|
21 tháng 3, 2011 |
Niềm Tin Cốt Tủy Của Người Ki Tô Giáo ● Về Ngày Tận Thế Của Ki Tô Giáo ● Ảnh Hưởng Tai Hại Trên Xã Hội
Do Những Tiên Đoán Về Ngày Tận Thế ● Sự Cuồng Tín Của Những Nhà Truyền Giáo Tin Lành Nam Hàn ●
Vài Nét Về Sự Truyền Đạo Tin Lành Vào Cao Ly, Trung Quốc và Nhật Bản ● Cùng Với Tin Lành Trên Thế Giới,
Tin Lành Nam Hàn Đang Suy Thoái ● Vài Lời Kết ● Phần Đọc Thêm ● Nhận dạng Ác quỷ theo quan điểm dân gian và Kitô giáo
Tin Lành thật sống dai. Điều này chứng tỏ cái gì? Nó chứng tỏ là quần chúng
thì mê tín và các mục sư thì ngu muội (stupid).
[Protestantism dies hard. What does that prove?
It proves that the people are superstitious and the preachers stupid.]
(Robert G. Ingersoll, in Ingersoll: The
Magnificient, AA Press, 1985, edited by Joseph Lewis, p. 140)
* Câu hỏi chính đã trở thành không phải tại sao tôn giáo
[Ki Tô Giáo] không chết đi mà tại sao nó tiếp
tục tồn tại trước hàng núi bằng chứng trái ngược (với những gì Ki Tô Giáo
rao giảng). Đối với tôi, câu trả lời có thể tóm gọn trong một câu: Quần chúng
thì ngu muội.
[The dominant question thus becomes not why religion [i.e.
Christianity] has not died away but why it continues to persist in the face of
monumental evidence to the contrary. To my mind, the answer can be summed up in
one straightforward sentence: People are stupid.]
(S.T. Joshi, God’s Defenders: What They Believe and Why They Are Wrong”,
Prometheus Books, New York, 2003, p.14]:
*
Thực tế là, [sự rao giảng cũ kỹ của
nhiều nhà truyền bá phúc âm] người mù dẫn dắt người mù.
[In effect, [the astrolabe preaching of many evangelists],
the blind is leading the blind.]
(Pastor Ernie Bringas, “Going By The Book, Past and Present Tragedies of
Biblical Authority”, HR Publishing Co., Charlottesville, VA, 1996,
p. 142)
Niềm Tin Cốt Tủy Của Người Ki Tô Giáo:
Ki-tô Giáo nói
chung, Tin Lành nói riêng, thường dùng các phương tiện truyền thông để tuyên
truyền, thổi phồng thành quả của mình và tự quảng cáo bộ mặt của một tôn giáo
văn minh tiến bộ. Nhưng thực chất của Tin Lành là những tổ chức buôn thần bán
thánh, Tin Lành có đến hơn 30000 phe phái khác nhau. Tin Lành ở Nam Hàn [Nam
Triều Tiên] dập theo khuôn của Tin Lành Mỹ, có tới 160 hệ phái khác nhau, tất cả
đều cực kỳ mù quáng và cuồng tín. Đọc lịch sử Tin Lành chúng ta thấy rõ như
vậy.
Nhìn một số
cảnh lễ lạc của đám đông Tin Lành Nam Hàn trong nhà thờ chúng ta thấy họ như bị
bùa mê, có những cử chỉ, hành động như điên như cuồng. Những cảnh cuồng loạn
của tín đồ trong một số nhà thờ Tin Lành ở Nam Hàn bắt nguồn từ một niềm tin về
“ngày tận thế”, ngày mà họ hi vọng Chúa Giê-su tái lâm và bốc họ lên
thiên đường (mù) để có một cuộc sống đời đời với Chúa của họ. Người Tin Lành
được nhồi vào đầu óc để tin vào hai câu nhảm nhí nhất trong Tân Ước: John 3:
16 : “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban Con duy nhất của
Ngài [nghĩa là Giê-su], để những ai tin vào Người sẽ không bị luận phạt,
nhưng được sống đời đời.”, và câu tiếp theo, John 3: 18: “Người
nào không tin vào Giê-su thì đã bị đầy đọa rồi, vì người đó không tin vào đứa
con duy nhất của Thiên Chúa”. Họ bị lừa bịp mà không nhận ra được sự phi lý
của hai câu trên vì những câu này chỉ có thể áp
dụng cho những người sinh sau Giê-su mà thôi,
trong khi con người đã hiện hữu trên trái
đất nhiều trăm ngàn năm, nếu không muốn nói là cả triệu năm, trải qua không biết
bao nhiêu thế hệ trước khi Giê-su sinh ra đời..
Lịch sử loài người đâu chỉ bắt đầu từ khi
Giê-su chết đi khi mới 33 tuổi. Ấy thế mà
vẫn có vô số người tin vào những câu nhảm nhí này.
“Ngày Tận Thế” của Ki-tô Giáo nằm rải rác trong Cựu
Ước, trong nửa cuốn sau của sách Daniel (nửa cuốn trước chỉ thích hợp với trẻ
con trong những lớp học sáng chủ nhật ở nhà thờ) và trong sách Khải Huyền
(Revelation) ở cuối Tân ước. Tín đồ Ki Tô Giáo tin vào “ngày tận thế” này với
hi vọng là Chúa Giê-su của họ sẽ trở lại trần thế để bốc họ lên thiên đường nếu
họ chưa chết, và nếu chết rồi, không biết chết đã được bao lâu, có khi đã cả
trăm năm, ngàn năm, chết trên giường bệnh hay tan xác ngoài mặt trận, cũng sẽ
được Giê-su lấy cái linh hồn của họ từ trong một kho chứa, không biết để ở đâu,
để nhập với xác của họ, cho họ sống cuộc sống đời đời với Giê-su, với điều kiện
là họ phải hoàn toàn đầu phục làm tôi tớ Giê-su, tin vào cái gọi là “ơn cứu rỗi”
của Giê-su. Đó là cốt tủy niềm tin của những tín đồ Ki Tô Giáo. Ai bảo niềm
tin này không thuộc loại mê tín, xin mời lên tiếng.
Về Ngày Tận Thế Của Ki Tô Giáo:
“Ngày Tận Thế” là
niềm tin đặc thù của truyền thống Do-Thái – Ki-tô (Judea-Christian tradition).
Trong khi truyền thống Hi Lạp, Phật Giáo, Ấn Độ Giáo đều quan niệm sự vận hành
của vạn pháp trong vũ trụ, kể cả vũ trụ, có tính cách tuần hoàn theo từng chu
kỳ, thí dụ bốn mùa, hết năm cũ sang năm mới; sinh, tử, rồi lại tái sinh v..v..
thì Kinh Thánh Do-Thái – Ki-tô quan niệm vũ trụ theo đường thẳng: bắt đầu bằng
một sự “sáng tạo” của Thiên Chúa và tận cùng bằng “Ngày Tận Thế”, đặc biệt chỉ
áp dụng cho loài người trên trái đất. Nhưng ngày nay, trước những khám phá của
khoa học về vũ trụ và con người, thuyết “sáng tạo” như được viết trong cuốn
Kinh Thánh đã chứng tỏ đó chỉ là một sản phẩm dẫn xuất từ những sự mê tín trong
thời bán khai (a product derived from primitive superstitions), cho nên
“ngày tận thế” trở thành sự mong ước hoang tưởng dốt nát của những kẻ điên
khùng, đúng như Tổng thống Thomas Jefferson đã nhận định: “Sách Khải Huyền là
những lời nói dốt nát của một kẻ điên khùng” [President Thomas Jefferson
referred to the Book of Revelation as “the ravings of a maniac”, West County
Times, California, USA, Editor Steven Morris, 14 August, 1995].
Kẻ điên khùng dốt nát
này là ai? Chính là Giê-su. Kinh Thánh viết rõ tên sách Khải Huyền:
“The Revelation of Jesus Christ”, có nghĩa là “Lời khải thị
của Giê-su Ki Tô”, và câu đầu trong sách Khải Huyền viết rõ: “Rev. 1:
1: The Revelation of Jesus Christ, which God gave Him to show to His servants –
things which must soon take place, He made it known by sending his angel to his
servant John....” [TCN tạm dịch: Lời khải thị, hay mạc khải, của Giê-su
Ki-tô mà Chúa Cha đã ban cho ông ta để tỏ cho các tôi tớ của ông ta thấy
những điều sắp phải xảy ra. Giê-su
tỏ điều khải thị này (cho các tôi tớ) bằng cách sai thiên sứ của ông ta đến với
kẻ tôi tớ của ông ta là John (Gio-an hay Giăng)...]. Chúng ta thấy, đúng là
chuyện mê sảng của thời bán khai. Người Ki Tô Giáo thường rất hãnh diện tự nhận
là tôi tớ hay tỳ nữ hầu việc Chúa. Cho nên, nếu chính Chúa của họ chỉ là một kẻ
dốt nát điên khùng, thì chúng ta không nên lấy làm lạ khi thấy tuyệt đại đa số
những người tin ông ta cũng dốt nát điên khùng không kém.
Bắt đầu từ chính
Giê-su, rồi đến sau Giê-su, đã có biết bao các nhà tiên tri thuộc truyền thống
Do-Thái – Ki- tô (kể cả Hồi Giáo), tin vào Kinh Thánh, tiên đoán là ngày tận thế
đã gần kề, nhưng tất cả đều trật lất. Chính Chúa đã trật thì tôi tớ của Chúa
làm sao mà trúng cho được. Chuyện Giê-su hứa cuội, hứa hão đã rõ ràng thế mà
tín đồ Ki Tô Giáo vẫn tiếp tục đặt hi vọng vào lời hứa cuội này. Đọc những sách
tiên đoán về ngày tận thế, chúng ta thấy có cả trăm vụ khác nhau. Tất cả các vụ
này đều có một đặc tính chung: đó là tiên đoán bậy, trật lất. Tại sao?
Vì tất cả đều dựa trên một niềm tin nhảm nhí, mù lòa tin bướng tin càn, tin
những điều không thể tin được trong Tân Ước về ngày tận thế, sự hoang tưởng của
một kẻ dốt nát điên khùng..
Chúng ta hãy đọc đoạn cuối của sách Khải Huyền:
22: 18-21:
Tôi khuyến cáo mọi người đã nghe những lời tiên
tri trong sách này. Người nào thêm thắt vào bất cứ điều gì, Thượng đế sẽ thêm
cho họ những tai họa mô tả trong sách này. Người nào bớt đi bất cứ điều gì
trong sách tiên tri này, Thượng đế sẽ bớt đi phần của họ trong cái cây của sự
sống và trong thành thánh (Holy City = Jerusalem), như được mô tả trong sách
này.
Người chứng nhận những lời tiên tri này
(Giê-su) nói: “Phải,
Ta sẽ trở lại ngay gần đây.”
Amen. Hãy trở lại. Chúa Giê-su.
Ân sủng của Chúa Giê-su hãy ở cùng dân Chúa
(dân Do Thái). Amen
(He who testifies these things says: “Yes, I am
coming soon” [second coming]
Amen. Come. Lord Jesus.
The grace of the Lord Jesus be with God’s people.
Amen.)
Vậy mà những
người Ki-tô không phải là người Do Thái, không biết đầu óc để đâu mà cũng
đã chờ đợi cái “ngày trở lại ngay gần đây” (soon) của Giê-su đã hai ngàn
năm nay rồi. Người Ki-tô Việt Nam cũng chờ đợi như vậy ít ra là vài trăm năm,
sau khi bị mê hoặc bởi các thừa sai Công giáo xảo quyệt về một cái bánh vẽ trên
trời, nhưng Giê-su vẫn biệt tăm,
dù người ta bảo là ông ta đã sống lại và bay lên trời, ngồi đè lên trên
tay phải [nguyên thủy là “on” the right hand, bây giờ sửa lại là “at”] của Cha ông ta. Cái bánh vẽ trên trời quả thật rất hấp dẫn đối với các tín
đồ Ki Tô vì họ rất kiên nhẫn. Họ vẫn tiếp tục cầu nguyện và chờ đợi năm này
qua năm khác, cha truyền con nối, đời này sang đời khác, ngày trở lại của
Giê-su, đáng lẽ đã phải xẩy ra từ gần 2000 năm trước như Chúa của họ đã hứa hẹn.
