|
đăng ngày 06 tháng
9, 2007
|
Toàn tập: 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
Phần
II
PHẬT GIÁO & KHOA HỌC
Phật
Giáo không phải là Khoa Học và ngược lại. Nhưng Phật Giáo có nhiều điểm
chung với Khoa Học. Chúng ta có thể nói rằng tinh thần Khoa Học có
trong Phật Giáo nhưng tinh thần Phật Giáo rất hiếm có trong Khoa Học.
Cũng
như Khoa Học, Phật Giáo không chấp nhận có một Chân Lý Mạc Khải. Do đó,
những biện giải về một Đấng Sáng Tạo cũng như về Linh Hồn, Phật Giáo và
Khoa Học đều không quan tâm đến. Căn bản, Phật Giáo xây dựng trên Tam
Pháp Ấn: Vô Thường, Khổ, và Vô Ngã. Con đường giải thoát trong Phật
Giáo là con người nhận thức được Tam Pháp Ấn, những chân lý trong thế
giới của con người, ngoài quyền năng của bất cứ một đấng tối cao hay
Thiên Chúa nào.
Những tiến bộ của khoa học cận đại đã phần nào chứng
nghiệm Tam Pháp Ấn của nhà Phật.
Phật
Giáo có thiên Kinh vạn quyển. Khoa học nói chung rộng vô kể. Không ai
có thể cho mình là biết hết về Phật Giáo cũng như về khoa học. Viết
loạt bài sau đây, tôi không có ý dùng khoa học để chứng minh Phật Giáo,
điều mà tôi cho là một việc làm ngược chiều, không thích đáng, vì Phật
Giáo và Khoa Học hoạt động trên hai bình diện khác nhau, với những mục
đích khác nhau.
Tinh
thần Khoa Học chỉ là một khía cạnh của Phật Giáo, Phật Giáo rộng hơn
nhiều và đã đi trước khoa học khá xa. Hi vọng loạt bài sau đây có thể
phần nào giúp chúng ta ý thức được điều trên và do đó cất bỏ mọi mặc cảm
trước khoa học cũng như trước bất cứ tôn giáo độc thần nào.
Mục 1:
PHẬT
GIÁO VÀ SỰ TIẾN HÓA
TƯ TƯỞNG CỦA NHÂN LOẠI
Cách đây
hơn 25 thế kỷ, vào khoảng 560 năm Trước Tây Lịch (TTL), còn được gọi là
"thời đại hoang mang" (560 B(efore) C(onfusion): từ của LLoyd M. Graham
trong cuốn Deceptions and Myths of the Bible), một nhân vật lịch
sử với một tiểu sử rõ ràng đã sinh ra đời để mở đường cho chúng sinh
thấy, giác ngộ và hội nhập cái biết và thấy của Phật (Khai, Thị, Ngộ,
Nhập Phật tri kiến). Nhân vật lịch sử này chính là Thái Tử Tất Đạt Đa,
con vua Tịnh Phạn ở miền Nam Népal ngày nay.
Khi
sinh ra đời, về bản chất, con người của Thái Tử Tất Đạt Đa không khác gì
con người của bất cứ ai trong chúng ta: nước mắt cùng mặn, máu cùng đỏ
v..v.. Tuy nhiên, trước những cảnh khổ hiển nhiên của con người: sinh,
lão, bệnh, tử, Thái tử Tất Đạt Đa, với một nghị lực phi thường, đã từ bỏ
nơi quyền quý giàu sang vật chất, đi tìm con đường giải thoát cho chúng
sinh qua một quá trình tu tập gian khổ kiên trì trong 6 năm, cuối cùng
đã tìm ra chân lý và trở thành Phật, nghĩa là Bậc Giác Ngộ hay Bậc Tỉnh
Thức: tổng hợp của một kiến thức siêu việt với một tâm từ bi vô lượng.
Trong lịch sử loài người, chúng ta khó có thể thấy trên thế gian một
khuôn mặt nào đặc biệt và cao cả như Đức Phật.
Đặc
biệt và cao cả vì Đức Phật là vị Giáo Chủ tôn giáo duy nhất trên thế
gian đưa ra một khẳng định tuyệt đối bình đẳng: "Ta là Phật đã thành,
các người là Phật sẽ thành", nghĩa là về bản chất, Giáo Chủ và tín
đồ không có gì khác nhau. Đặc biệt và cao cả vì Đức Phật đã không hề
bắt buộc bất cứ ai phải tin vào Phật hay những điều giảng dạy của Phật
một cách mù quáng, không cần biết, không cần hiểu. Đặc biệt hơn cả là
Đức Phật đã thấy rõ sự vận hành của vạn Pháp (Như Thực tri Kiến: to see
things as they really are) và đã để lại cho hậu thế một giáo lý không có
giáo lý nào hơn, không có giáo lý nào bằng. Đây không phải là nhận định
vô căn cứ của một tín đồ Phật Giáo để khoa trương tán tụng tôn giáo của
mình, mà là kết quả khảo sát tư tưởng, giáo lý Phật Giáo trong sự tiến
hóa tư tưởng của nhân loại. Luận cứ này sẽ được chứng minh trong những
phần sau. Trong phần chứng minh này, chúng ta sẽ thấy, giá trị của một
tôn giáo không thể dựa trên số tín đồ của tôn giáo đó đông hay không
đông, mà dựa trên những tư tưởng hoặc phúc lợi mà tôn giáo đó đã mang
đến cho nhân loại.
Thường thì giới Phật tử thông thường chúng ta chỉ biết đến vài giáo lý
căn bản của Phật Giáo xuyên qua các triết lý về Tam Độc, Tam Pháp Ấn (Vô
Thường, Khổ, Vô Ngã), Tứ Diệu Đế, Tứ Niệm Xứ, Bát Chánh Đạo. Nếu chúng
ta để tâm nghiên cứu và tìm hiểu về Phật Giáo thì chúng ta sẽ khám phá
ra rằng, tư tưởng Phật Giáo và "tri kiến" của Đức Phật đã đi trước sự
tiến hóa tư tưởng và sự hiểu biết của nhân loại khá lâu, và, tuy rằng
với một tinh thần khoa học, Phật Giáo sẵn sàng chấp nhận những sai lầm,
nếu có, nhưng cho tới ngày nay, Phật Giáo chưa từng phải xét lại quan
điểm của mình để cập nhật hóa với những tiến bộ về tư tưởng cũng như
những khám phá mới của khoa học.
Sau
đây tôi sẽ đưa ra một số kiến thức Phật Giáo để quý độc giả thấy rõ tư
tưởng Phật Giáo đã đi trước sự tiến hóa tư tưởng của nhân loại như thế
nào. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ có thể liệt kê một số vấn đề
điển hình một cách ngắn gọn chứ không thể khai triển để chứng minh vì
mỗi vấn đề đòi hỏi một sự trình bày sâu xa và đầy đủ hơn. Tuy nhiên,
trước hết, chúng ta cần biết một điều căn bản: Đức Phật không phải là
một khoa học gia, Người không có theo các phương pháp khoa học như thu
thập dữ kiện, đặt giả thuyết hay lý thuyết, rồi dựa vào những dụng cụ
trong phòng thí nghiệm để kiểm nghiệm và thực chứng lý thuyết đó. Tất
cả những hiểu biết của Người là từ Thiền quán.
Chúng ta
đều biết rằng, khi xưa Đức Phật thường khuyên các đệ tử trước khi uống
nước hãy niệm chú để phổ độ cho các vi chúng sinh có trong nước. Người
còn khẳng định trong mỗi bát nước có tới 84000 sinh vật nhỏ nhoi mà mắt
thường chúng ta không thể nhìn thấy được. Chúng ta nên hiểu con số
84000 trong Phật Giáo có nhiều ý nghĩa và một trong những ý nghĩa này là
tượng trưng cho một con số lớn chứ không phải là một con số chính xác.
