|
05 tháng 8, 2009 |
Bài báo này nghiên cứu những trường hợp mở rộng công cuộc truyền giáo ở
Bắc Việt. Bài viết phát hiện lý do làm sao, trong mấy thập niên, những đoàn
truyền giáo đi sâu vào những vùng rừng núi trên vùng thượng du Bắc Việt, làm
sao nó hình thành, làm sao nó mở rộng, và làm sao nó bị bế tắc vào thập niên
1920 trước khi bị suy sụp lúc người Pháp rút khỏi Việt Nam vào cuối thập
niên 1940.
Jean Michaud cộng tác biên khảo ở Đại Học Montréal, Canada.
Địa chỉ e-mail liên lạc là jean.michaud@umontreal.ca
Công cuộc truyền giáo và kế hoạch xâm chiếm
Bắc Kỳ
Nhiều tác giả đã nhận định rằng sự bành trướng thuộc
địa của người châu Âu trên khắp thế giới liên quan chặt chẽ với sự Cơ đốc
hóa những dân tộc nằm dưới ách thống trị, hoặc ít ra là của một bộ phận quan
trọng trong xã hội của họ. Dân cư vùng cao thuộc Đông Pháp không phải là
biệt lệ và nghiên cứu mới đây như Đồng bào Dân tộc của Cao Nguyên Trung
Phần Việt Nam của Oscar Salemink đã khẳng định thêm về quan điểm này.9
Thừa
nhận sự quan trọng trong bối cảnh mở rộng việc truyền giáo nằm trong sự bành
trướng chính trị của chính quyền thực dân là sự thật, chúng ta cần đưa ra
nét đại cương nền tảng chính trị của sự triển khai việc truyền giáo ở vùng
cao nguyên Bắc Kỳ - Sử gia Cao Huy Thuần đã thảo luận các giai đoạn kế tiếp
nhau của sự hợp tác của nhà truyền giáo với thực dân nơi chiếm đóng, thậm
chí chỉ cho thấy cả cái cách mà họ góp sức để tiến hành nó, sử dụng nó như
là một lực bẩy để cài cắm việc truyền giáo của họ ở Bắc Kỳ trong suốt những
thập niên đầu tiên có sự hiện diện của người Pháp.10 Một nhân
vật nổi bật trong tiến trình này được xem là một giáo sĩ có quyền lực, và là
nhân vật trung tâm nhất mà xứ Bắc Kỳ thuộc địa – và có lẽ cả Đông Pháp –
từng được biết đến. Đây là Paul-François Puginier, Giám mục địa phận Tây Bắc
Kỳ và Hà Nội từ năm 1868-1892 và cũng là thành viên của hội
Thừa Sai Paris, nhân vật chính yếu trong việc thiết lập và bành
trướng sự cai trị của người Pháp tại Việt Nam.
Puginier đã thu hút khá nhiều sự quan tâm của nhiều tác giả - khởi đầu với
lòng ngoan đạo và lòng sùng thánh mạnh mẽ từ Cha cố Eugène Louvet vào khoảng
đầu năm 1894.11 Để tránh sự lập lại không cần thiết ở đây, chúng
ta sẽ đặt tâm điểm vào các bản văn của ông ta mà những văn kiện này làm nổi
bật sự ảnh hưởng của ông ta đối với việc mở rộng hội truyền giáo vào các
vùng cao của Bắc Kỳ. Vào những năm 1880 ở Lưu vực Sông Hồng và các vùng núi
ở ngoại biên ở hạ nguồn, sự tiến công xâm lược của người Pháp đã làm cho các
quan lại trung thành với vị Hoàng đế ở Huế - và cũng như quan tâm đến việc
duy trì địa vị đặc quyền của họ - ủng hộ phong trào kháng chiến.
Để
đáp lại, đội quân xâm lược Pháp tung ra sứ mệnh bình định (mission de
pacification), một chiến dịch không hề khoan nhượng được kéo dài trọn
một thế kỷ. Đây là những thời kỳ đầy rối rắm, và các Công Sứ và Toàn quyền
Pháp ở Huế và Hà Nội hiếm khi ngồi vững ở địa vị này nhiều quá một năm: Chưa
đầy 15 năm mà đã có 15 người đến và đi giữa thời kỳ Jules Harmand được bổ
nhiệm và sự hiện diện của Paul Doumer vào năm 1897. Chính quyền của họ thiển
cận và đôi khi tàn bạo. Trong những chính quyền này chỉ có một vài người là
có được cái nhìn xa trông rộng, có thể tiên đoán tiềm năng của chính quyền
bảo hộ mới; trong số họ là nhà Chính trị - Tướng Antoine de Lanessan, người
giữ chức vị từ năm 1891–1894.
Trong
một nghiên cứu được xuất bản hai năm trước khi ông ta đảm nhiệm cương vị
Toàn Quyền Đông Dương, Lanessan – người chống đối mạnh mẽ giới giáo sĩ đã
tuyên bố (nhắm thẳng tới Giám mục Puginier) rằng “các đại diện của chúng ta
đã tự ý cho phép mình ít nhiều đã lôi kéo có chủ ý theo chiều hướng truyền
giáo”, dựa trên việc đàn áp các quan lại và các học giả, với cái kết quả của
việc xâm chiếm Trung và Bắc Kỳ (Annam and Tonkin) bằng tất cả cái giá của
sinh mạng và tiền bạc mà nó phải gánh chịu này.”12 Sự thật là
trong những năm tiếp theo sau Hiệp ước Patenôtre năm 1884, người Pháp rõ
ràng đã áp đặt chế độ bảo hộ lên Đế chế Việt Nam, một chính sách cai trị và
đồng hóa được áp dụng đối với dân tộc Việt Nam, chủ yếu để hưởng ứng đường
lối của những người lãnh đạo hội truyền giáo do Paul Puginier lãnh đạo.
Puginier có mặt vào những năm mà người Pháp có thời cơ nhất ở xứ Bắc Kỳ, nơi
mà ông ta triển khai một hệ thống mật vụ chỉ điểm rộng khắp trong số những
người châu Âu và một số người Việt Nam có hành vi tương tự (Việt gian -
ND). Ông ta có thời gian thể hiện ý
tưởng của mình cho chính quyền bảo hộ mới cũng như có ý định làm cho cấp
chính quyền cao nhất nhận thức được ý tưởng này. Từ việc loại bỏ Phụ chánh
đại thần Tôn Thất Thuyết, người lãnh đạo phong trào kháng Pháp, năm 1885 gia
tăng tiến hành nghiền nát tất cả các lực lượng kháng cự quan trọng nhất ở
miền bắc (hoàn tất năm 1896). Các cuộc hành quân của quân đội Pháp được khơi
dậy từ chính sách của Puginier và được lợi dụng một cách tích cực các thông
tin chiến lược của phong trào “chống đối” của người Việt Nam do mạng lưới
của hội truyền giáo cung cấp – các thông tin thường lấy từ những người đi
xưng tội. 13 Lực lượng võ trang bị làm suy yếu dần một cách đáng
kể do người Pháp tranh thủ được hàng ngàn người Công giáo mới được cải đạo
hàng năm ở vùng châu thổ và những vùng phụ cận chung quanh.