Nhưng hi vọng càng nhiều thì thất vọng càng lớn, và tuy thất vọng nhưng các tín
đồ Ki Tô lại không dám thú nhận, và cứ tiếp tục hi vọng trong ảo vọng. Có nhiều
công cuộc khảo cứu cho rằng Giê-su đã lấy Mary Magdalene, sinh con đẻ cái, và
xác chết của Giê-su hiện đang ở miền Nam nước Pháp [Theo chương trình 20/20 của
đài ABC: Jesus, Mary and Da Vinci], hoặc nằm trong một tiểu quách ở Jerusalem
cùng với vài tiểu quách khác của vợ và em.
Sự kiện Giê-su không “trở lại ngày gần đây” và không biết bao giờ mới trở lại
chứng tỏ rằng Ki Tô Giáo là “đại đạo dối”, “đại đạo bịp”. Vì chính Chúa của
Ki Tô Giáo đã lừa dối những người theo ông ta, hứa hẹn là sẽ trở lại ngay khi
một số người theo ông ta còn sống, thì những người theo ông ta về sau cũng lại
lừa dối những người đã vào tròng của họ là Chúa sẽ trở lại để bốc họ lên thiên
đường cho họ một cuộc sống cuộc sống đời đời với Chúa, nhưng hiển nhiên thực tế
cho thấy là có bao giờ mà một người đã chết như Giê-su trở lại trần trừ trường
hợp tái sinh trong một cảnh giới khác, có thể là người, có thể không phải là
người? Ki Tô Giáo nói chung vẫn cứ lừa dối tín đồ về ngày Chúa trở lại gần đây,
không những chỉ đối với những người ngu dốt mà còn rất hữu hiệu đối với một số
trí thức Ki Tô Giáo. Chẳng vậy mà chúng ta thấy đâu đó trên các diễn đàn truyền
thông những trí thức Công Giáo như Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, hay Tiến sĩ,
Bác sĩ
Nguyễn Thị Thanh vẫn mê sảng tin rằng bà Maria đã hiện ra ở đâu đó rồi tiên tri
này nọ nhưng thực ra là bất tri vì đó chỉ là sự dàn dựng của Giáo hội Công
Giáo. Thật vậy, những tiên tri của bà Maria ở Fatima đều sai bét, thí dụ như:
Thông điệp của Đức Mẹ trao cho mấy
em nhỏ mù chữ lên 7, 9 và 10 tuổi là: "Giáo hoàng phải hiến dâng thế giới cho
trái tim vô nhiễm của mẹ," và rồi "phải hiến dâng Nga Sô cho Mẹ." Mẹ tiên đoán,
"Nga Sô sẽ cải đạo theo Ca-tô Rô-ma Giáo," và Đức Thánh Cha sẽ "hiến dâng Nga sô
cho Mẹ." Mẹ cảnh cáo, nếu những điều Mẹ rao truyền không thực hiện được thì
"những sai lầm của Nga Sô sẽ lan ra khắp hoàn cầu, gây nên chiến tranh và bách
hại giáo dân, và nhiều quốc gia sẽ bị tàn phá." Cuối cùng Mẹ an ủi rằng "Giáo
hội CaTô sẽ thắng, sau đó Giáo hoàng sẽ hiến dâng Nga Sô cho Mẹ, Nga Sô sẽ cải
đạo theo Ca-tô Giáo, và thế giới sẽ được hưởng một thời kỳ hòa bình.
Những lời trên đây là những thông điệp chân thực của Maria đồng trinh, như
một em nhỏ kể lại và được giáo hội Ca Tô hoàn toàn chấp nhận như là điều mặc
khải xác thực của "Mẹ Chúa". [1]
Có điều tiên tri nào của bà Mary đúng không , thưa bà Đốc Thanh?
Ngày nay, Nga sô không những không cải đạo theo Ca-tô Giáo mà còn cấm Ca-tô Giáo
không được truyền đạo trong nước Nga. Hơn nữa, cuối đệ nhị Thế Chiến, gây ra
bởi Đức Quốc Xã của Hitler, một tín đồ Công Giáo, và Phát Xít Ý, một nước hầu
như toàn tòng Công Giáo, thì Nga sô là lực lượng đầu tiên tiến vào Bá Linh mở
đầu cho sự chấm dứt cuộc chiến. Bà Đốc Thanh, với một sự hiểu biết rất nghèo
nàn về lịch sử thế giới cũng như về thực chất đạo Công giáo của mình, có vẻ như
không phù hợp mấy với hai cái danh hiệu Tiến Sĩ, Bác sĩ, mà bà thường khoe dưới
mỗi bài viết bá láp của bà về Công giáo hay về chính trị.
Chúng ta hãy đọc một
câu của Bs. Nguyễn Tiến Cảnh:
Thế chiến III có
thể xẩy ra ở Trung Đông? Rất có thể lắm, bởi vì Trung Đông là trung tâm điểm của
các biến cố sẽ có nguy cơ dẫn đến ngày tận cùng của những chế độ trần thế vì
không biết cai trị một cách công minh phải lẽ để rồi cần phải có Chúa Giêsu Kitô
xuất hiện lần thứ hai (tận thế) mới mong vãn hồi được trật tự.
Thế giới đã trải qua hai cuộc Thế Chiến, nhưng cả hai
đều không phải là ngày tận thế, thiên hạ vẫn sống phây phây, dân số gia tăng,
khoa học và kỹ thuật phát triển, những kiến thức mới đã dẹp đi những chuyện mê
sảng, hoang đường về ngày tận thế của Ki Tô Giáo. Nếu vì những chế độ không
biết cai trị một cách công minh phải lẽ mà Chúa Giêsu Kitô phải xuất hiện để vãn
hồi trật tự thì Chúa đã phải xuất hiện rất nhiều lần trong những chế độ của đế
quốc La mã, chế độ Công Giáo trong mười mấy thế kỷ cho đến ngày nay, những chế
độ thực dân ở Tây phương, chế độ diệt chủng dân da đỏ ở Bắc Mỹ của Tin Lành Mỹ,
chế độ Stalin ở Nga Sô, chế độ Mao Trạch Đông ở Trung Quốc, chế độ Công giáo
Franco ở Tây Ban Nha, chế độ Công giáo Pavelic ở Croatia, chế độ Công giáo Ngô
Đình Diệm ở Nam Việt Nam v… v… và v…v… rồi. Ông Bác sĩ có biết là mình đã viết
những điều mê sảng ngớ ngẩn như thế nào không?
Và một câu của bà
Đốc Thanh:
Một dấu hiệu cho chúng ta thấy ngày Thiên
Chúa giáng lâm gần kề, là những ngày kẻ xấu ngày đang gia tốc phạm tội, tội
lộng ngôn, phạm thượng, tội kiêu ngạo, dâm ô, đồi trụy, băng hoại thì “ngày
ấy sẽ được rút ngắn”. Và đó là ngày tận thế, ngày Thiên Chúa giáng lâm kề
cận. Ôi! Sung sướng!!!
Chúng ta thấy cùng một loại đầu óc mê sảng, hi
vọng vào một chuyện không bao giờ có thể xẩy ra. Theo ý của bà Đốc Thanh, nếu
biết chút ít về lịch sử thế giới, thì dấu hiệu này đã có đầy rẫy qua những triều
chính Giáo hoàng của Công Giáo (lộng ngôn, phạm thượng, dâm ô, đồi trụy, băng
hoại, kiêu ngạo v…v…) Những kẻ phạm tội, lộng ngôn, phạm thượng, kiêu ngạo,
bà Đốc Thanh nêu đích danh là TCN, NMQ, sachhiem, giaodiem trong khi thật ra
những tác giả và trang nhà trên chỉ có mục đích giải hoặc, mở mang đầu óc của
những kẻ vẫn còn u mê bởi những điều mà thế giới ngày nay đã loại bỏ.. Tôi tin
chắc rằng, dù bà Đốc Thanh có sống đến 100 tuổi, khi chết đi cũng không thấy
Chúa giáng lâm. Tại sao? Vì bà Đốc Thanh không đọc Tân Ước, nên không biết đến
lời hứa hão của Chúa là sẽ “giáng lâm” ngay khi mà một số người theo ông ta còn
sống. Và tôi có một lời khuyên đối với bà Đốc Thanh, lời khuyên chân thành của
một người bạn, không phải của một kẻ thù: “Bà có muốn sung sướng thì hãy sung
sướng ngay trong đời này đi. Đừng có chờ đến ngày Chúa giáng lâm, vì dù cái
ngày đó có thật thì bà sẽ khóc lóc thảm thiết vì một đại thất vọng. Tại sao?
Vì Chúa Giêsu của bà chỉ cho lên thiên đường (mù) của ông ta có 144000 người
Do Thái thuộc 12 bộ lạc Do Thái mà thôi như Sách Khải Huyền đã viết rõ, chứ
không bao giờ cho người Việt Nam lên thiên đường. Hãy mở Tân Ước ra đọc
đi. Nhiều chỗ trong đó viết rõ là Chúa
chỉ cứu người Do Thái mà thôi. Mặt khác, ông ta rất tin ở Cha ông
ta. Ông ta phán: một chấm một nét những gì Cha ông ta mạc khải trong Cựu Ước
cũng không thể thay đổi, mà Cha ông ta thì không biết là trái đất có hình
cầu, nghĩa là không biết có đất nước Việt Nam, vậy làm sao mà ông ta biết được
đất nước Việt Nam để mà cho những người Việt Nam lên thiên đường? Đó là
cái “handicap” của những người ngu đạo, chẳng biết gì về đạo của mình, lại không
chịu tìm hiểu các vấn đề từ gốc rễ cho rõ ngọn ngành, cứ tin bướng tin càn.
Thật là quá tội nghiệp đi. Có vẻ như những tín đồ Ki Tô Giáo, Công giáo cũng
như Tin Lành, kể cả những trí thức như BS Nguyễn Tiến Cảnh hay bà Đốc Thanh đều
đã bị cái vòng kim cô của Ki Tô Giáo xiết chặt trên đầu, nên coi như không có
hay không thể tin được những điều viết trong cuốn Kinh Thánh trái ngược với niềm
tin đã được cấy sâu vào đầu óc rồi. Đúng như Mục sư Ernie Bringas đã nhận định:
sự hiểu biết của phần lớn tín đồ Ki Tô Giáo về Ki Tô Giáo là thuộc thế kỷ 17.
Ảnh Hưởng Tai Hại Trên Xã Hội
Do Những Tiên
Đoán Về Ngày Tận Thế:
Hi vọng về ngày Chúa giáng lâm là một ảo vọng của
những người mê mẩn về một cái bánh vẽ trên trời đã gần 2000 năm nay rồi, và họ
đã từ thất vọng này đến thất vọng khác vì tin vào những lời tiên đoán láo của
những kẻ buôn thần bán thánh.. Ôi ! Sung sướng, hay Ôi! Đau khổ ?? Vài
câu chuyện về ngày tận thế hay ngày “Chúa giáng lâm” sau đây sẽ cho chúng ta và
những tín đồ Ki Tô Giáo tin mà không hiểu mình tin cái gì thấy rõ vấn đề.
Vấn đề là, đã 2000
năm qua rồi, những tín đồ Ki Tô Giáo đã thất vọng không biết bao nhiêu lần, hết
lần này đến lần khác, vì những hứa hẹn về ngày trở lại của Giê-su của những tên
“lang băm” Ki Tô Giáo, những tên này đã khai thác sự yếu kém tâm linh của tín
đồ, tiên đoán về ngày trở lại của Giê-su, lừa bịp họ về viễn tượng của một cái
bánh vẽ trên trời, nhiều khi chỉ để vơ vét tiền bạc, tài sản, như một số tài
liệu trong một phần sau sẽ cho chúng ta thấy rõ.
