giả và học giả có uy tín và thẩm quyền học thuật hơn.
Gần đây, năm 2008, một trong hai tác giả cuốn sách xuất
bản ở Hoa Kỳ, Tiến sĩ Nguyễn Kha (bút danh lúc này là Bùi Kha) nhân dịp về
nước, có ghé Thành phố Hồ Chí Minh và tôi được gặp anh ở Trung tâm Nghiên
cứu Quốc học. Tôi thật lòng khen ngợi cuốn sách của hai anh mà tôi có đọc
trên mạng, nó giúp tôi cởi bỏ nhiều nghi ngờ, băn khoăn về Nguyễn Trường
Tộ. Nhân dịp này, anh Bùi Kha tặng tôi một bản in công trình của anh tại
hải ngoại, bản này mang tên là Nguyễn Trường Tộ sau
bức màn canh tân, nội
dung cũng giống như tác phẩm tôi đã đọc qua. Biết tôi có viết bài Thay lời
tựa cho cuốn Trương Vĩnh Ký, cuốn sổ bình sanh của Nhà Sử học Nguyễn Sinh
Duy thực hiện trước năm 1975 do Trung tâm Nghiên cứu Quốc học tái bản năm
2003, anh cho biết nguyện vọng sẽ xin phép tái bản ở Việt Nam công trình
của anh về Nguyễn Trường Tộ và ngỏ ý muốn tôi viết cho mấy lời đầu sách như
bài của tôi viết về Trương Vĩnh Ký. Tôi từ chối nhã ý của anh và nói rằng
anh không nhất thiết phải in lại sách này ở Việt Nam vì theo tôi biết, cũng
đã có nhiều người biết đến nó, nhất là các nhà sử học ở Viện Sử học và Hội
Khoa học Lịch sử, họ có đủ tư cách để phản biện và bình luận về cuốn sách
của anh hơn tôi.
Anh nên đề nghị với họ cho ý kiến, nhất các học giả anh
có nhắc đến và tranh luận trong sách của anh như Giáo sư Chương Thâu, Hoàng
Thanh Đạm, Nguyễn Đình Chú... Tốt nhất là trước mắt, các kết quả nghiên cứu
của anh, anh nên viết thành các bài báo, nếu được tạp chí Hồn Việt của Trung
tâm Nghiên cứu Quốc học thuộc Hội Nhà văn Việt Nam đăng thì rất tốt, để chất
chính các độc giả và học giả trong nước. Anh đồng ý với tôi và đã thực hiện
điều tôi góp ý. Sau đó, tạp chí Hồn Việt cũng có đăng một số bài của anh
về Nguyễn Trường Tộ và nói chung cũng được độc giả tiếp nhận tốt.
Bẵng đi một thời gian, qua điện thoại từ Hoa Kỳ rồi trực
tiếp khi về nước, năm nay, anh lại đặt vấn đề với tôi. Lần này, Giáo sư Mai
Quốc Liên, Giám đốc Trung Tâm Nghiên cứu Quốc học, Tổng Biên tập tạp chí
Hồn Việt cùng góp lời với anh, đề nghị với tôi một lần nữa và gởi cho tôi
bản vi tính cuốn sách; dự định biên tập để xin phép xuất bản tại Việt Nam.
Cũng như các lần trước, đọc bản thảo lần này của Bùi Kha,
tôi tán thành phần lớn các dẫn liệu và nhận xét của
anh về "Con Người Và
Di Thảo" Nguyễn Trường Tộ. Đó là cái nhìn khác và mới, chúng có thể giúp
người đọc như tôi thay đổi nhận thức đã có về ông trước nay do chưa đọc hết
hay đọc kỹ các di thảo đó một cách có hệ thống và liên hệ chúng với hành
trạng và hoàn cảnh của ông trong thời gian viết và gởi các điều trần.
Về nội dung, tôi có phần dè dặt trước các khẳng định của
tác giả nhất nhất quy kết các điều trần đều viết với sự chỉ đạo của các giới
quân sự và tôn giáo về phía quân xâm lược và chiếm đóng Pháp, mặc dù cũng
có cơ sở để xét đoán như vậy song không nên khẳng định hoàn toàn, nhiều chỗ
nên đề xuất dưới dạng nghi vấn hay đối chiếu để người đọc phán đoán thì tốt
hơn, tránh cho người đọc sự hiểu lầm tác giả có định kiến sẵn...