Hơn 22 thế kỷ sau, vào cuối thế kỷ 17, các khoa học gia đã phát minh ra
cái kính hiển vi đầu tiên và nhờ đó đã có thể nhìn thấy trong một giọt
nước có một số lớn các vi sinh vật.
Trong
Kinh Hoa Nghiêm, quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo là trong đó có vô số
những thế giới có hình dạng khác nhau với vô số chúng sinh khác nhau.
Hơn 21 thế kỷ sau, vào cuối thế kỷ 16, Giordano Bruno cũng đưa ra quan
niệm về một vũ trụ bao la vô cùng tận trong đó, ngoài thế giới của chúng
ta, có thể còn có vô số các thế giới khác nhau với vô số dạng sống
(life-forms) khác nhau. Chúng ta đã biết, quan điểm này trái với những
lời gọi là “mạc khải” trong thánh kinh mà các tín đồ Ki Tô Giáo tin rằng
không thể sai lầm của Thiên Chúa Ki Tô Giáo, một vị thần mà theo niềm
tin của những tín đồ Ki Tô, là bậc Toàn Năng, nghĩa là làm gì cũng được,
và Toàn Trí, nghĩa là cái gì cũng biết. Do đó, Bruno đã phải trả một
giá rất đắt cho kiến thức rất đúng của mình. Ông ta bị định chế Công
giáo trong đó có giáo hoàng, vị đại diện của Chúa trên trần, và các linh
mục, những người được Chúa dạy là phải thương yêu kẻ thù [Bruno không
phải là kẻ thù của Giáo hội] như chính mình, lên án và chính các linh
mục đã đưa ông lên giàn hỏa để thiêu sống. Thế kỷ 16 mở đầu cho cuộc
cách mạng khoa học. Sự phát minh ra kính thiên văn của Galileo Galilei
ở đầu thế kỷ 17, và khoa vũ trụ học ngày nay đã chứng minh quan điểm của
Phật Giáo về vũ trụ cũng như của Giordano Bruno 21 thế kỷ sau là đúng.
Một trong 10 danh hiệu mà người đời tôn vinh Đức Phật khi Người còn tại
thế : Thiên Nhân Sư (Teacher of Gods and men), bậc Thầy của các Thiên
Chúa và của con người, không phải là không có giá trị thuyết phục.
Thuyết
Duyên Sinh hay Duyên Khởi là thuyết căn bản nhất trong Phật Giáo. Giữa
thế kỷ 19, Charles Darwin đưa ra thuyết Tiến Hóa, và ngày nay, càng ngày
chúng ta càng thấy thuyết này rất phù hợp với thuyết Duyên Sinh. Vạn
Pháp trong vũ trụ đều do đủ duyên mà thành, hết duyên thì diệt, và đây
cũng là căn bản của thuyết Tiến Hóa, từ sự xuất hiện của các cây cỏ cho
đến con người. Giáo sư Trịnh Xuân Thuận viết trong cuốn “L'Infini Dans
La Paume de la Main”: "Tiến hóa từ những cát bụi của những ngôi sao,
chúng ta chia sẻ cùng một lịch sử vũ trụ với những con sư tử trong những
vùng hoang mạc và những bông hoa tỏa mùi thơm" (Poussières
d'étoiles, nous partageons la même histoire cosmique avec les lions des
savanes et les fleurs de lavande). Tôi sẽ nói thêm về cuốn sách rất có
giá trị này trong một đoạn sau.
Thuyết Vô
Thường của Phật Giáo là một hệ luận của thuyết Duyên Sinh. Các tín đồ
Ki Tô Giáo thường cho rằng Thiên Chúa của họ là bậc thường hằng
(omnipresent), nghĩa là có mặt khắp nơi. Đây chỉ là một niềm tin tôn
giáo chứ không phải là một sự hiểu biết dựa trên những sự thật bất khả
phủ bác. Ngày nay, tuyệt đại đa số các khoa học gia đã gạt bỏ quan niệm
về một Thiên Chúa sáng tạo ra muôn loài, cho rằng vai trò "sáng tạo" của
Thiên Chúa không cần thiết, cũng như ngày xưa, khi hoàng đế Napoléon hỏi
Pierre Simon de Laplace là sao trong tác phẩm nghiên cứu khoa học về Cơ
Học Các Thiên Thể (Celestial Mechanics) của ông ta không thấy nói gì đến
Thiên Chúa, Laplace đã trả lời: "Tôi không cần đến cái giả thuyết đó".
Điều rõ ràng là trên thế giới và trong vũ trụ ngày nay, cái thường
hằng, có mặt khắp nơi, chính là tính vô thường của vạn pháp. Từ một vi
sinh vật nhỏ nhoi như một vi khuẩn cho đến con người, một ngôi sao, một
thiên hà trong vũ trụ, không có gì có thể đi ra ngoài luật vô thường.
Thiên Chúa của Ki Tô Giáo cũng không thoát khỏi luật vô thường, vì quan
niệm về Thiên Chúa của Ki Tô Giáo đã thay đổi rất nhiều qua thời gian
với những lý luận thần học khác nhau. Thuyết vô thường của Phật Giáo
ngày nay đã được khoa học kiểm chứng.
Phật Giáo
đưa ra những thuyết Tương Duyên, Tương Tức, Dung Thông Vô Ngại, Một là
Tất Cả v..v.., đặc biệt là trong Kinh Hoa Nghiêm. Khoa học ngày nay,
nhất là khoa Vật Lý Nguyên Lượng (Quantum Physics), nghĩa là môn vật lý
khảo sát thế giới của các hạt "Tiềm Nguyên Tử" (Subatomic particles)
cũng đã chứng minh rằng mọi vật đều liên hệ tới nhau, không có cái gì có
thể có tự tính, nghĩa là độc lập, không tùy thuộc bất cứ cái gì khác.
Đây cũng là căn bản thuyết Vô Ngã của nhà Phật.
Chúng ta
đều biết Phật Giáo là một tôn giáo trị liệu, nghĩa là một tôn giáo chữa
những căn bệnh gốc của thế gian. Luận Tỳ Bà Đạt Ma cũng như Duy Thức
Luận và nhiều Kinh Điển khác, tất cả đều có tính cách trị liệu. Không
ai có thể phủ nhận Thiền là một phương pháp trị liệu tâm thần hữu hiệu
mà ngày nay nhiều người Ki Tô Giáo, Do Thái Giáo v..v.. áp dụng. Tôi
muốn nhắc lại lời của nhà phân tâm học nổi tiếng của Anh Quốc, Tiến sĩ
Graham Howe: "Đọc một chút về Phật Giáo ta cũng có thể nhận thức được
rằng: từ 2500 năm trước, các Phật tử đã biết những vấn đề hiện đại về
tâm lý nhiều hơn là chúng ta thường đánh giá họ. Phật Giáo nghiên cứu
những vấn đề này từ lâu và cũng đã tìm ra phương thức giải quyết chúng.
Ngày nay chúng ta chỉ khám phá lại trí tuệ thông thái cổ xưa của Đông
Phương" (To read a little Buddhism
is to realize that the Buddhists knew, 2500 years ago, far more about
modern problems of psychology than they have yet been given credit for.
They studied these problems long ago and found answers too. We are now
rediscovering the ancient wisdom of the East).
Chúng
ta đã thấy, qua vài tư tưởng điển hình của Phật Giáo, cái biết của Phật
Giáo đã đi trước cái biết của nhân loại như thế nào. Lẽ dĩ nhiên, các
tư tưởng Phật Giáo không chỉ có vậy, mà còn vô số các điều khác nằm
trong rừng Kinh Điển Phật Giáo. Nhưng hiển nhiên, trong khuôn khổ một
bài viết, không ai có thể trình bày tất cả những tư tưởng của Phật Giáo
cho đầy đủ.
