Nhận Định Về Văn Kiện
“Tông Huấn Giáo Hội Tại Châu Á”
(Ecclesia In Asia)
Ngô triệu Lịch
ntrlich@yahoo.com
http://sachhiem.net/TONGIAO/tgN/NgoTrieuLich.php
15 tháng 9, 2009
Đây là một trong ba tập viết bởi ba tác giả, cùng in chung trong quyển "Kitô Giáo – Tuyển Tập Kế Hoạch Cải Đạo Á Châu".)
NỘI DUNG
LỜI NGỎ
PHẦN I
KHÁI QUÁT VỀ ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI DO THÁI
1. Nỗi Niềm Của Một Dân Tộc Bị Trị
2. Vị Cứu Tinh Và Sự Khát Khao Tự Do Độc Lập Của Người Do Thái
3. Giêsu Có Phải Là Một Mêsia Không?
4. Kitô Giáo Nguyên Thủy Và Sự Thù Địch Của Đế Quốc La Mã
5. Constantine Và Công Giáo La Mã
PHẦN II
NHẬN ĐỊNH VỀ TÔNG HUẤN GIÁO HỘI TẠI CHÂU Á
1. CHÂU Á: “KẾ HOẠCH” CỦA MỘT ẢO TƯỞNG
- Về một thực tại địa lý với tên gọi “Châu Á”
- Giêsu là người Châu Á hay người Tây Phương
* Giêsu lịch sử
* Giêsu thần học
2. CÔNG GIÁO LA MÃ VÀ SỰ HY-LA HÓA KITÔ GIÁO NGUYÊN THỦY
- Từ Kitô giáo nguyên thủy đến Công giáo La Mã
- Tôn giáo mới – Ý hệ mới
- Sự vận hành các phạm trù Hy Lạp vào thần học Kitô giáo
3. VATICAN VỚI KẾ HOẠCH CÔNG GIÁO HÓA CHÂU Á
- Châu Á – Lộ trình khó đến!
- Lý do thành công của Kitô giáo tại Châu Au và Châu Mỹ
- Các thực tại văn hóa, tôn giáo Châu Á đủ mạnh đánh bại tham vọng của Vatican
4. VỀ MỘT MÓN QUÀ VATICAN MUỐN GỞI TẶNG CÁC DÂN TỘC CHÂU Á
5. VẤN ĐỀ “HIỆP THÔNG” VÀ TÌNH HÌNH GIÁO HỘI CÔNG GIÁO TẠI TRUNG HOA
- Con đường chính thức
- Con đường không chính thức hay con đường chui!
- Con đường của súng đạn và thuốc phiện
- “Tông tòa Phêrô” và vấn nạn “Giáo hội tông truyền”
6. QUỐC GIA VATICAN VÀ THAM VỌNG CHÍNH TRỊ TẠI CHÂU Á
- Giáo hoàng: Nguyên thủ quốc gia hay chức sắc tôn giáo
- Sự kích động đức tin phục vụ tham vọng chính trị
7. VỀ MỘT VẤN ĐỀ “GÂY KHÓ CHỊU” CỦA TÍN LÝ KITÔ GIÁO, NHƯNG KHÔNG PHẢI CHO NGƯỜI CHÂU Á
- Sự sung đột thần học giữa những người anh em Hồi giáo, Do Thái giáo với Kitô giáo
- “Sự khó chịu” (nếu có) của người Châu Á phi Kitô giáo
8. CUỘC CHIẾN TRANH “BẢN TÍNH-NGÔI VỊ”
- Arius “đảo chính Ngôi Hai”
- Nestorius “phẩu thuật Ngôi Hai”
- Thái độ của người Châu Á phi Kitô giáo trước cuộc chiến tranh “Bản Tính” – “Ngôi Vị”
9. CHÚA THÁNH THẦN, THÁNH LINH, THẦN KHÍ LÀ MỘT HAY KHÁC?
- Dấu ấn của Tôtem giáo
- Chúa Thánh Thần – Sản phẩm của Công đồng Nikêa
- Chúa Thánh Thần của Vatican ngày nay
PHẦN III
HỘI NHẬP VĂN HÓA - HAY“ĐỨC TIN” THÁCH THỨC “VĂN HÓA”
1. Hiểu Thế Nào Về “Văn Hóa Đức Tin”
2. Đức Tin Thách Thức Văn Hóa
3. Nguy Cơ Làm “Bốc Hơi” Đức Tin Công Giáo Và Tuyên Ngôn Dominus Jesus
THAY LỜI KẾT
LỜI NGỎ
“Ecclesia in Asia” là một văn kiện được Giáo hoàng Gioan Phaolô II chính
thức ban hành nhân chuyến công du mục vụ tại Ấn Độ tháng 11 năm 1999. Đây là
một văn kiện quan trọng mang tính định hướng cho các hoạt động truyền giáo
của Vatican tại Châu Á trong thiên niên kỷ thứ ba.
Bản dịch Việt ngữ với tên: “Tông huấn Giáo hội tại Châu Á” của Lm.
Anton Nguyễn Ngọc Sơn được tải đi trên mạng Internet qua các website Công
giáo như Vietcatholic… Tông huấn được chia thành 7 chương, 51 đoạn có đánh
số… Về mặt tín lý, nội dung văn kiện Tông huấn Giáo hội tại Châu Á không có
gì mới. Tông huấn khẳng định một tín điều được nhắc đi nhắc lại trong hầu
hết các văn kiện đã được Vatican ban hành: “tính phổ quát và duy nhất
trong chương trình cứu độ của Giêsu”. Tuy nhiên độc giả quan tâm đến một
góc độ khác. Trong bối cảnh Châu Á, nơi mà tín đồ Kitô giáo chỉ là thiểu số.
3% là con số ước tính cho tất cả các hệ phái Kitô giáo, riêng Công giáo La
Mã chỉ chiếm khoảng 2% mà nếu trừ Philippines ra chỉ còn khoảng 1% trên tổng
số 3,3 tỷ người thuộc lục địa này.