Puginier, người vừa đặt chân xuống Đông Dương, đã được phong chức Giám mục
địa phận Tây Bắc Kỳ vào năm 1868 ở tuổi 33 trẻ trung, kế nhiệm sau cái chết
của người tiền nhiệm Joseph Theurel; ông ta giữ cương vị này cho đến khi qua
đời vào năm 1892. Ông ta hiểu ngôn ngữ, con người và đất nước này, mà vào
thời điểm ấy không một người Pháp nào hiểu được nhờ vào nhiều năm đi truyền
đạo ở cương vị quyền đại biện, và là người có lòng tin mãnh liệt vào nhiệm
vụ khai hóa của mẫu quốc đối với dân tộc Việt Nam. Puginier là nhân vật
trung gian giữa chính quyền địa phương và Jean Dupuis và Francis Garnier
trong cuộc gây biến (coup de force) ở Hà Nội năm 1873 và đóng một vai
trò quyết định trong việc thiết lập và duy trì khu vực Nhượng địa Pháp dọc
theo bờ Sông Hồng, nền móng đầu tiên của người Pháp đặt chân lên Bắc Kỳ
trong những năm 1870. Vào năm 1878, ông ta gửi phái bộ Công giáo đầu tiên
sang Lào -không thành công - khởi đầu cho việc sáp nhập Lào vào khối Đông
Pháp 15 năm sau đó . Vào đầu những năm 1880, được kích thích bởi chính sách
theo chủ nghĩa bành trướng của Jules Ferry ở Pháp với sự ủng hộ của Giám
mục Charles Freppel, Puginier đã lợi dụng tài ngoại giao và mối quan hệ của
ông ta với giới quan chức cao cấp người Việt Nam để giúp mở ra con đường để
người Pháp có mặt lâu dài ở Hà Nội năm 1883 và cho việc xâm chiếm Bắc Kỳ sau
đó.
Vào
năm 1884, để đáp ứng lời yêu cầu của người chỉ huy lực lượng Pháp ở Đông
dương, Puginier rời khỏi cơ quan đầu não của phái bộ ở Kẻ Sở (còn gọi là Sở
Kiện - gần thị trấn Kiện Khê của tỉnh Hà Nam ngày nay -
ND) để về sống ở Hà Nội và giúp đỡ
chính quyền thực dân trong việc bình định xứ Bắc Kỳ. Giữa thời điểm đó cho
đến khi ông ta chết, thời kỳ mà ảnh hưởng của ông ta lên cao nhất, Puginier
vun trồng một cách vững chắc ưu thế nổi trội sự hiện diện của đạo Công giáo
ở Hà Nội, xây dựng một biểu tượng bằng cách dựng lên Nhà thờ chánh tòa
Thánh Giu-se (Saint-Joseph Cathedral) vào năm 1886. Lanessan cho rằng ảnh
hưởng của Puginier sau năm 1883 là vô cùng quan trọng mà hầu hết các hành
động của chính phủ Pháp được truyền cảm hứng từ tinh thần sáng tạo trực tiếp
từ ý tưởng này.14 Sự tác động lâu dài ảnh hưởng của ông ta lên
các chính quyền lên cả xứ Bắc Kỳ lẫn nước Pháp, sự khái niệm hóa và điều
hành trong việc khai phá xứ Bắc Kỳ là công việc thuộc về các nhà truyền
giáo, đóng một vai trò quyết định trong việc hình thành nền tảng chính trị
và là điều kiện hoạt động cho tất cả các nhà truyền giáo Pháp, những người
mà sau đó thâm nhập vào Bắc Kỳ và cao nguyên Bắc Kỳ.
Các Ghi Chép của Puginier
Puginier vẫn thường xuyên giữ liên lạc với các quan chức chánh quyền thuộc
địa ở Hà Nội, ngoài ra cũng giữ liên lạc với nước Pháp nơi mà ông ta có các
đồng minh trong lãnh vực chính trị và giới giáo sĩ. Ở Bắc Kỳ, ông ta định kỳ
gửi “Các ghi chú và thông tin tình báo” (‘Notes et renseignements’)
nổi tiếng đến chính quyền thuộc địa, đôi khi là gửi hàng tuần.15 Tuy
nhiên, ngay từ lúc chính quyền ủng hộ Bắc Kỳ của Ferry ở Pháp bị hạ bệ vào
tháng Ba năm 1885 cho đến đầu thời kỳ Doumer nắm giữ cương vị thống đốc ở Hà
Nội năm 1897. Thái độ của nước Pháp đối với thuộc địa Đông dương vẫn còn
lãnh đạm. Sau những nỗ lực thực dân đáng đặt vấn đề của nền Quân chủ tháng
Bảy (1870–1940) và sự thất bại của Đệ Nhị Đế chế (1852–1870), nước Pháp trở
nên không thích Chủ nghĩa bành trướng thực dân, điều này tiêu biểu cho nền
Cộng hòa Thứ Ba non trẻ (1870–1940).
Trong
những năm cuối đời của Puginier, trong thời điểm ấy, sự cam kết của nước
Pháp duy trì sự hiện diện của mình ở Bắc Kỳ trên thực tế ít chắc chắn hơn.
Trong một nỗ lực chống lại sự mâu thuẩn càng lúc càng gia tăng của công dân
ở thuộc địa và ở mẫu quốc. Giám mục Puginier nhận thấy điều này như là nhiệm
vụ của ông ta trong việc cống hiến kinh nghiệm của mình trong việc giữ cho
chính phủ và những người đại diện kế nhiệm nắm biết những vấn đề liên quan
đến tôn giáo, chính trị, an ninh và quân sự. Trên thực tế, những lá thư của
Puginier gửi cho nhà cầm quyền đích thực là sự thiết lập chương trình thuộc
địa hóa; như là gian đoạn mở đầu sự bành trướng sứ vụ truyền giáo ở các vùng
Cao nguyên Bắc Kỳ, chúng đáng được quan tâm.16
Quan
ngại việc không để đánh mất vị thế của mình trước chính quyền Việt Nam.
Puginier thường mở đầu hay kết thúc các Ghi chép của mình gửi cho chính
quyền thực dân bằng cách nói rõ rằng nội dung các thông tin phải được xử lý
như là thông tin mật. “Sự phản ánh mà tôi vừa chia sẻ với quí ngài dựa trên
những thông tin đáng tin cậy. Giống như tôi ghi chép chúng cho chính tôi sử
dụng, Tôi xem chúng như là nhiệm vụ của mình để truyền đạt tin tức trong sự
tín cẩn và bí mật cho những ai cần phải biết nội dung của chúng, yêu cầu dấu
diếm tên tuổi của chính ông ta là người cung cấp thông tin.” Tự tin rằng sự
hiểu biết của ông ta về xứ Bắc Kỳ và người Việt Nam sâu rộng vượt qua mọi
hiểu biết của những viên Công sứ và Thống sứ có thời gian phục vụ ngắn hạn,
những người được bổ nhiệm việc cai trị Đông Dương trong khoảng thời gian ông
ta có mặt – một sự kiện mà ông ta không ngần ngại để nhắc nhở người trao đổi
thư từ với mình – ông ta thường lợi dụng như là cương vị của một chính khách
trong việc cố vấn cho viên Thống sứ phương hướng hành động thích hợp: “Hãy
cảnh giác với lời giải thích rằng chính phủ Trung Quốc sẽ quan tâm đến việc
tập trung quân trên biên giới Bắc Kỳ. Không có lý do có thể biện minh sự duy
trì sự tập trung quân như vậy. Trong trường hợp những đội quân này được giãi
tán hay lui binh, sẽ là điều khôn ngoan để biết phương hướng hành động mà họ
sẽ chọn.’17
Theo
như thông lệ của những người tiền nhiệm ở Tây Bắc Kỳ - Cụ thể là Giám mục
Pierre Retord (1840–58), Charles Jeantet (1858–66) và Joseph Theurel
(1866–8) – những người từng sống ở đây và chịu đựng sự chống đối mạnh mẽ của
chính quyền Việt Nam, bản Ghi chép của Puginier thể hiện sự căm thù mãnh
liệt các quan lại địa phương và giới sĩ phu hay các nhà nho, ông ta
tỏ vẻ khinh miệt sự khôn ngoan của họ. Ông ta dùng những từ ngữ cay nghiệt
nhất để mô tả họ như: “xảo trá, rình rập, đạo đức giả, chịu ngọt, ra vẻ như
nhu nhược để đạt được thành công.18 Y như tâm địa Puginier chẳng
khác, bị ảnh hưởng bởi thông lệ đòi hỏi bồi thường tài chính người bị cáo
buộc là thủ phạm gây ra thiệt hại về người trong các cuộc xung đột, ông ta
cũng có thể tự cho phép mình đưa ra những con số toán học kỳ lạ. Khi trình
bày với các quan chức chính quyền thuộc địa sau cuộc tàn phá các làng Công
giáo người Kinh do “phiến quân” Trung quốc gây ra, ông ta đưa ra con số của
cái giá cho sự thiệt hại về người của các cuộc “thảm sát” như sau: ‘7 giáo
sĩ (70,000 francs); 1 linh mục bản địa (5,000 F); 66 thầy giảng (198,000 F);
303 con chiên (303,000 F)’.19 Cái giá trị tương xứng một mạng
người trong mỗi hạng người theo tương ứng là 10,000, 5,000, 3,000 và 1000
quan pháp, đã lộ rõ tính cách chính trị thực dụng tương phản với lời cam kết
sống theo phúc âm của ông ta.