Sau
đây tôi xin trình bày một khía cạnh khác thuộc loại "đi trước thời gian"
của Phật Giáo, đó là khía cạnh tôn giáo và xã hội.
Trong
các tôn giáo lớn trên thế giới, chỉ có Phật Giáo là tôn giáo nhân bản và
nhân chủ. Các tôn giáo khác như Ấn Độ Giáo, Hồi Giáo, và Ki Tô Giáo đều
là Thần giáo. Nhân bản là đặt căn bản trên con người, và nhân chủ là con
người làm chủ chính mình, tự mình tu tập để đi đến giải thoát chứ không
trông ngóng hay nương tựa ở bất cứ Thần quyền nào. Vì vậy, Phật Giáo
quan tâm đến những chuyện thực tế của con người chứ không suy luận viển
vông đến những vấn đề siêu hình không có ích lợi thiết thực cho con
người ngay trong đời sống này. Từ bản chất nhân bản và nhân chủ, giáo
lý Phật Giáo là, theo như một số học giả, một cuộc cách mạng tư tưởng.
Tôi thấy danh từ cách mạng không đúng, vì cách mạng có nghĩa chống lại
cái cũ thay bằng cái mới. Theo tôi, chúng ta phải nói rằng tư tưởng
Phật Giáo rất đặc thù và trên thực tế đã mở đường cho những cải cách tư
duy trong các Thần giáo cùng những khám phá khoa học về vũ trụ. Thật
vậy, các học giả Tây phương nghiên cứu đứng đắn về Phật Giáo đều công
nhận Phật Giáo là một tôn giáo thực nghiệm (empirical), khoa học
(scientific), thực tế (pragmatic), và nhất là dân chủ (democratic).
Những đặc tính này của Phật Giáo là những đặc tính mà chúng ta không thể
thấy trong các Thần Giáo. Tại sao? Vì các Thần giáo đều phải dựa vào 4
đặc tính chung như sau để tồn tại: quyền lực; sự hiện hữu và quyền năng,
ân huệ của một vị Thần hay Thiên Chúa; truyền thống tôn giáo; và những
huyền bí và siêu nhiên trong tôn giáo.
Chúng
ta hãy xét từng đặc tính một ở trên để xem quan điểm của Phật Giáo đối
với các đặc tính trên như thế nào.
1.
Vấn đề Quyền Lực.
Quyền
Lực thường được tạo trên đám tín đồ kém hiểu biết. Trong các Thần Giáo,
giới giáo sĩ, thí dụ Linh Mục trong Công Giáo, Mục Sư trong Tin Lành
Giáo, các giáo sĩ trong Hồi Giáo, các Rabbi trong Do Thái Giáo, giai cấp
Bà La Môn trong Ấn Độ Giáo, đều là những người tự cho mình là thông thái
hơn đám tín đồ ở dưới, chỉ có họ mới đủ khả năng để hiểu và diễn giải
Kinh Điển trong tôn giáo của họ. Từ điều này họ tạo thành một quyền
lực trên đám tín đồ và tạo nên giáo điều "quên mình trong vâng phục" mà
các tín đồ phải tin theo.
Cấu
trúc toàn trị của Công Giáo là một thí dụ, dù rằng lịch sử đã chứng minh
rằng sự hiểu biết và diễn giải Thánh Kinh của các giới lãnh đạo Công
giáo, từ Giáo Hoàng trở xuống, nhiều khi rất sai lầm, luôn luôn ở trong
tình trạng "sai đó sửa đâu?" hay "sửa đâu sai đó". Bởi vậy cho nên nền
thần học Ki Tô Giáo đã phải thay đổi rất nhiều qua thời gian. Lịch sử
Ki Tô Giáo đã chứng tỏ những sai lầm thần học là nguyên nhân của những
tác hại mà Ki Tô Giáo đã mang đến cho nhân loại trong gần 20 thế kỷ,
điển hình là những cuộc Thánh Chiến, những Tòa Án Xử Dị Giáo, những cuộc
chiến tranh tôn giáo, những sự liên minh với thực dân để đi truyền đạo
trong các nước kém mở mang v..v... Vụ xưng thú 7 núi tội lỗi của Công
Giáo gần đây là một bằng chứng hiển nhiên nhất. Tuy vậy mà các tín đồ
vẫn luôn luôn được dạy là phải "quên mình trong vâng phục".
Quyền
lực của Tin Lành nằm trong Thánh Kinh. Tin Lành chủ trương "Chỉ bằng
vào Đức Tin vào Giê-su, con người sẽ được Thiên Chúa coi như người công
chính và do đó được sống trên thiên đường vĩnh hằng trong Chúa Ki Tô”
[Justification by faith = The just (justified, saved) shall live
[have eternal life] by faith [in Christ]” (Rom 1: 17)] và Thánh Kinh là
những lời mạc khải của Thiên Chúa nên không thể sai lầm. Trên thực tế
Tin Lành đã áp dụng điều trên như là “Đức Tin biện minh cho tất cả"
để làm tất cả những việc ác ở trên đời như săn lùng phù thủy, thiêu sống
thổ dân Mỹ vì không chịu theo Tin Lành. Tin Lành cũng tin rằng Thánh
Kinh là những lời mạc khải của Thiên Chúa, nên không thể sai lầm. Do
đó, đối với Tin Lành, nếu thực tế sai với Thánh Kinh thì phải loại bỏ
thực tế, dù rằng ngày nay nhiều nhà nghiên cứu Thánh Kinh đã chứng minh
rằng trong Thánh Kinh có vô số những điều sai lầm về Thần Học cũng như
Khoa Học. Tin Lành không ngăn cấm tín đồ đọc và tìm hiểu Thánh Kinh Ki
Tô Giáo nhưng chỉ được hiểu theo sự diễn giảng của giới Mục Sư. Cũng vì
vậy mà cho đến tận ngày nay phái bảo thủ Tin Lành vẫn còn chống đối
thuyết Tiến Hóa, phát minh ra những lý thuyết thần học quái gở như “khoa
học sáng tạo” (creation science) và rồi “thiết kế thông minh”
(intelligent design) để biện minh cho tác phẩm sáng tạo của Thiên Chúa
của họ.
Địa vị
và quyền lực của các giáo sĩ trong Hồi Giáo là một thí dụ khác. Chúng
ta không còn lạ gì những đạo luật rất khắc nghiệt của Hồi Giáo đối với
giới phụ nữ và đối với những vi phạm luân lý nhỏ nhoi không đáng kể
trong những xã hội Tây phương.
Đức
Phật đã đưa ra một giáo lý trong đó không có quyền lực. Từ hơn 25 thế
kỷ về trước, Đức Phật đã đi tiên phong trong vấn đề bác bỏ quyền lực tôn
giáo, không những quyền lực của cá nhân mà còn của cả Kinh Điển nữa.
Trong mục 3, Vấn Đề Truyền Thống, tôi sẽ khai triển thêm điều này. 21
thế kỷ sau, Martin Luther của Ki Tô Giáo đã theo gót Đức Phật, bác bỏ
quyền lực trong cấu trúc toàn trị của Công giáo để lập ra đạo Tin
Lành. Nhưng thực tế là Tin Lành đã thay thế quyền lực của Giáo Hoàng
Công giáo bằng quyền lực của Thánh Kinh. Cho nên, người ta bảo rằng các
tín đồ Công giáo là nô lệ của giáo hoàng, còn các tín đồ Tin Lành là nô
lệ của Thánh Kinh. Phật giáo quan niệm, dù nô lệ vật chất hay nô lệ
tinh thần cũng đều là nô lệ, làm mất phẩm giá con người.
2.
Vấn đề hiện hữu và quyền năng, ân huệ của một Thiên Chúa.
