|
22 tháng 12, 2009 |
Lời Người Dịch:
Michael Martin là một trong những khuôn mặt
tiêu biểu
[1] cho giới triết gia học giả vô thần hiện nay đang
giảng dạy trong các trường đại học nước Mỹ. Ngoài những luận văn
chuyên khoa triết lý, các sách giáo khoa, hay tham khảo cho môn
Triết, Triết lý tôn giáo và Tôn giáo đối chiếu, ông cũng viết
những luận văn tuy ngắn, nhưng rất giá trị, những văn bản triết
lý hướng đến độc giả phổ thông – mà tôi tạm gọi là “triết học
cho những người không học triết”.
Những ai muốn đào sâu các nội dung này –
xin mời đọc hai tác phẩm cơ bản của ông do nhà xuất bản trường
đại học Temple, Philadelphia xuất bản: Atheism: A Philosophical
Justification (1990), The Case Against Christianity (1991). Đặc
biệt về chủ đề đạo đức của những người vô thần đối mặt với
truyền thống và huyền thoại Judaeo-Christian, ông có tác phẩm
Atheism, Morality and Meaning. Tác phẩm của ông, chẳng những chỉ
uyên bác thuyết phục, nhưng bảo vệ và xây dựng một triết lý và
cơ sở đạo đức vô thần, đem lại phần thưởng hứng khởi thú vị cho
người đọc.
Tốt nghiệp Harward, dạy đại học Boston. Tác
phẩm mới nhất của ông là The Impossibility of God và The
Improbability of God (viết chung) và tuyển tập the Cambridge
Companion to Atheism (2007).
Trong một bài viết chuyên khoa năm 1996 -
Ông là người đầu tiên đưa ra một luận chứng vô thần mới rất nổi
tiếng The Transcendental Argument for the Non-existence of God
(gọi tắt TANG) chủ trì logich, khoa học và đạo đức nếu chứng
minh chỉ đặt trên quan điểm hữu thần là sai, ngược lại, phải đặt
trên quan điểm vô thần – không-Gót - mới đúng được.
Đã nói qua về người viết, nay đến đối tượng
người đọc.
Trong giới người Việt, gần như có một cấm
kỵ (taboo) về phê bình tôn giáo. Bản văn như bài này – trong nội
dung xã hội Âu Mỹ, nơi tín đồ Kitô chiếm tuyệt đại đa số, dù
nhan đề có mạnh mẽ, nhưng vẫn được xem bình thường, vì coi là
một đối thoại thẳng thắn, hùng hồn nhưng cởi mở, có thể gay gắt
nhưng không có ác ý, vì trước sau những lý luận trong bài đều có
chứng cớ hẳn hòi và đã trình bày thật mạch lạc, rõ ràng, và thận
trọng để người đọc nếu như không giữ được bình tĩnh, dễ dàng đối
chiếu. Nhưng đối với độc giả Việt Nam, nó có thể sẽ bị coi là
quá khích hay khiêu khích. Phản ứng có thể đoán được của các
người - nếu Kitô là giận dữ gạt phắt đi, ném vào xọt rác dán
nhãn “bài xích tôn giáo” chẳng hạn; còn những người khác hiền
lành hơn, hay không Kitô, sẽ chép miệng “Chậc chậc…đạo của người
ta, mặc người ta, nói làm gì!”. Hay những người tỏ ra hiểu biết,
ít nhất cũng gán cho nhãn hiệu “chia rẽ tôn giáo”, hay thêm “làm
lợi cho X, làm hại cho Y, đổ dầu cho Z!…”. Những phản ứng như
thế là tự nhiên, hiểu được, vì xuất phát từ những tình cảm cá
nhân chân thật, đáng tôn trọng, nhưng cũng đáng phê bình. Nếu
chúng ta đều biết tôn giáo không chỉ đơn giản là sinh hoạt cá
nhân, nhưng là chung của cả tập thể lớn rộng và thực sự là động
cơ hành động của con người, định hướng cho tất cả các quan hệ
hướng ngoại, nên nó bao trùm toàn bộ rất nhiều lĩnh vực sinh
động của xã hội. Không ai phủ nhận vai trò, ảnh hưởng của tôn
giáo trong – chỉ kể - văn hoá, chính trị và cả kinh tế nữa của
một quốc gia thật sâu rộng vô cùng. Thế nên, nếu tôn giáo không
được tìm hiểu đúng đắn, phê phán nghiêm chỉnh, xem xét kỹ lưỡng,
nghiên cứu thật chặt chẽ, mọi người trong xã hội cứ đóng cửa,
thắp nhang, châm đèn, cầu nguyện với vị giáo chủ của mình, tôn
giáo ấy không phát triển, xã hội ấy không thay đổi tốt đẹp hơn,
và cá nhân ấy cũng không học được gì mới để làm giàu cho đời
sống tự thân và cho cộng đồng mình đang sống. Lúc phẫn nộ, sẽ
cầu nguyện ngoài trời, hay thắp đèn đốt nến trước đền tượng lộ
thiên, trước hết quấy động an bình nội tâm, nếu có, của chính
mình, và sau, cũng không đem được gì đến đóng góp vào an bình xã
hội, như một trong những chủ đích của tôn giáo chân thực. Và
những người vỗ tay hoan hô, hay hô hào đả đảo – đều vội quên
rằng quyền lợi, hay ngay cả “tự do” cho các tổ chức – dù là tôn
giáo - thường không dễ dàng đồng nghĩa với quyền lợi, hay tự do
của con người trong tổ chức ấy, hay cả dân tộc, toàn thể xã hội.
Yếu tính của tôn giáo - có thể xem - nằm
trong mối tương quan giữa con người và những gì nó cho là vô
hạn, thiêng liêng, siêu thế và tin là có ở ngoài trần gian hữu
hạn, phàm tục này. Các tính chất đó không tìm thấy ở một con
người nào khác, hay có được trong bất kỳ tổ chức nào, nếu vẫn
qua bàn tay con người dựng lên, dù lâu dài đến đâu, trong lòng
nhân loại
[2].
Thế nên, nếu chỉ xét về mặt tôn giáo; ở
phương Tây, cách mạng Pháp 1789 – đã đẩy tăng lữ khỏi chính
trường, cuộc cách mạng này – trong tác động xã hội – đã nối tiếp
với trước đó một thế kỷ, cuộc cách mạng tôn giáo - ở Đức và Thụy
Sĩ - đã sớm đẩy tăng lữ khỏi guồng máy Nhà thờ, lập nên đạo Tin
lành. Đó là hai cuộc cách mạng chính trị, và tôn giáo có ảnh
hưởng thật lớn lao. Trong những dân tộc nhận ảnh hưởng của cả
hai, Vùng các quốc gia Bắc Âu, rõ rệt có những tiến bộ về ưu
việt về xã hội, văn hoá và khoa học,và cả nghệ thuật. Nhưng ở
một mức độ kém hơn, là vùng không nhận được ảnh hưởng của cách
mạng tôn giáo: các nước nam Âu, Sau khi là nguyên nhân tinh thần
chính làm xụp đổ đế quốc La mã [3], dạng thức tôn giáo ở các
quốc gia này, ven bờ bắc Địa trung Hải vẫn đứng vững nhưng với
giá làm các văn minh tại đây một thời hoá thạch, mất hết sinh
khí sáng tạo. Đừng quên, "Dark Age" đồng nghĩa với "Age of
Faith". Các văn hóa xã hội truyền thống từ những đỉnh cao
Acropolis và Palatine Hill, đều xụp đổ tan tành, và trí tuệ châu
Âu bị các Nhà thờ xiềng chặt đã phải tắt ngấm, kết quả là đẩy
trọn phương Tây vào đêm dài trung cổ - Tôn giáo khi ấy chỉ còn
là niềm tin độc tôn mù quáng, đã cho lịch sử thấy sức mạnh tàn
phá vô bờ của nó.
Hãy có dịp bước vào một bảo tàng viện Âu Mỹ,
có bao giờ bạn tự hỏi – những bức tượng Hy lạp hay La mã tuyệt
đẹp, sao lại vỡ đầu, mất tay, mắt bị móc, mặt bị phạt, mũi bị
gãy.? Không phải chỉ là tàn phá vô tâm của thời gian đâu, nhưng
chính dao búa một thời của những tín đồ tôn giáo vốn không chấp
nhận một thần linh nào ngoài thần linh của họ - đã hủy hoại các
hình tượng cổ thời. Những vàng rơi, ngọc xót ấy nay được trưng
bày, phục hồi trang trọng, nhưng dấu tích của một thời hãi hùng
mãi còn đó, đáng để cho tất cả chúng ta suy nghiệm [4]. Nhìn
chung, gần bốn trăm năm qua, phương Tây đã đem tôn giáo từ bàn
thờ xuống bàn học, từ giáo đường vào giảng đường, lấy lí trí làm
đèn chiếu tan những góc cạnh u tối của nó, nên nó đã phải thay
đổi, và đã góp phần mở ra những cuộc cách mạng vĩ đại, từ hai
thế kỷ qua, đẩy cả nhân loại, trong đó có người Việt chúng ta,
đi lên.
Một điều nữa, riêng trong giới người Việt,
đã còn có một huyền thoại văn hóa – những người theo đạo Kitô
hợm hĩnh, ít nhất đã một thời, cho mình là theo một tôn giáo
“văn minh”, không ”mê tín”, không “lạc hậu” như các tôn giáo cổ
truyền. Nếu vài nén nhang thắp dưới gốc cổ thụ, dăm ngọn nến đơn
sơ trên bàn thờ giữa trời đất, bị xem là mê tín, thì trong những
gì tác giả Martin phân tích sau đây, chúng ta thấy một thứ mê
tín đã kết tinh, trang trọng đóng cổ cồn, mặc áo thụng, đeo nhẫn
vàng, so với “mê tín” xì sụp của áo tơi nón lá bản địa vốn gắn
bó với thăng trầm của đất nước con người và lịch sử dân tộc.
Thêm tự hào ngầm tôn giáo của họ là “tân tiến”, đã xây những
giáo đường ngạo nghễ, nhưng thường là trên nền cũ của những đình
chùa bị chiếm phá tại những địa điểm trọng tâm ở những thành phố
một thời thuộc địa, với những tháp chuông – vốn đã nhiều lần
chưa quên được:
Giặc chiếm lầu chuông xây gác súng
Súng gầm rung đổ gạch nhà thờ [5]
Nay giặc đã tan chạy, súng kẻ thù ngoại xâm
đã tắt tiếng từ lâu, nhưng di tích những gì đến từ phương Tây –
không trên căn bản trao đổi bình đẳng, giao thương văn hóa tự
do, nhưng của thời “tàu đồng” phá cửa biển, thời “súng sắt” đốt
cửa thành với nội ứng, thời viễn chinh “Pha lang sa khai sáng”
áp đặt của trăm năm trước vẫn còn đó. Vẫn còn chĩa nhọn lên vòm
trời cao xanh yên tĩnh quê hương hình những thập giá, máu trên
ấy đã khô lạnh nhưng quanh dưới, vẫn kết tụ những lòng tin mù
quáng kiêu ngạo, và vẫn mê muội “uống máu tươi, ăn thịt sống”
[6] nuôi dưỡng lòng sùng mộ một biểu tượng cứu rỗi của hứa hẹn
đã-vẫn-và-sẽ-chưa-bao-giờ đến.
Bài viết chọn dịch có thể xem như tóm lược
những phần chính yếu của tác phẩm triết học dài hơi hơn - The
Case Against Christianity – của chính tác giả Michael Martin.
Trong chương giới thiệu tác phẩm này, ông mở đầu bằng nhận xét –
đạo Ki tô có tín đồ dẫn đầu thế giới và đông gấp đôi tôn giáo
thứ nhì là Muslim – đây là các con số năm tác phẩm xuất bản,
1991 – nhưng ông cũng tiếp ngay – một tôn giáo đông đảo, có ảnh
hưởng lớn rộng, có lịch sử lâu dài, có các con số thống kê lớn,
vẫn không làm cho lý thuyết của tôn giáo ấy đúng. Ông thản nhiên
viết thêm – một tỷ sáu trăm triệu người vẫn có thể sai lầm! vẫn
có thể tin theo những điều phi lý. Nội dung của bài văn này là
trình bày sự phi lý trong các lý thuyết nền tảng ở trọng tâm đạo
Kitô, trình bày thật triết lý, điềm đạm và nhẫn nại, chấp nhận
hay không là quyền người đọc, nhưng bản văn đã mở những cánh cửa
suy nghĩ về những vấn đề rất dễ dàng bốc lửa tranh luận.
Trong chiều hướng đó, tôi chọn dịch bản văn
phổ thông này, để giới thiệu với người đọc Việt ngữ, một mẩu nhỏ
của mảng “discourse” vô thần lớn rộng – tiếp tục truyền thống
Russell - Tại Sao Tôi Không là người Kitô?, và góp phần với
những ai đang can đảm làm công tác giải hoặc Kitô – không vì
thiên kiến tôn giáo cá nhân, nhưng vì đã sáng suốt nhìn thấy một
hiểm hoạ văn hoá rất nghiêm trọng, chưa kể đến chính trị xã hội,
cho tương lai đất nước, đặc biệt trong bối cảnh hậu-thực-dân –
những vận động giải thực cần thiết về văn hóa, tôn giáo vẫn còn
dở dang – trên quê hương chúng ta.