Bản
Ghi chép của tháng Ba năm 1887, một bản báo cáo tổng kết dài 20 trang về
tình hình chính trị mà ông ta hiểu biết vào thời kỳ đó, cung cấp một ví dụ
hoàn hảo về tầm nhìn của ông ta đối với khu vực và dân chúng của nó.
Puginier vạch rõ ra rằng bản văn đặc biệt này, được viết “với mục đích làm
hé lộ ánh sáng cho những ai muốn biết sự thật”, được dành cho một số người
đọc có chọn lọc, những người muốn được thông báo (hầu hết là những viên chức
cấp cao của hệ thống thuộc địa) và cho “các bạn đã cống hiến cho sự nghiệp
của xứ Bắc Kỳ và quyền lợi đích thực của nước Pháp”. Ba câu hỏi được
Puginier trình bày một cách rõ ràng trong các ghi chép này: “ Bắc Kỳ có đáng
được nước Pháp quan tâm? Người láng giềng Trung quốc có đáng sợ như thường
được nói đến và cứ được lập đi lập lại? Cần phải làm gì ?” 20
Đối
với câu hỏi thứ nhất, câu trả lời của Giám mục là dứt khoát rõ ràng ‘có’ đối
với cả hai vùng, bình nguyên và cao nguyên. Ông ta củng cố lập trường của
mình bằng cách trích dẫn một câu của chính ông ta “ Các ghi nhận đối với vấn
đề của xứ Bắc Kỳ” (Notes sur la question du Tonkin) được viết năm 1884.
Nhưng những phần thưởng nào mà người Pháp có thể tìm thấy ở Bắc Kỳ mà rồi sẽ
đền đáp cho nước Pháp đối với sự hi sinh mà chính nước Pháp phải gánh chịu ở
đó? Một số là thực tế và theo tôi nghĩ là xứng đáng. Bắc Kỳ là một xứ sở
giàu có, đất đai có thể sản xuất nhiều loại nông sản; trong khi vùng đồng
bằng thích hợp để sản xuất lúa gạo, ngô, mía, dâu tằm, bông, chàm, v.v.. thì
vô số cao nguyên luân phiên cho nhiều sản phẩm đúng là quí giá: nhiều loại
gỗ, sơn mài, củ nâu, sơn ta, long não, cây gai dầu, cây gai, vỏ cây dùng làm
giấy Trung quốc, nhiều loại dầu mà một số trong đó có thuộc tính làm khô của
dầu lanh v.v.. Chưa tính đến các mỏ than đá, vàng và thiết.
Theo
đuổi trên mặt trận thương mại, Puginier tiến xa hơn trong việc thuyết phục
rằng:
Xứ
Bắc Kỳ, với những con sông của xứ sở này, mở ra cho nước Pháp những con
đường dễ dàng cho hàng hóa xâm nhập nước Lào và Đông nam Trung quốc, các
tỉnh Vân Nam (Yunnan), Vũ Hán (Guangxi), Quý Dương (Guizhou) và một nửa Tứ
Xuyên (Sichuan), và cho phép nước Pháp khai thác nhiều loại sản phẩm từ
những vùng đất đai rộng lớn này, mà những sản phẩm sẽ tạo ra một ngành
thương mại sinh lợi. Nhân đây, người ta có thể nghĩ đến đồng, thiết, kẽm,
thủy ngân và nhiều loại trà tuyệt hảo hạng được tiêu thụ ở nội xứ mà Châu Âu
chưa từng biết đến.21
Puginier cũng nhấn mạnh rằng lòng nhiệt huyết của hội truyền giáo đã cống
hiến trong việc xây dựng nền tảng vững chắc những người bạn của người Công
giáo trong lòng dân chúng địa phương, đây là điều không được để phí phạm.
Những người bạn này là sự giúp đỡ cốt yếu trong việc thực hiện kế hoạch
thuộc địa. Họ sẽ báo cho ta biết những nguy cơ sắp xảy ra, và đã chuẩn bị để
can thiệp vào nếu cần thiết. Ông ta tuyên bố rằng “điều này rất khích lệ cho
nước Pháp biết rằng nước Pháp có được yếu tố quan trọng và thuận lợi ở Bắc
Kỳ, nếu nước Pháp biết cách vận dụng nó, yếu tố này sẽ tạo cực kỳ thuận lợi
trong việc tiến hành bình định xứ sở này, thiết lập sự ảnh hưởng của mình và
sẽ hỗ trợ từng bước thâu tóm toàn bộ dân chúng cho sự nghiệp của nước Pháp”.22
Puginier tiếp tục nhấn mạnh những gì ông ta tin là cần thiết cho kế hoạch
mang tầm chiến lược để củng cố sức mạnh của nước Pháp trong việc thâu tóm xứ
Bắc Kỳ.
Một chiến dịch quân sự, dĩ nhiên, một sự tiến hành khôn ngoan, cẩn trọng dựa
trên trình độ hiểu biết của người bản địa và tình huống, kết hợp với sự tích
cực và sự tuân thủ một kế hoạch tốt được thực hiện một cách kiên trì, sẽ
từng bước dẫn đến một giải pháp thỏa đáng mà điều đó sẽ đền bù cho nước Pháp
những hi sinh to lớn ở Bắc Kỳ. . . . Không một ai được bỏ qua sự kiện rằng
ngay khi nước Pháp rời khỏi Bắc Kỳ, một quốc qia hùng mạnh khác sẽ thay thế
nước Pháp ngay lập tức.
Đối
với câu hỏi thứ hai, liên quan đến khả năng gây khó dễ của người láng giềng
Trung quốc, Puginier tin rằng nếu chính quyền thuộc địa có thể đặt ưu tiên
để thu phục sự hỗ trợ của dân chúng Việt Nam cho sự nghiệp của nước Pháp –
như chỉ việc chống lại sự hợp tác với giới sĩ phu - Sẽ không có lý do gì để
sợ Trung quốc trong thời kỳ hòa bình. Thêm vào đó, nếu như có một cuộc chiến
tranh xảy ra với một cường quốc châu Âu khác trong khu vực, mọi việc vẫn có
thể nằm trong tầm kiểm soát miễn là nước Pháp có thể sử dụng “một số tàu
chiến để bảo vệ miền duyên hải, những đồn bót kiên cố để bảo vệ biên giới,
hệ thống tiếp vụ tốt, [và] những yếu tố thuận lợi trong xứ để hỗ trợ quân
đội Pháp’.23 Tuy nhiên, câu trả lời thứ ba là của chính
Puginier, “Cần phải làm gì?”, điều đó hình thành nên một bản kế hoạch chi
tiết đúng nghĩa để hiểu chính sách của hội truyền giáo Pháp ở xứ Bắc Kỳ, đặc
biệt là ở Cao nguyên Bắc Kỳ. Bản kế hoạch chi tiết này là quan trọng hơn cả
bởi vì chúng đến từ một người truyền giáo có kinh nghiệm và ảnh hưởng nhất
xứ Bắc Kỳ. Tám kiến nghị mà ông ta xúc tiến xem như là kế hoạch hành động,
hình thành phần trọng tâm của lá thư của ông ta, chiếm 13 trang trong số 20
trang.