Đối diện trước một thực tại Châu Á đa dạng phong phú về văn hóa, siêu việt
về tôn giáo, Châu Á đã đặt ra cho Vatican một “thách đố” (từ mà họ
thường dùng) cho mục tiêu “phúc âm hóa” trên lục địa này. Thế nhưng,
từ “thách đố”, Vatican đã biến thành “thách thức” với
các thực tại văn hóa, tôn giáo Châu Á là điều cần lên án.
Người đọc có thể thấy rõ
ý đồ “Công giáo hóa” Châu Á bằng một công thức tạp nhạp theo kiểu “râu ông
nọ cắm cằm bà kia”, với cách gán ghép tuỳ tiện, gượng ép như: “Do Thái
giáo, Hồi giáo, Ấn giáo, Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo, Bái Hỏa giáo
(Zoroastrianism), đạo Giaina (Jainism), đạo Sikh và Thần đạo (Shintoism).
Các giá trị tôn giáo mà các đạo ấy giảng dạy đang chờ được hoàn thành
trong đức Giêsu Kitô!?” (Số 6). Âm mưu biến giáo chủ các tôn
giáo Châu Á thành “Ngôn sứ” của Thiên Chúa, biến các thực tại văn
hóa, tôn giáo Châu Á thành phương tiện cứu độ trong cái gọi là sự “quan
phòng” của Chúa đã trở thành khôi hài, lố bịch. Sự thô thiển đến mức trâng
tráo mà độc giả có thể thấy qua phát biểu: “Phật giáo, Ấn Độ giáo, Hồi
giáo đều là sự thật đang khai sáng mọi người… điều ấy không loại bỏ việc họ
được kêu gọi đến nhận lãnh đức tin và phép Rửa như Chúa hằng mong
muốn cho hết mọi người…” (Số 31). Với chiếc bẩy “đối thoại liên tôn”
đã lộ nguyên hình khi lợi dụng chiêu bài “đối thoại” để “phúc âm hóa”
Châu Á: “Đứng trên quan điểm Kitô giáo, đối thoại liên tôn giáo không
phải chỉ là một cách để giúp các bên biết nhau và làm giàu cho nhau. Nhưng
đó còn là một phần trong chính sứ mạng phúc âm hóa của Giáo hội.”
(Số 31). Thế nên, khi Tông huấn viết: “từ việc trao đổi mang tính hàn lâm
giữa các chuyên gia về các truyền thống tôn giáo hay giữa các đại biểu của
các truyền thống ấy, cho đến việc cùng nhau hoạt động cho sự phát triển con
người toàn diện và bảo vệ giá trị nhân bản, tôn giáo.” (Số 31) độc giả
có thể nhận ra ngay đây chỉ là lối nói khoa trương bằng những ngôn từ hoàn
toàn sáo rỗng.
Ngoài ra, công chúng Châu
Á còn biết khoa thần học Kitô giáo với các bộ môn như: Kitô học, Maria học,
Giáo hội học v.v… đều dựa trên căn bản của “khoa thần học về sự đoán
mò” như có người châm biếm gọi là: “khoa đoán mò học!”
thuộc hệ thống thần học Kitô giáo… Ví dụ: họ đã đoán mò “Chúa Thánh
Thần biến đổi, tái tạo xã hội và văn hóa loài người… gieo hạt giống chân lý
vào các dân tộc, tôn giáo, văn hóa và triết lý của họ …(Số 15).
“Thánh Thần thống nhất mọi hạng người với những phong tục tập quán khác nhau…”(Số
17). “Chúa Thánh Thần từng hoạt động tại Châu Á!?…” (Số 18) v.v… Tệ
hơn nữa, họ còn đoán mò cả việc các danh nhân Châu Á như Lão Tử, Khổng Tử,
Đức Phật… đều là “tay sai” của Giêsu mà họ gọi bằng một từ rất kêu:
“Ngôn sứ”. Giáo thuyết của các vị này “đang chờ được hoàn thành
trong đức Giêsu Kitô!?”(Số 6). Nhưng nếu hỏi vì sao họ biết và dám khẳng
định những điều đó thì họ trả lời rất ởm ờ: “Ý Chúa! … Chúa đã có mặt nơi
các dân tộc ấy một cách nào đó rồi… mà chỉ có Chúa biết!?” (Số 21).
Không ai có thể biết được “Ý Chúa” thế nào, kể cả Giáo hoàng!?. Vì
thế người ta chỉ còn cách duy nhất là “đoán mò ý Chúa”. Đoán mò là
quyền của họ, nhưng nếu dùng sự đoán mò của mình để hạ thấp, chà đạp giá trị
các thực tại văn hóa Châu Á là điều cần lên án.
Như ta đã biết, Vatican
vừa là một tôn giáo vừa là một quốc gia. Vì thế, những văn bản được nhà nước
Vatican chính thức ban hành thường được gọi là huấn dụ, hiến chế, chỉ thị,
tuyên ngôn, tông huấn, tông thư v.v… gọi chung là văn kiện, tất cả đều mang
tính pháp lý cần được thi hành triệt để. Cùng với Tuyên ngôn Dominus Jesus,
Tông huấn Giáo hội tại Châu Á là hai văn kiện mới nhất của Vatican hiện nay,
chúng mang tính định hướng cho một kế hoạch lâu dài của Vatican tại Châu Á
trong thiên niên kỷ thứ ba. Dù đã được ban hành từ cuối năm 1999, nhưng đến
nay Tông huấn Giáo hội tại Châu Á vẫn là một văn kiện mang tính thời sự được
nhiều nơi từ trong đến ngoài Giáo hội quan tâm. Lm.Ant. Nguyễn Ngọc Sơn,
dịch giả bản Tông huấn thú nhận: “Dù đã dịch nhiều văn kiện quan trọng
của Giáo hội… nhưng chưa thấy văn bản nào có tầm mức quan trọng và bao quát
như Tông huấn này. Có thể nói, đây là văn bản định hướng hoạt động cho các
Giáo hội địa phương tại Châu Á trong nhiều năm sắp tới…”
Người viết tập sách này
không lấy tư cách tín đồ của một tôn giáo nào, cũng không đứng trên quan
điểm của một nền văn hóa nào, chỉ với danh nghĩa cá nhân, với tư cách của
một người Châu Á để nói lên tiếng nói của mình với mong muốn Vatican phải có
cái nhìn trân trọng hơn, nghiêm túc hơn đối với các thực tại văn hóa, tôn
giáo Châu Á.