Người dịch
Lê Dọn Bàn
(Mùa Noel – Dec/2009)
Có
phải đạo Kitô phi lý không?
Dẫn
nhập
Nhằm mục đích cho các biện luận
của tôi, tôi sẽ hiểu đạo Kitô theo nghĩa là một quan điểm
tín ngưỡng có đặc điểm định bởi các thuyết như Christ Cứu rỗi
[7],
Thiên đường (Heaven), Sự Chuộc tội
[8],
những quan điểm đạo đức của Jesus, và niềm tin vào Gót
[9]
[10].Hiểu
như thế có phải đạo Kitô là phi lý không ? Câu hỏi này - họạ
hiếm mới đặt, nói chi đến trả lời.
[11]
Tôi sẽ biện luận rằng có thể thiết lập được một đề án hữu lý để
tuyên bố đạo Kitô là xuẩn ngốc, phi lý, theo một nghĩa
nghiêm trọng của từ này. Sau đây, tôi sẽ không nhiều về phần
trình bày thêm các luận chứng, nhưng triển khai những luận chứng
vô thần tiêu chuẩn trong những cách mới.
Nghĩa của từ phi
lý
Khi giả định một điều nào đó phi
lý (absurd)
[12]
có ý nghĩa gì? Có lẽ diễn tả này chỉ có nghĩa về mặt cảm xúc. Có
lẽ nó cũng giống như nói “Khiếp”(Yuk)
[13].
Nhưng từ “phi lý” thực có nghĩa về mặt nhận thức. Theo The
American Heritage Dictionary, nghĩa chính của từ phi lý là
“bất nhất lố bịch hay phi lý”. Như thế, theo nghĩa từ điển này,
nói rằng điều gì phi lý là nói - nó bất nhất, trước sau không
như một, đến lố bịch buồn cười, và hoàn toàn không có chút nghĩa
lý nào. Chúng ta hãy gọi đây là cái nghĩa bất nhất của phi lý.
Bây giờ, cũng có thể đề nghị khi nói điều gì là phi lý, là đơn
giản nói - nó vô nghĩa
[14].
Ắt hẳn “phi lý” đã dùng với nghĩa này, thí dụ, khi các nhà lý
thuyết bảo vệ đạo Kitô
[15]
nói đến sự phi lý của hiện hữu con người nếu thiếu Gót. Chúng ta
hãy gọi đây là cái nghĩa vô nghĩa của phi lý. Có những nối kết
logich đáng chú ý giữa hai nghĩa này mà tôi không tiện khai
triển ở đây.
[16]
Nhưng trường hợp nào đi nữa, quan tâm của tôi trong luận văn này
sẽ là với cái nghĩa bất nhất của từ phi lý, mà không với
nghĩa vô nghĩa của nó. Dẫn đến hệ quả là các tranh luận
của tôi sẽ không liên quan chi đến tuyên bố của các nhà lý
thuyết bảo về đạo Kitô, rằng hiện hữu con người mà không có Gót
thì phi lý, theo cái nghĩa vô nghĩa. Tuy nhiên, biện luận của
tôi sẽ vẫn nằm trong đề tài. Công bình mà nói, nếu đưa tuyên đòi
rằng - đạo Kitô là phi lý theo nghĩa bất nhất - đến cho các nhà
lý thuyết bảo vệ đạo Kitô, họ sẽ phủ nhận nó. Vì vậy, tôi sẽ bảo
vệ một quan điểm nghịch lại với những gì những đạo Kitô chủ trì.
Sự phi lý của đạo
Kitô
Có phải đạo Kitô phi lý theo
nghĩa từ điển là bất nhất lố bịch và phi lý? Theo như tôi nhận
thấy, câu trả lời là “có”. Cứ theo những phê phán tiêu chuẩn về
đạo Kitô và một số những diễn giải đáng tin cậy về nó, đạo Kitô
chồng chất những bất nhất lố bịch, và tin tưởng lẫn thực hành
phi lý. Ở đây, tôi sẽ xét năm khía cạnh của đạo Kitô xem ra bốc
lên mùi phi lý: Con đường cứu rỗi, Thiên đường, Hỏa ngục, Luân
lý đạo Kitô, Sự chuộc tội và Gót. Sự bất nhất tôi bàn ở đây liên
hệ đến một mâu thuẫn giữa tầm quan trọng hoặc trọng điểm của
những ý niệm này trong đạo Kitô với tình trạng có vấn đề nan
giải của chúng. Nói một cách khác, chính là sự bất nhất khiến
những ý niệm này trở thành có vấn đề như thế, nhưng cũng lại là
thật quan trọng đến thế trong tư tưởng đạo Kitô. Sự bất nhất này
có thể khoác nhiều dạng khác biệt. Một dạng mang mâu thuẫn giữa
sự quan trọng của Cứu rỗi và sự không rõ hay hàm hồ của lý
thuyết đó. Một dạng khác quan hệ đến việc đặt thuyết Chuộc tội
vào trọng tâm chủ yếu và sự thiếu xót một lý thuyết đứng vững có
được về thuyết Chuộc tội. Lại một bất nhất phi lý quan trọng
khác nữa là ý nghĩa quan trọng lớn lao gán cho Thiên đường và
những vấn nạn về khái niệm và đạo đức của lý thuyết này. Một
dạng khác gồm mâu thuẫn giữa sự quan trọng của đạo đức Kitô
giảng dạy với đạo Kitô và các câu hỏi về đạo đức của chính
Jesus. Vẫn chưa hết, còn một dạng nữa quan hệ đến mâu thuẫn giữa
sự đặt Gót làm trọng tâm trong toàn khung đạo Kitô và sự lệch
lạc bất nhất trong khái niệm về Gót.
1. Con đường Cứu
rỗi
Trong đạo Kitô không có ghi chép
đồng nhất, trước sau như một - loài người nếu giả thử là sẽ được
cứu rỗi – sẽ xảy ra như thế nào? mặc dù đây là điều khẩn thiết
bậc nhất trong thực tế. Thật là phi lý khi mục đích của đạo Kitô
là cứu rỗi loài người, dẫu thế lý thuyết Kitô lại không làm minh
bạch ra điều này sẽ được hoàn thành như thế nào. Thực vậy, có
những ý tưởng mâu thuẫn nhau về cứu rỗi đưa ra từ giáo điều, từ
kinh thánh và từ những thư viết của Paul
[17].
Lấy thí dụ, một quan điểm về cứu rỗi trình bày trong các phúc âm
Synoptic (Matthew, Mark, và Luke)
[18]
bảo rằng một người sẽ được cứu rỗi nếu cứ tuân hành theo một quy
luật đạo đức
[19].
Một quan điểm thứ nhì, Paul, John và giáo điều tín ngưỡng chủ
trương một người được cứu rỗi qua sự kiện có đức tin vào Jesus.
Nói một cách khác, con đường cứu rỗi thứ nhất xem ra như có được
qua hành động, trong khi ấy, con đường thứ hai đi đến cứu rỗi
chỉ bằng vào đức tin mà thôi.
Con đường thứ hai là con đường
phổ thông nhất được gắn với đạo Kitô. Thế nhưng, không có gì là
rõ ràng - còn có gì can dự nữa không - ngoài tin tưởng. Dẫu vậy,
khi một người chú tâm chỉ vào kích thước hiểu biết của lòng tin
này không thôi, lại có những mù mờ. Tín ngưỡng giáo điều xem ra
đòi một thứ tin tưởng như xác định trong đạo Chính thống; kể ra,
tất cả mọi thứ, từ Sinh nở đồng trinh đến Chúa xuống trần lần
thứ nhì (ngày tận thế), từ Chúa phục sinh đến giáng phàm làm
người trần. Nhưng John xem chỉ đòi tin vào sự giáng trần và Paul
lại xem chỉ đòi tin vào sự phục sinh thăng thiên. Cả hai, Paul
và John, không ai đòi phải tin vào Sinh nở đồng trinh và vào
Chúa có ba ngôi, nhưng giáo điều tín ngưỡng lại đòi phải tin
thêm những thế.
Như thế, những người theo đạo
Kitô, đọc kinh Tân ước và giáo điều tín ngưỡng của đạo Kitô thật
cẩn thận lại thành ra hoàn toàn tối tăm mặt mũi chẳng biết đâu
mà mò với những chủ thuyết mâu thuẫn này. Họ sẽ không biết có
phải người ta được cứu rỗi vì hành động, hay vì lòng tin và, nếu
vì lòng tin, tin vào những điều gì?
Lưu ý rằng những luận chứng của
tôi không giả định trước về sự sai lầm của đạo Kitô. Dẫu như nếu
đạo Kitô đã có đúng chăng nữa, đạo Kitô sẽ là phi lý vì mục đích
của nó là sự cứu rỗi, thế nhưng trong lý thuyết đạo Kitô không
có một con đường rõ ràng và nhất thống để đi đến nó cho được.
Trong thực tế, có một bất nhất giữa các quan điểm về cứu rỗi và
vị trí trọng điểm của cứu rỗi trong đạo Kitô. Nó cũng tự như đạo
Kitô hô hoán “Trên tất cả, phải tìm lấy cứu rỗi!” Nhưng lại
không có cách thức nào rõ ràng hay thống nhất để thực hiện điều
này!
Một người Kitô có thể tránh được
cái hệ quả này không? Dĩ nhiên, ông hay bà ta có thể gắng giải
thích kinh Tân ước theo cái cách để các chủ thuyết về cứu rỗi
này ăn khớp với nhau, hay một cách nào đó, một trong các chủ
thuyết phải bị bỏ qua. Nhưng giải thích như thế không thể là tùy
tiện. Phi lý không nên tránh bằng dựa vào tùy tiện. Lấy thí dụ,
một tín đồ Kitô đọc bản thảo của bài này đã nói rằng ông thấy
quan điểm của tôi – rằng Tân ước đưa ra những lời khuyên trái
nghịch về cứu rỗi – thì gượng gạo. Thông điệp truyền thống, ông
nói, là một người được cứu rỗi bằng tin tưởng Gót như đã khải
thị qua Jesus Christ. Thế nhưng, ông chẳng dẫn câu nào trong Tân
ước để chống đỡ lối giải thích của ông, cũng chẳng có cố gắng
nào thử giải thích sao cho mất đi các mâu thuẫn lý thuyết tôi đã
dẫn kể. Chắc là, một người may ra có thể tìm được những đoạn
kinh chống đỡ lối giải thích của người bình luận. Nhưng lại có
những đoạn khác lại chống đỡ cho lối giải thích đối nghịch. Có
một mẫu thuẫn lịch sử dài lâu – ai cũng biết - giữa những người
Kitô hô hào cứu rỗi qua hành động và những người Tin lành hô hào
cứu rỗi qua đức tin. Thực chính thế, có một khối giấy mực kinh
điển uyên bác rất to lớn hoàn toàn dành vào nỗ lực để hiểu sự
mâu thuẫn này.
[20]
Sự tranh luận lâu dài truyền thống này và những phản biện đáp
ứng rất bác học, chắc chắn thừa nhận luận đề của tôi rằng kinh
thánh đã đưa ra các lời khuyên mâu thuẫn thì khó nói là gượng
gạo được.
Một cách khả hữu khác để tránh
khỏi phải gặp vấn đề, là chủ trương rằng – vì con đường cứu rỗi
trong kinh thánh đã không chỉ ra cho rõ ràng, người ta nên đánh
cuộc cả hai – bằng cách vừa có đức tin vào Jesus và vừa làm thêm
những điều thiện. Trông vào tính cách huyền bí của Gót, không
biết phán định như thế thì có phải là cẩn thận tốt đẹp không thì
lại chưa rõ! Sau rốt, không chừng Gót có thể chẳng muốn chúng ta
đi theo cả hai con đường một lượt! Nhưng dẫu sao đi nữa, nó
không tránh khỏi vấp phải vấn đề chính yếu, Thật là phi lý rằng
người theo đạo Kitô lại phải dùng đến “chiến lược” bắt cá hai
tay này để tránh vấn đề. Nếu theo cả hai lối cùng lúc là điều
Gót muốn, tại sao điều này lại không nói ra cho rõ ràng? Chắc
chắn con đường cứu rỗi đã phải nên nói ra một cách trắng đen
minh bạch cho dễ hiểu.
2. Khái niệm về
Thiên đường (Heaven)
Mặc dù sự kiện lên thiên đường là
mục đích chính yếu của đạo Kitô và nó được giương cao như tột
đỉnh của vô vàn bất tận ước muốn, ý niệm Thiên đường có vấn đề
rất sâu nặng, về tính cách trong cả khái niệm lẫn đạo đức
[21].
Một lần nữa, điều này đập vào tôi như một phi lý. Và cũng một
lần nữa, xin ghi chú là tôi không giả định trước về sự sai lầm
của đạo Kitô. Ngay cả giả thử nếu những chủ thuyết chính của đạo
Kitô có đúng chăng nữa, thật bất nhất và phi lý rằng Thiên đường
chiếm một chỗ trung tâm trong toàn bộ khung dựng những vật liệu
của đạo Kitô, nhưng bản chất của nó thì lại có nhiều vấn đề đến
như thế.[22]
a. Những khó khăn về khái niệm
Trước tiên, có những khó khăn
trong khái niệm về Thiên đường. Bắt đầu với cái ý niệm hiện hữu
của con người trên Thiên đường – ở đấy, nó có mang thân xác hay
không có thân xác - ý niệm này thì khó mà hiểu cho được. Trong
lý thuyết phổ thông nhất về sự hiện hữu trên thiên đường của
chúng ta – phần linh hồn phi vật chất của con người – không phải
phần thân xác – đi lên Thiên đường không lâu sau khi người ấy
chết. Trong cách hiểu này, Thiên đường được xem như “một nơi
chốn” mặc dù nó không nằm trong thời gian và không gian. Trong
lý thuyết thứ nhì – thuyết các nhà thông thái tin đây là quan
điểm nguyên thủy của đạo Kitô – Thiên đường hiện nay chưa có
nhưng sẽ có trong tương lai lúc (Chúa) xuống trần lần thứ nhì
(the Second Coming). Lần xuống trần thứ nhì này, tất cả thân xác
con người sẽ được dựng dậy, trong một hình dạng đổi thay nhưng
sẽ được thưởng công trong chính không gian mà chúng ta đang sống
bây giờ đây.