Có thể có người nghĩ:
Những chuyện tiên tri, khải thị nhảm nhí trong sách Khải Huyền thì làm sao mà ai
có thể tin cho được. Không hẳn vậy. Từ xưa tới nay, có rất nhiều người tin vào
những chuyện trong sách Khải Huyền. Không kể những tín đồ Ki-tô thấp kém mà còn
có nhiều người thông thái trong Ki–tô giáo cũng tin và đã nhiều lần tính toán,
dựa vào Kinh Thánh, tiên tri về ngày tận thế của Ki-tô giáo. Từ xưa đến nay đã
có hàng trăm vụ tiên đoán về ngày tận thế bằng tính toán. Tính đi, tính lại,
tính tái, tính hồi, trật vẫn hoàn trật. Tại sao vậy? Vì tin vào những điều
hứa hão của Giê-su, hoặc những lời tiên tri nhảm nhí không thể tin được trong
sách Khải Huyền.
Niềm tin vào ngày tận
thế qua những tiên đoán láo của các nhà “tiên tri” ở những thời đại sau khi
Giê-su chết nhiều thế kỷ đã gây ra nhiều ảnh hưởng tác hại trong xã hội. Thật
vậy, nếu tin rằng chỉ còn có vài ngày, hay vài tuần lễ, vài tháng là đến ngày
tận thế, thì đâu cần còn phải tuân theo luật lệ quốc gia, đâu cần làm việc
v..v... Những chuyện này đã xảy ra trên nhiều nơi trên thế giới. Như trên đã
nói, trong 2000 năm nay, có cả trăm sự tiên đoán về ngày tận thế, nhưng tất cả
đều trật lất. Gần đây nhất là tiên tri ngày tận thế vào năm 2000, rồi bây giờ
sang đến 2012. Lại có những giáo sĩ Ki-tô, lợi dụng lòng mê tín của tín đồ,
loan báo ngày tận thế sắp tới và khuyến dụ tín đồ trao hết của cải cho nhà thờ
để được bảo đảm một chỗ trên thiên đường. Trong bài này tôi không thể kể ra hết
những vụ tiên đoán về ngày tận thế, tôi chỉ muốn kể vài chuyện giống nhau
về niềm tin vào ngày tận thế của Tin Lành ở Mỹ và Tin Lành ở Nam Hàn để chúng ta
thấy người Tin Lành ở đâu cũng mù quáng và mê tín như nhau, sau đó tôi sẽ
trình bày là tại sao Tin Lành có thể phát triển ở Nam Hàn trong khi hoàn toàn
thất bại ở Trung Quốc, Nhật Bản v…v…
Trước hết là trường hợp tiên
đoán về ngày tận thế của William Miller (1782-1849), Giáo Chủ Adventist (Hệ phái
Tin Lành tin rằng ngày trở lại lần thứ hai của Giê-su đã gần tới, có người dịch
là Cơ Đốc Phục Lâm). Miller đã tính toán rất kỹ, dựa theo Kinh Thánh, để đưa ra
ngày Giê-su trở lại. Tin rằng một ngày tiên tri (Ezek. 4:6) là một năm, ông ta
đã dựa vào các lời tiên tri trong sách Daniel 9:24-27 nói là sau 70 tuần lễ,
Giê-su sẽ trở lại trần để cứu dân Do Thái [chỉ dân Do Thái mà thôi], và
Daniel 8:14 nói về một thời kỳ là 2300 ngày thì trái đất sẽ thuộc về
Chúa. 70 tuần lễ, hay 490 ngày, biểu thị một thời kỳ 490 năm bắt đầu từ năm 457
Trước Tây Lịch, năm Vua Artaxerxes ký nghị định tái thiết Jerusalem. 490 năm
sau là năm 33/34, năm Giê-su bị đóng đinh trên thập giá. Vậy Giê-su “giáng
sinh” đúng vào cuối thời kỳ 70 tuần lễ. Sau đó Miller cộng con số 2300 năm vào
năm 457 Trước Tây Lịch, và tiên đoán là Giê-su sẽ trở lại trần lần thứ hai
(Second Coming) vào năm 1843 (1843+457 = 2300). Ngày 1 tháng 1, 1843,
William Miller tuyên bố xác định ngày Chúa tái lâm sẽ xảy ra trong khoảng từ 21
tháng 3 năm 1843 đến 21 tháng 3, 1844. Thông điệp của Miller là: “Giờ Chúa phán
xét đã tới – Hãy sẵn sàng để hội diện với Chúa.” Ngày 21 tháng 3, 1843 qua.
Chẳng có gì xảy ra nhưng những tín đồ Tin Lành theo Miller, khoảng vài trăm
ngàn, vẫn kiên nhẫn chờ đợi. Trong khi đó, họ đi khắp nơi để đe dọa những người
không tin vào ngày tận thế của Miller là sẽ lãnh những điều khủng khiếp như được
viết trong Kinh Thánh. Đến ngày 21 tháng 3, 1844, tờ New York Herald loan tin
có nhiều tín đồ Tin Lành theo Miller đã nhảy từ trên nóc nhà hoặc ngọn cây
xuống, hi vọng rằng khi đó là lúc Giê-su trở lại để đón họ lên thiên đường.
Giê-su không thấy đâu, chỉ thấy những người tin nhảm tin nhí này hoặc bị thương
nặng, hoặc chết. [Richard Abanes, End Time Visions, Four Walls Eight
Windows, New York, 1998, p. 224: Many Millerites had actually jumped from roofs
and treetops in hopes of timing their leaps with Christ’s return. But Jesus did
not return and those who jumped “were critically hurt, and some fell to their
death”].
Ngày hôm sau, một tờ báo ở
Boston đưa lên trang nhất hàng chữ lớn: “Sao vậy! – Chưa lên thiên đường hay
sao? – Chúng tôi nghĩ các người đã lên thiên đường rồi! Sắp lên rồi có phải
không? Vợ các người không lên thiên đường để bỏ lại các người bị thiêu đốt
trong hỏa ngục, có phải không?” [Richard Abanes, Ibid., p. 225: What! Not
gone up yet? – We thought you’d gone up! Aren’t you going up soon? – Wife
didn’t go up and leave you behind to burn, did she?]
Từ tiên đoán láo này đến
tiên đoán láo khác, hệ phái Adventist vẫn không nản chí. Samuel S. Snow, một
người theo Miller đã tuyên bố là tìm ra sự sai trong tính toán của Miller. Theo
sự tính toán của Snow thì Giê-su sẽ trở lại vào ngày 22 tháng 10, 1844 chứ không
phải là ngày 21 tháng 3, 1844.
Đến ngày Chúa trở lại, 22
tháng 10, 1844, sự hồ hởi náo nhiệt lan tràn trong đám người theo hệ phái Tin
Lành Adventist. Một người đeo đôi cánh của một con gà tây (turkey wings),
leo lên ngọn cây và cầu nguyện Chúa sẽ bốc mình lên trên trời. Anh ta nhảy
xuống và tin rằng mình sẽ bay lên trời cùng Chúa, nhưng rơi xuống đất và gẫy tay.
Nhiều địa chủ giầu có trở nên nghèo khổ vì đã bán hết gia sản đất đai để cúng
cho Miller xây một thánh đường tại Boston, không buồn nghĩ là ngày tận thế đã
tới, vậy xây thánh đường để làm gì.. Ở New Hampshire, nhiều nông dân từ chối
không gặt hái hoa mùa bắp và khoai và không cho phép ai được gặt hái.
Ngày 22 tháng
10, 1844 tới nhưng Chúa vẫn biệt tăm. Ngày 22 tháng 10, 1844 đã đi vào lịch sử
Hoa Kỳ như là Ngày Đại Thất Vọng, Tín đồ khóc sướt mướt suốt đêm (Abanes,
Ibid., p. 226: October 22, 1844 went down in history as the “Great
Disappointment” ...We wept, and wept, till the day down).
Trước ngày 21
tháng 3, 1843, Noah Webster [tác giả Tự Điển Webster] đã lên tiếng khuyến cáo
Miller như sau nhưng vô hiệu:
Sự rao giảng
[về ngày tận thế] của ông không ích lợi gì cho
xã hội mà chỉ làm cho người ta rất khó chịu và bực mình. Nếu ông hi vọng rằng
làm cho người ta sợ hãi để kéo người ta vào vòng tôn giáo thì ông đã lầm.
... Nếu sự rao giảng
[về ngày tận thế] của ông làm cho con người
thất vọng hay trở nên điên loạn, ông phải chịu trách nhiệm về những hậu quả.
Tôi khuyên ông hãy từ bỏ sự rao giảng [về ngày tận thế]; ông chẳng làm
điều gì hay ho, tốt đẹp, nhưng có thể ông đã gây ra phương hại lớn lao cho con
người. [2]
Những người bị
ảnh hưởng bởi hệ phái Adventist sau này vẫn tiếp tục tin vào ngày tận thế đã gần
kề, và lập ra các hệ phái Adventist khác như Second Adventist hay Seventh-day
Adventist (Ellen G. White), tiên đoán ngày Chúa trở lại :1873/1874, rồi
đến hệ phái Nhân Chứng Jehovah (Jehovah’s Witnesses = JW) “sáng lập” bởi Charles
Taze Russell (1856-1916). Hệ phái Tin Lành Jehovah Witness này đã gây ra nhiều
tác hại trong xã hội, trong đó có nạn nhân người Việt, vì những giáo lý và điều
cấm bắt buộc quái gở của họ như: Cấm tín đồ không được tôn trọng những ngày lễ
như Giáng Sinh, Tạ Ơn, Phục Sinh; không được tổ chức Ngày của Mẹ, Cha (Mother’s
day, Father’s day), không được đi bỏ phiếu trong kỳ bầu cử, không được chào quốc
kỳ, hát quốc ca, và nhất là không được truyền máu làm cho nhiều trẻ em và
người lớn theo đạo JW chết, trong đó có một phụ nữ Việt Nam đã chết vì cái
luật quái gở này. Hệ phái Tin Lành này đã tiên đoán ngày tận thế vào năm
1874, rồi sửa lại thành 1914, rồi 1925, 1940, 1941, 1975,
không có một tiên đoán nào trở thành sự thật. Trước những sự tiên đoán láo như
trên, vẫn có nhiều người tiếp tục tin vào cái đạo Tin Lành quái gở này. Nghe
nói hệ phái JW ngày nay đã lan sang Việt Nam, nếu thật vậy thì là một điều bất
hạnh cho những người dân ngu ngơ tin theo. Hi vọng Nhà Nước có biện pháp ngăn
chận. Đây không phải là vấn đề vi phạm tự do tín ngưỡng mà là vấn đề giữ cho xã
hội được lành mạnh.
Rồi gần đây,
những thảm họa gây ra bởi mục sư Jim Jones ở Jonestown, Guyana, 1978 (hơn 900
người vừa tự sát vừa bị cưỡng ép uống thuốc độc chết); hoặc bởi Con Chúa (Son of
God), lời David Koresh tự nhận ở Waco, Texas, 1993 (75 người, đàn ông, đàn bà,
trẻ con chết thiêu khi hệ phái Branch Davidian của David Koresh tử thủ trong một
trang trại); hoặc hệ phái Heaven’s Gate ở California, 1997 (39 người tự sát,
tin rằng Chúa sẽ phái một phi thuyền (spaceship) xuống bốc lên thiên đường)..
Tất cả đều chỉ vì tin vào sự cứu rỗi của Chúa ở trong Kinh Thánh, nói về ngày
tận thế và được lên thiên đường ở cùng Chúa trong khi chính Chúa cũng chẳng tự
cứu được bản thân, nói chi đến chuyện cứu người khác. Tâm cảnh của tín đồ mê
tín cùng cực như vậy thế mà Ki-tô giáo vẫn tự nhận là tôn giáo văn minh, tiến bộ
nhất thế giới.