Mỗi
Thần giáo đều có một quan niệm riêng về Thiên Chúa của mình. Về bản
chất, những Thiên Chúa này không khác gì những Thần linh trong dân gian,
thí dụ như thần cây đa, thần sông, thần núi của dân Việt Nam khi xưa, vì
tất cả đều nằm trong niềm tin của con người chứ không phải là một thực
thể. Những cuốn sách khảo cứu về quan niệm các Thiên Chúa trên thế
gian, thí dụ như cuốn Một Lịch Sử Thiên Chúa (A History of God)
của Nữ Tu Ca-Tô Karen Armstrong, cuốn Một Thế Giới Đầy Những Thiên
Chúa (A World Full of Gods) của Keith Hopkins v..v.. đã chứng minh
sự kiện này. Cho nên, quan niệm Thiên Chúa này hay Thiên Chúa kia là
duy nhất, là toàn năng, là lòng lành vô cùng v..v.. là một quan niệm đã
lỗi thời. Để thấy rõ vấn đề hơn, có lẽ chúng ta cũng nên biết quan niệm
về Thiên Chúa quyền phép vô cùng từ đâu mà ra.
Chúng ta hãy đi ngược trở lại
thời tiền sử. Khi đó con người cảm thấy yếu đuối và sợ hãi trước thiên
nhiên, từ những cơn bão tố sấm sét, những cuộc động đất, lụt lội, những
kỳ núi lửa phun ra nham thạch v..v.. những hiện tượng con người khi đó
không thể giải thích vì chưa đủ trí tuệ để hiểu. Ngoài ra con người còn
phải đối diện với trăm thứ bệnh tật, bất an trong cuộc đời. Cho nên,
thật là dễ hiểu khi chúng ta thấy con người thời đó nghĩ rằng, chắc
những thiên tai, bệnh tật kể trên phải có một nguyên nhân sâu xa nào đó
nằm ngoài sự hiểu biết của họ, và họ đã qui mọi hiện tượng thiên nhiên
về hoạt động của những bậc siêu nhiên mà họ gọi là Thần (Gods) (Người Ki
Tô giáo gọi Thần của họ (Christian God) là Thượng Đế hay Thiên Chúa).
Thí dụ, sét được coi như là những lưỡi gươm của Thiên Chúa giáng xuống
nhân loại, sấm được coi như là tiếng nói trong cơn thịnh nộ của Thiên
Chúa, những bệnh dịch tả, dịch hạch, vì có tính truyền nhiễm nên làm
chết hại nhiều ngàn người vì chưa có thuốc phòng ngừa hay chữa chạy,
cũng được coi như là họa của Thiên Chúa giáng xuống đầu con người để
trừng phạt con người vì tội đã làm phật ý Thiên Chúa. Nhưng con người
lại không chịu dậm chân tại chỗ, cho nên ngày nay, chúng ta đã hiểu, và
hiểu rất rõ, bệnh tật từ đâu mà ra, tại sao có sấm, sét, và tiên đoán
được khi nào có sấm, sét và có ở đâu v...v... Do đó, những quan niệm
thuộc loại mê tín như Thiên Chúa có thể ban phúc, giáng họa cho nhân
loại là những quan niệm đã lỗi thời, không phù hợp với những thực tế ở
ngoài đời. Ngày nay, khi trời sấm sét, chó và mèo còn cúp đuôi chạy
trốn, nhưng con người thì bình thản ngồi viết bài chống mê tín dị đoan,
chống những chuyện hoang đường phản khoa học, phi lý trí.
Một câu hỏi được đặt ra: Tại sao
ngày nay vẫn còn nhiều người tin vào một Thiên Chúa toàn năng, toàn
trí? Phật Giáo đã nhìn thấy rõ vấn đề này. Đức Phật đã thấy rõ chúng
sinh thì vô lượng, nhưng căn trí thì bất đồng. Bởi vậy giáo lý của
người là để khai sáng, chuyển hóa con người chứ không chống đối bất cứ
niềm tin nào của con người. Vì căn trí bất đồng nên có người theo được
con đường Bi, Trí, Dũng của Phật Giáo, tự mình bước đi những bước chân
vững chãi trên con đường giải thoát, mở mang trí tuệ, tự tu, tự chứng.
Và cũng có những người hoặc do truyền thống tôn giáo, gia đình, hoặc từ
khi sinh ra đã sống trong môi trường khép kín về trí tuệ, tư duy, nên
được nhào nặn để dựa trên một cặp nạng Thần quyền lê lết tạm bợ trên
trường đời, chốn chim muông cầm thú, chờ ngày về quê thật với ông Thánh
David (Charlie Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm, trg.
73: "Xin Chúa làm cho tôi khinh dễ sự đời là chốn muông chim cầm thú,
xin làm cho tôi đặng về quê thật hiệp làm một cùng vua David."
(Trích dẫn từ Kinh Nhựt Khóa của CG)). Thật là tội nghiệp, những tín đồ
Công giáo Việt Nam đầu óc mù mịt bị những ông linh mục xứ đầu óc cũng
không hơn họ bao nhiêu, nhồi sọ từ nhỏ và chưa hề biết đến cuốn Thánh
Kinh nên không biết rằng trong Thánh Kinh, David chẳng qua chỉ là một
tên tướng cướp, đến khi lên làm Vua thì hoang dâm vô độ, vô đạo đức,
cướp vợ của thuộc hạ v..v… Người Do Thái tôn vinh David vì hắn có công
với Do Thái chứ chẳng liên quan gì đến dân Việt Nam. Tín đồ Công giáo
Việt Nam được bề trên dạy sao thì tụng vậy, chứ có biết gì về David và
tại sao lại phải về quê thật với một tên Vua Do Thái vô đạo đức, xuất
thân từ một tên tướng cướp.
Chúng ta cũng nên biết, nền Thần
Học Ki Tô Giáo, để theo kịp sự tiến hóa của nhân loại, đã phải giải
thích lại nhiều lần quan niệm về một Thiên Chúa. Nhưng ngày nay những
giải thích này đều bị bác bỏ, vì nền Thần Học Ki Tô Giáo đặt tiền đề
trên sự hiện hữu của một Thiên Chúa toàn năng, toàn trí, toàn thiện rồi
dùng lý luận thần học để thuyết phục con người là một Thiên Chúa với
những thuộc tính như vậy hiện hữu. Nhưng nền thần học Ki Tô Giáo không
thể thuyết phục được những người có đầu óc trong thời đại này vì nó chứa
rất nhiều mâu thuẫn và phi lý. Nó chỉ còn hợp với những người mà đầu óc
so với đầu óc của những người cách đây trên 2000 năm cũng chưa tiến bộ
được bao nhiêu. Thật vậy, chúng ta đều biết đến lời phát biểu của vật
lý gia nổi tiếng nhất thế kỷ 20 là Albert Einstein như sau:
Tôi không thể quan niệm được
một Thiên Chúa thưởng phạt những tạo vật của mình.. Ý tưởng về một đấng
can thiệp vào những sự việc xảy ra trong thế gian thì tuyệt đối không
thể nào có.
(I cannot
conceive of a God who rewards and punishes his creatures.. The idea of
a being who interferes with the sequences of events in the world is
absolutely impossible.)
Nhận định sau đây của James A.
Haught trong cuốn 2000 years of Disbelief: Famous People with the
Courage to Doubt, trang 324, có thể cho chúng ta thấy rõ vấn
đề hơn:
Qua luận lý, chúng ta có thể
thấy quan niệm của giáo hội về một Thiên Chúa ở trên trời với lòng
thương yêu nhất mực không đứng vững. Nếu có một đấng thần linh sáng tạo
ra muôn loài thì ông ta đã làm ra ung thư vú cho phái nữ, bệnh hoại
huyết cho trẻ con, bệnh cùi, bệnh AIDS, bệnh mất trí nhớ (Alzheimer), và
hội chứng Down (khuyết tật tinh thần). Ông ta ra lệnh cho những con cáo
cắn xé nát những con thỏ ra từng mảnh, những con báo giết những hươu
nai. Không có một con người nào độc ác đến độ hoạch định những sự khủng
khiếp như vậy. Nếu một đấng siêu nhiên làm như vậy, ông ta là một con
quỷ, không phải là một người cha nhất mực nhân từ.