PHẦN I
KHÁI QUÁT VỀ ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI DO THÁI
1.
NỖI NIỀM CỦA MỘT DÂN TỘC BỊ TRỊ
Dân tộc Do Thái là một
dân tộc lâu đời, họ cư ngụ trên miền đất cũng rất cổ xưa. Nhưng Cộng Hòa
Israel lại là một quốc gia non trẻ, chỉ mới được thành lập cách nay nửa thế
kỷ. Đất nước ấy lại nằm trên giao điểm của ba châu lục: Âu, Á, Phi nên luôn
là mục tiêu xâm lược của đế quốc… Quyển Kinh Thánh Do Thái giáo đồng thời
cũng là quyển lịch sử của dân tộc này đã ghi lại diễn biến lịch sử của dân
tộc từ khoảng năm 1800 trước công nguyên. Dưới sự lãnh đạo của Abraham, một
nhóm dân du mục từ Mesopotamia (Lưỡng Hà) đến định cư tại Canaan. Cháu của
Abraham là Jacob có 12 người con trai, bắt đầu từ đây hình thành 12 chi tộc,
phát triển đông đúc thành dân Israel ngày nay.
Lịch sử dân tộc Do Thái
là lịch sử của một dân tộc bị lưu đày. Con cháu của Abraham khi đến định cư
tại vùng châu thổ sông Nile đã bị các Pharaông Ai Cập biến thành nô lệ.
Khoảng năm 1300 trước công nguyên Môsê đã lãnh đạo dân nô lệ Do Thái trốn
khỏi Ai Cập, họ đã gặp phải nhiều bất trắc trên đường chạy trốn... Chính
trong hoàn cảnh này, Môsê đã thuyết phục họ phải tin tưởng vào vị thần tối
cao là Yahweh, chính vị thần này đã dẫn dắt dân Do Thái ra khỏi Ai Cập. Môsê
đại diện dân Do Thái lập một giao ước thỏa hiệp với thần Yahweh là chỉ tôn
thờ một mình Ngài… Khoảng năm 1250 trước công nguyên, sau khi Môsê mất,
người kế nghiệp ông là Joshua dẫn dắt dân Do Thái quay về lại Canaan. Tại
đây xung đột liên miên diễn ra giữa ba nhóm người: Người Canaan bản địa,
người Philistine từ đảo Crete đến và người Do Thái. Trong đó, người
Philistine mạnh nhất và họ làm chủ được Canaan. Mãi đến khi Đavid kế nghiệp
Saul lãnh đạo người Do Thái mới chiếm lại được vùng Canaan. Năm 63 trước
công nguyên đất nước lại bị La Mã đăt ách đô hộ. Chính lịch sử không may mắn
của họ đã biến họ thành một dân tộc khao khát tự do, độc lập. Những cuộc đấu
tranh với các thế lực ngoại bang diễn ra suốt chiều dài lịch sử của dân tộc
này. Người Do Thái lưu lạc khắp thế giới. Đến năm 1947, họ trở về lập quốc
theo nghị quyết của Liên Hiệp Quốc.
Từ ngày lập quốc đến nay,
xuất phát từ tâm lý “sợ mất nước”, quá khứ lịch sử đen tối luôn ám ảnh họ,
người Do Thái ngày nay đã không hề nương tay với người Palestine. Đối với
người anh em Palestine, họ đã biến cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước thành
cuộc chiến xâm lược tàn bạo, áp dụng luật “mắt đổi mắt răng đổi răng” của
kinh thánh Do Thái giáo, đối đầu với khối Ả Rập, biến Trung Đông thành lò
thuốc súng. Cuộc chiến giữa Israel và người Palestine ngày nay đã làm cho
vùng Trung Đông thành một trong những điểm nóng nhất của thế giới…
2. VỊ CỨU TINH VÀ SỰ
KHAO KHÁT TỰ DO ĐỘC LẬP CỦA DÂN TỘC DO THÁI
Theo truyền thống văn hóa
Do Thái, danh xưng Mashiah, Messiah (phiên âm Việt Nam là Mêsia) nhằm chỉ
giới quý tộc Do Thái. Mashiah, (Messiah) nghĩa là “ người được xức dầu”. Đây
là một nghi thức dùng trong việc phong vương cho vua chúa… Người Do Thái xưa
sống dước ách thống trị của đế quốc La Mã, họ luôn mang tâm trạng kích động,
khao khát trong chờ một “Vị Cứu Tinh” cứu họ ra khỏi xiềng xích nô lệ. Theo
Cựu Ước, vị cứu tinh đó phải là một Mêsia, nghĩa là một người thuộc dòng dõi
qúy tộc đã được “xức dầu”. “Vị Cứu Tinh” hoặc “Cứu Thế” là vị anh hùng cứu
quốc, mang sứ mạng giải phóng dân tôc Do Thái ra khỏi kiếp nô lệ ngoại
bang.
3. GIÊSU CÓ PHẢI LÀ MỘT MÊSIA KHÔNG?
Giêsu ra đời trong bối cảnh dân Do Thái đang ngưỡng vọng về một anh hùng dân
tộc, vị cứu tinh có khả năng giải phóng đất nước ra khỏi cảnh lầm than, cơ
cực dưới sự thống trị của đế quốc La Mã. Kinh Thánh của Do Thái giáo mô tả
sự xuất hiện của một Đấng Cứu Thế mang màu sắc huyền bí, đầy quyền lực,
được Thượng Đế sai xuống nhằm thỏa mãn não trạng vốn rất khát khao mãnh liệt
về nền độc lập, tự do dân Do Thái….