Khi Tin Lành
lan sang Á Châu, đặc biệt là ở Nam Hàn, quan niệm về ngày tận thế của Ki-tô-giáo
đã gây ra những tác hại trong xã hội như thế nào? Theo gót các nhà tiên tri dỏm
ở Âu Mỹ, Tin Lành Nam Hàn cũng đưa ra những lời tiên tri láo về ngày tận thế,
tức ngày Giê-su trở lại trần lần thứ hai. Sau đây là một vụ ngay trên nước Mỹ
mà báo chí Mỹ đã loan tin rộng rãi.
Tối ngày 28
tháng 10, 1992, tín đồ Tin Lành Nam Hàn tụ tập trong nhà thờ Maranatha Mission ở
trung tâm Los Angeles. Họ chờ đợi Chúa trở lại vào lúc 12 giờ đêm và bốc họ lên
thiên đường. Ngoài cửa có người gác, không cho những người không phải là thành
viên của nhà thờ vào trong nhà thờ. Họ giữ độc quyền được Chúa bốc lên thiên
đường (Rapture). Nhưng Chúa không hề trở lại. 12 giờ đêm đã qua. Một số
thân nhân của các thành viên đến nhà thờ, chờ đợi ở ngoài, hi vọng có thể an ủi
những người thân của mình đang ở trong tình trạng tuyệt vọng vì Chúa đã không
trở lại. Tại sao lại có hiện tượng cuồng tín như vậy? Vì những quảng cáo khắp
nơi về ngày Chúa trở lại, mà nguyên một trang quảng cáo trên tờ USA Today
ngày 20 tháng 10, 1991, như sau:
Chúa Bốc Lên Trời
28 Tháng 10, 1992
Giê-su Sẽ Trở Lại Từ Trên Không
Rapture
October 28, 1992
Jesus Is Coming In The Air
Đây chỉ là một trong rất nhiều quảng cáo về ngày
tận thế của phong trào Tin Lành Nam Hàn Hyoo-go (tiếng Hàn có nghĩa là Rapture),
có cả trăm ngàn tín đồ ở trong nước cũng như ở ngoại quốc. Một nhóm Hyoo-go
tiên đoán là bắt đầu từ ngày 28 tháng 10, 1992, sẽ có 50 triệu người chết vì
động đất, 50 triệu chết vì nhà cửa sụp đổ, 1 tỷ 4 người chết vì Đệ Tam Thế
Chiến, và 1 tỷ 4 người chết vì những cuộc chiến giữa Chúa Giê-su và Satan (Armageddon).
Những tiên đoán
như trên được đề xướng bởi mục sư Tin Lành Nam Hàn Lee Jang Rim trong cuốn sách
thuộc loại bán chạy nhất (bestseller): Đã Đến Gần Ngày Tận Thế (Getting
Close to the End) trong đó ông ta hứa hẹn ngày 28 tháng 10, 1992 là ngày Tất Cả
(All) tín đồ Ki-tô đều được bốc lên trời. [Hiển nhiên là ông mục sư Tin Lành này
không hề đọc Tân Ước, vì trong đó Giê-su đã khẳng định là chỉ cứu người Do
Thái mà thôi].
Ngoài ra, những
“mạc khải” của Gót (God) cho một đứa bé 12 tuổi tên là Bang-Ik Ha cũng được dùng
để khẳng định ngày tận thế vào tháng 10, 1992. Theo điều tin nhảm nhí này thì
Gót đã mạc khải những lời sau đây cho Bang-Ik Ha vào tháng 7, 1987: “Cũng như
Ta đã sửa soạn để cho John The Baptist xuất hiện trước khi Giê-su giáng sinh
xuống trần, ngày nay ta sửa soạn cho Bang-Ik Ha (12 tuổi)”. Một cuốn sách
mỏng của Tin Lành Taberah World Mission loan báo là Giê-su đã đích thân nói với
đứa trẻ: “Ta sẽ trở lại trong tháng 10, 1992. Hãy sửa soạn! (Để nghênh
đón Ta) [I will be there in October, 1992. Prepare!] Theo hệ phái Tin Lành
Hyoo-go thì chỉ những người nào theo hệ phái này mới được bốc lên trời, còn
những người khác sẽ phải chịu sự khủng bố khủng khiếp của Satan trong 7 năm (7
years of tribulation). Người nào không được bốc lên trời phải chịu làm “thánh
tử đạo” thì sau đó mới được lên thiên đường. Nếu không sẽ bị đầy đọa xuống hỏa
ngục vĩnh viễn. (eternal damnation).
Tại nhà thờ
Maranatha Mission ở Los Angeles, các thành viên của Hyoo-go chứng tỏ là họ đáng
được bốc lên trời bằng cách lớn tiếng cầu nguyện mỗi đêm trước đêm tận thế. Họ
cầu nguyện đến khô cả cổ, khạc ra máu và cho đó là để tẩy uế tội lỗi và là dấu
hiệu để được “cứu rỗi” (a way of purging oneself of sin and a sign of
salvation). Cho nên, người nào càng khạc ra máu nhiều bao nhiêu thì càng có
nhiều may mắn để được bốc lên thiên đường.
Trong khi đó, ở
Nam Hàn đã xảy ra những sự hỗn loạn trong xã hội. Ở thị trấn Wonju, một nhóm
Hyoo-go cuồng tín đốt đồ đạc ngoài đường phố và chờ để được Chúa bốc lên trời. Ở
Hán Thành (Seoul), 5000 người theo Hyoo-go bỏ việc. Nhiều người bán nhà, từ bỏ
gia đình. Rất nhiều giới trẻ bỏ học, từ Đại học xuống tới Tiểu học. Nhiều phụ
nữ mang thai đi phá thai để cho thân thể được nhẹ nhàng để Chúa dễ bốc lên thiên
đường (Several pregnant women reportedly had abortions “so they would not be too
heavy to be lifted to Heaven”), và ít nhất là có 4 người tự sát trước ngày 28
tháng 10.
Đến ngày tiên
đoán tận thế, hàng ngàn tín đồ Hyoo-go tụ họp trong các nhà thờ Tin Lành Nam Hàn
trên thế giới để chờ sự vinh quang được Chúa bốc lên thiên đường. Chính quyền
Nam Hàn phải sử dụng 1500 cảnh sát, các xe cứu hỏa và xe cứu thương túc trực
xung quanh các nhà thờ lớn của Hyoo-go ở Hán Thành để ngăn chận tái diễn cảnh ở
Jonestown.
15 phút sau giờ
tận thế, Mục sư Chang Man-Ho lên bục giảng và nói: ”Chẳng có gì xảy ra. Thật
đáng tiếc. Chúng ta hãy về nhà”. Tín đồ không những nồi giận mà còn vô
cùng đau khổ. Nhiều người khóc nức nở (Many began weeping uncontrollably). Một
số hành hung các mục sư đã nói láo với họ. Một thành viên than: “Chúa đã nói
láo với chúng tôi” (God lied to us).
Đối với mục sư
Tin Lành 46 tuổi Lee Jang Rim, người đã khởi xướng chuyện Chúa trở lại, gây ra
nhiều tai hại trong xã hội, thì ông ta bị tòa án Nam Hàn phạt 2 năm tù vì
tội lừa dối tín đồ để vơ vét 4 triệu 4 đô-la và tàng trữ đô-la bất hợp pháp.
Người ta còn khám phá ra rằng Lee Jang Rim đã đầu tư một phần lớn số tiền lừa
được của tín đồ để mua công khố phiếu mà thời hạn được lãnh ra toàn phần (bond
mature) là vào tháng 5, 1993, nghĩa là hơn 6 tháng sau ngày tận thế.
Những tín đồ Ki Tô Giáo không nên trách những linh mục xảo quyệt, mục sư vô
lương tâm, vì họ sống bằng nghề nghiệp lừa dối như vậy, mà hãy tự trách là tại
sao mình lại ngu đến thế để bị lừa bịp bởi những bọn buôn thần bán thánh.
Vài trường hợp
mê mẩn về ngày tận thế của Tin Lành ở trên cho chúng ta thấy ảnh hưởng của đạo
Tin Lành trên xã hội là như thế nào. Ai bảo Tin Lành không mê tín, xin mời
lên tiếng. Nếu không phải là mù quáng và cuồng tín thì là cái gì.
Tôi rất mong là Nhà Nước Việt Nam hãy có những biện pháp ngăn chận một tế bào
ung thư Tin Lành đang toan tính xâm nhập phá hại xã hội Việt Nam, nếu không Nhà
Nước sẽ mang tội với dân tộc. Đừng có sợ thế lực hữu danh vô thực của Tin Lành
trên thế giới. Ki Tô Giáo đang suy thoái khắp nơi, các cường quốc Âu Mỹ sẽ chỉ
lên tiếng phản đối lấy lệ chứ không bao giờ can thiệp bằng quân sự vào những
chuyện truyền đạo của những nhóm người Ki Tô cuồng tín. Trung Quốc, Saudi
Arabia và các nước Hồi Giáo, Israel v..v.. đều cấm sự truyền đạo công khai của
Ki Tô Giáo, tại sao Việt Nam không thể có những biện pháp để bảo vệ nền văn hóa
cổ truyền của Việt Nam?
Sự Cuồng
Tín Của Những Nhà Truyền Giáo Tin Lành Nam Hàn:
Hầu hết các hệ
phái Tin Lành ở Nam Hàn dập theo khuôn của hệ phái truyền bá phúc âm của Tin
Lành Mỹ [American evangelism]. Tin Lành coi nhiệm vụ truyền bá phúc âm là
chính, là yếu tố quyết định để Chúa cho họ lên thiên đường, không hề biết rằng
trong Kinh Thánh chẳng làm gì có phúc âm, như một số học giả đã nhận định. Cái
mà Tin Lành tin là phúc âm hay tin mừng là hai câu nhảm nhí trong Tân Ước ở
trên: John 3:16, 18. Giáo sư David Voas đã coi Tin Mừng trong Tân Ước chỉ là
Tin Xấu (Xin đọc “The Bad News Bible, The New Testament” Prometheus
Books, New York, 1995). Sự cuồng tín đi kèm với sự ngu xuẩn của Tin Lành Nam Hàn
có thể thấy qua sự kiện sau đây:
http://www.youtube.com/watch?v=2GTq_E8CFGc
Ngày 19 tháng 7, 2007, 23
người Nam Hàn, trong đó có 18 phụ nữ, đi truyền giáo ở Afghanistan bị Taliban
bắt cóc ở Kabul. Những người này là thành viên của một nhà thờ Tin Lành ở Nam
Hàn, Sam-Mool, được phái đi truyền giáo ở một nơi nguy hiểm ('missionary work'
in a hazardous area). Tin Lành ở Nam Hàn đã trở thành nghiện ngập vì chính
những tín lý của mình, coi nhiệm vụ “truyền giáo” là ưu tiên số một mà không
biết đến bối cảnh quốc tế [South Korean Protestantism has become addicted to its
own dogma, which singles out 'missionary work' for its top priority whilst
ignoring the international context]. Không lạ gì, sự thiếu hiểu biết về quốc
gia họ đến truyền đạo đã đưa đến một vụ rắc rối không kiểm soát được. Điều này
làm cho quần chúng vỡ mộng không còn tin vào đạo Tin Lành mà những tín đồ được
cho là có đạo đức và luân lý vì họ không chỉ nói láo mà còn tự bào chữa, suy lý
như là “đi tiêu chẩy qua lời nói” [not only did they lie through their teeth,
but they also performed 'verbal diarrhoea' as excuses and self-rationalisation]
Trong mấy ngày đầu, 2 người bị hành quyết, Mục sư Bae Hyung-kyu, 42 tuổi, với 10
lỗ đạn trên đầu, ngực và bụng [with 10 bullet holes in his head, chest and
stomach], và thành viên tên Shim Sung-min. Sau đó 2 phụ nữ bị bệnh được thả vào
tháng 8, và sau cùng, ngày 2 tháng 9, 2007, 19 thành viên còn lại cũng được thả
qua những cuộc điều đình giữa chính quyền Nam Hàn, chính quyền Afghan và
Taliban. Đại diện của Taliban nói là Nam Hàn đã trả 20 triệu đô-la để chuộc
những người bị bắt cóc. Chính quyền Afghan nói là dưới 1 triệu.