Trong
những kiến nghị này, một số làm nổi bật mối quan tâm hàng đầu về kinh tế của
Puginier: Một công ty của Pháp phải được thành lập theo mô hình Công ty Đông
Ấn xưa kia (Compagnie des Indes), và xây dựng một nông trang thí điểm
để biểu diễn kỹ thuật canh tác hiện đại. Các kiến nghị khác tập trung vào sự
tin tưởng chắc chắn của ông ta để đi đến thành công, Chính phủ Pháp phải
dành được sự quí trọng và yêu mến của dân chúng. Cuối cùng, chúng ta nhận ra
nỗi ám ảnh của ông ta với ý nghĩ rằng phải làm cho giới sĩ phu Việt Nam
không đáng được tin cậy và hệ thống công lý bất công phải được chỉnh sửa.
Trên mặt trận chính trị này, Puginier khuyến nghị rằng chữ Hán phải từng
bước nhanh chóng được thay thế bằng mẫu tự Latin trong tiếng Việt (quốc ngữ)
– như đã và đang được thực hiện ở Nam Kỳ (Cochin China) – và thế người Pháp
từng bước thực hiện việc cưỡng bách mọi người trong bộ máy dân chính phải
biết chữ quốc ngữ trong 20 đến 25 năm tới. Vị Giám mục lập luận rằng điều
này sẽ tạo nên một cách ứng phó tốt nhất của sinh mệnh lịch sử đối với Trung
quốc trong khi đó sức mạnh của các quan lại người Việt thù địch với nước
Pháp vì thế cũng sẽ bị suy yếu dần một cách không thể khác được.
Điều
thú vị để ghi nhận rằng chỉ riêng điều đầu tiên trong tám kiến nghị của ông
ta đã dàn đầy năm trang. Ngay trong điều đầu tiên, sự chỉ đạo của Puginier
là rõ ràng và dứt khoát không để một khoảng trống nào cho sự hoài nghi:
“Công giáo toàn tòng hóa quốc gia này” (christianiser le pays). Ông
ta khẳng định rằng “ để tạo sự đoàn kết cho con người và dân chúng”, không
có mối ràng buộc nào mạnh hơn niềm tin, và một khi một Quốc gia Công giáo đã
thành công trong việc cắm chặt tôn giáo của nó ở các thuộc địa, quốc gia đó
có thể an tâm. Chúng ta sẽ không bao giờ thấy một thuộc địa Công giáo nào
ruồng bỏ mẫu quốc của nó và liên kết với bọn ngoại giáo láng giềng để chống
lại nó”. Ông Giám mục tin tưởng rằng “ngay khi Bắc Kỳ trở thành Công giáo”,
nó cũng sẽ trở thành một Nước Pháp Nhỏ của vùng Viễn Đông, tất nhiên, ở một
chừng mực nào đó giống như Phi luật tân là một Tây Ban Nha Nhỏ”. Do đó, ông
ta giãi thích rõ ràng chương trình mục vụ của ông ta và nhấn mạnh rằng các
nhà truyền giáo sẽ là nòng cốt trong chiến lược này:
Điều chắc chắn là các nhà truyền giáo, người đã tạo nên sức mạnh tinh thần
(moral force) lớn nhất ở thuộc địa. Đó là họ, những người làm cho quê hương
được yêu thương và biết đến bằng sự thực tế. Sự ảnh hưởng mà họ tạo ra càng
lớn, sự an ninh của xã hội dân sự càng được nâng cao . . . Tôi sẽ nói một
cách thẳng thừng, nước Pháp không có bạn bè nào tốt hơn là các nhà truyền
giáo và những người Công giáo, và nước Pháp không có những bầy tôi tận tụy
và hết lòng hơn như vậy. Trong khi phụng sự để làm vinh hiển Đức Chúa trời
và sự cứu rỗi linh hồn, các nhà truyền giáo, hãy để tôi lập lại, nhận lấy
làm trách nhiệm của họ để làm cho quê hương được yêu thương và biết đến.
Bằng cách dạy cho các Giáo dân sự kính trọng và cống hiến cho chính phủ của
họ, các giáo sĩ đã chuyển đổi họ thành những người bạn thật sự của nước
Pháp.
Puginier tiên đoán rằng nếu sự cải đạo được thực hiện một cách đều đặn nhưng
với từng bước cẩn trọng để tránh sự xung đột đối đầu với truyền thống của
người Việt Nam và khuấy động sự bất bình trong dân chúng, “có những lý do
tốt đẹp để hy vọng rằng trong vòng ba mươi năm, hầu như toàn bộ Bắc Kỳ sẽ là
giáo dân Công giáo, nói một cách khác, là những người Pháp”.24
Về
trường hợp đặc biệt của cao nguyên Bắc Kỳ, ông Giám mục biểu lộ quan điểm
mạnh mẽ sự quan trọng trong việc kiểm soát chặt chẽ các khu vực biên giới,
trọng tâm của chúng tôi ở vấn đề này, là sử dụng chính trị hơn là mang
chuyện thần thánh ra để tranh cãi hầu thuyết phục những người đọc nó. Kiến
nghị thứ ba nói rõ ra rằng sự cần thiết để “củng cố sự thân thiện của cư dân
sống ở biên giới Annam [nghĩa là Việt Nam] tiếp giáp với Trung quốc với sự
quan tâm việc giữ lòng trung thành đối với nước Pháp”.
Puginier thất bại trong việc giải thích chính xác làm cách nào để thực hiện
được điều này, tuy nhiên, hay là với mục tiêu Công giáo hóa đồng bào miền
núi mà đã được đề cập một cách dứt khoát như là phương tiện để đạt được kết
quả như thế. Không giống với đề nghị chính liên quan đến tuyệt đại đa số dân
chúng người Kinh – “Công giáo hóa!” - Sự thật là ông ta cố không đề cập đến
việc cải đạo như là một trong những cách để thâu phục những dân tộc miền
núi, gợi ra rằng ông ta có những ý định khác cho họ. Ông ta thậm chí tuyên
bố:
Có
một giải pháp khác rất là hữu hiệu và thực tế; cụ thể là để lôi kéo dứt
khoát những dân tộc khác nhau sống ở các khu vực miền núi gọi là Châu hay
Mường [từ ngữ sử dụng để gọi theo địa lý và đơn vị hành chính ở các khu vực
miền cao] về phía chúng ta. Bằng cách chính chúng ta nỗ lực tìm đến họ, theo
cách đó, chúng ta sẽ tránh được sự chống đối của họ và họ sẽ không che chở
hay giúp đỡ quân Trung quốc, những người có thể muốn cướp bóc xứ Bắc Kỳ . .
.
Tất cả mọi cần thiết là phong cho họ một cách hào phóng những tước hiệu cao
quí và, khi cần thiết, thưởng tiền bạc cho họ..25
Nếu
như sự thất bại trong việc đề cập một cách dứt khoát rằng việc Công giáo hóa
như là một cách để lôi kéo những người phái núi (montagnards -
trong cách mạng Tư sản Pháp -
ND) đối với sự
cai trị thuộc địa đơn giản đâu chỉ là ngẫu nhiên? 26
Trên thực tế, tất cả mọi điều khác trong chiến lược của Puginier gợi ra
rằng sự mở rộng việc truyền đạo ở các khu vực miền núi sẽ tạo ra phương tiện
hữu hiệu để thâm nhập ảnh hưởng của nước Pháp vượt ra khỏi vùng đồng bằng
châu thổ.