Đối với lý thuyết kể đầu tiên, đã
có đầy khó khăn về tưởng tượng – dẫu một cách sống sượng thô sơ
– một sự hiện hữu không thân xác nó ra làm sao – trong thời và
không gian. Linh hồn di chuyển từ chỗ này qua chỗ khác như thế
nào? Nó nhận ra các linh hồn khác như thế nào? Những linh hồn
không thân xác làm gì cho hết ngày vì đã giả định là chúng không
phải ngủ nữa? Vấn đề trở nên không thể khắc phục được khi nó
cộng hợp với ý tưởng Thiên đường nằm ngoài chiều không và thời
gian. Tất cả các khái niệm tâm thần của chúng ta – lấy thí dụ
như – nghĩ ngợi, toan định, và ước muốn – là những ý niệm có
tính thời gian – chúng phải cần thời gian để thành hình và xảy
ra tại một thời điểm nào đó. Suy nghĩ và ước muốn phi thời gian
đều không thể nhận thức được.
Xem xét lý thuyết coi Thiên đường
bây giờ không có, nhưng trong tương lai sẽ có, khi tử thi người
chết biến dạng đội mồ sống dậy trong không gian như chúng ta
biết. Ở chỗ này, chúng ta không có những vấn đề với những linh
hồn lìa xác, không thân thể và không gian phi thể chất, vì Thiên
đường sẽ xảy ra trong không gian vật lý của chúng ta. Nhưng vẫn
còn có những khó khăn. Xác người chốn cất lâu đã thối rữa hết
rồi và các nguyên tử tạo thành chúng đã trở nên phân tán tứ
phương. Thực vậy, những nguyên tử trong đám này có thể cuối cùng
đã thành ra phần thân xác của những người đang hiện sống. Và tất
cả những điều đó cũng đúng trong trường hợp những xác đã hỏa
thiêu. Khi nhìn những vấn đề như thế này, ngay các triết gia hữu
thần như Peter Van Inwagen[23]
đành đã phải biện luận rằng cho dẫu có một Gót toàn năng cũng
không thể tái dựng được một xác thân đã hoàn toàn phân rã. Nhưng
chính vì thân xác con người phân rã thực, nên đấy là vấn đề.
Van Inwagen đã đề nghị một giải
pháp cho vấn đề này thật quái đản đến nỗi, phải như không vì vị
thế của ông trong học giới, ý tưởng đó không đáng được nhận xét
nghiêm chỉnh. Ông đã đề nghị rằng, dù trái nghịch với những gì
chúng ta thấy, thân xác con người không phân rã! Mà đúng ra, Gót
bảo quản thân xác (thực) của chúng ta – có lẽ là ngay lúc chết –
và đưa thay vào đó là một “bản sao” – bản sao này mới là thân
xác chúng ta thấy – hoặc tan rã hoặc hỏa táng
[24].
Thật không may, đề nghị này đem đến những vấn đề mới. Tại sao
lại phải giả thử rằng cái xác người thối rữa hay đốt ra tro chỉ
là “bản sao” và không phải là “bản chính” – không là thân xác
thật của người chết? Hơn nữa, các thân xác bảo quản đem đi chứa
ở chỗ nào? Nếu nói rằng chúng đem chất ở trên một tinh cầu nào
xa lắm hoặc một không gian khác với của chúng ta, có những vấn
đề nổi lên tức thì. Cái khả năng thứ hai đưa đến khó khăn là làm
sao có thể có một không gian khác với không gian chúng ta? Còn
đề nghị kể trước để mở ra một minh xác thực nghiệm có thể có
trong tương lai, trong thám hiểm vũ trụ may ra – trên nguyên tắc
– có thể tìm thấy hành tinh nơi Gót bảo quản các xác chết!
[25]
Độc lập với những sự quái đản
trong bản chất của nó và những điều hàm chứa đầy vấn đề, còn vài
điều hoang mang về những đề nghị của Van Inwagen. Tại sao Gót
lại phải đi lòng vòng đến xa xôi như thế với chuyện xem ra là
người ta mất đi hoàn toàn vào hư không? Van Inwagen đề nghị rằng
nếu thân thể đã không tan rã hoặc biến mất bí ẩn sau khi chết,
điều này chắc sẽ là bằng chứng có một uy quyền siêu nhiên. Tác
giả này nói mặc dầu Gót muốn chúng ta tin vào Gót, Ông này không
làm hết tất cả những gì Ông có thể làm được, không muốn để lộ
những bằng chứng không thể chối cãi cho chúng ta thấy. Van
Inwagen kết luận bằng câu nói “có lẽ không có gì là khó khăn để
nghĩ ra những lý do tốt đẹp cho chính sách như thế (của Gót) ."[26]
Có lẽ thực khó hơn là Van Inwagen
đã giả thử. Theodore Drange
[27]
đã đưa ra một luận chứng rất hùng hồn trình bày rằng những luận
chứng quen thuộc vẫn bào chữa chuyện Gót không đưa các bằng
chứng mạnh mẽ ra cho chúng ta tin vào sự hiện hữu của Ông ta –
các luận chứng như thế rất yếu
[28].
Thí dụ, một người không thể biện hộ nếu đưa ra bằng chứng hùng
hồn sẽ gây trở ngại cho ý chí tự do của người ta, vì tự do chọn
lựa thì tương đồng với có bằng chứng hùng hồn. Trong trường hợp
nào đi nữa, nếu đã như có ai thấy xác người không thối rã hay
không mất đi sau khi chết, điều này khó mà có thể nói là bằng
chứng không chối cãi được của phe hữu thần chủ trương có Gót, vì
trạng thái của những chuyện như vậy tương đồng với nhiều cách
giải thích của phái vô thần, thí dụ, một quỉ thần ma quái muốn
làm chúng ta sửng sốt!
b. Những khó khăn
về đạo đức
Thiên đường xem ra bất công bất
kể cách nhìn ra sao. Theo như lối nhìn phổ thông về Thiên đường,
có những người được đưa về đấy vì thưởng công cho những gì họ
thực hiện trong thời sống ở trần gian, và có những người không
được thế. Một quan điểm thứ nhì, Thiên đường là một tặng phẩm
của Gót hoàn toàn không dựa trên công lao – có người được, có
người không. Một quan điểm không-phổ-quát thứ ba – tất cả mọi
người, cuối cùng đều lên Thiên đàng.
Trước hết xét quan điểm tặng phẩm
không dựa trên công trạng, Một ông bố ban phát quà
không-dựa-trên-công-trạng cho những đứa con này và không cho
những đứa con khác, có thể xem là không công bình và tùy tiện.
Chắc chắn cũng có thể nói như thế về Gót nếu Ông đã hành động
một cách tương tự. Nhưng nếu giả thử chúng ta chấp nhận quan
điểm lên Thiên đường do công trạng. Quan điểm này xem ra vẫn
không công bằng. Giả thử Thiên đường là thưởng lệ cho niềm tin,
thí dụ, tin Jesus là đấng Cứu thế. Triệu triệu người, không tự
do lỗi của họ, chẳng bao giờ nghe đến danh Jesus cả, hay ít ra
chẳng bao giờ được có dịp biết kinh thánh. Những người này hỏng
dịp tin tưởng thì thật không phải là lý do khiến họ không được
lên Thiên đàng.
Hơn thế nữa, ngay cả khi nếu
người ta đã có cơ hội để biết, nhưng đã chịu thua không tin nổi,
tại sao họ lại bị trừng phạt bằng cách không được thưởng công?
Nhiều người vô thần, hay hoài nghi phủ nhận thông điệp của Phúc
âm chỉ với lý do chính đáng, là có chứng cớ cho thấy tính chất
khó mà đúng được trong nhiều lý thuyết chủ yếu của đạo Kitô:
Phục sinh, Sinh nở đồng trinh và Chúa xuống thế
[29].
Ngay cả như nếu các lý thuyết này có là đúng, và không phải là
không thể xảy ra dưới ánh sáng của chứng cớ, những chứng cớ này
có thể chắc chắn vẫn không lay chuyển được người có óc duy lý.
Phải đi xa hơn, vượt quá những gì từ chứng cớ đọc ra – nếu không
phải là mâu thuẫn với chứng cớ - để chấp nhận Jesus là “con trai
của Gót”. Xa hơn nữa, dẫu nếu như những người không tin đã có
nhầm lẫn chăng nữa, khi cân nhắc bằng chứng và nếu chúng không
thực đưa ra những nền tảng vững chắc để tin, rất nhiều người
không tin, họ thành thực tin rằng chứng cớ đã không có đủ. Tại
sao một Gót tốt lành lại muốn giữ lại sự vui sướng Thiên đường
đối với những người thành thực, dẫu không tin; họ có thể đã
không đủ sâu sắc, kiến thức hay óc phân tích để có thể phán đoán
chứng cớ cho được đúng?
Giờ đây các nhà lý thuyết bảo vệ
đạo Kitô như William Lane Craig
[30]
sẽ cãi rằng trường hợp mà tôi mô tả sẽ không bao giờ xảy ra
trong thực tế. Không tin – cơ bản không là một vấn đề tri thức –
nhưng là một chủ tâm từ chối có “tội lỗi”, với chúa Thánh Linh.
Tuy nhiên, như tôi đã cãi lại ở những chỗ khác; Craig kêu gọi
đến chúa Thánh linh có vấn đề
[31].
Một vấn đề cơ bản trong lý thuyết của Craig là ông đã giả định
không phải chỉ có những tín đồ đạo Kitô, nhưng tất cả mọi người
cũng đều biết đến chúa Thánh linh của ông. Thế nhưng không có lý
do gì để tin rằng đến ngay cả những người tự xưng là “con chiên
ngoan đạo” Kitô đã hẳn có được kinh nghiệm về vị chúa Thánh linh
[32]này,
nói chi đến tất cả những người không-Kitô lại phải có như thế!
Giả thử như phần thưởng lên Thiên
đường không dựa trên niềm tin nhưng trên hành vi đạo hạnh. Điều
này cũng vẫn còn bất công. Hàng triệu triệu người chưa, hay
không có hoàn cảnh để biết đến các lời dạy về đạo đức của kinh
thánh . Thế nên, nếu như họ không sống theo tiêu chuẩn đạo đức
của kinh thánh – đó không phải tự là lỗi của họ. Hơn thế nữa,
dẫu cho cả đến những người đã có dịp biết đến kinh thánh, cũng
có thể tìm thấy các thông điệp đạo đức của quyển sách này không
thể chấp nhận được trên chính nền tảng của đạo đức. Gót, như
diễn tả trong Cựu ước, thường ác độc và tuỳ tiện, và trong Tân
ước, ngay cả Jesus đã chân dung như có một tư cách đạo đức khiếm
khuyết
[33].
Thêm nữa, ngay cả với những người chấp nhận quyển kinh thánh,
câu hỏi là – đâu là tư cách đáng được được ban thưởng? Nhũng gì
dạy trong kinh thánh về đạo đức thì đã được diễn giải rất nhiều
cách hiểu trái ngược nhau. Thế nhưng cho thật công bằng – làm
sao Thiên đường có thể là phần thưởng vì tuân theo một tiêu
chuẩn đạo đức đúng đắn chỉ dẫn trong Phúc âm – mà chính Phúc âm
thì lại không chỉ rõ minh bạch?
Bây giờ, có thể cãi ngược lại
rằng những người tuy chưa bao giờ có dịp biết đến các thông điệp
đặc biệt về đạo đức của kinh thánh , vẫn có thể được cứu rỗi,
nếu như họ tuân giữ theo những nguyên tắc phổ thông của luật đạo
đức tự nhiên, mà cứ cho là ai ai cũng biết, vì Chúa Thánh thần
của Gót khắc in kiến thức này trong lương tâm mỗi người. Dù cách
gì, sự vặn lại này có vấn đề. Một điều, không có lý do nào để
giả tưởng là Chúa thánh linh đã “in ấn” luật đạo đức phổ thông
vào lương tâm mỗi người. Chưa kể rằng nếu – có chăng những
nguyên tắc đạo đức phổ thông mọi thời, mọi nơi – là điều không
chắc chắn. Nhưng nếu cứ cho là có, không có gì rõ ràng cho thấy
tác giả của chúng lại là Chúa thánh linh! Lại thêm nữa, nếu
thuyết cứu rỗi thật rộng rãi đến như thế, thật ngẩn ngơ không
thể hiểu vì sao Chúa lại phải nhập thế, xuống trần giảng dạy –
nếu thế còn cần chi nữa và cũng chẳng có gì là đáng ao ước nữa
[34].