Cải đạo hay toan tính cải đạo
người Hồi Giáo bị coi như là một xúc phạm nghiêm trọng trong nước Cộng Hòa Hồi
Giáo Afghanistan. [Conversion from Islam or seeking to convert Muslims is
regarded as a serious offense in the Islamic Republic of Afghanistan]. Hi vọng
Việt Nam cũng
nên có những biện pháp ngăn chận
những thủ đoạn cải đạo bất xứng của Ki Tô Giáo ở Việt Nam.
The Korean
missionaries were kidnapped in Afghanistan
[Những nhà truyền
giáo Tin Lành Nam Hàn bị bắt cóc ở Afghanistan]
Nhìn những bộ mặt non choẹt của những nhà “truyền bá phúc âm” (sic) Nam Hàn,
không hiểu sự hiểu biết của họ về các tôn giáo và các nền văn hóa trên thế giới
và về chính tôn giáo của họ là bao nhiêu, nếu không muốn nói là mù lòa tin bướng
tin càn một cách hết sức cuồng tín vào những điều mê hoặc hoang đường đã không
còn giá trị trong giới hiểu biết. Không biết họ đã gửi sang Việt Nam những nhà
“truyền giáo” thuộc loại nào và thuộc lớp tuổi nào, với bao nhiêu kiến thức về
chính đạo Tin Lành của họ và nền văn hóa cùng các tôn giáo khác ở Việt Nam. Rất
có thể họ chỉ nhắc lại như những con vẹt những điều họ được nhồi vào óc, hoặc
chỉ đặt nặng vào một câu nhảm nhí trong Tân ước, John 3:16, ở trên:
“Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban Con duy nhất của Ngài [nghĩa
là Giê-su], để những ai tin vào Người sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống
đời đời.”. Có vẻ như những người này chỉ là hậu duệ của các lớp Tin Lành
trước, cho nên đã bị mê hoặc nhồi sọ từ nhỏ, chứ Tin Lành không hấp dẫn mấy
đối với giới trẻ ngày nay. Tỷ lệ Tin Lành ở Nam Hàn ngày nay, 18.1%, là do
truyền thống gia đình của những thế hệ Tin Lành từ đầu thế kỷ 20 và do dân số
gia tăng, chứ không phải là sự thành công của Tin Lành ở Nam Hàn trong những
thập niên gần đây. Nhiều tài liệu nghiên cứu cho thấy rõ như vậy.
Vài Nét Về Sự Truyền
Đạo Tin Lành Vào Cao Ly,
Trung Quốc và Nhật Bản:
Đọc
lịch sử Tin Lành truyền vào Hàn quốc, chúng ta thấy Hàn quốc có những yếu tố
chính trị và xã hội thuận lợi cho Tin Lành. Hầu hết các hệ phái Tin Lành ở Nam
Hàn, lớn hay nhỏ, đều là những hệ phái “truyền bá phúc âm” (evangelical) tuy
rằng trong Tân Ước không hề có “phúc âm” theo như nhận định của một số học giả,
giáo sư đại học, và nhà lãnh đạo Ki Tô Giáo. Phúc Âm của Tin Lành chính là câu
nhảm nhí trong Tân ước: John 3:16. Tin Lành Nam Hàn thừa hưởng nhiệm vụ truyền
bá phúc âm từ Tin Lành Mỹ. Giống như Tin lành Mỹ, Tin Lành Nam Hàn rất bảo thủ
về thần học [one notable characteristic of Korean Protestantism is its
theological conservatism] tuy rằng nền thần học Ki Tô Giáo chỉ là “thần học đoán
mò” cho nên ngày nay, trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, đã không còn chỗ
đứng trong thế giới trước những bằng chứng khoa học bất khả phủ bác về nguồn gốc
vũ trụ, thuyết Big Bang, và nguồn gốc con người, thuyết Tiến Hóa, mà Giáo Hoàng
John Paul II của Công Giáo cũng như một số chức sắc Tin Lành Mỹ đã phải công
nhận, và sự phủ nhận sự hiện hữu của thiên đường và hỏa ngục của Giáo hoàng John
Paul II. Sở dĩ Tin Lành có chút thành công ở Nam Hàn là vì vào đầu thế kỷ 20
các nhà truyền giáo Mỹ đã hăng hái cấy vào miền đất màu mỡ của Hàn quốc ý niệm
làm sống lại sự truyền bá phúc âm của Tin Lành Mỹ [American missionaries
endeavored to transplant the evangelical-revivalistic version of American in
fertile Korean soil at the dawn of the twentieth century]. Ảnh hưởng nặng nề
của Tin Lành bảo thủ Mỹ trên Tin Lành Nam Hàn, chúng ta có thể đọc trên “link”
sau đây với rất nhiều chi tiết:
http://www.highbeam.com/doc/1G1-180278684.html.
Lịch sử Triều Tiên cho thấy văn hóa tín ngưỡng cổ truyền của Triều Tiên gần
giống như tín ngưỡng Ki Tô Giáo cho nên rất dễ bị Tin Lành thuyết phục. Trước
sự đe dọa của Nhật Bản, Mỹ đã thuyết phục Triều Tiên ký Hiệp Ước 1882 với Mỹ,
thừa nhận những quyền căn bản của người Mỹ trên đất Triều Tiên. Do đó cuối thế
kỷ 19 sang đến đầu thế kỷ 20, Tin Lành Mỹ đã đổ xô vào Triều Tiên để truyền đạo.
Trong giai đoạn đó, nền thần học của các nhà thờ Tin Lành Triều Tiên trên thực
tế là thần học của các nhà truyền giáo Mỹ, vì những người Mỹ này là những mục
sư, người tổ chức, giảng dạy trong các nhà thờ. [The theology of Korean
Protestant churches during this period was practically equivalent to that of the
American missionaries, because they were the organizers, pastors, and teachers
of churches.] Có hai yếu tố chính để cho Tin Lành Mỹ
thành công cấy vào Triều Tiên nền thần học của Ki Tô Giáo với nhiệm vụ truyền bá
phúc âm của Tin Lành.
Thứ
nhất là một số tín ngưỡng truyền thống của Triều Tiên cũng tương tự như Ki Tô
Giáo. Người Triều Tiên cũng quan niệm rằng có một vị “Thần Sáng Tạo” (a
Creator-God) mà họ gọi là Hwan-in hay
Hanal-nim. Theo một huyền thoại cổ xưa thì có một
con trai gọi là Hwanung, Hwanung có một người con trai (human son) là
Dangun vào năm 2333 trước thời đại thông thường ngày nay (BCE = Before Common
Era). Theo truyền thuyết thì Dangun đã lập nên quốc gia Triều Tiên đầu tiên và
dạy dân chúng những điều văn minh trong 1000 năm trị vì. Có thuyết nói rằng
Dangun sinh ra từ một Nữ Trinh. Các nhà thần học Ki Tô Giáo bèn gài quan niệm
Chúa Ba Ngôi vào trong những đặc tính thần thánh theo những truyền thuyết về
Dangun. Vì những điểm tương tự trên mà Triều Tiên dễ chấp nhận những giáo điều
của Ki Tô Giáo, thí dụ như con thiên chúa, Giê-su, xuống làm người.
Thứ nhì, điều làm cho Triều
Tiên chấp nhận Ki Tô Giáo là có nhiều tín đồ Tin Lành Triều Tiên đứng vào lập
trường tinh thần quốc gia của người dân Triều Tiên trong thời Triều Tiên bị Nhật
chiếm đóng (1910-1945). Điều này khác hẳn với những tín đồ Công giáo Việt Nam,
làm tay sai cho thực dân Pháp trong cuộc xâm lăng Việt Nam, và đứng vào phe, hay
nói cho đúng hơn, lệ thuộc thực dân Pháp trong thời kỳ Pháp chiếm đóng Việt
Nam. Rồi chiến tranh Triều Tiên [1950-53] xẩy ra, ảnh hưởng của Mỹ gia tăng ở
Nam Hàn vì đã tham gia chống Bắc Hàn. Hiến Pháp của Nam Hàn trên lý thuyết là
bảo đảm tự do tôn giáo [freedom of religion], tách rời tôn giáo và nhà nước
[separation of church and state], coi tôn giáo như là để bảo vệ lý tưởng “chống
Cộng”. Nhưng trên thực tế thì khi Tin Lành có người lên nắm quyền như Lý Thừa
Vãn [a Methodist]
trước đây và tổng thống hiện thời thì Tin Lành đã có những hành động kỳ thị tôn
giáo rất càn rỡ đối với Phật Giáo.. Theo thông tin trên:
http://dictionary.sensagent.com/Religion_in_South_Korea/en-en/ thì:
“Một số những nhà truyền
giáo Ki Tô đã biểu lộ sự thù nghịch đối với Phật Giáo. Trong hai thập niên qua
đã có nhiều chục vụ cố ý gây hỏa hoạn và phá hoại những cơ sở và đền thờ của
Phật Giáo, nhiều vụ rất nghiêm trọng. (Nhiều Chùa lớn bị phá hủy). Trong một số
những vụ này những kẻ phá hoại tự nhận là những tín đồ Ki-tô, hoặc để lại những
lời lẽ tố cáo “thờ hình tượng”” [3]
Chúng ta thấy rõ sự
ngu xuẩn và cuồng tín của Tin Lành. Những hành động vô đạo đức tôn giáo, vô
giáo dục như trên chứng tỏ cái gì? Nó chỉ chứng tỏ Tin Lành không có đạo đức
tôn giáo, thiếu giáo dục, và tín đồ chỉ là những kẻ ngu muội. Tại sao họ lại
thù nghịch Phật Giáo? Phật Giáo đâu có làm gì đụng chạm tới họ. Chẳng qua là vì
họ tự ti mặc cảm trước ánh sáng trí tuệ của Phật Giáo, và vì tâm địa nhỏ nhen
ghen tị nên đã có những hành động vô đạo đức tôn giáo. Những hành động như
trên đã chứng tỏ mặc cảm và sự thiếu tự tin của Tin Lành. Thực chất của Tin
Lành là tà đạo, là đạo của kẻ cướp, là đạo bịp, không thể mang giáo lý, đạo đức
ra so sánh với Phật Giáo, cho nên chỉ có thể truyền đạo bằng cách dùng những
phương pháp của bọn cường đạo, ỷ thế làm càn, phá hoại những cơ sở của những
người ngoại đạo hiền lành,nổi tiếng về đức khoan dung, khi có thể. Giá trị
tâm linh của Tin Lành là như vậy, nó thuộc loại mù quáng tin bướng tin càn của
những kẻ hạ căn, vô đạo đức. Họ phá Chùa để vinh danh Chúa, nhưng thực ra chỉ
mang lại sự ô nhục cho Chúa. Chúa của họ, nếu có, phải lấy làm xấu hổ vì
những hành động vô cương vô pháp, thấp hèn, cuồng tín của những người tin Chúa.
Nhưng hiển nhiên là những tín đồ Ki Tô Giáo thường không nhận ra điều này. Cho
nên họ vẫn có những hành động vô trí, rất hạ cấp, để kiếm thêm linh hồn cho
Chúa, vinh danh Chúa của họ trên một thiên đường (mù).
Trái hẳn với sự thuận
lợi truyền đạo ở Nam Hàn, Ki Tô Giáo nói chung hoàn toàn thất bại trong mưu toan
truyền đạo ở Trung Quốc và Nhật Bản. Phần lớn các nước Á Châu đã thấy rõ nền
văn hóa độc hại của Ki Tô Giáo và bản chất “tà đạo”, “đạo chích”, và “đạo bịp”
của Ki Tô Giáo trên thế giới. Trung Quốc đã có những kinh nghiệm lịch sử về sự
liên kết của Ki Tô Giáo với những thế lực thực dân đế quốc Tây phương trước đây,
nhất là về âm mưu đầu độc người dân Trung Quốc bằng thuốc phiện của người Anh,
phần lớn theo Tin Lành và Anh Giáo, qua cuộc chiến tranh nha phiến (1839-42).