Tuy
nhiên, sự dở dang này cũng chẳng phải là do ngẫu nhiên hay chiến lược; nó có
thể chỉ đơn giản làm thể hiện rõ sự thiếu quan tâm – và một cách tổng quát
hơn, lãnh đạo cấp cao quản trị hội truyền giáo ở Bắc Kỳ - thể hiện thái độ
đối với những tộc người không phải là dân tộc Kinh là những dân tộc “bán
khai” (demisauvages), là những người chia sẻ mối tương quan quyền lực
trong khu vực là nhỏ, những người mà triển vọng như là đối tác về kinh tế và
chính trị xem ra mờ nhạt. Trong một bản ghi chép trước đó gửi cho Paul Bert,
Thống sứ (Tổng trú sứ Trung- Bắc Kỳ) mà Puginier đã từng giãi bày ý tưởng
này bằng cách nói “là cách dễ dàng và thực tế” để gây được lòng trung thành
của dân tộc miền cao.27 Ông ta hiểu cách các quan lại của
triều đình Huế giãi quyết và sử dụng các bộ tộc vùng cao bán độc lập như thế
nào, cũng như đám thổ phỉ từ Trung quốc đánh nhau với người Pháp, và quấy
nhiễu những khu vực định cư toàn tòng Công giáo ở vùng ngoại vi châu thổ.
Ông ta vì thế muốn thuyết phục các nhà cầm quyền thực dân sự cần thiết khẩn
cấp để chặn đứng những cuộc tấn công phá hoại và chết người này, vì thế cho
nên chính sách của ông ta là mở rộng sự kiểm soát của chính quyền thuộc địa
lên khắp các bộ tộc miền núi. Puginier đã tích cực cổ động sự triển khai các
tiền đồn quân sự cố định ở các khu vực miền cao như là phương cách tốt nhất
để ngăn chận sự câu kết giữa các lãnh tụ người Kinh, các băng đảng người
Hoa, và người thượng du địa phương. Dù vậy, trong khi đó, ông ta hầu như
chắc chắn hiểu rằng sự kiểm soát toàn bộ và lâu dài những vùng dân cư xa xôi
không thể dễ dàng thực hiện được mà không có một quân đội tích cực và sự
thâm nhập của hội truyền giáo, nó có vẻ như ông ta chọn cách bỏ mặc cái công
việc tổ chức và chỉ đạo việc mở rộng việc truyền giáo ra ngoài phạm vi châu
thổ cho những người kế nhiệm mình.
Nói
tóm lại, vai trò của Puginier như là của một chính khách cống hiến cho sự
bành trướng và tính cạnh tranh của quê hương ông. Vai trò của ông có ít điềm
tương đồng với động cơ khiêm tốn hơn của việc cải đạo và cứu rỗi linh hồn mà
từng cá nhân nhà truyền giáo đến để hoạt động trong lãnh vực được hội đủ một
cách tốt nhất – và, cũng vì lẽ ấy, mà sinh ra mấy cái đề tài ‘dân tộc học’.
Những
Ghi chép của ông ta thường được chính quyền đón nhận một cách đáng khích lệ.
Dựa theo một nguồn tin thời kỳ đó, các quan chức và Thống đốc, Paul Bert
cũng như Courbet, đã tham vấn [Puginier] cùng một lòng tôn kính như nhau;
hầu hết trong mọi lúc, họ tuân theo lời khuyên của ông ta, và khi họ chểnh
mảng trong việc tuân hành như thế, xứ Bắc Kỳ và nước Pháp phải gánh chịu hậu
quả … Chính bản thân Bộ [Thuộc Địa] ở Paris đã hài lòng được biết sự thật về
xứ Bắc Kỳ nhờ vào những Ghi chép của Giám mục Puginier.28
Những
người khác tỏ vẻ dè dặt một cách nghiêm túc, như Lanessan chẳng hạn (trích
dẫn ở trên). Bất kỳ quan điểm của các cá nhân ra sao, dầu như thế nào đi
nữa, Puginier vẫn được ca ngợi cho sự cống hiến của mình và vì những hành
động không hề mệt mỏi trong việc nâng tầm nước Đại Pháp. Quan Khâm sứ Trung
Kỳ Brière phát biểu tại buổi tang lễ cấp nhà nước của Giám mục Puginier vào
tháng Tư năm 1892 rằng, sự qua đời của Đức ông Puginier là một tổn thất thảm
khốc cho Giáo hội, nhưng cũng vì thế, và chủ yếu, là cho nước Pháp và cho xứ
Bắc Kỳ mà vị Giám mục lẫy lừng đã khôn ngoan giúp cho nước Pháp có thêm đất
đai. Quan Thống sứ Bắc Kỳ Chevassieux phát biểu cùng trong buổi lễ tang rằng
Puginier là người “đại diện có thẩm quyền cao nhất của nước Pháp ở Bắc Kỳ.”29
Một đại lộ quan trọng ở Hà Nội được đặt tên ông (nay là Đại lộ Điện Biên
Phủ) cũng như một quảng trường hoành tráng đối diện với Dinh Toàn Quyền (nay
là Quảng Trường Ba Đình, nơi tổ chức các sự kiện kỷ niệm), cả hai dấu mốc
của thời thuộc địa và sau đó là chủ nghĩa xã hội của chính quyền Hà Nội; Một
chính quyền thực dân chịu ơn đã thưởng công một cách hào phóng cho Hội Thừa
Sai Paris (MEP)* 13 ha đất ở Hà Nội để
mở rộng trụ sở hội truyền giáo nằm quanh Nhà thờ Lớn, tạo cho các giáo sĩ
thành những ông chủ đất tư hữu quan trọng nhất thủ đô thời kỳ đó. Ở Pháp,
Puginier – được xem là một người đã cống hiến phần lớn cho sự thành công
trong việc chiếm đóng Bắc Kỳ của người Pháp - được phong tước Hiệp sĩ
, và sau đó là Người được thưởng huy chương Bắc đẩu bội tinh.30
Việc
đẩy mạnh sự thâm nhập của Hội Thừa Sai Paris [MEP]
vào cao nguyên Bắc Kỳ và sau đó nhanh chóng bộc lộ như là một phần của kế
hoạch tổng thể được hình thành trong nhiệm kỳ của Puginier. Dù rằng có thể ở
một tầm mức lớn hơn mà vị chân phước người Pháp (venerable French) ngay từ
đầu đã có thể tiên đoán hay đưa ra lời kêu gọi.
Nguyễn Trí Cảm chuyển ngữ
TP.HCM, tháng 7 năm 2009 –
Chú
thích của người dịch :
[*]
MEP :
Société des Missions Etrangères de
Paris –Hội Thừa Sai Paris
- Đông
Pháp: Đông Dương thuộc Pháp
- Chân
phước: chức danh của người được xem là rất thánh thiện nhưng chưa được phong
thánh của giáo hội Công giáo La Mã.
[Source:
http://journals.cambridge.org/download.php?file=%2FSEA%2FSEA35_02%2FS0022463404000153a.pdf&code=ecfd9921233d9e116ca4bcf617ba24df
]
Journal of Southeast Asian Studies, 35 (2), pp 287–310 June 2004.
Printed in the United Kingdom.
©
2004 The National University of Singapore DOI: 10.1017/S0022463404000153287
French Missionary Expansion in Colonial Upper Tonkin
Jean
Michaud
This article examines the circumstances and logic of French Catholic
missionary expansion in Upper Tonkin. It explores how, over a few decades,
the missionary push in the mountainous outskirts of the Red River Delta was
conceived, how it unfolded, and how it came to a standstill in the 1920s
before its decline towards the final exit of the French in the late 1940s.
Jean
Michaud is an Associate Researcher at the Université de Montréal in
Montréal, Canada. His e-mail contact is
jean.michaud@umontreal.ca
The
research on which this article is based has been made possible thanks to the
financial support of the Economic and Social Research Council of the United
Kingdom (2000–2), the British Academy (1999–2001), and the Social Sciences
and Humanities Research Council of Canada (1998–2001). My gratitude is
extended to the anonymous JSEAS referees who contributed very helpful
remarks to the first draft of this article, as well as to Oscar Salemink for
stimulating conversations relating to colonial ethnography and Indochina.