Một mặt khác, cổ vũ thuyết phổ
quát lại cũng có những vấn đề của nó. Thiên đường để làm gì nếu
cuối cùng rồi ai ai cũng lên hết trên đó? Nếu thế còn ý nghĩa gì
của sự sống trần gian này với những đau thương, thử thách và khổ
ải của nó? Mặc dù trong trường hợp này (ai cũng lên thiên đường)
có lẽ không còn phàn nàn là bất công
[35],
người ta có thể phàn nàn về sự vô nghĩa của cuộc sống trần gian.
Hiện hữu con người hiển nhiên trở thành phi lý và đầy bí ẩn khó
hiểu. Tại sao chúng ta lại có đời sống trần gian (như bước trung
gian) làm gì nữa nhỉ? Tại sao không bắt đầu đời sống ngay trong
thiên đường cho xong?
Một độc giả đọc bản thảo của luận
văn này đã phản đối rằng - những liệt kê kể trên, về sự bất
công, hoặc sự vô ích của Thiên đường - không chứng tỏ rằng đạo
Kitô thì phi lý về nghĩa bất nhất, vì con người vẫn có khát khao
một sự sống vĩnh cửu dẫu cho có bất công, hay vô ích. Nhưng sự
bất nhất tôi nghĩ đến trong trí không nẩy đưa lên bất cứ mâu
thuẫn nào đối với lòng khát khao một sự sống vĩnh cửu. Thiên
đường, dẫu nó là gì đi nữa, có nội dung là hàm chứa ý nghĩa về
đạo đức, ý nghĩa đó trong thực tế đã dường không có khi xem xét
thật sát gần. Thiên đường được giả định là đưa ra một tiêu điểm
luân lý cho đời; nhưng nó lại không.
3. Đạo đức đạo
Kitô
Một bất nhất khác nữa trong đạo
Kitô là lý thuyết đạo đức của đạo Kitô tìm thấy trong Tân ước
xem ra không thích đáng, hay không thể bênh vực được đối với
nhiều người nhạy cảm về luân lý, kể ngay cả những người theo đạo
Kitô thời nay. Thế nhưng lý thuyết này được giả định là căn bản
cho luân lý Kitô. Những gì từ Jesus - về thế giới bên kia, sự
khắc nghiệt, những đòi hỏi phải nhắm mắt tuân phục và báo thù
phục hận đều không những không chấp nhận được về đạo đức, nhưng
mâu thuẫn với tuyên bố rằng Ông là toàn hảo đạo hạnh
[36].
Còn hơn nữa, sự chấp thuận ngầm – không nói ra – về nạn nô lệ
khiến Ông bất xứng để làm một khuôn mẫu đạo đức.
Lại một lần nữa, là điều ghi chú
quan trọng rằng luận đề của tôi không đặt giả định trước đạo
Kitô sai lầm. Dẫu nếu đạo Kitô cứ tạm cho là đúng, vẫn đã có một
bất nhất giữa những người Kitô giương cao Jesus như lý tưởng đạo
đức và những quan điểm về luân lý có vấn đề của Ông. Những người
Kitô tin tưởng Jesus là lý tưởng đạo đức của họ, nhưng Jesus lại
có những tì vết đạo đức nên mâu thuẫn với lý tưởng này.
Chúng ta hãy cùng xem xét trường
hợp về nạn nô lệ với chi tiết hơn. Mặc dù nạn này thực hành rất
phổ thông ngay trong chính thế giới Jesus đang sống thời ấy, đã
không hề có bằng chứng nào cho thấy Ông lên án nó. Như Morton
Smith
[37] đã
ghi chú:
“Hoàng đế và nhà nước La mã có vô
số nô lệ, đền thờ Jerusalem (của đạo Do thái) có những nô lệ của
đền, Chủ tế đạo Do thái có những nô lệ của chủ tế (một trong
những nô lệ này bị cắt tai kể trong chuyện bắt Jesus
[38]);
tất cả những người giàu có và hầu hết giới trung lưu có nuôi nô
lệ. Theo như mức chúng ta được kể cho biết, Jesus không bao giờ
tấn công tệ nạn này. Ông đã nhận hiện trạng của nó như sự đương
nhiên và uốn nắn những câu chuyện của ông cho phù hợp. Khi Jesus
trình bày các sự việc, vấn đề chính với những nô lệ không phải
là lấy lại tự do, nhưng là phải chiếm được lòng chủ nhân khen
ngợi. Đã dường có những cuộc nô lệ khởi loạn ở xứ
Palestine
và Jordan
trong thời Jesus trẻ tuổi (Josephus, Bellum, 2:55-65); một thủ
lãnh có tài làm phép lạ, ở một trong những khởi loạn như thế,
hẳn đã lôi cuốn một đám người theo đông đảo. Nếu Jesus đã có lên
án nô lệ hay hứa hẹn giải phóng, chúng ta đã nhất định phải nghe
đến những gì Ông làm, Chúng ta tuyệt chẳng nghe gì cả, vậy giả
định có lẽ đúng nhất là Ông đã không nói gì hết.”[39]
Phán đoán của Smith được thái độ
các học trò Jesus xác nhận. Nếu như Jesus chống lại chế độ nô
lệ, có khả năng là các học trò ban đầu của ông hẳn đã làm theo
lời dạy của thày mình về vấn đề. Thế nhưng, Paul (1Cor. 7: 21,
24) và các nhà viết kinh Kitô ban đầu khác, ra lệnh cho các
người Kitô tiếp tục thực hành nạn nô lệ
[40].
Chắc chắn là phi lý để một ai ngầm chấp nhận chế độ nô lệ, lại
là đại diện cho lý tưởng đạo đức Kitô.
Có thể nào thử gắng đáp lại lời
kết tội phi lý này được không? Một cách là giải thích lại những
phần đạo đức trong đạo Kitô mà những người Kitô thấy khó chịu,
thí dụ, tranh cãi là Jesus đã không ngầm chấp thuận nạn nô lệ.
Nhưng mặc dù cách giải thích lại như thế phải là không tuỳ tiện
và không có vấn đề, nhưng chúng thường phạm vào lỗi như vậy. Lấy
thí dụ, một người đọc Kitô xem bản thảo bài văn này đã cãi rằng
nếu Jesus đã có dạy rằng nô lệ là sai, Ông hẳn đã bị bỏ qua và
chuyện đó, về lịch sử, đã “không đặt lên bàn mổ” (của thời đại
đó)[41].
Điều này ném vào tôi giống như một sự chạy tội. Chúng ta tin là
Ông hô hào “giơ thêm má bên kia”, yêu những kẻ thù của mình, và
đừng nhìn phụ nữ với thèm thuồng trong mắt. Ấy vậy những quan
điểm này xem – cũng đúng phải giữ với khả hữu tính lịch sử –
(lại được nhận ngay, không) như là giải phóng nô lệ. Vả lại, vài
nhân vật trong cổ thời đã phát biểu sự chống đối của họ
[42]
. Một cách khác cho người Kitô tránh bất nhất, sẽ là thú nhận
rằng họ chấp nhận thái độ của Jesus bất chấp cái xấu của tệ nạn
này. Nhưng trong thực tế, khi phải đẩy đến quyết định, họ không
làm theo như vậy! Do đó, thí dụ, những người Kitô thời nay đã
chống lại chế độ nô lệ.
Tuy nhiên, tạm bỏ qua bằng cớ,
chúng ta hãy cứ giả thử Jesus đã chống lại nô lệ và những gì Ông
và các học trò lên án đã bị bỏ, không chép vào hồ sơ Tân ước.
Như thế lại đưa ra một phi lý mới cho đạo Kitô: Jesus thực đã có
chống nô lệ, mặc dù điều ngược lại xem ra mới đúng với hồ sơ
trong Tân ước. Như thế, tín đồ Kitô chống nô lệ là đã theo gương
Jesus nhưng lại không có gì trong kinh thánh để biện chính cho.
Hơn thế nữa, nếu Gót thực đã chống nạn nô lệ và Jesus thực đã hô
hào chống nó, tại sao Gót lại để cho các lời dạy bị bỏ qua không
nhắc gì đến trong Tân ước? Chắc chắn, điều này đưa ra một phi lý
khác nữa. Kinh thánh thiếu xót không ghi gì về sự Jesus chống
đối một thực hành cực kỳ tàn ác, ghê tởm nhất trong lịch sử nhân
loại, dẫu thế mà Jesus lại được giả định là lý tưởng đạo đức cho
chúng ta!
Ngay nếu như chúng ta tạm hoãn
qua những vấn đề này, và tập trung vào những gì đã được nhiều
người xem là tinh yếu các giảng dạy của Jesus, kể tên, lời răn
“hãy yêu láng giềng nhà ngươi”, có nhiều vấn đề. Lởi răn này có
tính không rõ rệt, cho phép nó đươc diễn giải nhiều cách khác
nhau, trong số có những diễn giải ngầm chứa những nội dung không
thể chấp nhận được, trong khi những lối khác thật không rõ ràng,
đến nỗi không cách nào phân biệt được đâu mới là lởi răn diễn
dịch ra. Nhưng phi lý ở chỗ là một lời răn nằm ở vị trí trọng
tâm của đạo Kitô lại có những vấn đề như thế này
[43].
4. Sự chuộc tội
Vẫn còn một bất nhất khác trong
đạo Kitô là không có lý thuyết hữu lý về sự Chuộc tội
[44];
đó là, câu hỏi tại sao Jesus lại hiện thân thành người trần,
chịu chết trên thập giá và rồi sống lại
[45].
Ấy nhưng nếu thiếu nó, thế giới quan của Kitô không có nghĩa gì
cả và hiện thế, tử nạn và phục sinh thành
vô nghĩa.
Tấ cả những lý thuyết quan trọng
đã có trong lịch sử về sự chuộc tội đều có những vấn đề nghiêm
trọng. Đặc biệt, chúng thất bại không giải thích được tại sao
Gót đã hi sinh đứa con trai mình để cứu chuộc những kẻ tội lỗi,
hoặc nếu khác, họ làm sự hy sinh xem ra tùy tiện và vô nghĩa.
Thế nên, họ không cung cấp một giải thích xứng đủ về sự chuộc
tội, chết, và sống lại của Jesus. Lại một lần nữa, xin ghi chú
rằng luận đề của tôi không đặt trước một giả định là đạo Kitô
sai lầm. Điều tôi muốn nêu – đơn giản là – đã có bất nhất, phi
lý trong sự thiếu vắng một giải thích hợp lý về thuyết Cứu chuộc
và sự cần thiết phải có một lý thuyết như thể để làm cho đạo
Kitô mới có ý nghĩa. Để làm sáng tỏ điều này, tôi sẽ xét đến Lý
thuyết Toại Ý của St. Anselm[46]
(Satisfaction Theory).
Mặc dù nội dung thuyết Toại Ý đã
được các nhà tư tưởng trước đó có nói đến trong chừng mực nào
đó, Anselm – ở thế kỷ 11 – đã khai triển nó một cách chi ly và
thông thái
[47].
Ông cãi rằng Gót phải cứu nhân loại qua sự hiện thân và chết của
Jesus. Theo Anselm, trả món nợ với Gót, là làm theo ý Gót. Thế
nhưng, ông lại biện luận rằng khi - con người Gót tạo - tội lỗi
[48],
ấy chính là điều họ không làm. Những tội lỗi của giống người Gót
tạo, đã sỉ nhục Gót và làm giảm danh dự của Gót. Thế nên, phải
có một trách nhiệm phục hồi danh dự cho Gót và gỡ bỏ sự sỉ nhục
(phạm thượng!). Đây là sự Toại Ý. Thế nhưng, chỉ có cái chết của
Người-mà-Gót (God-Man) Jesus mới có thể đưa đến sự vừa lòng
thích đáng. Chỉ có Người-mà-Gót mới có khả năng, do sự linh
thiêng của ông, mới dâng điều gì đó xứng mức với Gót, và lại do
tính người của Ông, mới đại diện được cho giống người! Chỉ một
con người bình thường mà thôi sẽ không có khả năng tạo ra sự vừa
lòng thích đáng, vì người này phải tương ứng tỉ lệ với tổng số
“tội” và tổng số “tội” thì vô cùng
[49].
Ngoài ra, cái chết của Người-mà-Gót không có gì là bất công, vì
Con-Gót chết hoàn toàn tình nguyện, ngõ hầu phục hồi danh dự của
Gót. Những ai chấp nhận hy sinh của Jesus, những kẻ ấy được cứu
chuộc.
Lý thuyết này tạo những giả định
và chúng đều có vấn đề. Hãy để tôi kể bốn điểm:
Thứ nhất, không rõ rệt vì sao,
nếu nhân loại làm các sai trái gây tổn thương Gót, lại không thể
thỏa mãn thích đáng một cách đơn giản bằng trừng phạt những kẻ
tội lỗi, cho đến mãi mãi. Chuyện hiện thân thành người trần thật
không cần thiết.
Thứ nhì, cái chết của Jesus, mặc
dù tình nguyện, xem ra bất công. Công bình chắc chắn đòi hỏi
phía phạm tội, ở mức dù tối thiểu nhất, đem mãn nguyện đến –
thật nhiều đến mức tối đa có thể đem được. Thêm nữa, một con
người tốt đến mức toàn hảo (như Gót) sẽ không cho phép một kẻ
hoàn toàn vô tội đem đến thỏa mãn, mà lại còn trong căn bản tình
nguyện, dẫu ngay cả khi phía phạm tội không thể đền trả được gì.