Giới qúy tộc Do thái bấy giờ thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau. Nhưng đáng
kể hơn cả là hai nhóm Phariseô và Sađukê. Nhóm Phariseô bảo thủ, trung thành
với luật Môsê, đặt quyền lợi của giới quý tộc lên trên quyền lợi nhân dân,
tách biệt quần chúng nên gọi là “biệt phái”. Nhóm Sađukê thuộc dòng dõi
“Thầy Cả” Sadoc thời Đavid và Salomon.
Năm 30 tuổi, Giêsu bắt đầu sự nghiệp của mình bằng việc thuyết giảng về
“Tình Yêu” và “Nước Trời”. Cả hai đề tài này rất hấp dẫn, tính
thuyết phục cao, được quần chúng mà đại đa số là nhân dân lao động nghèo bị
áp bức hưởng ứng nồng nhiệt. “Tình yêu và sự công chính”, “Nước Trời và
sự sống đời đời” đã là một món ăn tinh thần hợp khẩu vị, Giêsu đưa ra
đúng lúc quần chúng đang “đói” sự no ấm, tự do bình đẳng so với giới quý tộc
Do Thái và bọn xâm lược La Mã… Đây là lý do vì sao dân chúng theo Giêsu ngày
một đông. Chính sự kiện này đã đẩy Giêsu vào thế đối đầu với Phariseô và
Sađukê. Họ đã thực sự lo ngại về ảnh hưởng của Giêsu đối với quần chúng.
Hoạt động thuyết giảng của Giêsu đã tạo nên tác động kép, hình thành phong
trào cách mạng chống đế quốc La Mã đồng thời ảnh hưởng đến quyền lợi kinh
tế, chính trị mà giới quý tộc Do Thái đang nắm giữ. Vì vậy, các nhóm
Phariseô, Sađukê quyết tâm trừ khử Giêsu và đó cũng chính là ý muốn của đế
quốc La Mã…
Giữa lúc Giêsu đang được
lòng quần chúng, họ tôn vinh Giêsu là “Mêsia, Vua dân Do Thái” cũng
là lúc các nhóm đối lập Pharisesô, Sađukê lên kế hoạch diệt trừ Giêsu. Dân
chúng vì tin tưởng khả năng lãnh đạo của Giêsu, nên đã tôn vinh ông là
“Mêsia”, kỳ thực ông không phải là Mêsia vì ông chưa hề được tấn phong qua
nghi thức “xức dầu”, vả lại, các nhóm đối lập đang nghi ngờ về lý lịch qúy
tộc của ông (dòng dõi vua Đavít). Cuối cùng họ cũng đã đạt được mục đích,
bắt Giêsu nộp cho toàn quyền Philatô. Philatô đã hỏi ông : “Ông có phải
là Mêsia, vua dân Do Thái không?” Vì Giêsu chưa hề được “xức dầu”,
ông không thể nhận là Mêsia theo luật Do Thái, nên thay vì ông trả lời
thẳng câu hỏi của Philatô là: “phải” hoặc “không”, ông lại trả
lời chệch đi: “Thì cũng như ông nói đó thôi!” (Mc 15:2) Và để khỏi bị
kết án phản loạn chống đế quốc La Mã, ông đã nói: “Nước tôi không thuộc
về thế gian này, nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi sẽ
chiến đấu… nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18:36).
Philatô nhận thấy với một người tự nhận mình là “vua” của một
“nước trời” nào đó, mà có lẽ chẳng ai như ông ta ví “nước trời”
của ông như “cây cải” lại to lớn như cây cổ thụ, cành lá sum suê, chim
trời có thể đến làm tổ trên cành to!? (Lc 13:18,19). Một con người như
vậy chắc không ảnh hưởng gì đến an ninh của đế quốc La Mã, có thể ông ta là
người “đầu óc có vấn đề!…” như lời đồn đại: “Giêsu bị mất trí vì bị quỷ
vương Bêendêbun ám…” (Mc 3:21,22). Vì thế, Philatô đã trả Giêsu về lại
cho dân Do Thái để họ xử ông theo luật Do Thái. Ông đã bị xử treo trên thập
giá với một chiếc biển nhỏ ghi dòng chữ: “Giêsu Nazaret vua dân Do Thái”
hàm ý chế giễu về các mác (SH- danh hiệu) “Mêsia” tự phong của ông.
Dựa vào thánh kinh Do Thái giáo, tức sách mà Kitô giáo gọi là Cựu Ước. Các
tác giả đã “tiên tri” về “đấng cứu thế” xuất hiện giải phóng dân Do Thái.
Sau sự kiện Giêsu bị kết án tử hình trước Công nghị Do Thái bởi toàn quyền
Philatô, án lệnh đã được thực hiện tại núi Calvariô. Giêsu mất đi nhưng đất
nước Do Thái vẫn không có gì thay đổi về mặt chính trị, dân chúng vẫn bị áp
bức, bốc lột, Đế quốc Rôma và bọn quý tộc Do Thái thẳng tay đàn áp các phong
trào đấu tranh của quần chúng.
Dưới sự cai trị hà khắc, độc đoán của toàn quyền Gesse Flori, năm 66, quần
chúng tập hợp lực lượng nổi lên đấu tranh, cuộc chiến khốc liệt bình địa
Jêrusalem. Năm 70, Jêrusalem lại bị bao vây cô lập, hàng triệu người dân vô
tội phải chết vì nạn đói và dịch bệnh. Lại một lần nữa, dân Do Thái tập hợp
lực lượng giao chiến. Năm 112, hoàng đế Trajan mang quân sang dẹp. Thế là
tia sáng hy vọng độc lập vừa loé lên đã bị dập tắt bởi bàn tay thô bạo của
đế quốc Lamã. Nhưng niềm khát khao về “đấng cứu thế” của dân tộc Do Thái vẫn
còn nguyên vẹn.