Missions and the colonial project in Tonkin
Many authors have observed that throughout the
world European colonial expansion went hand in hand with the
Christianisation of the subjugated peoples, or at least of a significant
segment of their society. The highland populations in French Indochina were
no exception to this rule and recent research such as Oscar Salemink’s
The ethnography of Vietnam’s Central Highlanders has further confirmed
this opinion.9
Acknowledging the importance of contextualising
missionary expansion within the political expansion of a colonial power, we
need to outline the political foundations of missionary deployment in the
upper region of Tonkin. Historian Cao Huy Thuân has discussed the successive
stages of missionary collaboration in the colonial takeover, showing how
they even contributed to guiding it, using it as leverage to implant their
missions in Tonkin during the first decades of the French presence.10
One character stands out in this process as the most central and most
powerful cleric that colonial Tonkin – and perhaps French Indochina – ever
saw. This was Paul-François Puginier, Bishop in partibus of
Mauricastre, and Vicar Apostolic of West Tonkin and of Hanoi from 1868–92, a
key figure in the establishment and expansion of French rule in Vietnam.
Puginier has received a good deal of attention
from various writers – starting with a pious and hefty hagiography by Father
Eugène Louvet as early as 1894.11 To avoid unnecessary repetition
here, we will focus on those of his texts that highlight his influence on
the expansion of missionary agency into the highlands of Tonkin. In the
1880s in the Red River Delta and its lower mountainous periphery, the
advance of the French conquest caused many mandarins faithful to the Emperor
in Hue – and concerned with maintaining their privileged position – to
support resistance. In response, the conquering French military machine
launched its mission de pacification, an unforgiving campaign that
was to last a full decade. These were troubled times, and France’s Residents
and Governors-General in Hue and Hanoi rarely remained in their posting for
more than a year: 15 came and went in less than 15 years between the
nomination of Jules Harmand in 1883 and the arrival of Paul Doumer in 1897.
Their administration was short-sighted and sometimes brutal. Only a few
visionaries among these administrators could foresee the potential of the
new protectorate; among them was Governor-General Antoine de Lanessan, who
held the post from 1891–1894. In a study published two years before taking
up his governorship, the strongly anti-clerical Lanessan had declared
(referring directly to Bishop Puginier) that ‘our representatives have
allowed themselves to be more or less consciously dragged towards the
missionaries’ policy, based on suppressing mandarins and scholars, with the
consequence of conquering Annam and Tonkin with all the human and financial
costs this imposes’.12 The fact is that in the years following
the 1884 Patenôtre Treaty establishing the definitive French protectorate
over the Vietnamese Empire, a policy of domination and assimilation was
applied to the Vietnamese people, chiefly in response to the missionary
leadership headed by Paul Puginier.
Puginier was in those years the most seasoned
Frenchman in Tonkin, where he had developed an extensive network of
informers among Europeans and Vietnamese alike. He had time to shape his
vision for the new protectorate and he intended to make the highest
authority aware of it. From the elimination of Regent Tôn Thâat Thuyêat, a
leader of the anti-French resistance, in 1885 to the progressive crushing of
all significant resistance in the north (completed by 1896), French military
operations were stimulated by Puginier’s policies and actively benefited
from strategic information on the movements of the Vietnamese ‘rebels’
provided through the missionary network – information often obtained in the
confessional.13 Armed resistance was significantly undermined by
the acquisition to the French cause of thousands of new Catholic converts
every year in the delta and its immediate periphery.
Puginier, who first set foot in Indochina in
1858, was made Vicar Apostolic of West Tonkin in 1868 at the young age of
33, following the death of his predecessor Joseph Theurel; he retained this
position until he passed away in 1892. He knew the the country, its language
and its inhabitants like no other Frenchman at the time thanks to many years
of missionising in his vicariate and was a strong believer in his
motherland’s civilising duty towards the Vietnamese. Puginier was a mediator
between local authorities and Jean Dupuis and Francis Garnier during their
1873 coup de force in Hanoi and played a decisive role in the
installation and maintenance of the French Concession on the banks of the
Red River, the initial French foothold in Tonkin in the 1870s. In 1878, he
sent the first – unsuccessful – Catholic mission to Laos, a prelude to its
annexation to French Indochina 15 years later. In the early 1880s,
stimulated by the expansionist policy of Jules Ferry in France with the
support of Bishop Charles Freppel, Puginier made use of his diplomatic
skills and his contacts high up in the Vietnamese circles to help open the
way for a permanent French presence in Hanoi in 1883 and for the subsequent
conquest of Tonkin.
In 1884, at the request of the commander of
French forces in Indochina, Puginier moved from the mission’s headquarters
in Ke? So?’ (near Kiên Khê in present-day Hà Nam province) to take up
residence in Hanoi and assist the colonial authorities in the pacification
of Tonkin. Between that date and his death, which occurred at the peak of
his influence, Puginier firmly implanted a dominant Catholic presence in
Hanoi, symbolised by the erection of the Saint-Joseph Cathedral in 1886.
Lanessan considered that Puginier’s influence after 1883 was so important
that most of the actions of French authorities were directly inspired by his
ideas.14 The long-term impact of his influence on the authorities
both in Tonkin and in France, and his conceptualisation and management of
the opening up of Tonkin to missionaries’ work, played a decisive role in
shaping the political background and the working conditions for all the
French missionaries who subsequently penetrated Tonkin and its highlands.
Puginier’s Notes
Puginier maintained a regular stream of
correspondence with colonial political authorities in Hanoi, but also in
France, where he had powerful allies both in political and ecclesiastical
circles. In Tonkin, he sent his famous ‘Notes et renseignements’ to
the colonial authorities on a regular basis, sometimes weekly.15
Nevertheless, from the moment the pro-Tonkin Ferry administration in France
was ousted in March 1885 until the beginning of the Doumer governorship in
Hanoi in 1897, France’s attitude towards its Indochina colony remained
lukewarm. After the questionable colonial endeavours of the July Monarchy
(1830–48) and the failures of the Second Empire (1852–70), France grew to
dislike the colonial expansionism that also characterised the young Third
Republic (1870–1940). During the last years of Puginier’s life, then,
France’s commitment to maintaining its presence in Tonkin was in fact less
than assured. In an effort to fight the growing ambivalence among the
colonial and metropolitan elites, the Bishop saw it as his duty to
contribute his experience to keeping the government and its successive
representatives informed on religious, political, security and military
issues. In fact, Puginier’s letters to the authorities constituted a
veritable colonisation programme; as a prologue to missionary expansion into
Upper Tonkin, they deserve attention.16
Concerned not to undermine his position in front
of the Vietnamese authorities, Puginier would often start or conclude his
Notes to the colonial authorities by stating that the information they
contained should be treated as confidential. ‘The reflections I just shared
with you are based on reliable information. As I wrote them down for my
personal use, I see it as my duty to communicate them in confidence and in
secret to those who should know about their content, begging to conceal the
name of he who gives this information.’ Confident that his knowledge of
Tonkin and the Vietnamese vastly exceeded that of any of the short-term
Residents and Governors who were appointed to administer Indochina during
his time – a fact of which he did not hesitate to remind his correspondent –
he would take the stance of a statesman in advising the Governor on the
preferable course of action: ‘Be wary of the explanations that the
Government of China will give concerning their concentration of troops on
the Tonkin border. There is no
reason that could justify maintaining such a
concentration. In case these troops should be disbanded or dismissed, it
would be wise to know the direction they will take.’17
As was common practice among his predecessors in
West Tonkin – Bishops Pierre Retord (1840–58), Charles Jeantet (1858–66) and
Joseph Theurel (1866–8) in particular – who lived and suffered through the
strong opposition of Vietnamese authorities, Puginier’s Notes showed a
vigorous dislike for the local mandarins and the educated elite or
lettrés, whose politics he despised. He used the harshest words to
describe them: ‘tortuous, hidden, hypocritical, sweet, pretending to appear
weak in order to succeed’.18 In the same vein Puginier,
influenced by the common practice of asking for financial compensation from
the alleged perpetrators for human losses during a conflict, could also
indulge in strange arithmetic. When addressing the colonial authorities
following the destruction of Kinh Christian villages by Chinese ‘rebels’, he
put figures on the human cost of the ‘massacres’: ‘7 missionaries (70,000
francs); 1 native priest (5,000 F); 66 catechists (198,000 F); 303
Christians (303,000 F)’.19 The honourable man’s valuation of
human life in each category was thus respectively 10,000, 5,000, 3,000 and
1000 francs, revealing a level of political pragmatism that stood in
contrast with his evangelical commitment.