(Through logic,
you can see that the church concept of an all-loving heavenly creator
doens't hold water. If a divine Maker fashioned everything that exists,
he designed breast cancer for women, childhood leukemia, leprosy, AIDS,
Alzheimer's disease, and Down's syndrome. He mandated foxes to rip
rabbits apart and cheetahs ro slaughter fawns. No human would be cruel
enough to plan such horrors. If a supernatural being did so, he's a
monster, not an all-merciful father.)
Chúng ta hãy tự đặt một câu hỏi,
trong thời đại này, chúng ta còn có thể tin được luận điệu thần học Ki
Tô Giáo cho rằng, chỉ vì Adam và Eve cưỡng lời Thiên Chúa ăn một trái
trên cây hiểu biết để có trí tuệ bằng Thiên Chúa nên cả nhân loại đều bị
Thiên Chúa đày đọa? Điều hiển nhiên là trí tuệ loài người ngày nay đã
vượt xa về hiểu biết cũng như về đạo đức của Thiên Chúa trong Thánh
Kinh. Hơn nữa, người Việt Nam chúng ta có câu "Con hơn cha là nhà có
phúc", nếu không như vậy thì thế giới làm gì có tiến bộ? Nếu cứ như ý
định của Thiên Chúa thì loài người sẽ triền miên sống trong sự tối tăm,
trí tuệ và đạo đức thấp kém. Bởi vậy, nếu chúng ta đọc những cuốn sách
viết về cuộc chiến giữa khoa học và nền thần học Ki Tô Giáo trong hơn
một thế kỷ nay thì chúng ta sẽ thấy nền thần học Ki Tô Giáo đã không còn
chỗ đứng trong giới trí thức, ở trong cũng như ở ngoài Ki Tô Giáo, khoan
kể đến tuyệt đại đa số các khoa học gia. Ngoài ra, nếu chúng ta đọc
những cuốn nghiên cứu phê bình Thiên Chúa điển hình như cuốn Những
Phê Bình về Thiên Chúa (Critiques of God), biên tập bởi Peter A.
Angeles, trong đó có 16 tác giả phê bình về mọi lý luận thần học của Ki
Tô Giáo; hoặc cuốn Thiên Chúa là Cái Gì? (What is God?), biên tập
bởi Kenneth G. Lucey, trong đó có những bài khảo luận của Richard R. La
Croix, thì chúng ta sẽ thấy mọi lý luận thần học về sự hiện hữu của một
Thiên Chúa với những thuộc tính toàn năng, toàn trí, toàn thiện, thí dụ
như của Thomas Aquinas, Augustine, Descartes v..v.. đều đã bị bác bỏ dứt
khoát. Thật vậy, trong phần Tựa của cuốn Critiques of God,
trang xiii, chúng ta có thể đọc đoạn sau đây:
Những niềm tin vào những đấng
siêu nhiên đã biến khỏi nền văn hóa của chúng ta. Bất cứ niềm tin chắc
đại cương nào về Thiên Chúa cũng đang trỏ thành mờ nhạt trong nền văn
hóa của chúng ta. Thiên Chúa đã mất đi trụ xứ trong không gian như là
một nước trên Thiên đàng. Ông ta cũng mất đi chỗ đứng trong vũ trụ như
là đấng đã sáng tạo ra nó từ hư vô. Không phải là Thiên Chúa bị đẩy ra
một vùng xa lắc xa lơ. Không phải vì ông ta trở thành một trừu tượng vô
thân thể (không đực không cái). Mà vì chúng ta nhận thức ra rằng
chẳng làm gì có Thiên Chúa để mà nói tới.
(Beliefs in supernatural beings have vanished from our culture. Any
general serious belief in God is fading in our culture. God has lost
his spatial location as a monarch in heaven. He has lost his temporal
precedence to the universe as its Creator ex nihilo. It is not God is
being relegated to a remote region. It is not that God has become a
bodiless abstraction (a sexist It). It is te realization that there is
no God to which to relate.)
Sau đây là một đoạn trong phần
Dẫn Nhập trong cuốn A History of God của nữ tu Công giáo Karen
Armstrong:
Thiên Chúa là một khuôn mặt
khá mù mờ, được định nghĩa trong những trừu tượng trí thức thay vì những
hình ảnh rõ ràng. Khi tôi mới lên chừng 8 tuổi, tôi phải nhớ câu trả
lời theo giáo lý của câu hỏi, "Thiên Chúa là cái gì?: "Thiên Chúa là
Thần Linh cao nhất, tự hiện hữu và vô cùng hoàn hảo trên mọi phương
diện." Không lạ gì, lời giải thích trên chẳng có mấy ý nghĩa đối với
tôi, và tôi phải nói rằng ngày nay định nghĩa trên cũng chẳng có gì hấp
dẫn. Đó vẫn là một định nghĩa đơn thuần khô khan, huênh hoang, và kiêu
căng. Tuy nhiên, từ khi tôi viết cuốn sách này, nay tôi đã tin rằng định
nghĩa trên cũng còn sai lầm nữa.
(God…was a somewhat shadowy figure,
defined in intellectual abstractions rather than images. When I was
about eight years old, I had to memorize this catechism answer to the
question, "What is God?": "God is the Supreme Spirit, Who alone exists
of Himself and is infinite in all perfections." Not surprisingly, it
meant little to me, and I am bound to say that it still leaves me cold.
It has always seemed a singularly arid, pompous and arrogant
definition. Since writng this book, however, I have come to believe
that it is also incorrect.)
Và trong cuốn Sự Vô Tận Ở
Trong Lòng Bàn Tay (L'infini Dans La Paume de la Main) của Matthieu
Ricard và Trịnh Xuân Thuận (tôi sẽ trở lại 2 tác giả này trong đoạn
kết), trang 51, Matthieu Ricard đưa ra nhận định:
Mọi tôn giáo (thần giáo) và
mọi triết thuyết đều thất bại trên vấn đề sáng tạo...Khoa học đã loại bỏ
sự sáng tạo bằng cách bỏ đi khái niệm về Thiên Chúa Sáng Tạo mà khoa học
không cần đến và Phật Giáo cũng vậy, loại bỏ sự sáng tạo bằng cách bỏ đi
khái niệm về một sự bắt đầu.
(Toutes les religions et les
philosophies ont buté sur ce problème de la création. La science s'en
est débarrassée en éliminant la notion de dieu créateur dont elle n'a
pas besoin et le bouddhisme en éliminant la notion même d'un début.)
Như vậy, 25 thế kỷ sau thời Phật
tại thế, con người mới dần dần đi đến sự nhận thức là chẳng làm gì có
Thiên Chúa toàn năng toàn trí, sáng tạo ra muôn loài và có quyền thưởng
phạt con người. Đức Phật đã nhận thức được như vậy, do đó Phật Giáo, từ
hơn 2500 năm nay, là tôn giáo không chấp nhận thuyết sáng tạo cũng như
thần quyền thưởng phạt hoang đường. Quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo
là vô thỉ vô chung. Đức Phật cũng đã thấy rõ sự vận hành của thuyết
Tiến Hóa. Người đã biết chúng sinh căn tính bất đồng cho nên Người đã
đưa ra nhiều Pháp môn để dẫn dắt con người, tùy theo căn trí, tiến tới
giác ngộ. Chúng ta thường nhắc đến con số 84000 Pháp môn, tượng trưng
cho một con số lớn. Người đời thường cho Đức Phật là một vị lương y
giỏi, tùy bệnh mà cho thuốc. Không có gì hoang đường và phản khoa học
bằng quan niệm chỉ cần có một phương thuốc, bất kể nó tên là gì, "Đức
Tin" hay "Cứu rỗi", là có thể chữa được mọi căn bệnh của chúng sinh với
căn tính bất đồng.