Tinh thần quốc gia của người dân Trung Quốc đã biểu lộ qua cuộc nổi giậy của
giới võ sĩ (boxers) vào năm 1900, rồi đến các phong trào chống Ki-tô Giáo của
sinh viên vào thập niên 1920. Theo một tài liệu trong cuốn Tôn Giáo, Tinh
Thần Quốc Gia Và Sinh Viên Trung Quốc: Phong trào chống Ki-tô Giáo 1922-1927
(Religion, Nationalism and Chinese Students: The Anti-Christian Movement of
1922-1927) tác giả Kap-che Yip viết: “Đúng vậy, cho tới năm 1924 những người
trí thức coi Ki Tô Giáo không chỉ là không khoa học và lỗi thời mà còn là sự cản
trở lớn cho nền độc lập quốc gia của Trung Quốc. Nhiều người cho rằng Ki Tô
Giáo chỉ là quân tiên phong của chủ nghĩa đế quốc Tây phương” [Indeed, by
1924 they [the intellectuals] viewed Christianity as not only unscientific and
outdated, but also as a major obstacle to China's attainment of national
independence. Many alleged that it was the vanguard of Western imperialism.]
Chúng ta biết rằng những trí thức Việt Nam, thí dụ như giới Văn Thân, cũng coi
Công Giáo như vậy, và lịch sử đã chứng minh rằng những nhận định trên không
sai. Và sau cùng là Trung Quốc trục xuất các thừa sai Ki-tô vào năm 1950 sau
khi Mao Trạch Đông đuổi Tưởng Giới Thạch ra Đài Loan vào năm 1949. Việt Nam
cũng vậy, sau cái gọi là cuộc chiến tranh Đông Dương thứ nhất, đã tống khứ khâm
sứ và thừa sai Công Giáo ra khỏi miền Bắc. Vậy mà ngày nay, Tổng Giám Mục nhục
nhã Ngô Quang Kiệt còn huy động giáo dân cầu nguyện với búa, kìm, và xà beng để
đòi lại mảnh đất ô nhục mà Công giáo cùng với thực dân Pháp đã cướp của Chùa Báo
Thiên trước đây. Thật không biết xấu hổ.
Nhật bản đã thấy rõ hiểm
họa của Ki Tô Giáo cho nên trong lịch sử Nhật Bản đã có những biện pháp vô cùng
khắc nghiệt, có thể nói là rất tàn bạo, đối với Công Giáo, đến độ trong mấy trăm
năm không còn bóng dáng của Công Giáo trên đất Nhật. Nhật Bản không quên mối
nhục bị ép buộc phải mở cửa cho Mỹ trước sự uy hiếp của tàu chiến của Đô Đốc Mỹ
Matthew C. Perry. Nhật Bản đã trục xuất hoặc cầm tù các thừa sai Ki Tô Giáo
trước khi tham chiến vào Đệ Nhị Thế Chiến. Và tất nhiên Nhật Bản không quên hai
quả bom nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki. Cho nên chúng ta đã hiểu tại sao
trong khi Ki Tô Giáo nói chung, Tin Lành nói riêng, tương đối thành công ở Nam
Hàn thì cho tới ngày nay tỷ lệ tín đồ Ki Tô Giáo ở Trung Quốc và Nhật Bản không
đáng kể. Hơn nữa, ngày nay, với những phương tiện thông tin điện tử, Ki Tô
Giáo khó có thể lừa dối được con người bằng những luận điệu thần học hoang đường
đã lỗi thời mà thế giới Âu Mỹ đã đang dần dần phế thải.
Cùng Với Tin Lành Trên Thế Giới,
Tin Lành Nam Hàn
Đang Suy Thoái:
Tin Lành thường quảng cáo
cho sự thành công (rất tương đối) ở Nam Hàn. Nhưng như là một quy luật thế gian,
những lý luận thần học đã lỗi thời không thể cứ tồn tại mãi mãi để lừa dối huyễn
hoặc đầu óc con người, nên theo chiều hướng suy thoái chung của Ki Tô Giáo trên
thế giới, Tin Lành Nam Hàn cũng đang suy thoái, và vì Tin Lành Nam Hàn hầu
như lệ thuộc vào Tin Lành Mỹ, nên gần đây chúng ta thấy người dân Nam Hàn đã
biểu tình chống Tin Lành, chống Mỹ, và Phật Giáo Nam Hàn cũng đã có phản ứng.
Chúng ta có thể xem,
http://www.youtube.com/watch?v=2GTq_E8CFGc : “Nam Hàn Biểu Tình Chống Tin
Lành” (Korean Anti-Protestantism demonstration) với những ý kiến như:
“Chúng ta cần phải dẹp đi cái bọn mục sư
bướng bỉnh không trả thuế. Đặc biệt là những tên mục sư từ Busan tới các nhà
thờ Mỹ-Hàn. Chúng ta không cần các mục sư Nam Hàn để cai quản các nhà thờ
Mỹ-Hàn” [4]
“Hãy để những tín đồ Ki Tô, những nô lệ tâm
linh của dân da trắng, ở ngoài nước tôi, những đồ chó đẻ! Chúng tôi không cùng
chung giấc mộng của những người Á Châu đi làm những nàng hầu của dân da trắng”
[5]
“Thật là một sự xâm lăng
của Ki Tô Giáo vào Nam Hàn.. Tại sao người Nam Hàn lại cho phép như vậy?”
[What a Christian invasion in Korea...why you permit this, Koreans?]
“Chúng ta có biết rằng, một giáo sư đại học
Nam Hàn tuyên bố: Giê-su Ki-tô là người Hàn” Tôi thật bị “sốc” khi nghe như vậy.”
[Don't you know according to South Korean's university professor's
announcement...: Jesus-Christ is Korean. I was shocked when I hear that.]
Những điều chúng ta thường
đọc về sự phát triển và tỷ lệ Tin Lành ở Nam Hàn. Đó chỉ là những lời tuyên
truyền sai sự thật. Bộ mặt Tin Lành ở Nam Hàn không sáng sủa như chúng ta
tưởng. Chúng ta hãy đọc vài đoạn trong bài “Một Suy Nghĩ Thần Học” [A
theological Reflection] của Giáo sư Tiến sĩ Young-Gi Hong, viện trưởng viện
phát triển các nhà thờ Tin Lành ở Nam Hàn [Director of Institute of Church
Growth in Korea], trên
http://onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1111/j.1758-6631.2000.tb00193.x/full,
ngày 25 tháng 3, 2009:
Mặc dù sự tăng trưởng nhanh chóng của nhà thờ Tin Lành ở Nam Hàn, nhiều người đi
lễ nhà thờ chỉ là trên danh nghĩa. Cái gì đã sai lầm ở đây, và làm sao tình
trạng này có thể quay trở lại để cho đấng Ki Tô là trọng điểm trong đời sống
của những người này và hồi phục nhiệm vụ truyền giáo của nhà thờ.
[Điều này có nghĩa là theo truyền thống gia đình,
tín đồ Tin Lành chỉ có trên danh nghĩa, không còn thấy hấp dẫn với Chúa Ki-tô
hay nhiệm vụ truyền bá phúc âm]
Từ đầu thập niên 1990, hầu hết các hệ phái Tin Lành chính ở Nam Hàn (Tin Lành có
160 hệ phái Tin Lành khác nhau ở Nam Hàn) đều đã nếm mùi một sự đình trệ
[stagnation] hay giảm nhanh [fall-off] số người theo hay đi lễ nhà thờ.
Trong thập niên 1980 số tăng tín đồ trung bình vào khoảng 4.4%. Thống kê của
chính phủ cho thấy số gia tăng này là 3.9% năm 1991, 0.6% năm 1992 và giảm 4%
[-4%] năm 1993. Một số hệ phái bắt đầu thấy số tín đồ giảm đi. Một nhà
thờ hệ phái Trưởng Lão chính ở Nam Hàn đã phúc trình là số tín đồ giảm 1.8% năm
1998.
Có nhiều suy đoán về những nguyên nhân làm cho sự đình trệ này. Những nhà lãnh
đạo Tin Lành không hiểu là tương lai sẽ ra sao. Sự đình trệ lúc này có thể là
những dấu hiệu báo trước về những vấn đề trong giáo hội. Một vài yếu tố có thể
là nguyên nhân của sự đình trệ này.
Những yếu tố phong cảnh [kỹ thuật
truyền đạo và tình trạng xã hội] đã giúp cho sự gia tăng nhanh chóng Tin Lành
ở Nam Hàn trước đây nay có vẻ như không còn hữu hiệu nữa. Những phong cảnh mới
gồm có chủ thuyết đa tôn giáo, đặc tính lưu động của xã hội và phú cường kinh
tế của người Ki Tô, sự ổn định chính trị và xã hội, sự thành công của Phật Giáo,
và sự gia tăng những hoạt động giải trí có thể đã ảnh hưởng đến sự gia tăng của
Tin Lành ở Nam Hàn. Các chủ nghĩa vật chất và thế tục có vẻ như là các động lực
mạnh mẽ trong giáo hội Nam Hàn, thu hút phần lớn tín đồ từ giới trung lưu. Do
đó, tuy các tín đồ Ki-tô có một vị thế quan trọng trong xã hội Nam Hàn, điều
này không bảo đảm là họ sẽ không bị khuất phục bởi mối nguy hiểm tinh tế là trở
thành không còn thích hợp với xã hội Nam Hàn và với phúc âm của Ki Tô Giáo.
Có
nhiều sự việc trong thập niên 1990 làm xấu đi hình ảnh trong xã hội của Tin Lành
Nam Hàn. Cuộc thăm dò ý kiến của tổ chức Gallup đã đưa ra những lý do tại sao
quần chúng lại bỏ đạo Tin Lành. 32% quyết định bỏ đạo là vì không còn tín
nhiệm giáo hội. Những người trả lời cuộc thăm dò ý kiến nói rằng sự bất tín
nhiệm này bắt nguồn từ nhận thức của họ về hạnh kiểm xấu xa của các bậc lãnh đạo
Tin Lành, về vai trò lơi là trước những trách nhiệm xã hội trong giáo hội, và về
tác phong xấu xa của các thành viên tín đồ. Hơn nữa, đạo Tin Lành là sự lựa
chọn ít thu hút nhất đối với thế hệ giới trẻ phi-Ki-tô.
Cũng theo cuộc thăm dò ý kiến của Gallup trên thì một số đáng kể những tín đồ
Tin Lành đang rút ra khỏi giáo hội Tin Lành. Trong số 46.1% bỏ giáo hội Tin
Lành, thì 9% theo Phật Giáo và 35.1 % không còn theo tôn giáo nào. Sự
kiện là một phần ba tín đồ không còn liên hệ với tôn giáo nào chứng tỏ là
giáo hội Tin Lành không thành công trong việc kết nạp tín đồ vào trong đức tin
Ki Tô giáo và vào trong cộng đồng Tin Lành của họ.
[6]
Vài Lời
Kết:
Trong khi viết bài này thì
tôi đọc được bài “Ngày Tàn Của Những Kẻ Truyền Đạo Cuồng Tín” của Minh
Kiến trên:
http://giaodiemonline.com/2011/03/ngaytan01.htm. Bài này có thể coi như là
bổ túc cho bài viết của tôi.