Thực vậy, ngay chính ý niệm về sự hãnh diện của Gót bị tổn
thương và đòi hỏi phải được đền bồi thỏa mãn như thế, qua sự đòi
hỏi chính đứa con vô tội của mình tự nguyện hy sinh, tất cả
chúng giả thiết một quan điểm về bản chất đạo đức của Gót mà
nhiều độc giả thời nay sẽ gạt bỏ.
Thứ ba, lý thuyết này không rõ
ràng tại sao cái chết của Người-mà-Gót lại là cần thiết
cho sự đền bồi thỏa mãn một sai trái lớn vô cùng đã phạm đến
danh dự của Gót. Tại sao không là một vài hình thức trừng phạt
nào khác cũng đủ? Nếu danh dự của Gót đã tổn thương vô cùng ghê
gớm vì “tội lỗi” con người, tại sao nó không thể được hòa giải
bằng sự trừng trị vĩnh viến vị Người-mà-Gót, Jesus ấy? Tại sao
lại phải là tử hình? Thực ra có lẽ trừng phạt Jesus trong vĩnh
cửu như thế xem ra nặng nề hơn biết là bao nhiêu – hơn sự trừng
phạt tử hình – chỉ đau đớn tương đối ngắn ngủi và ít ỏi. Ngay cả
dẫu như có người cãi lại, phạt tử hình có một sự khắc nghiệt mà
không trừng phạt nào có thể sánh bằng, điểm quan trọng cần nhớ
là Jesus đã chỉ chết trong một thời gian rất ngắn. Sẽ là trừng
phạt tử hình khắc nghiệt hơn nhiều nếu như Jesus đã chết luôn
và không sống lại.
Cuối cùng, không có gì rõ ràng là
- tại sao những người chấp nhận sự hy sinh của Jesus lại được
“cứu chuộc”? Dẫu như chấp nhận giả định là Jesus hy sinh đem đến
mãn nguyện đối với những sai trái trong quá khứ đã xúc
phạm đến danh dự Gót, tại sao tin tưởng vào Jesus bây giờ
lại cứu được bất kỳ ai (tin theo)? Và tại sao chỉ những
người-tin mà những ai không-tin lại bị loại trừ, không được phần
thưởng đó?
Các lý thuyết khác như thuyết
Penal Theory, thuyết Government Theory, thuyết Moral Theory,
thuyết Christus Victor Theory, và thuyết Mystic Theory – tất cả
cũng thế - đều đầy những đáng ngờ cùng cực
[50].
5. Khái niệm về
Gót
Điều bất nhất phi lý cuối của bài
này, tôi sẽ nhắc đến ở đây là – mặc dù Gót là trung tâm điểm
rường cột của đạo Kitô, khái niệm về Gót theo đạo Kitô thì hồ
đồ, không mạch lạc. Xin ghi chú là tôi đang không chỉ nói rằng
tin vào Gót là sai lầm. Đúng hơn, là có một bất nhất trong việc
dựa tôn giáo của một người trên niềm tin vào Gót và lại có chính
ý niệm này hồ đồ, không mạch lạc. Còn gì có thể phi lý hơn là
chính cái khái niệm trọng tâm của một tôn giáo lại bất nhất?
Trước hết, một vài thuộc tính gán
cho Gót trong kinh thánh, mâu thuẫn nhau, không trước sau như
một.[51].
Ở vài chỗ, Gót được tả như là khoan dung, nhân từ
[52]và
ở một vài chỗ khác lại như là thiếu lòng tha thứ;[53]
Ở vài chỗ, Gót được tả như một nhân vật biết hối hận và đổi ý,[54]
ở chỗ khác lại như một nhân vật không bao giờ hối hận và đổi ý
cả;[55]
ở vài chỗ như một nhân vật biết lừa dối và tạo nên hỗn loạn và
ác độc,[56]
và ở những chỗ khác lại như một nhân vật không bao giờ làm như
thế,[57]
ở vài chỗ là một kẻ trừng phạt trẻ con vì hành động sai trái của
cha mẹ chúng
[58],
và ở những chỗ khác lại là một nhân vật không bao giờ làm như
thế.[59]
Thứ nhì, những thuộc tính nhấn
mạnh trong liệt kê triết học về Gót – hoặc chúng mâu thuẫn điều
này với điều kia hay chúng nội tại bất nhất. Trong quyển sách
của tôi Chủ nghĩa vô thần: Một biện chính triết học (Atheism:
A Philosophical Justification), tôi đã viết ba mươi trang
phân tích chi tiết những bất nhất gắn liền với các ý niệm: toàn
trí, toàn năng, và tự do thần linh. Ở đây tôi chỉ có thì giờ nêu
đại cương những biện luận của tôi về toàn trí (omniscience).
Nói rằng Gót là toàn trí là nói
rằng Gót là biết-tất-cả. Nói rằng Gót là biết-tất-cả lại kéo
theo rằng Ông có hết tất cả những kiến thức có đấy. Hiện giờ,
các triết gia đã phân biệt ba loại hiểu biết khác nhau: mệnh đề,
tiến trình và kiến thức từ quen biết
[60]
. Vắn tắt, hiểu biết mệnh đề hay hiểu biết thật sự là - kiến
thức về một điều gì đó là sự kiện, và được phân tích là đúng,
theo như một loại tin tưởng nào đó. Ngược lại, hiểu biết tiến
trình hay kiến thức làm sao là một loại tài khéo, kỹ
năng, và nó không giản lược về thành kiến thức mệnh đề được.[61]
Cuối cùng, kiến thức do quen biết là trực tiếp quen biết với một
vài đối tượng nào đó, người hay hiện tượng.[62]
Lấy thí dụ, để tôi nói rằng – tôi biết Ông A, bao hàm ý tôi có
hơn, chứ không chỉ hiểu biết mệnh đề chi tiết về ông A; rằng tôi
có một quen biết trực tiếp với ông A. Tương tự, khi nói – tôi
biết sự nghèo khó – bao hàm ý rằng, bên cạnh kiến thức mệnh đề
chi tiết về sự nghèo khó, tôi có một vài kinh nghiệm trực tiếp
về nó.
Nói rằng Gót là biết-tất-cả, thế
nên, là nói Gót có tất cả kiến thức trong đó gồm mệnh đề, tiến
trình và kiến thức từ quen biết. Những nội dung bất mạch lạc,
không ăn khớp nhau của liệt kê này về ý niệm Gót đã thường không
được để ý. Nếu Gót toàn trí, vậy Gót phải có tất cả mọi kiến
thức, gồm kiến thức bơi lội như thế nào. Thế nhưng điều này mâu
thuẫn với trạng thái vô-thân-xác của Ông; vì chỉ một nhân vật có
thân xác mới có thể có – kiến thức bơi thế nào – theo nghĩa kiến
thức tiến trình (biết làm); nghĩa là, có thể thực có kỹ
năng bơi lội. Do định nghĩa, Gót không có một thân thể, tính
chất phi-thân-xác và tính chất biết-tất-cả của Ông mâu thuẫn với
nhau, như thế, vì Gót có các thuộc tính mâu thuẫn nhau, ý niệm
Gót thì bất nhất, không mạch lạc, vô nghĩa
[63].
Giả thử người ta có thể sẽ phản
đối luận chứng của tôi trên hai nền tảng. Thứ nhất, người ta có
thể cãi Gót có thể nhập vào xác phàm và lấy được kiến thức làm
sao – khi Ông ở trong trạng thái “nhập phàm” đó. Đúng, nhưng Ông
sẽ thiếu, không có thứ kiến thức này trước khi Ông nhập
xác. Thế nhưng, Gót vốn đã được giả định là vĩnh cửu
biết-tất-cả!
[64]
Thứ nhì, một người giả thử tuyên bố là Gót có thể biết bơi thế
nào bằng cách suy nghĩ về nó. Nhưng phản đối này đã dựa trên một
sự lẫn lộn giữa hai thứ kiến thức biết làm sao. Dĩ nhiên, Gót có
thể biết bơi làm sao trong cái nghĩa Ông giả thử biết, nếu muốn
bơi – một người phải giơ tay và đạp chân theo cách thức như thế,
như thế, rồi hít thở như thế, như thế,…vân vân. Nhưng điều này
không thích đáng với nghĩa kỹ năng của kiến thức – biết làm thế
nào – nó gồm có thật sự bơi được; nghĩa là, có sự khéo
léo của bắp thịt vận động. Bởi vì Gót thiếu một thân xác, trừ
khi Ông nhập xác, Ông không thể hiểu biết - theo nghĩa khả năng
– bơi lội ra làm sao.
Thuộc tính là biết-tất-cả cũng
mâu thuẫn với những thuộc tính đạo đức thường gán cho Gót. Bởi
vì nếu Gót là toàn trí, Ông có kiến thức từ quen biết của tất cả
các khía cạnh của thèm muốn và ghen tị. Đến đây, một khía cạnh
của thèm muốn là tình cảm thèm muốn và một khía cạnh của ghen tị
là tình cảm ghen tị. Thế nhưng, có phần của khái niệm về Gót là
Ông toàn hảo về đạo đức, và là một vị toàn hảo về đạo đức phải
không có những tình cảm thèm muốn và ghen tị này. Hậu quả là,
khái niệm về Gót bất nhất, không ăn nhập đâu vào đâu.
Lại thêm nữa, Gót toàn trí mâu
thuẫn với Gót toàn năng. Bởi vì Gót toàn năng, Ông không thể có
kinh nghiệm về sợ hãi, thất vọng và tuyệt vọng.[65]
Muốn có được các kinh nghiệm này, một người phải tin biết khả
năng của mình có giới hạn, nhưng vì Gót là biết tất cả và quyền
năng tất cả, Ông biết là Ông không chịu giới hạn nào về quyền
năng. Hậu quả là, Ông không thể có toàn bộ kiến thức từ quen
biết, của tất cả các khía cạnh của sợ hãi, thất vọng, và tuyệt
vọng. Nhưng ở một mặt khác, vì Gót là toàn trí, Ông phải có các
kiến thức này. Lần nữa, khái niệm về Gót đã thấy là không ăn
nhập với nhau, bất nhất. Vậy nên, còn gì có thể phi lý hơn nữa?
Khái niệm trọng tâm của đạo Kitô là Gót, và thế nhưng, khái niệm
này thì bất nhất, không ăn nhập trước sau.
[66]
Có thể trả lời cho các luận chứng
của tôi không? Dĩ nhiên, một người có thể đưa ra một giải thích
khác về Gót hoặc về kinh Cựu ước. Làm như thế người này hẳn sẽ
gắng chứng minh rằng khái niệm về Gót thì không bất nhất. Nhưng
một lối giải thích như thế phải không là tuỳ tiện, hoặc nếu
không thì thành có vấn đề. Đối với các các đoạn văn mâu thuẫn
trong kinh thánh, một tín đồ Kitô có đọc bản thảo của bài văn
này, phê bình phương pháp của tôi trong cách diễn giải là bỏ qua
những chủ đề trọng tâm và chỉ chú trọng vào những cái ông gọi là
các chi tiết hợp hay không hợp pháp. Đáng tiếc, ông không cho ý
kiến đi xa hơn – như làm sao các chi tiết này có thể hoà giải,
hoặc làm sao một người có thể xác định đâu là các chủ đề trọng
tâm.
Cũng vẫn độc giả này, đã thử cố
gắng hoà giải sự mâu thuẫn giữa Gót toàn trí và các thuộc tính
khác của Gót, bằng cách từ chối là Gót là biết-tất-cả. Đặc biệt,
độc giả này chối rằng Gót không có toàn bộ kiến thức làm sao và
kiến thức do quen biết. Nhưng sự giả định này có hàm chứa một
nghịch lý rằng con người có kiến thức mà Gót không có. Nói một
cách khác, nó hàm ý rằng một chủ thể vô hạn lại không có kiến
thức mà một con người hữu hạn có. Một phi lý thay chỗ của một
phi lý khác!
Kết luận
Những lý thuyết của đạo Kitô về
Cứu rỗi, Thiên đường, Đạo đức, Cứu chuộc và Gót
[67]
đóng vai quan trọng trung tâm của chủ thuyết Kitô, thế nhưng
những lý thuyết này có vấn đề. Nhưng đây là phi lý theo cái
nghĩa thông thường tự điển định nghĩa của từ “absurd ."[68]
Đây dĩ nhiên không phải là hết chuyện vì những người Kitô có thể
từ chối một vài giải thích trưng ra từ các luận chứng của tôi.
Nhưng rồi không biết họ có thể đưa ra các giải thích thay thế,
và những giải thích này – hoặc phải không tuỳ tiện hoặc phải
không nghịch lý – được hay chăng, lại là một chuyện khác nữa.
Michael Martin
Lê
Dọn Bàn tạm dịch- bản nháp thứ nhất
(Dec/2009)
http://chuyendaudau.blogspot.com/2009/12/co-phai-ao-kito-phi-ly-khong.html
Các
chú thích trong bài là của chính tác giả, Michael Martin, như
trong nguyên văn – bản Anh ngữ - có thể đọc nguyên văn ở đây:
Is
Christianity Absurd? (2002).
Những
chú thích khác là của tôi, hướng đến đọc giả người Việt – tất cả
đề có phụ chú – (CTND) – chú thích người dịch – cũng thay cho sự
thành thực nhận lỗi, nếu có, hoàn toàn do thiếu kém của người
dịch.