3. Vấn đề truyền
thống.
Truyền
thống, nói một cách đại cương, là những gì thuộc trí tuệ, kinh nghiệm,
nếp sống v..v.. mà con người trong một xã hội, một nền văn hóa, truyền
lại từ đời này sang đời khác. Qua thời gian, do sự mở mang trí tuệ, do
những sáng kiến mới của con người, truyền thống có thể thay đổi, cải
tiến, để phù hợp với sự tiến hóa của nhân loại. Tuy nhiên, trong các
thần giáo, truyền thống lại thường là những giây xích buộc chặt con
người trong vòng "quên mình trong vâng phục" và do đó, thường có tác
dụng ngăn chận sự tiến bộ của con người.
Truyền
thống trong Công Giáo Rô-ma được tóm tắt trong câu (J. Sheatsley, The
Pope's Catechism, p.80):
Tín
đồ Ca-Tô phải tin tất cả những gì Thiên Chúa đã mạc khải và tất cả những
gì Giáo hội Công giáo dạy, bất kể là những điều đó có hay không có
trong Thánh Kinh.
Vì
Truyền Thống Công giáo (nghĩa là những gì giáo hội dạy) và Thánh
Kinh đều do Thiên Chúa mạc khải.
(A Catholic must believe all that God
has revealed and the Catholic Church teaches, whether it is contained in
Holy Scripture or not.
Because Catholic Tradition and Holy
Scripture were alike revealed by God)
Bởi vậy mà khi giáo hội Công giáo dạy Đức Mẹ, sau khi sinh nở ít nhất là
7 lần, vẫn còn đồng trinh, hay Đức Mẹ cả hồn lẫn xác bay lên trời, hay
giáo hoàng là đại diện của Chúa trên trần, nắm trong tay chìa khóa mở
cửa thiên đường, không thể sai lầm v..v..thì giáo dân cũng bắt buộc phải
tin, dù những điều này không hề có trong Thánh Kinh. Và, khi vào Việt
Nam, giáo hội bắt giáo dân phải dẹp bàn thờ ông bà, tổ tiên trong hơn
400 năm, thì giáo dân cũng phải tin theo và làm đúng như vậy. Sau Công
Đồng Vatican II, giáo hội "cho phép" thờ cúng tổ tiên để nhặt thêm tín
đồ thì giáo dân cũng lác đác tin theo, vì vẫn có ông linh mục cho rằng
cúng giỗ là "làm chay cúng ruồi".
Truyền
thống trong Tin Lành là phải tuyệt đối tin rằng Thánh Kinh là những lời
mạc khải của Thiên Chúa nên không thể sai lầm. Nếu khoa học mà phù hợp
với Thánh Kinh thì đó là khoa học tốt (Good science). Nếu khoa học mà
không phù hợp với Thánh Kinh thì đó là khoa học xấu (Bad science).
Truyền thống trong Tin Lành cũng là phải tuyệt đối tin rằng con người
sinh ra trong tội lỗi (born in sin) và do bản chất đó, con người không
thể làm gì tốt (by nature, incapable of doing good), phải bị đày đoạ
vĩnh viễn (To be a sinner is to be destined to eternal damnation), và
cách duy nhất để được cứu rỗi là phải tin vào quyền năng của Giê-su
(Justification by Faith). (Xin đọc Rubem Alves, Protestantism and
Repression, p. 34)
Truyền
thống trong Ấn Độ Giáo là phải tôn trọng sự phân chia giai cấp.
Truyền
thống trong Hồi Giáo thì tôi xin miễn bàn.
Đức
Phật đã thấy trước sự tai hại của các truyền thống tôn giáo như trên nên
Người đã đưa ra một giáo lý trong đó không có truyền thống. Chúng ta
hãy đọc "Kinh Nền Tảng Đức Tin" của Phật Giáo, thường được biết
là Kinh Phật thuyết cho người dân Kalama (Tỳ Kheo Thích Nhật Từ,
Kinh Tụng Hằng Ngày, Đạo Phật Ngày Nay, Phật Lịch 2546, trang
98-99):
...Này các thiện nam tín nữ Ka-la-ma, nhân đây Như Lai sẽ giảng giải về
10 nền tảng của đức tin chân chánh:
Một
là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó là truyền thuyết.
Hai
là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống.
Ba là,
chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay
tuyên truyền.
Bốn
là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong kinh điển
hay sách vở.
Năm
là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc lý luận siêu hình.
Sáu
là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường của
mình.
Bảy
là, chớ vội tin một điều gì, khi mà điều đó được căn cứ trên những dữ
kiện hời hợt.
Tám
là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy phù hợp với định kiến của
mình.
Chín
là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được sức mạnh và quyền uy
ủng hộ.
Mười
là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay
đạo sư của mình tuyên thuyết.
Này
các thiện nam tín nữ, khi nghe một điều gì, các vị phải quán sát, suy tư
và thể nghiệm, chỉ khi nào, sau khi kiểm nghiệm, quý vị thực sự nhận
thấy: "Lời dạy này tốt lành, đạo đức, hướng thiện, chói sáng và được
người trí tán thán, nếu sống và thực hiện lời dạy này sẽ đưa đến hạnh
phúc, an lạc ngay hiện tại và về lâu, về dài" thì lúc ấy quý vị hãy đặt
niềm tin bất động và thực hành theo.
Với
Kinh Nền Tảng Đức Tin này, người đời bảo rằng Phật Giáo là đạo của
trí tuệ quả nhiên không sai. Vì đây mới chính là nền tảng đức tin mà
theo tôi, tuyệt vời nhất trong mọi nền tảng đức tin khác, vì nền tảng
này đã tôn trọng phẩm giá và trí tuệ của con người đúng nghĩa là một con
người. Nếu con người từ bỏ thân phận làm người của mình để "cúi đầu
trong vâng phục", "bảo sao nghe vậy", "chỉ đâu đi dó", "tin mà không cần
biết, không cần hiểu", thì thực chất không khác gì một con cừu, rút
cuộc cũng chỉ bị đưa vào lò sát sinh mà thôi.
Kinh
Nền Tảng Đức Tin của Phật Giáo đã mở một chân trời mới cho người Tây
phương. Bắt đầu từ đây, người Tây phương đã có thể, theo như Mục sư
Harry Willson, tháo gỡ những ngón tay bóp chặt yết hầu họ, cất đi gánh
nặng Thượng đế trên vai họ, để được hít thở bầu không khí trong sạch.
Và cũng từ đây, tâm thức Tây phương đã mở để đón nhận một luồng gió tư
tưởng mới từ Đông phương thổi tới. Luồng gió này chính là các tư tưởng
từ bi hỉ xả, vị tha, nhân bản, rộng rãi, khoan dung, tiến bộ, và phù hợp
với các suy lý khoa học của Phật Giáo.
Đến
đây chúng ta đã hiểu tại sao trong quá trình truyền đạo của Phật Giáo
không hề có một giọt máu đổ. Với Kinh Kalama như trên thì Phật Giáo
không thể nào có những cuộc Thánh Chiến, những Tòa Án Xử Dị Giáo, những
cuộc xâm lăng để cưỡng bách người ngoại đạo phải theo đạo, những vết nhơ
không bao giờ có thể rửa sạch trong lịch sử loài người. Với Kinh Kalama
như trên thì Phật Giáo không bao giờ có thể có được chế độ giáo hoàng,
chế độ của các giáo sĩ Hồi giáo, Rabbi Do Thái Giáo, giai cấp Bà La Môn,
hay quyền lực của Kinh điển.