Năm 132, một người tự xưng là “đấng cứu thế” tên Bar Kabeba dấy binh đánh
chiếm Jêrusalem, tuyên bố nền độc lập cho đất nước Do Thái. Hoàng đế Hadrian
(117-138) cử đại binh đến chiếm lại thành, cuộc chiến kéo dài suốt ba năm
làm hàng triệu người phải bỏ mạng, Jêrusalem lại rơi vào tay đến quốc Lamã.
Ngay từ thời Giêsu cũng không thiếu kẻ tự nhận mình là “đấng cứu thế”. Thời
đó, để chứng tỏ mình là “vị cứu tinh”, người này thường dùng thủ đoạn ma
thuật phù phép như chữa bịnh, trừ qủy, làm phép lạ v.v nhằm lôi kéo, thuyết
phục quần chúng. Hiện tượng nhiều người tự nhận mình là “đấng cứu thế” làm
pháp thuật đã đã được Maccô nhắc đến trong Mc 9:39.
Par Fabran Lagerkvist là nhà văn lớn của Thụy Điển ở thế kỷ 20, với tác phẩm
“Barabba” (1950) nổi tiếng, đã mang về cho tác giả giải thưởng cao quý: Giải
Nobel văn học. Với tác phẩm này, Lagerkvist đã đặt Barabba làm “phản đề” của
Giêsu. Theo truyền thuyết, Giêsu bị bắt và bị kết án tử hình nhằm vào dịp lễ
Vượt Qua của người Do Thái. Vượt Qua là một lễ hội lớn theo truyền thống văn
hóa Do Thái. Vào dịp này, theo thông lệ sẽ có một tử tù được tha. Philatô
muốn nhân dịp này để tha cho Giêsu, nhưng lại gặp sự phản đối của đám đông.
Họ đòi giết Giêsu và tha cho tên tử tù Barabba. Barabba là một con người
nguy hiểm, tàn bạo, tính hoài hoài nhưng lại là người trung thực. Khi hắn ta
được Giêsu “thế mạng”, hắn ung dung ra khỏi tù nhưng cũng đắn đo suy tư về
con người vừa thế mạng cho hắn. Vì vậy hắn bắt đầu tìm hiểu về con người đó.
Lời đồn đại về Giêsu lúc chưa bị bắt và nhất là sau khi bị chết treo trên
thập giá. Nào là trời đất tối tăm, rồi Giêsu biến mất khỏi huyệt mộ, thiên
sứ đến giải cứu Giêsu từ sự chết sống lại v.v… khiến Barabba bán tín bán
nghi, hắn quyết định đi tìm hiểu sự thật về con người này. Hắn đã tiếp cận
với đám môn đồ của Giêsu, quan sát và thu thập chứng cứ. Cuối cùng, cái gọi
là “mầu nhiệm phục sinh” đã không đánh lừa được Barabba, và hắn có thể chứng
minh đó chỉ là một trò lừa bịp. Mặc dù tác phẩm “Barabba” của Lagerkvist chỉ
là một tác phẩm văn học, các nhân vật và sự kiện đều là hư cấu, nhưng nó
chuyển tải một nội dung lấy nhân bản làm chủ đạo. Trên đường hướng tới chân
thiện mỹ, gạn lọc cái thiện, thủ tiêu cái ác, chỉ có con người với con
người, không có một thế lực siêu nhiên nào can thiệp vào. Lagerkvist phủ
nhận chủ nghĩa giáo điều, kiên quyết gạt bỏ sự sùng bái đau khổ để tìm sự
cứu rỗi trong ảo tưởng. Tác phẩm “Barabba” đã mang về cho Lagerkvist giải
thưởng văn học Nobel là hoàn toàn xứng đáng.
Ngày nay, dù Israel đã được độc lập, vững về chính trị, đặc biệt mạnh về
quân sự. Nhưng quá khứ lịch sử đen tối luôn ám ảnh họ, biến họ thành kẻ bạo
ngược với người Palestine. Đặc biệt họ vẫn đang trong đợi một “đấng cứu thế”
giữa thời đại nguyên tử, khả dĩ biến đất nước và con người Do Thái thành một
đế quốc mới của vùng Trung Đông ngày nay.
Tóm lại, quyển kinh thánh của Do Thái giáo đồng thời cũng là quyển lịch sử
của dân tộc này, ghi lại tất cả các sự kiện mà phần lịch sử về các sự kiện
“người thật, việc thật” chỉ chiếm khoảng 10%, 90% còn lại là huyền sử
với những sự kiện hư hư ảo ảo…, đôi khi thậm phi lý… Vì thế, không lạ gì với
những anh hùng dân tộc (Mêsia, Vị Cứu Tinh, Đấng Cứu Thế) xuất hiện trong
lịch sử Do Thái thường có một lý lịch rất huyền bí, họ được sai đến để cứu
dân Do Thái bởi một vị Thượng Đế mà tính tình “mưa nắng thất thường”,
lúc nhân từ, lúc hung bạo, lúc phạt, lúc thưởng. Giêsu là một con người như
vậy trong số những người được “sai xuống”…
4.
KITÔ GIÁO NGUYÊN THỦY VÀ SỰ THÙ ĐỊCH CỦA ĐẾ QUỐC LA MÃ.
Sau khi Giêsu qua đời,
Kitô giáo nguyên thủy được hình thành ở Jêrusalem. Khởi đầu cộng đồng này
vẫn thuộc về Do Thái giáo, không tách biệt khỏi Hội đường Do Thái vẫn tổ
chức hội họp ở Hội đường và sinh hoạt lễ bái ở Đền thờ Do Thái giáo. Nhà cầm
quyền Rôma lúc đó xem những nhóm Kitô nguyên thuỷ thuộc về Do Thái giáo,
nhưng càng về sau, các nhóm này càng lớn mạnh, họ âm thầm tập hợp lực lượng
hoạt động, tính cộng đồng cao. Họ bắt đầu tách ra khỏi Do Thái giáo. Chính
lúc đó, La Mã mới để mắt đến họ. Khi thấy nguy cơ các nhóm Kitô nguyên thủy
có thể kết hợp với nhau thành một lực lượng cách mạng. Đế quốc La Mã quyết
định ra tay trừ khử, đó là vào thời Nêron (54-68).