[1] Một vị khác, thí dụ, Daniel Dennett, gần đây được biết đến
rộng rãi hơn.(CTND)
[2]
Xem thêm B. Russell -
Yếu
tính của tôn giáo
– tôi tạm dịch (CTND)
[3] Xem Edward Gibbon - The History of the Decline and Fall
of the Roman Empire (CTND)
[4]
Có dịp đặt chân trên những hoang tàn của Parthenon, biểu
tượng của văn minh Hy Lạp, và nay là cả nhân loại, vì là quê
hương của toán học và triết học, vốn dựng thờ nữ thần Athena,
hãy đừng quên - đến thế kỷ VI, Parthenon đã bị biến thành một
nhà thờ Kitô, dâng thờ “Parthenos Maria” (“Virgin Mary”).
Vậy, những câu chuyện như “tháp Báo Thiên, Nhà thờ lớn Hà Nội”,
hay “chùa Khải Tường, Saigon”… vì
sao bị hủy, phá, chiếm, và mất dấu ở quê hương chúng ta, chỉ là
lịch sử lập lại. (CTND)
[5]
Thơ Kiên Giang- Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím (CTND)
[6]
Xem Sam Harris - The Sacrifice of Reason – “Khái niệm JC
chết cho tội lỗi chúng ta và cái chết của Ông đã tạo nên sự hòa
giải thành công với một Gót “nhân ái” – là hình thức trực tiếp
và trá hình rơi rớt xót lại từ tục man rợ giết vật tế thần, vốn
đã hoành hành ở những giống dân mông muội trong lịch sử. Nhìn
theo quan điểm hiện đại, đây là một ý niệm vừa phi nhân vừa
cuồng tín, phê phán nó, thật khó, không biết phải bắt đầu từ
đâu. Thêm vào huyền thoại đê tiện xoay quanh một người chết vì
cực hình – Những khổ hình của Christ - sự tượng trưng của tục
ăn thịt uống máu sống, của lễ ban Thánh thế - (www.samharris.org)
[7]
Salvation – Sự cứu rỗi, Trong đạo Kitô, Jesus là nguồn
của sự cứu rỗi và nhấn mạnh vào sức mạnh của lòng tin này. Tương
tự, trong đạo Islam nhấn mạnh vào sự phục tùng Allah. Cả hai
trên bình diện cá nhân. Riêng đạo Do thái đặt một sự cứu rỗi tập
thể cho toàn con dân xứ
Israel. (CTND).
[8]
Atonement (Christianity) – niềm tin trong đạo
Kitô: Jesus đem cái chết của mình để “chuộc tội” cho con người
và như thế hòa giải Gót với Người.
Dĩ nhiên, ý niệm này hoàn toàn xa lạ với các dân tộc Nam và Đông
Á. Nói chung ở đấy, giữa trời và người không có liên hệ bệnh
hoạn như thế. Chỉ kể những chủ thuyết phổ thông nhắc đến rất
thường trong sách vở - “Thiên địa vạn vật đồng nhất thế”, “Tiểu
ngã và đại ngã hoà hợp”, “nhận Tự ngã là Không, để biết Chân
như”, “cái Đạo lớn là không làm, không nói”,….Dù chưa đi vào chi
tiết, chỉ qua tên gọi thôi, đã thấy chúng là những memes
từ Nho, Phật, Lão, Bà la Môn, đã ra sống giữa văn hóa nhân gian,
trong lòng sinh hoạt tinh thần các dân tộc ở những vùng này, từ
rất lâu đời (CTND)
[9]
Cf. Michael Martin, The Case Against Christianity,
(Philadelphia, PA: Temple University Press, 1991), Chương giới
thiệu.
[10]
Phiên âm từ God – thay vì dịch, vì từ Thượng đế -
thường dịch - không hoàn toàn đúng nguyên nghĩa của từ God – xem
thêm trong chú thích của tôi trong bản dịch: Russell -
Có
God Hay Không?
(CTND).
[11]
Một bản có trước đó, ngắn hơn, và có sửa đổi nhiều của văn bản
này đã có trong The American Rationalist, May/June 2000,
pp. 3-6, với nhan đề "The Absurdity of the Christian Life."
[12]
Absurd: tính chất buồn cười, lố bịch vì trước sau bất nhất hay
không thuận lý, xuôi tai, hợp lẽ phải (Ridiculously incongruous
or unreasonable), cũng đông nghĩa với foolish. Trong tiếng Việt,
đã dịch quen là phi lý, nên theo thói quen – thực ra còn có từ
``xuẩn`` – nếu dịch ``xuẩn lý`` thì linh động hơn - với nghĩa
``lý của người xuẩn``, nó lố bich, buồn cười, không hợp lý thông
thường (CTND)
[13]
“Yuk” – tiếng tán thán từ - khi phá ra cười vì gặp, nghe chuyện
khôi hài, hay thấy việc nhờm gớm, bất thường (CTND)
[14]
Từ “absurd” – Nguyên văn Anh ngữ trong bài này, nhắc tôi
đến hai câu nói của Bertrand Russell, tôi dám đoán, cũng không
xa lạ gì với tác giả Michael Martin – tưởng cũng nên nhắc lại ở
đây – vì có liên quan đến từ “phi lý” Michael Martin dùng
trong bài viết này:
- “Sự kiện một ý kiến được phổ thông rộng rãi, không phải
là bằng chứng gì hết, rằng nó không hoàn toàn phi lý, thực ra,
cứ xét sự khờ dại của nhân loại, một tín ngưỡng phổ thông rộng
rãi có cơ là điên rồ hơn là có ý thức”
- “Đây là một trong những quan điểm thực là phi lý đến mức
cùng cực mà chỉ có những kẻ có học thật nhiều mới có thể chấp
nhận chúng".
Nếu câu thứ nhất ông nói về tín đồ, câu thứ hai – hẳn phải về
những nhà thần học, bác học Kitô.
Trong Việt ngữ, sự phổ thông của từ “phi lý” có gốc khác
– Trước 1975, ở miền Nam, từ “phi lý”– thành thời thượng
khi thuyết Hiện Sinh dòng Pháp, được “nhập cảng”. Từ này thường
đi đôi với từ “buồn nôn”. Gốc của chúng trong Albert
Camus - Le Mythe de Sisyphe, và Jean-Paul Sartre - La
Nausee. Hai đại diện của dòng hiện sinh vô thần thời hậu
chiến ở nước Pháp, quen thuộc với các trí thức Việt bản xứ hay
hồi hương từ Pháp giai đoạn 55-60 này. Theo tôi, đây là “thuốc
cao đơn hoàn tán, trong uống ngoài xoa” để làm dịu đau đớn và
tủi hổ của trí thức Pháp, trong thâm tâm, họ thấy khó chịu, nhục
nhã ngấm ngầm, vì trong thế chiến thứ II, nước Pháp đã rất nhanh
chóng đầu hàng, rồi “cộng tác” với nước Đức Quốc Xã, sau đó,
phải chờ và nhờ liên quân Anh Mỹ giải phóng đất nước. Lực lượng
gọi là “kháng chiến Pháp” do de Gaule đứng đầu, và các trí thức
Pháp như Sartre lẫn Camus đều có tham dự, thực sự chỉ có vai trò
rất khiêm tốn. (CTND)
[15]
Christian apologetics - ngành thần học đặc biệt của Kitô
– có mục đích đưa ra một nền tảng duy lý cho tín ngưỡng Kitô,
bảo vệ niềm tin trước các phê bình, chống đối và đồng thời cũng
tấn công những quan điểm các tôn giáo khác, bằng cách trưng ra
những khuyết điểm của chúng. (CTND)
[16]
Nếu một điều gì phi lý theo nghĩa bất nhất, vậy nó có phi lý
theo nghĩa vô nghĩa không? Nếu một điều gì phi lý theo nghĩa vô
nghĩa vậy nó có phi lý trong nghĩa bất nhất không?
[17]
Xem The Case Against Christianity, Chương 7.
[18]
Tên gọi chung ba tập sách trong kinh Tân ước: của Matthew, của
Mark, và của Luke, vì chúng rất tương tự, có nhiều trùng hợp,
giống nhau (CTND)
[19]
Tôi có biết đến sự uyên bác tinh tế của các hội viên Jesus
Seminar trong cố gắng phân định đâu là những gì Jesus thực có
nói [Xem, lấy thí dụ, Robert W. Funk, Roy W. Hoover and the
Jesus Seminar, The Five Gospels: The Search for the Authentic
Words of Jesus (Harper, SanFranciso, 1997).] Thế nhưng, kết
luận (mà tôi chấp nhận) rằng Jesus đã thực không có nói nhiều
điều người ta kể là ông đã nói, sẽ không có một ảnh hưởng quan
trọng nào cả vào điểm chính của tôi trong bài viết này. Hầu hết
tất cả các tín đồ Kitô đều tin – ít nhất Jesus đã nói những điều
này. Lấy thí dụ, hầu hết người Kitô thú nhận tin tưởng những gì
được kể là Jesus đã nói trong Synoptic Gospels. Nhưng trong đó,
Ông được kể lại là có nói rằng cứu rỗi có thể có được bằng tuân
theo một bộ luật đạo đức. Thêm nữa, họ thú nhận đã tin Paul và
John. Nhưng những vị này lại nói cứu rỗi chỉ có thể có được bằng
đức tin. Như thế đó cũng là cương lĩnh của đạo Kitô mà hầu hết
tín đồ Kitô tin tưởng. Luận đề của tôi chú trọng vào phơi bày
một sự bất nhất trong tin tưởng phổ thông của đạo Kitô – không
phải những gì các học giả quyết định nên theo, hay không nên
theo dưới ánh sáng khảo cứu lịch sử.
Như tôi hiểu những kết quả của Jesus Seminar, quan điểm Jesus đã
dạy về cứu rỗi bằng cách tuân theo một bộ luật đạo đức, có liên
hệ với tuân theo những lời răn và không phải là làm giàu, có
chống đỡ từ mức vừa phải (Matt.19: 21-24, Luke 13:24, 18:18-25)
đến yếu (Matt.7: 13-14, 19:17). Về chuyện hội nghị có một hệ
thống tô màu những đoạn kinh – hồng (Jesus có lẽ đã nói điều
này) hay xám (Ông không nói – nhưng ý gần ý của chính Ông). Thế
nhưng, thành viên hội nghị xem quan điểm Jesus dạy cứu rỗi chỉ
qua niềm tin rất đáng ngờ. Như thế, phủ nhận John 14: 1-14 như
đã trình bày những gì Jesus nói mặc dù đoạn này đã thường dùng
để chống đỡ quan niệm cứu rỗi bằng đức tin mà thôi (Xem The Five
Gospels, pp. 450-1.). Nhưng hầu hết các tin đồ Kitô không biết
đến những quan điểm của Jesus Seminar và có lẽ sẽ không chấp
nhận chúng nếu như có họ có biết được.
Thế nhưng, nếu chúng ta mang ra những kết quả của hội nghị Jesus
Seminar lại xem gây ra một bất nhất khác: Rất nhiều tín đồ Kitô
tin rằng cứu rỗi bằng đức tin mà thôi, nhưng giới học giả hàn
lâm cao nhất của họ lại không ủng hộ một quan điểm được phổ biến
rộng rãi nhất và tuân theo nhất về lý thuyết cứu rỗi của đạo
Kitô.
[20]
Điểm này tôi có, nhờ ở Robert Price trong thư tín trao đổi cá
nhân.
[21]
Xem Michael Martin, "Problems With Heaven," July 22, 1997
[22]
Xem chính tác giả khai triển chi tiêt nội dung đoạn này trong
Problems With Heaven với bản dịch của tôi
Thiên
đường dậy sóng hoài nghi
- (CTND)
[23]
Peter van Inwagen (1942-) Giáo sư triết đại học Notre Dame (US).
Ông nghiên cứu về Siêu hình, Triết lý luận lý, Triết ly thần
học, và lý thuyết bảo vệ Kitô (Christian apologetics) - (CTND)
[24]
Peter Van Inwagen, "The Possibility of Resurrection,"
Philosophy of Religion, ed. Louis Pojman (Wadsworth
Pub. 1994), pp. 389-92.
[25]
Tuy nhiên, với vũ trụ quá bao la, nếu có thất bại đi tìm một
tinh cầu như thế, không nghiêng về phủ nhận hiện hữu của nó. Lý
thuyết mà nói, giả thuyết “ Có một hành tinh nơi ấy Gót bảo trì
các xác người đã chết từ địa cầu” là một mênh đề phi hạn-chế về
hiện hữu và bằng chứng quan sát không chứng minh nó sai.
[26]
ibid., p. 392
[27]
Theodore Michael Drange (1934 - ) Triết gia về tôn giáo học,
giáo sư đại học West
Virginia University.
Là người vô thần, ông có tác phẩm nổi tiếng Nonbelief and
Evil: Two Arguments for the Nonexistence of God (1998) - Tác
phẩm này trình bày chi tiết một luận chứng vô thần quan trọng
xưa nhất và mạnh nhất – phủ nhận sự hiện hữu của Gót – dựa trên
các thiên tai, bệnh tật, đau khổ hoành hành ở trần gian, nếu có
Gót nhân ái và toàn năng – sao lại có Tà Ác ? – Luận chứng này
gọi là Luận chứng về Tà Ác (CTND)
[28]
Xem, Theodore Drange, "The Argument From Nonbelief,"
Religious Studies, 29, 1993, pp. 417-432, và "The Arguments
From Evil and Nonbelief," 1996
[29]
Xem The Case Against Christianity.