Như
trên đã nói, Phật Giáo dứt khoát phá đổ chế độ giai cấp trong các Thần
Giáo, chế độ xây dựng trên niềm hoang tưởng, cho rằng giáo sĩ là giai
cấp ở trên, thông thái, độc quyền diễn giải Kinh điển và do đó là giai
cấp ngự trị, các tín đồ ở dưới chỉ có quyền vâng phục. Thật vậy, trong
Kinh Duy Ma, Cư sĩ Duy Ma Cật là bậc có trí tuệ vượt hơn nhiều đệ tử
xuất gia của Phật, và trong Kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài Đồng Tử đi cầu
đạo đã gặp 53 vị Thiện-Tri-Thức, gồm đủ mọi thành phần trong xã hội, và
được dạy cho 53 Pháp môn tiến tới giải thoát khác nhau. Ngày nay, có
nhiều dấu hiệu cho thấy các Thần giáo cũng đang dần dần chuyển hóa đến
tinh thần dân chủ trong Phật Giáo.
4.
Vấn đề Huyền Bí và Siêu Nhiên.
Trong
các Thần Giáo bao giờ chúng ta cũng thấy không ít thì nhiều những sắc
thái thuộc loại huyền bí hay huyền nhiệm, nghĩa là những điều không thể
giải thích được mà tín đồ chỉ có việc tin, không cần biết, không cần
hiểu. 7 bí tích trong Công Giáo Rô-ma và 2 bí tích trong Tin Lành thuộc
loại này. Ngoài ra còn những phép lạ hay tác dụng lạ lùng của những
thánh tích, phần lớn là ngụy tạo, cũng thuộc loại này. Huston Smith,
giáo sư triết tại đại học nổi tiếng MIT, đã đưa ra một nhận định sâu sắc
trong cuốn The Religions of Man, trang 104, về tác dụng của
những sự huyền bí trong tôn giáo. Giáo sư Smith cho rằng những cái gọi
là huyền nhiệm và phép lạ đã biến tôn giáo trở thành "một kỹ thuật để
phỉnh phờ hay ép buộc vô số những đứa trẻ ít hiểu biết trong vũ trụ làm
những điều mà người ta muốn chúng làm" (a technique for cajoling or
coercing innumerable cosmic bellhops to do what you wanted them to).
Chúng
ta đều biết rằng Phật Giáo không coi trọng những chuyện huyền bí và siêu
nhiên. Có 2 câu chuyện thú vị trong Phật Giáo chứng tỏ điều này. Câu
chuyện thứ nhất là có một đệ tử trổ tài đi trên nước qua sông, cũng như
gần 600 năm sau Chúa Giê-su trổ tài đi vài bước trên nước, hay Thánh
Francois de Salle đi trên sóng. Đức Phật chỉ nhẹ nhàng nói: "Thật là
tội nghiệp cho ngươi quá, mất công tập luyện nhiều năm chỉ để làm như
vậy. Ta chỉ cần bỏ ra vài đồng tiền là ông lái đò có thể chở ta qua
sông." Chuyện thứ hai là có một đệ tử trổ tài nhào lộn trên cây,
Đức Phật bèn quở trách đệ tử đó. Trong cả hai chuyện, Đức Phật đã cho
rằng những hành động siêu nhiên chẳng nói lên được điều gì, chẳng chứng
tỏ được gì, và cũng chẳng có ích lợi gì cho việc tu tập trên con đường
giải thoát, nhiều nhất chỉ là để mê hoặc những người trí tuệ thấp
kém.
Giới
giáo sĩ trong các Thần giáo thường dạy các tín đồ là kinh điển trong tôn
giáo của họ chứa những điều huyền nhiệm mà chỉ có họ là hiểu được, và
chỉ có họ là có thể diễn giảng đúng tinh thần của kinh điển. Và, để giữ
độc quyền này, họ không muốn cho tín đồ tự mình đọc những kinh điển, sợ
rằng tín đồ sẽ hiểu sai. Điều này rõ ràng nhất trong Công giáo Rô-ma.
Lịch sử Công giáo cho biết, giáo hội cấm không cho dịch Thánh
Kinh từ tiếng La-Tinh ra tiếng địa phương, và cấm luôn cả
tín đồ không được tự mình đọc Thánh Kinh. Vi phạm điều này có thể bị
tuyệt thông, hoặc tịch thu tài sản, hoặc bị xử tử. Bác sĩ Nguyễn Văn
Thọ cho rằng Giáo hội sợ tín đồ nhận ra những điều sai lầm và mâu thuẫn
trong Thánh Kinh.
Phật
Giáo trái hẳn lại. Đức Phật đã khuyên các đệ tử nên dùng ngôn ngữ, văn
tự địa phương để truyền bá đạo Phật. Đi đến đâu, Kinh điển Phật Giáo
cũng đều được dịch ra tiếng địa phương. Điển hình là ở Trung Hoa, Nhật
Bản v..v.., ngay từ những thế kỷ đầu của thời đại này, các kinh điển
Phật Giáo đã được dịch ra tiếng địa phương. Ở Âu Châu, đến thế kỷ 16,
Martin Luther mới theo gót tinh thần khai phóng và dân chủ của Phật
Giáo, chống lại chế độ giáo hoàng toàn trị của Công giáo và bắt đầu dịch
Thánh Kinh sang tiếng Đức. Và từ đó, Ki-Tô giáo mới có những cuốn Thánh
Kinh bằng tiếng địa phương, và cũng từ đó mà Ki Tô Giáo bắt đầu suy
thoái vì đầu óc tiến bộ của con người không còn có thể chấp nhận những
chuyện hoang đường ở trong Thánh Kinh không còn phù hợp với sự hiểu biết
của nhân loại ngày nay.
Vài Lời Kết.
Viết
bài này, tôi chỉ có mục đích duy nhất là trình bày cùng quý độc giả sự
kiện là về các lãnh vực khoa học, tôn giáo và xã hội, nhiều tư tưởng
Phật Giáo đã đi trước nhân loại khá xa. Bài viết này không có mục đích
chống đối niềm tin của bất cứ ai trong bất cứ tôn giáo nào. Hiểu rõ là
chúng sinh thì căn trí bất đồng nên tôi không có lý do gì để chống niềm
tin của người khác mà tôi cho đó là quyền tuyệt đối của con người. Tuy
nhiên, tôi nghĩ rằng, trong thời đại này, chúng ta không thể tự cho phép
quay trở về thời Trung Cổ, làm ngơ trước những tiến bộ tư tưởng của con
người. Cho nên bài viết này chẳng qua chỉ là trình bày phần nào một
khía cạnh tiến hóa của tư duy nhân loại, dựa trên những kết quả nghiên
cứu đáng tin cậy của những bậc thức giả trong mọi tôn giáo và trong khoa
học.