Năm 64, Nhân một vụ hỏa hoạn thiêu rụi cả một khu phố, ngọn lửa cháy dữ dội
suốt 6 ngày đêm. Nêron cho rằng các nhóm Kitô nguyên thủy là tác giả của
thảm kịch và quy trách nhiệm cho họ. Thế là một cuộc thảm sát đẫm máu mở đầu
cho một giai đoạn khủng bố các phần tử Kitô nguyên thủy rộng khắp trên toàn
lãnh thổ đế quốc Lamã. Nêron ra chiếu chỉ cấm mọi hoạt động của các nhóm
Kitô nguyên thủy, chiếu chỉ có hiệu lực mãi đến 250 năm sau.
Những người kế nghiệp của Nêrôn tiếp tục thi hành lệnh cấm, nổi bật trong số
này phải kể đến Đômitian (81-96). Ông cho truy lùng tất cả những người tự
xưng là “vị cứu tinh”, “đấng cứu thế” hoặc “vua dân Do Thái”…
Chính những người này có thể trở thành ngòi nổ của cuộc đấu tranh giải phóng
dân Do Thái. Gioan, đệ tử thân tín của Giêsu cũng đã bị xử bỏ vào vạc dầu
sôi vào thời Đômitian.
Đến thời Trajan (98-117), lệnh cấm vẫn hiệu lực, Trajan ban hành một chiếu
chỉ mới về việc cấm hoạt động của các nhóm Kitô nguyên thủy dựa trên luật
pháp hiện hành, chính sách của Trajan đối với đạo Kitô nguyên thủy mang tính
pháp lý cao. Những triều đại kế tiếp vẫn duy trì lệnh cấm hoạt động cho đến
thời Constantine (306-337) Kitô giáo mới được chính thức công nhận bằng
chiếu chỉ Milan.
5. CONSTANTINE VÀ CÔNG
GIÁO LA MÃ
Trước một thực tế các lực lượng Kitô nguyên thủy ngày càng lớn mạnh về số
lượng, tính đoàn kết, óc tổ chức trong các cộng đoàn, tinh thần kỷ luật biến
họ thành một lực lượng đáng kể. Constantine khôn khéo thừa nhận sự hợp pháp
của họ, biến họ thành một lực lượng hùng hậu thống nhất chung quanh ông, nhờ
vậy ông chiến thắng tất cả các thế lực đối nghịch…
Hội nghị Nikêa được
Constantine triệu tập đã mở ra cho Kitô giáo một chương mới, thống nhất tất
cả các nhóm Kitô nguyên thủy thành một tổ chức duy nhất là Kitô giáo, hội
nghị đưa ra một văn bản gọi là “Niềm tin tông đồ” tiền thân của “Kinh Tin
Kính” nội dung gồm một số tín điều như: Thiên Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ Đồng
Trinh v.v… buộc tất cả các nhóm Kitô nguyên thủy phải chấp nhận, một số giáo
phái phản đối các tín điều trên như giáo phái Arius bị tiêu diệt… Năm 340,
Kitô giáo đổi tên thành Công giáo. Kể từ đấy, đạo mới Công giáo ngày càng
bành trướng, thống lĩnh khắp Âu Châu….
PHẦN II
NHẬN ĐỊNH VỀ TÔNG HUẤN GIÁO HỘI TẠI CHÂU Á
1.
CHÂU Á: “KẾ HOẠCH” CỦA MỘT ẢO TƯỞNG
Ngay trong phần nhập đề văn kiện “Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á” (Ecclesia
in Asia), Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã khẳng định: “Thật vậy, chính tại
Châu Á, ngay từ đầu, Thiên Chúa đã mặc khải và thực hiện ý định cứu độ của
Ngài… Ngài sai con duy nhất của mình xuống, là Đức Giêsu Cứu Thế mang hình
hài người Châu Á!” (S1). Cái gọi là: kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa khi
chọn Châu Á để “khởi sự kế hoạch” cứu độ của mình, là một luận cứ rất
vụng về của những nhà hộ giáo ở Vatican. Cụm từ “ngay từ đầu” xác
định thời điểm Giêsu sinh ra đã có một thực tại địa lý với tên gọi “Châu
Á”.
Về một thực tại địa
lý với tên gọi “Châu Á”
Vào đầu thiên niên kỷ thứ
nhất, đế quốc Rôma đã đặt ách thống trị lên toàn bộ khu vực bao quanh Địa
Trung Hải, trong đó khoảng 2/3 thuộc Âu Châu ngày nay. Phạm vi thống trị của
Rôma rộng lớn như thế nên hoạt động của các nhóm Kitô nguyên thủy dù ở đâu,
Jêrusalem hay Rôma cũng đều nằm trong bờ cõi đế quốc La Mã. Các khái niệm
địa lý mà ngày nay người ta gọi là “Châu Á, Châu Âu, Châu Phi…” hoàn toàn
không tồn tại vào thời La Mã thống trị vùng đất này. Vào thời đó, ý niệm về
thế giới rất hạn hẹp, vùng Địa Trung Hải được xem là trung tâm thế giới, địa
cầu là một mặt phẳng mà bầu trời là chiếc lồng bàn úp lên! Với vũ trụ quan
thô thiển của người La Mã thời đó không thể có hiểu biết về một thực tại địa
lý mà ngày nay người ta gọi là “Châu Á”. Địa danh “Tiểu Á”
cũng chỉ là một địa phận nhỏ nằm bên bờ Địa Trung Hải, thuộc lãnh thổ đế
quốc La Mã, không thể lầm lẫn với Châu Á ngày nay. Do đó, khi nói: “Giêsu
sinh ra tại Châu Á, là người Châu Á”, là một kiểu gắn kết “xưa và nay”
nhằm muốn chứng minh một điều không quan trọng và không cần thiết về sự có
mặt của một đạo “cứu rỗi” tại Châu Á. “Giêsu là người Châu Á và vì vậy
Công Giáo La Mã cũng là đạo của người Châu Á?…” Cái logíc này mới nghe
có vẻ hợp lý, nhưng có nhiều điều không ổn. Nó ngây ngô như khi có người
muốn cố gắng chứng minh tổ tiên của người da đỏ ở Bắc Mỹ là người Mỹ. Họ lập
luận rằng: Tại Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ ngày nay, nơi mà ngày xưa tổ tiên của
những người da đỏ đã sinh ra, do đó tổ tiên của dân da đỏ là người Mỹ!?…
Đành rằng có một lục địa cổ nằm giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, là
quê hương của thổ dân da đỏ. Nhưng lục địa đó chỉ mới được người Âu Châu
biết đến từ năm 1492, do Kha Luân Bố tìm ra. Miền đất này được người Âu Châu
gọi là “tân thế giới” về sau này ta gọi là Mỹ Châu. Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ là
một quốc gia sinh sau đẻ muộn, chỉ mới được thành lập cách nay khoảng 300
năm. Quốc gia non trẻ ấy lại có thể sản sinh ra tổ tiên của người dân da đỏ
bản địa cách nay mấy ngàn năm?… Đúng là chuyện tiếu lâm!