His Note of March 1887, a 20-page summary of the
political situation as he saw it at the time, provides a consummate example
of his vision for the region and its populations. Puginier states that this
particular text, written ‘with the objective of shedding some light for
those wanting to know the truth’, was intended for a select readership who
wanted to be informed (most likely members of the higher colonial hierarchy)
and for ‘friends dedicated to Tonkin’s cause and to France’s true
interests’. Three questions are explicitly addressed by Puginier in these
notes: ‘Does Tonkin deserve French attention? Is the neighbourhood of China
as fearsome as has often been said and repeated? What should be done?’20
To the first question, the Bishop’s answer is
unequivocally ‘yes’ for both the lowlands and highlands. He supports his
position by quoting from his own ‘Notes sur la question du Tonking’ written
in 1884:
But what rewards can France find in Tonkin that
would pay her back for the sacrifices she imposes on herself there? Some are
real and to my mind considerable. Tonkin is a rich country with a soil
capable of producing a high variety of produce; while the plains favour the
production of rice, maize, sugar cane, mulberry tree, cotton, indigo, etc.,
the numerous plateaux yield in turn many products just as precious: several
varieties of wood, lacquer, faux-gambier, lacquer gum, camphor, hemp, ramie,
bark for making China paper, several types of oils with some bearing the
desiccative property of linseed oil, etc. Not to mention the coal, gold and
tin mines.
Pursuing on the trade front, Puginier further
argues that:
Tonkin, with its rivers, opens to France easy
ways for her merchandise to penetrate Laos and the southwest of China,
Yunnan, Guangxi, Guizhou, half of the province of Sichuan, and allows her to
extract from these immense countries products that would make a lucrative
trading branch. Among other things one can think of copper, pewter, zinc,
mercury, excellent varieties of tea consumed locally and unknown in Europe.21
Puginier also stresses that missionary zeal has
contributed to building a strong base of Christian friends among the local
population, one that must not be wasted. These friends were of crucial help
in implementing the colonial project by warning against forthcoming perils,
and were prepared to be further involved if necessary. He declares that ‘it
is very encouraging for France to know that she has in Tonkin an important
and friendly element which, if she knows how to use it, will mightily
facilitate the pacification of the country, the establishment of her
influence, and will help to gradually gain the whole population to her
cause’.22
Puginier proceeds to emphasise what he believes
to be the necessary strategic plan to strengthen France’s grip over Tonkin:
A military campaign of course, a wise, careful
administration based on a knowledge of the local minds and situation,
combined with energy and the execution of a good plan steadily implemented,
will gradually lead to a satisfactory solution which will compensate France
for its immense sacrifice in Tonkin . . . . One should not lose sight of the
fact that from the moment France exited Tonkin, another strong nation would
immediately come to replace her.
On the second question, regarding the possibly
troublesome neighbour China, Puginier believes that if colonial authorities
can give priority to gaining the support of the Vietnamese population to
France’s cause – as opposed to working with the elites only – there should
be no reason to fear China in times of peace. In addition, should a war
break out with another European power in the region, things could be kept
under control provided that France could use ‘a few warships to guard the
coasts, serious posts to protect the borders, good supply networks, [and]
friendly elements inside the country to support French troops’.23
However, it is Puginier’s answer to the third question, ‘What should be
done?’, that constitutes a literal blueprint for understanding French
missionary policy in Tonkin, particularly in Upper Tonkin. This blueprint is
all the more significant because it comes from the most experienced and
influential missionary in Tonkin. The eight recommendations he puts forward
as his action plan form the bulk of his letter, 13 of the 20 pages.
Among these recommendations, some highlight
Puginier’s economic preoccupations:
a French company should be set up on the model
of the ancient East India Company (Compagnie des Indes), and a pilot
farm should be created to demonstrate modern agricultural techniques. Others
focus on his conviction that in order to succeed, the French administration
must earn the esteem and the affection of the population. Finally, we see
his obsession with the idea that the Vietnamese elite must not be trusted
and that their inequitable justice system must be rectified. On this
political front, Puginier recommended that the Chinese ideograms be
progressively replaced by the Romanised script of Vietnamese language (quôc
ngu,) – as was already being done in Cochin China – and that French be
gradually made compulsory for everyone in the civil service over the next 20
to 25 years. The Bishop argued that this would constitute the best way to
sever the historical lifeline with China while the power of the Vietnamese
mandarins hostile to France would thus also be irrevocably undermined.
It is interesting to note that the first of his
eight recommendations alone fills five pages. Puginier’s directive here is
clear-cut and leaves no room for doubt: ‘Christianise the country’ (christianiser
le pays). He asserts that ‘to unite men and peoples, there is no tie
stronger than the unity of belief, and once a Catholic State has succeeded
in rooting its religion in its colonies, it can be at rest . . . We will
never see a Catholic colony abandon its motherland and ally with pagan
neighbours to fight her’. The Bishop is confident that ‘from the moment
Tonkin becomes Christian, it will also become the Little France of the Far
East, absolutely, to the same extent that the Philippines are a Little
Spain’. Consequently, he spells out his religious agenda and insists that
missionaries will be pivotal in this strategy:
It is certainly the missionaries who constitute
the greatest moral force in a colony. It is they who make the motherland
known and loved in its reality. The greater their influence, the more secure
the civil society . . . I will put it bluntly, France has no better friends
than the missionaries and the Christians, and she has no more dedicated and
selfless servants. While working on providing the glory of God and the
salvation of the souls, missionaries, let me repeat, make it their duty to
make their motherland known and loved. By preaching to Christians respect
and dedication for their government, they turn them into true friends of
France.
Puginier prophesies that if proselytising is
performed steadily but at a careful pace in order to avoid clashing head-on
with Vietnamese tradition and stirring disgruntlement among the population,
‘there are good reasons to hope that within thirty years, virtually all of
Tonkin will be Christian, that is to say, French’.24
Regarding the specific case of upland Tonkin,
our focus in this article, the Bishop expresses strong views on the
importance of taking firm control over the border areas, using political
rather than spiritual arguments to convince his readership. His third
recommendation spells out the need to ‘establish on the Annam [i.e.,
Vietnam] frontier adjacent to China friendly populations with an interest in
remaining loyal to France’.
Puginier falls short of explaining exactly how
this is to be done, however, nor is the objective
of Christianising the mountain populations
explicitly mentioned as a means to achieve such a result. Unlike his main
suggestion regarding the bulk of the Kinh population – ‘Christianise!’ – the
fact that he refrains from mentioning proselytising as one of the ways to
win over these highland populations suggests that he has different aims for
them. He actually declares:
There is another very useful and practical
solution; namely to definitively draw to us the different peoples in the
mountain districts called Chau and Muong [terms used for geographical and
political units in highland areas]. By endearing ourselves to them, we will
thus avoid having them opposed to us and they won’t give shelter or support
to the Chinese troops who might want to pillage Tonkin . . . All that is
needed is to lavishly grant them honorific distinctions and, whenever
necessary, give them monetary rewards.25
Could the failure to explicitly mention
Christianisation as a way to win over the montagnards to colonial rule be
simply accidental?26 In fact, everything else in Puginier’s strategy
suggests that missionary expansion in the mountains would have provided a
useful vehicle for the penetration of France’s influence beyond the deltaic
lowlands.