Thay
vì có vài lời kết luận, tôi xin giới thiệu cùng quý độc giả một cuốn
sách có giá trị cao, đó là cuốn Sự Vô Tận Nằm Trong Lòng Bàn Tay: Từ
Big Bang đến sự Tỉnh Thức (L'Infini Dans La Paume De La Main: Du Big
Bang à L'Éveil) của Matthieu Ricard và Trịnh Xuân Thuận, xuất bản năm
2000 tại Pháp. Cuốn sách này nay đã được dịch sang tiếng Anh với tên:
Một Cuộc Hành Trình Tới Những Tận Cùng Kiến Thức Ở Đó Khoa Học và Phật
Giáo Gặp Nhau: Nguyên Lượng và Hoa Sen (A Journey To The Frontiers
Where Science and Buddhism Meet: The Quantum and the Lotus) với đôi chút
thay đổi trong bố cục và văn tự, xuất bản tại Mỹ năm 2001. Tuy nhiên,
tôi phải nói ngay rằng, giá trị của cuốn sách này tùy thuộc trình độ
hiểu biết của người đọc trong cả hai lãnh vực: khoa học và tôn giáo,
nhất là Phật Giáo. Matthieu Ricard là đồng tác giả với ông bố
Jean-Francois Revel trong cuốn sách nổi tiếng Le Moine et le
Philosophe xuất bản năm 1998 ở Pháp. Cuốn sách này đã được dịch
sang tiếng Việt: Tăng Sĩ và Triết Gia, và sang tiếng Anh: The
Monk and the Philosopher. Matthieu là một khoa học gia trở thành
một tăng sĩ Phật Giáo. Còn Trịnh Xuân Thuận, sinh trưởng trong một gia
đình Phật Giáo, là giáo sư khoa học nghiên cứu các thiên thể (thiên văn
học) , đại học Virginia. Nội dung cuốn L'Infini Dans La Paume de la
Main là những trao đổi ý kiến giữa Matthieu Ricard và Trịnh Xuân
Thuận về khoa học Tây phương và triết lý Phật Giáo. Đức Đạt Lai Lạt Ma
đã cho rằng cuốn sách này là một đóng góp lớn lao cho sự hiểu biết rõ
hơn bản chất thật của thế giới của chúng ta và đạo chúng ta sống trong
đó.
Trong
phần kết luận, khoa học gia Trịnh Xuân Thuận cho chúng ta biết rằng, tuy
đã biết và đánh giá cao khía cạnh thực hành của Phật Giáo, giáo sư Thuận
không tin rằng có thể có sự đối chiếu giữa khoa học và Phật Giáo, vì con
đường thực nghiệm của khoa học và con đường quán chiếu nội tâm của Phật
Giáo hoàn toàn khác nhau, cho nên Phật Giáo chẳng có gì mấy để nói về
thế giới các hiện tượng, đối tượng nghiên cứu của khoa học.
(Je n'étais donc pas du tout sur qu'une
démarche consistant à confronter la science et le bouddhisme puisse
avoir un sens. Je redoutais que le bouddhisme n'ait que peu à dire sur
la nature du monde phénoménal, car ce n'est pas sa préoccupation
principale, alors que c'est fondamentalement celle de la science.)
Tuy
nhiên, sau khi trao đổi ý kiến với Matthieu Ricard, giáo sư Trịnh Xuân
Thuận đã thay đổi ý kiến và ông viết:
Trong cuộc trao đổi ý kiến của chúng tôi, tôi đã nhận ra rằng sự e ngại
của tôi là vô căn cứ: không những Phật Giáo suy tư về bản chất của thế
giới, mà còn suy tư một cách sâu sắc và đặc thù...
Điều chính mà tôi học được từ cuộc đối thoại này là, không còn nghi ngờ
gì nữa, có một sự hội tụ và cộng hưởng giữa hai cách nhìn thực tại của
Phật Giáo và của khoa học. Một vài khẳng định của Phật Giáo về thế giới
các hiện tượng đã đem đến một cách kỳ lạ những ý tưởng tiềm ẩn trong
khoa học vật lý hiện đại, đặc biệt là hai lý thuyết vĩ đại, cột trụ của
vật lý hiện đại: cơ học nguyên lượng - khoa vật lý về những vật vô cùng
nhỏ - (nguyên tử và các hạt tiềm nguyên tử như điện tử, quark v..v..
TCN) và thuyết tương đối - khoa vật lý về những vật vô cùng lớn
(vũ trụ học: sao, thiên hà v..v... TCN).
(À mesure que nos conversations se sont
poursuivies, je me suis rendu compte que mes craintes n'étaient pas
fondées: non seulement le bouddhisme a réfléchi sur la nature du monde,
mais il l'a fait de facon profonde et original..
L'enseignement principal que j'en ai retiré est qu'il existe une
convergence et une résonace certaines entre les deux visions, bouddhiste
et scientifique, du réel. Certains énoncés du bouddhisme à propos du
monde des phénomènes évoquent de manière étonante telles ou telles idées
sous-jacentes de la physique moderne, en particulier des deux grandes
théories qui en constituent les piliers: la mécanique quantique -
physique de l'infiniment petit -, et la relativité - physique de
l'infini grand.)
Tôi
nghĩ, có lẽ chúng ta cũng không nên quên rằng, những tư tưởng và hiểu
biết của Phật Giáo về thế giới các hiện tượng đã có từ cách đây trên 25
thế kỷ, trong khi hai thuyết vĩ đại nhất trong vật lý hiện đại, thuyết
nguyên lượng và thuyết tương đối, mới chỉ được trí tuệ Tây phương nghĩ
ra trong thế kỷ 20.
Trên
đây tôi đã trình bày những quan niệm của Phật Giáo về vũ trụ nhân sinh,
cùng những tư tưởng khai phóng của Phật Giáo về tôn giáo, xã hội và
chứng minh là nhiều tư tưởng của Phật Giáo đã đi trước tôn giáo và khoa
học Tây phương như thế nào. Cho nên chúng ta không lấy làm lạ khi càng
ngày thế giới, nhất là các xã hội văn minh tiến bộ Âu Mỹ, càng nhận ra
chân giá trị của Phật Giáo. Một câu hỏi được đặt ra: Làm sao mà những
tư tưởng Phật Giáo lại có thể đi trước khoa học Tây phương khi mà Phật
Giáo không hề có và không hề dùng đến những dụng cụ đo lường khoa học?
Làm sao mà Phật Giáo lại có thể đi trước những Thần Giáo trong đó có cả
tôn giáo được thần linh mạc khải? Thật khó mà có thể trả lời nếu chúng
ta không tin rằng do Thiền và Quán Chiếu nên Đức Phật đã nắm được bản
chất, sự vận hành của vạn pháp, nghĩa là đã đạt đến mức "Như thực tri
kiến". Đây là cách nhìn sự vật của Đức Phật mà mọi giáo lý Phật Giáo
đều hướng đến mục đích dẫn dắt chúng ta đạt đến. "Như thực tri kiến"
cũng là mục đích tối hậu của khoa học. Điểm hội tụ của Phật Giáo và
Khoa Học chính là ở điểm này. Tuy nhiên, Phật Giáo còn đi xa hơn nữa,
vì trong Phật Giáo, "Như thực tri kiến" không không đủ, mà chúng ta còn
phải có một tâm từ bi vô lượng. Không có tâm từ bi thì không có Phật
Giáo. Không có tâm từ bi thì Đức Phật đã không để lại cho chúng ta một
giáo lý vô thượng vô đẳng. Từ là cho vui, và Bi là cứu khổ. Từ bi
trong Phật Giáo tuyệt đối không có nghĩa là nếu người ta tát má này thì
đưa má kia cho người ta tát thêm. Phật Giáo không có dạy chúng ta áp
dụng từ bi để dung dưỡng bất công và bạo hành. Từ bi cũng không có
nghĩa là hiểu sai "ái ngữ", nói lên những lời giả dối, sai sự thật, ve
vuốt người khác với ảo tưởng là có thể gây sự hòa hợp một chiều. Một
trong 5 giới căn bản của một Phật tử là không được nói sai sự thật. Đức
Phật, sau khi giác ngộ, chẳng làm gì hơn là nói lên những sự thật
liên hệ đến con người ngay trong đời sống này, giúp cho con người thấy
được sự vật như chúng là như vậy, từ đó sẽ thoát khổ. Đây chính là cho
vui và cứu khổ.
Viết
bài này, tôi cũng không làm điều gì khác hơn là, trong phạm vi hiểu biết
của tôi, cố gắng trình bày những điều mà tôi đã để tâm nghiên cứu và tin
rằng ít ra chúng cũng không xa sự thật là bao.
Trang khoa học