Giả sử con người Giêsu
lịch sử có muốn sử dụng “bản tinh Thiên Chúa” mà nền thần học Kitô
giáo đã gán cho ông, ít nhất, bằng “quyền năng Thiên Chúa” của mình,
ông phải phân định rạch ròi biên giới địa lý một châu lục với tên gọi
“Châu Á”, báo cho các tác giả cựu ước thời đó biết, để họ có thể
“tiên tri” trước về một vùng đất mang tên “Châu Á”, nơi Đấng Cứu
Thế giáng sinh, trước khi ông được sinh ra trên mảnh đất đó… Tiếc rằng điều
này lại không xảy ra, thế nhưng tác giả Tông huấn cứ viết: “Chúa Thánh
Thần đã từng hoạt động tại Châu Á vào thời các tổ phụ và ngôn sứ (?),
rồi hoạt động mạnh hơn nữa vào thời Đức Giêsu Kitô và Hội Thánh sơ khai
(?), nay vẫn đang hoạt động giữa các Kitô hữu Châu Á để củng cố việc làm
chứng đức tin của họ giữa các dân tộc, các nền văn hóa và các tôn giáo của
châu lục…” (S18)
Giêsu là người Châu
Á hay Tây Phương?
Ngày nay khi ranh giới
các châu lục Âu, Á, Phi… được phân định rõ ràng (sự phân định này không hề
có thời Đế quốc Rôma chiếm cứ vùng Địa Trung Hải). Quốc gia Do Thái thuộc về
Châu Á nên Giêsu là người Châu Á (mặc dù cái gọi là “Châu Á” hoàn
toàn không có ở thời điểm Giêsu được sinh ra). Nhưng đó là Giêsu Nazaret,
“vua dân Do Thái” bị kết án tử hình tại quê hương của ông, chứ không
phải Giêsu của Constantine được “khai sinh” trong lãnh địa đế quốc Rôma. Do
vậy, khi Tông huấn Giáo hội tại Châu Á viết: “Thật nghịch lý khi đại đa
số người Châu Á có khuynh hướng coi Đức Giêsu, một người sinh ra trên chính
mảnh đất Châu Á, là một người Tây Phương hơn là A Châu” (S20) là một
cách đánh lừa rất vụng về của tác giả bản tông huấn. Chúng ta biết rằng, 97%
dân chúng Châu Á không phải là người Kitô giáo nên họ không biết Giêsu là
ai, họ cũng chẳng quan tâm đến giáo chủ của đạo này là người Tây Phương hay
Châu Á. Nên nói: “đại đa số người Châu Á…” chỉ là cách đánh động, gây
sự chú ý của quần chúng Châu Á nhằm mục đích muốn giới thiệu “Giêsu cũng
là người Châu Á…” Đằng khác, người ta đã cố tình nhầm lẫn “Giêsu lịch
sử” và “Giêsu thần học”.
- Giêsu lịch sử
Đối với Giêsu lịch sử, lý
lịch trích ngang của ông thật đơn giản: Người Do Thái, nguyên quán Nazaret,
tín đồ Do Thái giáo (đã chịu phép cắt bì và phép rửa với Gioan Tẩy Giả trên
sông Giođan theo giáo điều Do Thái giáo), sinh thời tuyên truyền một giáo
thuyết về “tình yêu” được nhiều người ngưỡng mộ. Theo truyền thuyết, ông đã
thực hiện nhiều “phép lạ” trong lúc thuyết giảng. Chuyện “làm phép lạ” vào
lúc những “đấng cứu thế” (Mêsia) nhiều như “sao trên trời” cũng là chuyện
bình thường trong bối cảnh xã hội Do Thái đang trông đợi “Vị Cứu Tinh” đến
giải phóng dân tộc ra khỏi xiềng xích nô lệ của đế quốc La Mã. Ngay khi
Giêsu đang hoạt động rao giảng, cũng không thiếu kẻ tự nhận mình là “đấng
cứu thế”. Thời đó, để chứng tỏ mình là “vị cứu tinh”, người này thường dùng
thủ đoạn ma thuật phù phép như chữa bịnh, trừ qủy, làm phép lạ v.v nhằm lôi
kéo, thuyết phục người khác. Hiện tượng nhiều người tự nhận mình là “đấng
cứu thế” làm pháp thuật đã được Maccô nhắc đến trong Mc 9:39. Vào những thế
kỷ đầu công nguyên đã có những tư tưởng chống lại truyền thuyết về Giêsu.