Tất nhiên, công trình của Bùi Kha có thể xem là một luận
đề (thèse) được nêu lên để chứng minh bằng các sự kiện và văn bản lịch sử.
Hãy để cho sự việc nói thay mình vẫn tốt hơn những lời khẳng định đôi khi
như những lời buộc tội. Và, nó cũng sẵn sàng đón nhận các lời phản biện.
Có lẽ đây là nhược điểm của Bùi Kha mà một người phê bình
ở hải ngoại nhận xét rằng, có lẽ vì tác giả không phải là nhà văn chuyên
nghiệp nên lời lẽ có phần "thiếu trau chuốt và suôn sẻ". Dù là sáng tác hay
nghiên cứu, văn là người, nhiều chỗ Bùi Kha khá thẳng thừng, không khôn khéo
tế nhị lắm. Dù sao theo tôi cái tâm của người viết ở đây có thể thấy rõ được.
Nguyễn Du có câu thơ: "Tính thành hạc hĩnh hà dung
đoạn?"(Tính
như chân con hạc, cắt ngắn làm sao được?). Có lẽ là vậy chăng?
Cuối cùng, có một điều trong cuộc đời của Nguyễn Trường
Tộ mà tôi vẫn còn băn khoăn. Các bài viết về tiểu sử của ông trong đó có
tài liệu của gia đình ông cho biết rằng, lúc cuối đời, ông có bày tỏ tâm
sự chung thân của mình bằng hai câu thơ cổ: "Nhất thất
túc thành thiên cổ hận/ Tái hồi đầu dĩ bách niên thân" (Một bước sa chân muôn thuở hận/ Quay
đầu thân thế đã trăm năm). Dù hai thân phận khác nhau, song cuộc đời ông
phải chăng so với Trương Vĩnh Ký cũng có những chỗ tương đồng. Dù ca ngợi
hay lên án ông, song nơi con người có thể xem là tài hoa và mệnh bạc đó hẳn
còn có nhiều tâm sự ông mang theo mình xuống đất? Phải chăng cái ánh sáng
cuối đời đó của ông có thể soi chiếu cả cuộc đời ông? Công trình của Bùi
Kha chưa đặt ra vấn đề đó, thành thử vấn đề Nguyễn Trường Tộ, con người và
di thảo chưa thể xem là đã có thể có câu trả lời cuối cùng.
Tôi chia sẻ với những lời cuối cùng của tác giả trong phần
kết: "Nghiên cứu và đánh giá các biến cố và sự kiện
lịch sử sẽ giúp chúng ta và thế hệ mai sau học được bài học "ôn cổ tri tân".
Mong ước cuối cùng của tôi là, đề nghị các sử gia chuyên
về lịch sử Việt Nam trong thời Pháp thuộc và Viện Sử học Việt Nam nên có
một chương trình và kế hoạch sưu tầm các tài liệu mật tại các Thư khố Pháp
và tại Bộ Truyền giáo Hải ngoại Paris để có một sự đánh giá xác đáng về các
nhân vật lịch sử thời bấy giờ, trong đó có Nguyễn Trường Tộ. Còn bài viết
của tôi cũng còn hạn hẹp cần bổ túc rất nhiều, mong được các bậc cao minh
chỉ giáo".
Viết bài này giới thiệu tập sách của Bùi Kha, tôi cũng mong
nhận được sự chỉ giáo tương tự để được tiếp tục sáng tỏ thêm nhận thức của
mình.
GS-NGND TRẦN THANH ĐẠM
(TP. Hồ Chí Minh, ngày 30/3/2011)
Chú thích
[1] (Nhiều
bài di thảo, Nguyễn Trường Tộ sử dụng từ Đại Nam và nước Việt (Việt Nam). Do đó trong sách, chúng tôi dùng cả hai từ này.
Còn người Pháp thì dùng từ An Nam để chỉ nước ta (BBT Nhà xuất bản Văn học).