Đọc bài Allen Carr điểm sách
của Paul Hattaway, chúng ta thấy Hattaway đặt câu hỏi:
“Có làm Chúa thất vọng không khi ngày nay có hàng
trăm triệu Phật tử đang đi vào địa ngục mà không được Phúc âm chứng nhận? Có làm
Đấng Cứu Thế thất vọng không khi hàng triệu người đang thờ cúng các thần tượng
chết cứng thay vì Đức Chúa Cha vẻ vang trên trời?” tôi không nghĩ rằng cuốn
sách nghiên cứu của Hattaway về kế hoạch cho ngày tàn của Phật Giáo có một giá
trị thực dụng, cụ thể nào. Câu hỏi của Hattaway phản ánh một sự hiểu biết và
ngu đạo rất cuồng tín của một tín đồ đạo Chúa trong thời Trung Cổ ở Âu Châu.
Đấng cứu thế của Hattaway đã chết gần 20 thế kỷ rồi, còn đâu để mà thất vọng hay
không thất vọng. Khi mà chính Giáo hoàng John Paul II đã bác bỏ sự hiện hữu của
thiên đường và địa ngục, Giám mục Tin Lành John Shelby Spong đã đòi phải dẹp bỏ
hình ảnh Giê-su như là đấng cứu thế, Linh mục James Kavanaugh đã coi sự cứu rỗi
của Giê-su chỉ là một huyền thoại của người Do Thái trong thời bán khai, vậy mà
Hattaway còn có thể mê sảng đặt một câu hỏi hết sức ngớ ngẩn như vậy. Với sự
hiểu biết như vậy thì ông ta có thể đặt kế hoạch để lừa bịp những người có đôi
chút hiểu biết nhưng điều mê tín hoang đường đã lỗi thời và đã không còn bất cứ
một giá trị nào được hay sao. Tại sao ông ta không thấy rằng không phải là hàng
triệu Phật tử đi vào địa ngục mà đối với họ, địa ngục chỉ có ở trong đầu các
tín đồ Ki Tô Giáo, mà chính là hàng triệu tín đồ Ki Tô Giáo bỏ đạo sẽ đi vào địa
ngục theo quan điểm của Hattaway. Mặt khác, thần tượng chết cứng dù sao cũng
thấy ngay trước mắt, còn Đức Chúa Cha vẻ vang trên trời thì chẳng có ai thấy
đâu, và ở chỗ nào trên trời, có chăng chỉ ở trong mấy cái đầu nhỏ hẹp của những
người nghiện đạo. Ai thấy Đức Chúa Cha ở đâu, ở chỗ nào trên trời, chỉ tôi
coi. Lịch sử chỉ đi có một chiều, những người Ki Tô Giáo tin rằng con đường
tiến tới thích hợp với họ là con đường đi giật lùi về thời đại đen tối (The dark
ages.)
Tôi tin rằng, dù bỏ ra bao nhiêu tiền bạc, dù cố
gắng đến mức nào, Ki Tô Giáo cũng không thể thành công trong những âm mưu cải
đạo Á Châu. Ki Tô Giáo đang suy thoái thê thảm ở Âu Châu và Mỹ Châu, kể cả Úc
Châu. Và rồi Ki Tô Giáo trước sau gì cũng phải suy thoái ở Á Châu. Đây là kết
quả của sự tiến hóa trí thức của nhân loại. Mùa gặt linh hồn cho Chúa ở Á Châu
cũng chỉ gặt được một ít cỏ dại. Những cỏ dại này chính là những kẻ đã ra
“tuyên ngôn phục linh”. Họ có thể hi vọng với bản tuyên ngôn phi dân tộc, hỗn
xược như vậy là có thể thuyết phục được người dân Việt Nam theo Tin Lành hay
sao?
Để kết thúc bài viết này, tôi xin mời độc giả hãy
đọc bài “Cải Đạo, Sách Lược Thực Dân Mới Mà Cũ” của Thiên
Lôi trên
http://www.sachhiem.net/TONGIAO/tgTH/ ThienLoi008.php để thấy vấn nạn cải đạo
của Ki Tô Giáo chẳng có gì đáng để chúng ta bận lòng. Và tôi rất đồng cảm với
những nhận định sau đây của Thiên Lôi:
Hãy nhìn
vào các cuộc sinh họat tôn giáo ở chùa chiền, những cuộc hành hương đất Phật và
các lễ hội trở nên truyền thống trong nước thì số người tham dự với niềm tín
ngưỡng cổ truyền của dân tộc thời nay quả thật …là chưa hề thấy trong lịch sử
Việt Nam từ trước đến nay. Ngay cả trong vòng nửa thế kỷ trước, dân ta cũng
không thể kỳ vọng những “phép lạ” như thế đã xảy ra.
Vậy thì
mọi Phật tử, mọi cư sĩ, mọi tăng ni ở khắp miền đất nước Việt vẫn cứ tinh tiến
hoằng hóa tùy vào khả năng vai trò của mình để ánh đạo Vàng tiếp tục chiếu rọi
trên non sông gấm vóc; Giới lãnh đạo tăng già trong và ngòai nước chắc cũng luôn
ưu tư đến tiền đồ đạo pháp và thường tinh tấn hoằng hóa tùy duyên. Các vị theo
gương chư Phật sống trong tĩnh lặng thiền môn; nào cần phải lên tiếng náo nhiệt
thường xuyên làm gì. Việc đó thì chúng ta, hàng cư sĩ, con dân nước Việt phải
cáng đáng.
Tôi chỉ muốn thêm một câu: tác phong và đạo đức
của các Trưởng Tử Như Lai là cái chìa khóa để giải quyết mọi vấn nạn đối với
Phật Giáo, từ chống cải đạo cho đến chấn hưng Phật Giáo. Còn cư sĩ chúng
tôi thì sẽ sẵn sàng vén tay áo lao vào địa ngục để chiến đấu trường kỳ với ma
quân và giải hoặc những kẻ còn ở trong vòng mê sảng.
Phần Đọc Thêm:
Đọc “tuyên ngôn phục linh” của nhóm tà đạo Tin Lành ở Việt Nam, chúng ta thấy có
câu rất hỗn xược láo lếu đối với dân tộc Việt Nam như sau:
Xin Chúa tha thứ cho dân tộc Việt Nam vì chúng ta nhận con rồng, là hình ảnh
của ác quỉ Satan, làm tổ tiên của mình.
Khác với văn hóa ngu muội, mê tín, hạ đẳng trong
Thánh Kinh của Ki Tô Giáo trong thời bán khai, văn hóa Á Đông coi
Rồng như một biểu tượng của sự cao quý, biểu tượng của Vua Chúa, biểu tượng của
trí tuệ. Rồng là một linh vật
trong tứ quý, Long, Li, Qui, Phượng, và vì chỉ là một biểu tượng
cho nên Rồng chưa hề làm hại bất
cứ một ai, bất cứ quốc gia nào, nên coi Rồng là ác quỷ chỉ là sự
hoang tưởng của người Do Thái trong thời bán khai. Nhưng những người Ki Tô Giáo
lại mê muội, không biết rằng chính mình đang thờ lạy một ác quỷ. Chứng minh?
James A. Haught đã đưa ra một nhận định bất
khả phủ bác trong cuốn 2000 years of disbelief: famous people with the
courage to doubt, trang 324, như sau, về Chúa Trời của người Ki Tô
Giáo như được viết trong Thánh Kinh:
Qua luận lý, chúng ta có
thể thấy quan niệm của giáo hội về một thiên chúa ở trên trời với lòng thương
yêu vô cùng không đứng vững. Nếu có một đấng thần linh sáng tạo ra mọi thứ hiện
hữu thì ông ta đã làm ra ung thư vú cho phái nữ, bệnh hoại huyết cho trẻ con,
bệnh cùi, bệnh AIDS, bệnh mất trí nhớ
(alzheimer), và hội
chứng down (khuyết tật tinh thần). Ông ta ra lệnh cho những con cáo cắn
xé nát những con thỏ ra từng mảnh, những con báo giết những hươu nai. Không có
một con người nào độc ác đến độ hoạch định những sự khủng khiếp như vậy. Nếu
một đấng siêu nhiên làm như vậy, ông ta là một con ác quỷ, không
phải là một người cha nhất mực nhân từ.
(Through logic, you
can see that the church concept of an all-loving heavenly creator doesn't hold
water. If a divine maker fashioned everything that exists, he designed breast
cancer for women, childhood leukemia, leprosy, aids, alzheimer's disease, and
down's syndrome. He madated foxes to rip rabbits apart and cheetahs to
slaughter fawns. No human would be cruel enough to plan such horrors. If a
supernatural being did so, he's a monster, not an all-merciful
father.)
Những người Tin Lành tân
tòng Việt Nam nghĩ sao? Con Rồng chưa làm hại ai, trong khi thiên chúa của ông
đúng là một ác quỷ mà các người đang thờ lạy. Các người có dám phủ nhận điều
này hay không? Có phải là một người “thờ lạy ác quỉ thì lẽ đương nhiên
thưộc quyền ác quỉ và là đầy tớ của nó” Vậy thật ra, bản chất của
các người chỉ là những tôi tớ của một ác quỉ, không hơn, không kém.
Bởi vì chỉ có ác quỉ mới dạy tôi tớ chối bỏ nguồn gốc của mình để đi theo ác
quỉ. Không cứ phải là một bậc thánh thiện, mà bất cứ người thường
nào cũng không làm như vậy.
Nhưng không phải chỉ có vậy, vì đọc trong cuốn
Thánh Kinh chúng ta thấy Cha Chúa Trời mà cũng chính là Chúa Trời của Tin Lành
đã có những hành động điển hình sau đây, hoặc là đích thân ra tay, hoặc đích
thân chỉ huy, hoặc là ra lệnh cho tôi tớ làm:
- Thiên
Chúa đòi hỏi và chấp nhận giết người để tế Thiên Chúa (Leviticus 27; Judges 11;
2 Samuel 21).
- Thiên
Chúa giết đứa con đầu lòng trong mọi gia đình Ai Cập (Exodus 12)
- Thiên
Chúa chấp nhận nô lệ (Exodus 21; Leviticus 25)
- Thiên
Chúa chấp nhận việc bán con gái làm nô lệ (Exodus 21)
- Thiên
Chúa ra lệnh giết các phù thủy và những kẻ lạc đạo (Exodus 22)
- Thiên
Chúa xử chết những người vi phạm ngày lễ Sabbath (không nghỉ làm việc ngày thứ
Bảy) (Exodus 31)
- Thiên
Chúa giết 70000 người trong một dịch hạch do chính Chúa tạo ra (2 Samuel 24)
- Thiên
Chúa cho 2 con gấu cắn nát 42 đứa trẻ vì chúng chế riễu nhà tiên tri Elisha (2
Kings 2)
- Thiên
Chúa tạo ra hồng thủy giết chết mọi người và mọi sinh vật, chỉ chừa lại gia đình
tên say rượu Noah và giống vật mỗi thứ một cặp, vì Chúa thấy loài người, do
chính Chúa “sáng tạo” ra, tội lỗi (Genesis 6) [Dưới con mắt cận thị của Thiên
Chúa thì con người sa ngã, mang tội với Thiên Chúa, do đó Thiên Chúa tạo ra Hồng
Thủy để giết hại hầu hết loài người. Nhưng thử hỏi, tại sao Thiên Chúa lại giết
cả mọi sinh vật hoàn toàn vô tội, gồm có nhiều triệu chủng loại khác nhau, khi
chúng do chính Chúa “sáng tạo” ra và không hề làm điều gì trái với ý của Thiên
Chúa?]
- Thiên
Chúa ra lệnh giết vợ con, anh em nếu họ theo tôn giáo khác (Deuteronomy 13)
- Thiên
Chúa xử chết những đứa trẻ nào không cắt miếng da đầu dương vật (Genesis 17)
Đây có
phải là những hành động ác ôn tàn bạo vô nhân tính của một ác quỷ hay không? Và
đây chỉ là một số nhỏ trong vô số những hành động ác ôn tương tự khác mà Thiên
Chúa của Tin Lành là thủ phạm, trực tiếp hay gián tiếp. Có bao giờ những
người tân tòng Tin Lành biết đến những điều trên, đã được viết rõ trong Kinh
Thánh của Ki-tô giáo không?