[30]
William Lane Craig (1949-) Triết gia, giáo sư đại học, Người Mỹ,
chuyên về triết học tôn giáo, triết lý thần học, và nghiên cứu
nhân vật Jesus lịch sử.
[31]
Michael Martin, "Craig's Holy Spirit Epistemology," April
15, 1998
[32]
Holy Spirit (CTND)
[33]
Xem The Case Against Christianity, Chương 6. Ở đây và
những chỗ khác trong bài này, tôi giả định là Jesus hiện hữu.
Mặc dù tôi đã biện luận chống lại sự hiện hữu của Ông trong
The Case Against Christianity (Chương 2) Tôi đã nói (p. 67)
tôi sẽ không dựa những luận chứng của tôi dựa trên sự phủ nhận
hiện hữu của Jesus trong các phần sau đó cho đến hết quyển sách,
vì phủ nhận sự hiện hữu của Jesus gây quá nhiều tranh cãi. Hơn
thế nữa, tôi đã không dựa trên các luận chứng phủ nhận ấy sau
thời kỳ ấy tôi viết về đạo Kitô. Thế nên, sẽ là hiểu nhầm rất
sai lệch nếu giả thuyết là tôi đã bất nhất khi giả định là tôi
chấp nhận Jesus có hiện hữu thật trong bài văn này.
Cho mục đích của bài văn này, tôi giả định như những gì tín đồ
đạo Ki tô điển hình giả định (rằng Jesus) hiện hữu và nỗ lực là
trình bày sự bất nhất liên hệ trong các giả định này.
Các luận chứng của tôi cũng giả định trong một phương cách khác
nữa. Tôi giả định là chúng ta có một ý khá rõ về quan điểm đạo
đức và hành vi của Jesus từ những gì đã nói trong Synoptic
Gospels. Thế nhưng, tôi đã chống cãi trong The Case Against
Christianity (Chương 6, p. 163) rằng ngay giả thuyết như thế
thì đáng hồ nghi lắm. Như tôi lưu ý trong đó, hầu hết tín đồ đạo
Kitô nhắm mắt trước vấn đề này và xem Synoptic Gospels như căn
bản của đạo đức Kitô. Trong The Case Against Christianity
(Chương 6). Tôi tuân giữ theo qui ước đó. Trong bài văn này, tôi
cũng làm theo như thế. Tôi giả định Synoptic Gospels như căn bản
của đạo đức Kitô và chứng minh rằng những quan điểm đạo đức và
hành vi của Jesus đã trình bày trong đó, mâu thuẫn với hình ảnh
Jesus như một lý tưởng đạo đức
[34]
Xem, The Case Against Christianity, pp. 208-11
[35]
Tôi nói “có lẽ” vì câu hỏi về công bình cũng có thể nêu lên theo
hướng thuyết phổ quát nữa : Có công bằng không nếu tất cả mọi
người đều được cứu rỗi, mặc dù có kẻ đã sống tàn ác không thể
tưởng được trong khi có những người khác lại sống hoàn toàn một
đời thánh thiện tuyệt vời? Về câu hỏi công bình trong cứ chuộc
xem Richard Schoenig, "The Argument from Unfairness,"
International Journal of Philosophy and Religion, 45, 1999, pp.
115-128.
[36]
Xem The Case Against Christianity, Chương 6.
[37]
Morton Smith (1915 –1991) giáo sư cổ sử tại đại học
Columbia. Nổi tiếng vì phát hiện bản thảo
thư tịch cổ tại tu viện Mar Saba.
[38]
Matthew, chương 26: Kể chuyện đi bắt Jesus: Chủ tế và đông đảo
quần thần đến tìm bắt Jesus, sau khi Judas ra dấu bằng cách hôn
Ông, bọn họ xấn đến nắm bắt Ông, Một trong những học trò của
Jesus rút kiếm vội vàng, nên cắt đứt tai một nô lệ trong
đám tùy tùng của vị Chủ tế…(Matthew 26:47-52) - (CTND)
[39]
Xem Morton Smith, "Biblical Arguments for Slavery", Free
Inquiry, 7, Spring 1987, p.30.
[40]
Ibid.; Xem also Edward A. Westermarck, "Christianity and
Slavery," A Second Anthology of Atheism and Rationalism, ed.
Gordon Stein, (Buffalo, N.Y.: Prometheus Books, 1987), pp.
427-437.
[41]
Nguyên văn - "not in the cards." - Ý nói, vấn đề nô lệ là
một vấn đề của thời đại chúng ta, nên chúng ta đưa ra bàn cãi,
lên “bàn mổ lương tâm” thời đại. Còn thời Jesus, cứ cho là có
Jesus, và 2000 năm trước, Ông không nói gì, vì nó không là đầu
đề bàn cãi của thời đó.
Nhưng Martin cho thấy là có những người đương thời, và cả trước
đó (ở Hy lạp) đã lên tiếng.
Và Martin cũng chứng minh, có những vấn đề - xem ra hợp với thời
nay hơn thời xưa – khi Jesus có ý kiến – đáng khen, lại không ai
đặt vấn đề thời đại tính cả. (CTND)
[42]
Xem thí dụ , Bertrand Russell, A History of Western
Philosophy, London:
George Allen and Unwin, Ltd, 1948), p.254. Theo như Russell, các
đồ đệ của triết gia Antisthenes lên án tục nuôi giữ nô lệ. Hơn
nữa, ngay cả Aristotle, người vẫn thường được xem là bào chữa
cho nô lệ cũng đã chống lại tục nô lệ như hậu quả của chiến
tranh và chinh phục Xem W. D. Ross, Aristotle, (London: Metheun
and Co. LTD, 1956), p. 241.
[43]
Xem The Case Against Christianity, pp. 172-191
[44]
Trong đạo Kitô, đã gọi Jesus là “con cừu tế God” - "the Lamb of
God that taketh away the sin of the world." (John i. 29.) – di
tích của tục lệ một thời mông muội, tìm thấy khắp nơi trên thế
giới- người ta cúng Gót, Trời, hay các thần linh gọi bằng tên
khác nhau – vật dâng cúng là người sống (trẻ em, phụ nữ, ..) rồi
chuyển sang sinh vật sống (gà, lợn, trâu bò,…) – sau cùng mới
dùng sinh vật nấu chín các thế kỷ gần đây.
Ngay vào thời các kinh thánh được chép - ở Do thái vẫn có tục tế
dê (scape-goat), trước đó người Ai cập tế trâu.- trong kinh Cựu
ước, còn ghi lại rất nhiều chuyện đem giết người tế Chúa – thí
dụ Jephthah đem con gái đốt sống cúng Chúa (Judges 11:39). Lòng
tin vào Chúa còn được xưng tụng trong một huyền thoại nổi tiếng
– Chúa ra lệnh cho Abraham giết con trai mình ở Moriah. Abraham
đã sẵn sàng, nhưng chỉ đến phút cuối, Chúa để Abraham giết một
con cừu tơ (ram) làm lễ tế, thay chỗ đứa con trai.
Vậy chuyện cúng tế dâng hiến một vật hy sinh để xin tội, cầu
phước là tập tục cổ truyền quen thuộc trong truyền thống Trung
đông Do Thái, Ai cập.
Cúng tế xong xuôi, còn tục uống máu ăn thịt vật đã cúng tế để
lấy phước, sức mạnh,… Tục đó trong đạo Kitô còn giữ đến ngày
nay: Eucharist - tín đồ vẫn ăn bánh, nếm rượu – gọi là
“bánh thánh, rượu thánh” – nhưng thực chất và mang ý nghĩa vẫn
giữ là “uống máu, ăn thịt” của chính Jesus. Vì chính giáo hội
Kitô dạy bánh và rượu đã thánh hóa, không là bánh và rượu nữa,
nhưng là xác và máu thiêng của chính chúa Kitô.
Thế nên, Dưới các lớp nghi thức long trọng, các câu “thần chú”
đọc bằng Latin - Tất cả là tàn dư của một thời mông muội lúc
nhân loại còn ăn thịt sống, uống máu tươi những tế vật hạ xuống
từ bàn thờ.
Do thế, và nhiều điều khác nữa, nhìn dưới khía cạnh nhân loại
học, triết học, đã nêu lên câu hỏi nghi ngờ về một Jesus lịch sử
- có nghĩa là – Jesus không là một người thật sống trong lịch
sử, hay nếu có cũng không như những chi tiết mâu thuẫn, rời rạc
ghi trong kinh thánh, Jesus chỉ là một nhân vật tưởng tượng của
nhiều huyền thoại chắp vá lại mà thành.
Nói vắn tắt nôm na theo lối bình dân – Jesus chỉ là sản phẩm của
tưởng tượng – cũng như Tôn ngộ Không, Trư ngộ Năng, hay Sa ngộ
Tĩnh do Ngô Thừa Ân phóng bút vẽ ra, nếu không hoàn toàn huyền
thì chỉ bán-thực - Jesus – tương tự, theo như xuất hiện trong
kinh Thánh - cũng chỉ là Đường Tam Tạng của Tây Du Ký, không
phải là Huyền Trang có thật của lịch sử. (CTND)
[45]
Xem The Case Against Christianity, Appendix 2.
[46]
Saint Anselm of Canterbury (1033-1109) Nhà thần học và
triết gia Kitô. Ông được nhắc vì luận chứng bản thể (ontological
argument) chứng minh Gót hiện hữu – Luận chứng này bị nhiều
người lần lượt đánh đổ: Kant, Hume, Russell và gần chúng ta nhất
là R. Dawkins (the God Delusion). Cũng như lý luận về
Toại Ý, tác giả Martin trình bày trên đây – luận chứng bản
thể dùng những từ và ý niệm rất thông thái (bản thể, tiền
nghiệm) nhưng bình thản xem xét – chúng rất ngớ ngẩn.
Những tác giả như Anselm, vì tin trước rồi chứng minh sau -
chứng minh một niềm tin đã chấp nhận trước ở ngoài, hay bất chấp
lý trí – rồi sau mới dùng lý luận để thuyết phục lý trí người
khác – nên quặt quẹo, kết quả là chỉ tạo những ngụy chứng.
(CTND)
[47]
L. W. Grensted, A Short History of the Doctrine the Atonement,
(London: Manchester University Press, 1920) Chương s 4, 5, 6.
[48]
Trong nguyên văn – “when God's creatures sin” – sin là
động từ - theo context Âu mỹ, làm, nghĩ,… bất kỳ điều gì trái
với God là “sin”. Dĩ nhiên Ý Gót ra sao?, có Gót không? … là
chuyện khác.
Paul - một học trò của Jesus, là người đã đem ý niệm “Gót xuống
làm người” – Người-Gót - để làm Jesus (lúc đó đã chết) thành
linh thiêng, và ý niệm “Người-Gót” chết vì “tội” của con người –
lúc ấy, chỉ dân Do Thái có mà thôi, sau này giáo hội do Paul
thành lập, lớn rộng thành đạo Kitô, “người” mới chỉ cả nhân
loại! Điều này cũng lố bịch như giảng dạy là “Adam và Eva là
thuỷ tổ” nhân loại.
Một tôn giáo gần gũi xem như “anh em” của Kitô là Islam – xem ý
niệm “tội tổ tông” và “chuộc tội tổ tông bằng chết trên thập
giá” – chỉ là sự sáng tạo của Paul – một người trước kia theo
đạo Do Thái, nay muốn lập đạo mới - mà thôi
Trong Islam – không có “tội tổ tông” (original sin), con người
sinh ra lương thiện (nhân chi sơ tính bổn thiện – như Mạnh tử) –
sau đó có tội hay không tuỳ mỗi người có làm theo ý Allah hay
không. Chúng ta thấy có tiến bộ về tư tưởng và tôn trọng con
người ở những điểm này.
Phải chăng vì thế nên tuy cả hai đều mạnh mẽ truyền đạo sang Á
châu – rất sớm – nhưng Islam phát triển rất mạnh – từ Ấn
(Pakistan) lên các xứ Trung Á, xuống Mã lai, Nam Dương và cả
trung Việt Nam (dân tộc Chăm)
Trong khi ấy, đạo Kitô chỉ thành công ở Philippines – sau 400
năm nô lệ Spain và 100 năm nô lệ Mỹ, và vẫn chỉ là thành công
một nửa, chưa trọn, vì phần phía nam Mindanao vẫn đang sôi sục
là địa hạt của Islam. (CTND)
[49]
Xem Joseph M. Colleran's Introduction to Anselm, Why God
Became Man and The Virgin Conception and Original Sin, dịch,
giói thiệu và chú thích do Joseph M. Colleran (Albany, NY: Magi
Books, 1969) pp. 44-45.
[50]
Xem The Case Against Christianity, Appendix 2.
[51]
Ở đây, tôi mang ơn với Ted Drange's Nonbelief and Evil,
(Amherst, NY: Prometheus Books, 1998), pp. 80-82.