However, this omission may also be neither
accidental nor strategic; it may simply highlight the lack of interest that
Puginier – and more generally the upper-level missionary administration in
Tonkin – showed toward the non-Kinh populations, the ‘demisauvages’
whose share in the regional balance of power was small, and whose promise as
economic and political partners appeared meagre. In an earlier note sent to
Paul Bert, Resident-General for Annam and Tonkin, Puginier had already
expressed this idea of using ‘easy and practical ways’ to earn the loyalty
of the highland populations.27 He understood how Hue’s mandarins had managed
to use upland semi-independent tribes and wandering troops from China to
fight the French and harass the settlements that had been Christianised on
the outskirts of the delta. He thus wanted to convince the colonial
authorities of the urgent need to stop these disruptive and deadly
incursions, hence his policy of extending colonial control over the mountain
populations. Puginier had been actively promoting the development of
permanent military outposts in the highlands as the best way to prevent
collusion between Kinh leaders, Chinese bandits, and local highlanders.
However, while he was probably aware that the total and permanent control of
these remote populations could not be easily achieved without active
military and missionary penetration, it appears as if he chose to leave the
task of organising and conducting the expansion of missionising beyond the
delta to his successors.
In sum, Puginier’s role was that of a statesman
dedicated to the expansion and competitivity of his motherland. His role had
little in common with the more humble motivation of conversion and
soul-saving best embodied by the individual missionaries arriving to work in
the field – and, by the same token, to produce ‘ethnographic’ texts.
His Notes were generally well received by the
authorities. According to one contemporary source, officers and Governors,
Paul Bert as well as Courbet, consulted [Puginier] with equal deference;
most of the time, they followed his advice, and when they neglected to do
so, Tonkin and France suffered the consequences . . . The Ministry [of
Colonies in Paris] itself was pleased to know the truth about Tonkin thanks
to the Bishop’s Notes.28
Others had serious reservations, such as de
Lanessan (quoted above). Whatever the individual views, however, Puginier
was lauded for his dedication and relentless action in promoting France’s
grandeur. Annam’s Resident Superior Brière declared at the Bishop’s
state funeral in April 1892 that ‘Mgr Puginier’s death is a cruel loss for
the Church, but also, and chiefly, for France and for Tonkin which the
illustrious Bishop has so wisely helped to make a French land.’ Tonkin
Resident Chevassieux declared on the same occasion that Puginier had been
‘France’s most authoritative representative in Tonkin’.29 An
important avenue in Hanoi was given his name (today’s Ðiên Biên Phu Avenue)
as well as a prominent square facing the Governor-General’s residence (now
the celebrated Ba Ðình Square), both landmarks of colonial and later
socialist Hanoi. A grateful colonial government lavishly rewarded the MEP
with 13 hectares of land in Hanoi to expand its mission in the vicinity of
the Cathedral, making the missionaries
the most important private landlords in the
capital at the time. In France, Puginier – considered the man who had done
the most for the success of the French takeover in Tonkin – was made
Chevalier, then Officier in the Legion of Honour.30
MEP’s further penetration of the Tonkinese
highlands was soon to unfold as part of the master plan conceived during
Puginier’s tenure, though perhaps on a scale larger than what the venerable
Frenchman had originally foreseen or called for.
9 Oscar Salemink, The ethnography of
Vietnam’s Central Highlanders. A historical contextualization 1850–1990
(London: RoutledgeCurzon Press, 2002); Vo Duc Hanh, La place du
catholicisme dans les relations entre la France et le Viêt Nam de 1851 à
1871 (Leiden: Brill, 1969).
10 Cao Huy Thuan, Les missionnaires et la
politique coloniale française au Vietnam (1857–1914) (New Haven: Yale
Southeast Asian Studies, 1990).
11 Louis Eugène Louvet, Vie de Mgr Puginier,
Évèque de Mauricastre, Vicaire Apostolique du TonkinOccidental (Hanoi:
Schneider, 1894). Following a strategy made necessary after many historical
setbacks throughout the world, the Office of Propagation of Faith in Rome
(often called the Propaganda Office) nominated bishops abroad as Vicars
Apostolic, heading new missionary territories where no formal ecclesiastical
organisation had been erected before and where local authorities were
reluctant to let such an installation occur. These ‘floating’ bishops held
symbolic titles in partibus, which bore the names of ancient
vicariates (such as Mauricastre) that had been abandoned and were in places
that were no longer Christian. The appointment of a Vicar Apostolic in a
newly evangelised territory was seen as the first step in the founding of a
local Christian community and was done in the hope that future developments
would eventually allow the establishment of a full-fledged vicariate headed
by a proper bishop. In this text ‘bishop’ and ‘Vicar Apostolic’ are used
interchangeably.
12 Jean-Marie-Antoine de Lanessan,
L’Indochine française, étude politique et administrative (Paris: Alcan,
1889), p. 711; all translations are mine. In 1906–7, back in Paris, Lanessan
tried in vain to have anti-clerical laws applied to the colonial system;
Patrick Tuck, French Catholic missionaries and the politics of
imperialism in Vietnam, 1857–1914: A documentary survey (Liverpool:
Liverpool University Press, 1987), p. 338.
13 Cao Huy Thuan, Missionnaires et la
politique coloniale, p. 282.
14 De Lanessan, Indochine française, p.
715; Puginier’s relocation is mentioned in Charles-Edouard Hocquart, ‘Trente
mois au Tonkin’, Tour du Monde, 1st semester, 1890: 117.
15 The recipients included the Governor-General,
the Commander-in-Chief, the Resident Superior in Tonkin, and various
Ministers in France; Gustave Monteuuis, L’âme d’un missionnaire. Vie du
P. Nempon, missionnaire apostolique du Tonkin Occidental (Paris: Victor
Retaux et Fils, 1895), p. 232 note 2. There are around 100 such letters kept
in the MEP archives in Paris (vol. 816).
16 Cao Huy Thuan, Missionnaires et la
politique coloniale, p. 276.
17 Note, 14 Aug. 1888; Puginier’s Notes, cited
here as ‘Note’, are held in the MEP Archives.
18 Note, 26 June 1886.
19 Note, 20 Aug. 1886.
20 Note, Mar. 1887.
21 Ibid. Historians Cao Huy Thuan and Philippe
Papin quote directly from this 1884 document, copies of which they found at
the MEP archives or at the Vietnamese National Archives in Hanoi; see Cao
Huy Thuan, Missionnaires et la politique coloniale, pp. 289–90 and
Philippe Papin, Histoire de Hanoi (Paris: Fayard, 2001), p. 218.
Puginier judged his earlier text to be of the utmost importance, which
surely explains why he was still quoting it three years later, and he sent
it to various authorities.
22 Note, Mar. 1887.
23 Ibid.; emphasis in the original.
24 All quotations from ibid.
25 Ibid. It is remarkable that less than two
years after Puginier spelled out this tactic, Auguste Pavie and Colonel
Théophile Pennequin were coming to terms with the Tai opposition in the
north-west, led by the Deo family in the Sip Song Chau Tai, taming their
armed struggle against France by granting Deo Van Tri a number of honorific
privileges, including the hereditary title of ‘Lord of Lai Châu’.
26 In accordance with French colonial archives
and publications, the French term ‘montagnards’ – with lower-case ‘m’
– is meant here to include all the highland populations in Tonkin as well as
in the rest of French Indochina. In this text, I use it interchangeably with
other equivalents such as ‘highland populations’, ‘upland groups’, ‘mountain
minorities’, etc.
27 ‘Nécessité d’entrer en relation avec les
tribus demi-sauvages habitant les montagnes du Tonkin et de l’Annam’, 11
June 1886, MEP, vol. 816, no. 58.
28 Monteuuis, Âme d’un missionnaire, p.
231.
29 Ibid., p. 233; Brière’s remarks are quoted in
Antoine Brebion, Dictionnaire de bio-bibliographie générale, ancienne et
moderne, de l’Indochine française (Paris: Société d’Éditions
Géographiques, Maritimes et Coloniales, 1935), p. 315.
30 Cao Huy Thuan, Missionnaires et la
politique coloniale, p. 302; on the cathedral, see Papin, Histoire de
Hanoi, p. 241.