Tình cờ tôi đọc được bài trên trang nhà sau đây để
chúng ta có thể nhận dạng thế nào là ác quỉ
http://lichsuvn.info/forum/showthread.php?t=12675. Xin cống hiến độc giả để
chúng ta có thể nhận dạng đích thực những ai, những nhân vật nào, kể cả Thiên
Chúa, và những tổ chức nào, kể cả tổ chức tôn giáo, là hình ảnh của ác quỉ.
Chúng ta nên nhận rõ, không có một đặc tính nào của ác quỉ có thể áp dụng cho
con Rồng:
Nhận dạng Ác quỷ theo quan điểm dân gian và Kitô giáo
Ác quỷ là danh từ chỉ những gì xấu xa, tội lỗi, ác độc, phi nhân, mang lại tai họa cho nhân loại.
Theo các truyền thuyết và quan niệm của các dân tộc trên thế giới , Tèo tạm kết
luận một số đặc điểm sau của Ác Quỷ :
1/ Lừa Bịp
Ác Quỷ làm những việc đê tiện , nói những lời trơ trẽn , nhưng thường hay đội
lốt hoặc giả danh là kẻ tốt, mang những gì tốt đẹp, tự nhận mình tốt đẹp. Có thể
nói bản chất của Ác Quỷ là LỪA LỌC , BỊP BỢM , LƯƠN LẸO ...
2/ Nham Hiểm , Xảo Trá
Ác Quỷ thường dụ dỗ con người bằng việc đưa ra những hứa hẹn mang tính vật chất
, đánh động vào lòng tham vật chất và sự ích kỷ. Ác Quỷ là hiện thân của
những gì tầm thường bị đẩy lên thành mù quáng. Nghe theo lời dụ dỗ của Ác
Quỷ, con người thường phải chấp nhận từ bỏ những tình cảm thiêng liêng của trái
tim máu đỏ, cũng như bỏ đi lý trí của mình.
Ác Quỷ không cho không ơn huệ.
Ác Quỷ có ra điều kiện. Mặc dầu vậy, Ác Quỷ luôn nhận mình là "lòng lành vô
cùng".
Thật vậy, Ác Quỷ ham muốn chiếm
đoạt lấy những gì quý giá nhất của con người , đó là tình cảm, lương tâm và lý
trí. Một người mà đã bán linh hồn cho Ác Quỷ thì trung thành với nó , yêu Ác
Quỷ hơn cả cha mẹ, tổ tiên, đất nước. Những kẻ đã bán linh hồn cho Ác Quỷ
rồi thì thậm chí có phản quốc , phản gia đình , phản cách mạng.. cũng không bao
giờ lấy đó làm ăn năn hối cải. .
Vì thế Ác Quỷ biến con người thành nô lệ của nó, thành tôi tớ, thậm chí súc
vật vô cùng trung thành, chỉ biết nhắm mắt mụ mị đi theo nó.
3/ Độc Ác
Ác Quỷ khát máu, không làm được điều gì tốt đẹp cho nhân loại mà chỉ gieo tai vạ
. Ác Quỷ giết rất nhiều người trong truyền thuyết. Và những kẻ theo Ác Quỷ thì
giết hại rất nhiều người vô tội..
Sự khát máu của Ác Quỷ và tập đoàn những kẻ bán linh hồn cho Ác Quỷ thì vô cùng
khủng khiếp. Người ta nói man rợ như Ác Quỷ, tàn ác như Ác Quỷ, dã man như Ác
Quỷ ... chứ tập đoàn Ác Quỷ thì lại cho rằng mình rất thánh thiện.
4/ Vô Sỉ
Ác Quỷ rất sợ ánh sáng, rất sợ tri thức, tức là sự hiểu biết của nhân loại.
Ác Quỷ thường tìm cách tẩy xóa lịch sử, che giấu sự thật bằng mọi cách. Ác Quỷ
thấy con người có sự hiểu biết thì lấy làm căm giận, tìm cách trả thù trừng trị
họ.
Ác Quỷ một mặt nói yêu thương
con người, nhưng mặt khác, Ác Quỷ chỉ muốn con người trở thành những trò vui
thỏa mãn cái ích kỷ, hèn hạ, đê tiện của nó .
5/ Bất Lương
Ác Quỷ đi đến đâu, xuất hiện ở đâu, thì ở đó có loạn ly, chia rẽ, có chiến tranh
tang tóc, đôi lứa yêu nhau phải chia lìa, trẻ con bị chiếm đoạt tâm hồn trong
sáng ... Ác Quỷ chuyên đứng về phía những thế lực khốn nạn nhất của bóng đêm,
chống lại sự tiến bộ của loài người.
Chú Thích:
1. Avro Manhattan, Vietnam: Why
Did We Go, p. 27: The Virgin's messages had been to induce the pope to
bring about "the consecration of the World to her Immaculate Heart,"
to be followed by "the consecration of Russia". "Russia will be converted," she
foretold. "The Holy Father will consecrate Russia to me." But, she warned,
should this not be accomplisshed, "her (Russia's) errors will spread throughout
the world, causing wars, and persecutions...different nations will be
destroyed..." In the end however, the Virgin promised by way of consolation,
that the Catholic Church would triumph, after which "the Holy Father will
consecrate Russia to me. Thereupon she (Russia) shall be converted and a period
of peace will be granted to the world."
These quotations are from the authenticated messages of the Virgin Mary
herself, as related to one of the children and fully accepted by the Catholic
Church as a genuine revelation by the "Mother of God".
2. Richard Abanes, End-Time
Visions, Four Walls Eight Windows, New York, 1998, p. 224: Your preaching
can be of no use to society but it is a great annoyance. If you expect to
frighten men and women into religion, you probably mistaken.
...If your preaching drives
people into despair or insanity, you are responsible for the consequences. I
advise you to abandon your preaching; you are doing no good, but you may do a
great deal of harm.
3. Some Korean evangelical
Christians have expressed hostility to Buddhism. There have been several dozen
incidents of arson and vandalism against Buddhist shrines and facilities over
the last two decades, some of them quite serious. (Several large temples were
destroyed.) In some of these incidents, the perpetrators were identified as
Christians, or left messages denouncing "idol worship."
4. We need to get
rid of all the ji bang born stubborn pastors who don't pay taxes! Especially
pastors from Busan who come to US-Korean Churches. We don't need Pastors from
Korea to run Korean American Churches!!!
5. Keep your
christians, slaves to white people mentality out of my country, bastards! we do
not share the oriental peoples dream to to be the concubines of white men.
6. Despite the
rapid growth of the Protestant church in Korea, many church-goers are only
nominally Christian. What has gone wrong and how can this situation be turned
around to make Christ central in the lives of these people and to renew the
evangelism of the church?
Since the
early 1990s most mainline denominations in Korea have experienced a stagnation
or fall-off in membership and attendance. In the 1980s the average annual growth
in membership was 4.4 percent. Government statistics show that the growth rate
was 3.9 percent in 1991, 0.6 percent in 1992 and minus 4 percent in 1993. Some
denominations are beginning to see downward growth in their membership. A major
Presbyterian church in Korea reported a decrease of 1.8 percent in membership in
1998.
Speculation is
rife as to the causes of this stagnation. Church leaders wonder what the future
pattern will be. The current stagnation may be a warning signal that signifies
problems within the church. Some factors may be suggested as the causes of this
stagnation.
Contextual
factors that assisted the earlier rapid growth of the Korean church no longer
seem to be at work. New contexts that include religious pluralism, social
mobility and the economic prosperity of Christians, political and social
stability, the success of Buddhism, and an increased range of leisure activities
may all have affected the growth of the Korean church. Materialism and
secularism seem to be a powerful force in the Korean church, which has attracted
the largest segment of its membership from the middle-class. So, although
Christians enjoy an important position within Korean society, this assured place
does not guarantee that they will not succumb to the subtle danger of becoming
an irrelevance both to Korean society and to the Christian gospel…
There have
been many events that marred the social image of Korean Protestantism in the
1990s. The 1998 Gallup survey gave the reasons why people deserted the
Protestant church. The highest percentage (32 percent) made their decision based
upon a distrust of the church. Respondents stated that this distrust stemmed
from their perception of the bad conduct of church leaders, the neglected role
of social responsibility within the church, and bad behaviour by church members.
Furthermore, Protestantism was the least attractive religious option to the
non-Christian younger generation.
According to
the 1998 Gallup survey, a considerable withdrawal of believers from the
Protestant church is taking place. Of the 46.1 percent who deserted the
Protestant church, 9% percent turned to Buddhism and 35.1 % ceased professing
any religion. The fact that about one-third gave up any religious affiliation
clearly suggests that the Protestant church is not successful in incorporating
their members into the Christian faith and its community.
Trần Chung Ngọc
Grayslake,
Illinois
Một Ngày Đặc
Biệt:
15 tháng 2, Tân
Mão
Những bài về cải đạo
Yêu Chúa "Hết Trí Khôn" (Một Độc Giả)"Sư cô trụ trì" chùa Quan Âm cải đạo theo Chúa: Bóc trần sự thật (Thích Thanh Thắng)43 Phương Pháp Cải Đạo (Minh Kiến) Cải Đạo (SH) Cải đạo bắt đầu từ trẻ con (Nguyễn Trí Cảm)Cải đạo á châu ? Một ảo tưởng ! (Trần Chung Ngọc) Cải Đạo, Sách Lược Thực Dân Mới Mà Cũ (Thiên Lôi)Cầu Cứu - Bài Góp Ý (Nguyễn Tiến Đạt)Cầu Cứu - Nỗi Ray Rứt (Ngọc Hân - SH) Hôn Nhân và Tôn Giáo (Nguyễn Hữu Ba) Ki tô giáo: Mánh Khóe Mới Nhất Trong Việc Cải Đạo (J. Goonetilleke/Nguyên Tánh dịch)Kitô giáo: Lịch sử truyền đạo (BurningCrossNet/ Minh Kiến dịch)Lửa "Đốt" Dân Tộc Ta (Hồng Ngọc)Lửa đã cháy ở Mỹ Đình, bao giờ lan đến Quán Sứ? (Minh Thạnh)Mắt xích cải đạo tu sĩ trong tiến trình cải đạo tín đồ Phật giáo (Minh Thạnh)Mối Họa Cải Đạo (Trần Chung Ngọc) Một Cố Gắng Cải Đạo Ly Kỳ (Đào Viên)Một Giám Mục Viết Về Vấn Nạn Cải Đạo Của Ki-Tô Giáo (Trần Chung Ngọc)Ngày Tàn của những kẻ Truyền Đạo Cuồng Tín (Minh Kiến)Những Câu Chuyện Cải Đạo (Võ Ngọc Diệp) Phản Hồi "Vấn Đề Hôn Nhân Khác Tôn Giáo" của Minh Ngọc (Ki-Tô Hữu Lưu Tèo)Quí Hồ Tinh Bất Quí Hồ Đa (Lệ Thọ)THƯ NGỎ: Vận Động Thành Lập Tủ Sách “Chấn Hưng Phật Giáo” Thử Tìm Hiểu Người Ki-Tô Giáo Và Vấn Nạn Cải Đạo (Trần Chung Ngọc)Thử Tìm Hiểu Người Ki-Tô Giáo và Vấn Nạn Cải Đạo (Trần Chung Ngọc) Thực Chất Tin Lành Nam Hàn (Trần Chung Ngọc)Tiền và việc cải đạo tín đồ Phật giáo (Minh Thạnh)Trả Lời Thư Bạn Lưu Tèo (Minh Ngọc)Vài Câu Hỏi Cho Người Đi Truyền Đạo Chúa (Một Độc Giả) Vì Chúng Sinh - Chống Cải Đạo (Nguyễn văn Phụng)Vì Chúng Sinh - Ngăn Ngừa Việc Cải Đạo (Nguyễn Văn Phụng)Đôi Lời Chia Sẻ Về Vấn Đề Hôn Nhân Khác Tôn Giáo (Minh Ngọc)“Lập lờ đánh lận”… ông trời! (Minh Thạnh)