[52]
Ps 86:5, 100:5, 103:8, 106:1, 136:2, 145:8-9; Joel 2:13; Mic
7:18; Jas 5:11
[53]
De 7:2, 16, 20:16-17; Jos 6:21, 10:11, 19, 40, 11:6-20; Isa
6:19, 15:3; Na 1:2; Jer 13:14; Mt 8:12, 13:42, 50, 25:30, 41,
46; Mk 3:29; 2Th 1:8-9; Re 14:9-11, 21:8
[54]
Ge 6:6; Ex 32:14; 1Sa 2:30-31, 15:11,35; 2Sa 24:16; 2Ki 20: 1-6;
Ps 106:45; Jer 42:10; Am 7:3; Jon 3:10
[55]
Nu 23:19; ISa 15:29, Eze 24:14; Mal 3:6; Jas 1:17
[56]
Ge 11:7; Jg 9:23; 1Sa 16:14; La 3:38; 1Ki 22:22-23; Isa 45:7; Am
3:6; Jer18:11, 20:7; Eze 20:25; 2 Th 2:11
[57]
De 32:4; Ps 25:8, 100:5, 145:9; ICo 14:33
[58]
Ge 9:22-25; Ex 20:5, 34:7; Nu 14:18; De 5:9; 2Sa 12:14; Isa
14:21, 65:6-7
[59]
De 24:16; 2Ch 25:4; Eze 18:20
[60]
Propositional (factual knowledge), procedural, and knowledge by
acquaintance: Ba loại hiểu biết con người:
- Propositional (factual knowledge): biết thật –
biết về một điều là, đã, sẽ, thường nói ra câu, phát biểu thành
một mệnh đề xác định. Td. Tôi biết “Tôi biết hồ Trúc Bạch nằm
cạnh hồ Tây”. “Tôi biết 2 + 2 = 4”
- Procedural knowledge: biết làm – đây là cái biết
động, khác với cái biết tĩnh ở trên. Td : “Tôi biết bơi, nhưng
Gót không biết bơi vì nếu như Ông là thật đi nữa, ông cũng không
có chân tay mình mẩy” Đây là sự chứng minh của GS Martin trong
bài.
- Knowledge by acquaintance: biết vì quen biết – có
kinh nghiệm trực tiếp với đối tượng hay nguồn biết. Td. “Tôi
biết xoài tượng ăn chua lắm” vì tôi đã có ăn vài lần.
[61]
Để có liệt kê về hai loại kiến thức này - xem Israel Scheffler,
Conditions of Knowledge, (Chicago: Scott, Foresman and
Co. 1965)
[62]
Xem D. W. Hamlyn, The Theory of Knowledge, (Garden City,
N. Y.: Doubleday, 1970), pp. 104-106.
[63]
Luận chứng này đã khai triển trong Michael Martin, "A
Disproof of the God of the Common Man," Question, 1974,
115-124; Michael Martin, A Disproof of God's Existence,
Darshana International, 1970.
[64]
Phi thời gian, cái biết nằm ngoài thời gian, lúc nào cũng biết,
không trước hay sau. (CTND)
[65]
Cf. David Blumenfeld, "On the Compossibility of the Divine
Attributes," Philosophical Studies, 34, 1978, pp. 91-103.
[66]
Xem tóm tắt – gọn và đẹp - của chính tác giả - chứng minh Gót
không thực vì mâu thuẫn giữa hai thuộc tính toàn năng và toàn
trí này:
A Disproof of God's Existence
(1970)
Chứng Minh
Tiền
đề(1): Nếu Gót hiện hữu, Gót đã không có các xúc cảm của thèm
muốn và ghen tị.
Tiền
đề(2): Nếu Gót hiện hữu, Gót hiện hữu như một nhân vật có hiểu
biết, ở mức ít nhất cũng biết tất cả những gì mọi người trần
biết được.
Tiền
đề(3): Nếu Gót hiện hữu như một nhân vật có hiểu biết, ở mức ít
nhất cũng biết tất cả những gì mọi người trần biết được. Gót
biết thèm muốn và ghen tị.
Tiền
đề(4): Nếu Gót biết thèm muốn và ghen tị, Gót đã có các xúc cảm
của thèm muốn và ghen tị.
(5)
Gót hiện hữu .: Theo giả định.
(6)
.: Gót đã có và đã không có các xúc cảm thèm muốn và ghen
tị. Từ (1) - (5).
(7)
Gót KHÔNG hiện hữu. Do (5) & (6)
Q. E. D.
(quod
erat demonstrandum – như thế đã chứng minh)
(CTND)
[67]
Tôi có thể đã xem xét nhiều khía cạnh khác của đạo Kitô vốn
chúng có những nội dung phi lý. Có lẽ đại biểu dễ chọn nhất sẽ
là sự bất nhất chỉ nhìn qua cũng thấy trong khái niệm Chúa ba
ngôi (Trinity), vốn là trung điểm trọng tâm giảng dạy của đạo
Kitô. Thêm nữa, một ứng viên dễ dàng chấp nhận khác nữa, là sự
phi lý trong sự quan trọng hoá lòng tôn sùng God trong đạo Kitô.
Xem "God and Moral Autonomy" by James Rachels.
[68]
Tôi đã nợ nhiều Jeff Lowder và ba độc giả ẩn danh cho những nhận
xét hữu ích khi đọc bản nháp của văn bản này. Tôi cũng mang nợ
Jeff Lowder đã đọc bản thảo sau cùng, và cho các nhận xét chi
tiết.
Phụ Lục:
Đây
là các lý thuyết thần học giải thích ý nghĩa sự cứu chuộc (tôi
tóm tắt theo Michael Martin, The Case Against Christianity,
Philadelphia, PA: Temple University Press, 1991, pp. 252-263.)
Appendix 2.
1.
Thuyết “Nộp chuộc” (The Ransom Theory): Đây là thuyết phổ thông
nhất, thịnh hành trong thời kỳ nghìn năm đầu của đạo Kitô. Theo
thuyết này, loài người bị quỉ ám, nên Gót phải đem con mình nộp
chuộc, để quỉ buông thả con người. Tuy thế, quỉ dữ đã bị Gót
lừa, con Gót lại về Thiên đường với Gót (Jesus phục sinh, thăng
thiên), quỉ dữ không giữ nổi!
Hình
ảnh Gót – trao đổi với, và lừa quỉ - như nội dung này của
Origen, không đẹp, nên sau đó, Augustin chữa đi, chẳng có chuyện
Gót lừa quỉ, chẳng qua quyền danh của Gót lớn quá, nên Quỉ phải
buông bỏ đứa con hy sinh.
Sửa
chữa hay không, vẫn lủng củng và thô sơ, và câu hỏi căn bản vẫn
còn đó: Tại sao lại phải và chỉ tin vào Jesus mới được cứu
chuộc?
2.
Thuyết Hài Lòng (The Satisfaction Theory): Đã có trước đó, nhưng
đến thế kỷ XI, Anselm phát triển thêm cho thành rắc rối. Trong
bài, Martin đã phân tích các tính chất phi lý của nó.
Ông
đưa thêm thí dụ đơn giản: X làm trái ý (gì đó với) Y, đáng phạt
$1000, nhưng X không có đủ, chỉ có $100, nay có Z tình nguyện
trả thế, trọn số $1000.
Nên
cuối cùng Y có được bồi thường $1000, danh dự thỏa mãn; do Z vô
can vô tội, nhưng tình nguyện trả, X (tuy có lỗi) không mất đồng
nào. Từ nay về sau, tất cả mọi X cứ tin vào Z và câu chuyện này
là tốt đẹp, được tha lỗi.,,,Ngoài các khái niệm không tưởng,
bênh hoạn về tội, về chuộc, về danh dự, tự ái của Gót. Tất cả
hoàn toàn phi ý.
3.
Thuyết Chấp Nhận (The Acceptance Theoory): Thuyết trên (2), đến
thế kỷ XIII, Duns Scotus đưa thêm dạng mới: Trong khi Anselm
nhấn manh Jesus xuống thế và chịu chết để cứu rỗi con người,
Scotus thêm, Gót chấp nhận và hài lòng với sự hy sinh này là tuỳ
tiện, nên Jesus xuống trần, tội lỗi con người hay cả cái chết
của Jesus cũng không phải là cần thiết, Gót chẳng cần những thứ
đó, để trả lời những ai cứ hỏi tại sao - Tất cả hoàn toàn là ý
Gót, Ông định thế, chấp nhận thế - tại sao? Anselm trả lời -
Không tại sao cả, Gót có tự do tuyệt đối, nghĩa là Ông toàn
quyền tuỳ tiện.
Tránh
được khó khăn của (2) nhưng còn câu hỏi – Tại sao Gót lại chọn
(dù cho Gót có quyền tuỳ tiện) cách này mà không cách khác? Thí
dụ - Gót có thể sai các “thiên thần” xuống trần cứu con người –
hay có thế chọn một người khác, không phải là Jesus, không ở
thời điểm ấy, không ở đất ấy,.. Tại sao không?
4.
Thuyết Hình Sự (The Penal Theory): Các nhà thần học Tin lành như
Luther và Calvin nhấn mạnh vào ý niệm con người tội lỗi, và do
đấy phải bị trừng phạt, và người đóng vai chịu tội thay là
Jesus. Phải tin vào Jesus mới được cứu chuộc. Tại sao? – Vì đây
là quà của Gót qua Chúa thánh linh. Giải thích niềm tin là quà!
Thế nên cứ nhận chớ hỏi tại sao!
Thuyết này tương tự nên có cùng các phi lý tìm thấy như thuyết
Hài Lòng.
5.
Thuyết Cai quản (the Government Theory) thường cho là từ Hugo
Grotius (1583-1645) - Gót có thế quyền, có trách nhiệm duy trì
công lý trên trần gian. Thế nên, Jesus chết để cho con người
biết Gót ghét tội lỗi, nhưng rồi Jesus sống lại để cho họ thấy
lòng tha thứ của Gót.
Nhiều
phi lí, hiển nhiên là nếu Gót toàn năng, toàn trí sao phải lập
những chyện lòng vòng, lẩn quẩn như vậy.
6.
Thuyết Đạo Đức (the Moral theory) Peter Abelard, thế kỷ XII,
khai triển – theo vị này thập giá là hình ảnh của tình thương
yêu Gót muốn khắc vào tâm khảm loài người. Thế nhưng yêu thương
là phải được giải phóng khỏi tội lỗi và hòa giải với Gót. Jesus
là sứ mạng được thực hiện đó.
Đến
thế kỷ XVI, Faustus Socinus, cho vai trò của Jesus là tiên tri,
Ông dạy con người lời hứa của Gót và lấy mình làm gương cho nhân
loại. Cái chết của Ông làm trọn vẹn hình ảnh gương mẫu này, nếu
ông không chết, không sao làm lòng người động tâm cho được.
Câu
hỏi – không có cách nào khác ngoài cách “chết người” để dạy nhân
loại sao? Một đời toàn hảo về đạo đức phải kết bằng cái chết
giả? …vv.
7.
Thuyết Christus Chiến thắng (the Christus Victor Theory) –
thuyết này mới nhất, Gustaf Aulen trình bày – nhằm cứu chữa và
đem lại ý nghĩa mới cho thuyết Nộp chuộc kể trên. Xuống thế,
chết, phục sinh là chiến thắng bi thảm của Christ. Qua đó, chính
là chiến thắng của Gót, giải phóng con người khỏi chết, tội lỗi,
và quỉ dữ, và tự hòa giải với chính Gót.
Cứ
cho là đúng đi – không có cách nào khác - ngoài cách để con mình
phái xuống trần, chết thảm? và – tại sao phải tin mới được cứu?
8.
Thuyết Huyền Bí (the Mystics theory): Thuyết này trở lại với
Paul, một trong những vị học trò đầu tiên của Jesus – “Tôi đã
lên thập giá với Christ, tôi không sống nữa, nhưng Christ sống
trong tôi”. Sau đó Aquinas phát triển thuyết này – vẫn dùng
trong nhà thờ.
Dĩ
nhiên khi khoác áo thần bí – là hoàn toàn dựa trên niềm tin,
loại trừ lý trí, lý luận. Vẫn có những câu hỏi – thí dụ - có thể
là một với Christ được không? – Nếu là một, có cảm nhận sự bất
công của Gót, khi Gót bắt Jesus chết – và như Ông tuyệt vọng
than trên đồi Golgotha lúc hấp hối – Cha bỏ con sao? Tại sao?
(My God, my God, why have you forsaken me?) – hay không?
Về
phương diện lý luận, theo tôi, các lý thuyết trên, vắn tắt phê
bình trong dăm ba dòng, hay tràng giang đại hải dăm ba tủ sách,
Không thể thoát được khuyết điểm có trong bản chất vì sự giải
thích là:
1.
Đến sau câu chuyện đã kể và
2. Nội dung câu chuyện phải được bảo toàn (cứu chuộc, phục sinh,
..) – không thay đổi.
3.
Người giải thích là tín đồ - đã tin trước, nay giải thích một sự
đã rồi là lòng tin của chính mình.
4. Thế nên, dù câu chuyện có phi lí, lủng củng đến đâu (1) các tác
giả không có tự do (2), và không có khách quan (3) – nên không
bao giờ đi đến một giải thích nào có giá trị về :
- nội
dung: vì hai trói buộc trên trong tiền đề (1) và (2) và
- lý
luận: vì quan điểm và phương pháp chủ quan (3)
Theo
tôi, đây là chỗ người Việt, gọi nôm na là “cãi chầy cãi cối”.
Nếu bạn bỏ một điều gì vào cối, rồi dùng chày để giã, tôi luyện,
dù “cứng chắc”, “khéo léo”, lâu dài đến đâu cũng chỉ thành từ
méo đến tròn, và nhất định sẽ không thể nào vuông vắn cho được.
Vì trong tự bản chất, phương pháp chày cối đã không chỉ giới
hạn, mà loại trừ các thể dạng gãy gọn, minh bạch của khối vuông.
(CTND)