Trong cuốn “Nói sự thật” Celsô cho rằng Giêsu là con người bịp bợm, phép lạ
của ông ta chỉ là sự bịa đặt, người ta theo đạo chỉ vì sợ hỏa ngục… Linh mục
Origen (158-225) điều hành học viện Alexanđria đã phải làm công việc “hộ
giáo” bằng cách viết cuốn “chống lại Celsô”(178) phi bác các luận điểm của
Celsô…
Giêsu bị kết án tử hình
năm 33 tuổi. Cho dù sau chết, Giêsu đã “hồi dương”, về trời ngự bên hữu “Đức
Chúa Cha”, thì cũng chẳng phải là chuyện lạ đối với nhiều dân tộc Châu Á,
như truyền thuyết về Phù Đổng Thiên Vương “cởi ngựa sắt bay về trời…” trong
kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam.
- Giêsu thần học
Ngược lại, “Giêsu thần
học” được thai nghén từ Phaolô, 300 năm sau, được Constantine “cho phép sinh
ra” và được St. Augustine “nuôi dưỡng khôn lớn”…
Phaolô (còn gọi là Saolô)
gốc Do Thái, quốc tịch La Mã, thuộc phái Pharaseô. Ông là người hoạt động
tích cực ngăn chặn các phong trào quần chúng ảnh hưởng Giêsu. Chính ông là
người “giữ áo” cho đội thi hành án ném đá đối với Stephan, người đệ tử đầu
tiên của Giêsu bị kết án tử hình. Sau đó ông nhận thấy phong trào quần chúng
chống qúy tộc Do Thái và đế quốc Rôma ngày càng mạnh, tác động sâu rộng
trong toàn xã hội. Ông đã quyết định bỏ phái qúy tôc Pharisêo đứng về phía
quần chúng bị áp bức. Đó là bước ngoặc lớn nhất của chính đời ông. Truyền
thuyết kể rằng: Trên đường đi Đamas, cùng với một đội quân võ trang của Công
nghị Do Thái do Phaolô chỉ huy đi tiêu diệt các nhóm “phiến loạn”. Trên
đường đi, ông đã bị sét đánh té ngựa. Trong lúc mê man, ông đã nghe có
tiếng: “Saolô, sao ông bắt tôi?” – “ông là ai?” – “Tôi là Giêsu, người ông
đang tìm bắt…” Khi Phaolô tỉnh dậy, mở mắt ra không thấy gì cả. Từ đó ông từ
bỏ giai cấp qúy tộc của mình, trở thành “môn đồ gián tiếp” của Giêsu. Nhờ vỏ
bọc “quốc tịch La Mã” bên ngoài giúp Phaolô hoạt động khá thành công trong
phạm vi đế quốc Rôma… Khi Constantine thành lập Công giáo La Mã, tôn giáo
này nghiễm nhiên trở thành quốc giáo, Augustine là người làm hoàn thiện các
học thuyết như: Chúa Ba Ngôi, thuyết Tội Nguyên Tổ, thuyết Đức Mẹ Đồng
Trinh, Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội v.v… Những học thuyết này vốn là sản phẩm
của công đồng Nikêa. Ngày nay, thần học Kitô giáo nói chung, Công giáo La Mã
nói riêng đều lấy thần học của Augustine là nền tảng căn bản. Tóm lại:
Phaolô chỉ là đệ tử gián tiếp, chưa bao giờ gặp mặt Giêsu, ông chỉ thấy
Giêsu bằng ảo giác trong một tai nạn. Constantine vốn là một “kẻ ngoại giáo”
lại là cha đẻ của công đồng Nikêa, còn Augustine, người được thừa nhận là
một Giáo phụ nổi tiếng nhất của Giáo hội Latinh cũng là người “vô đạo”, có
một quá khứ ăn chơi trụy lạc, đến năm 387 ông mới chịu phép Rửa để gia nhập
giáo hội Rôma. Cả ba nhân vật này, từ Phaolô chỉ thấy Giêsu bằng ảo giác mà
chưa từng gặp mặt, đến kẻ “ngoại giáo” Constantine, sau đó là người “tân
tòng” Augustine đã xây dựng nên một “giáo hội”, biến Giêsu lịch sử thành
Giêsu thần học như ta biết ngày nay.
Cứ cho rằng: “Giêsu lịch sử” là người Châu Á, vì Do Thái là một quốc gia
Châu Á. Nhưng “Giêsu thần học” lại đích thị là “người Tây Phương”, điều này
hiển nhiên vì nó được nhào nặn từ nền thần học Phương Tây bằng chính chất
liệu triết học Phương Tây. Có thể thấy được điều đó qua các dữ liệu lịch sử.
2. CÔNG GIÁO LA MÃ VÀ SỰ HY-LA HÓA KITÔ GIÁO NGUYÊN THỦY
Từ Kitô giáo nguyên thủy đến Công giáo La Mã
Ngay từ buổi đầu sơ khai, khi Công giáo La Mã chưa hình thành, Kitô giáo
nguyên thủy bao gồm nhiều nhóm nhỏ hoạt động độc lập, Kitô giáo nguyên thủy
còn là di sản Do Thái giáo, còn mang sắc thái văn hóa Do Thái. Đạo Kitô
nguyên thủy hoạt động trong lãnh thổ đế quốc Rô Ma, dù phải đối mặt với với
văn hóa Hy Lạp cũng vẫn giữ được sắc thái văn hóa Do Thái. Mãi 300 năm sau,
hoàng đế La Mã lúc đó là Constantine muốn tập hợp tất cả các giáo phái Kitô
nguyên thủy thành một giáo phái thống nhất. Mục đích của việc thống nhất các
giáo phái Kitô nguyên thủy là nhằm tạo sức mạnh về quân sự và chính trị của
Constantine để bảo vệ đế quốc La Mã dưới chiêu bài một tôn giáo. Vì thế,
Constantine ra lệnh tiêu diệt tất cả những giáo phái Kitô nguyên thủy nào
muốn chống lại việc thống nhất này. Kể từ đây, Kitô giáo nguyên thủy đã biến
dạng thành Kitô giáo La Mã. Năm 340, một lần nữa, Kitô giáo của Constantine
lột xác để biến thành Công giáo La Mã, tôn giáo mới này đã được công nhận là
quốc giáo kể từ đó.
Tôn giáo mới - Ý hệ mới
Việc xây dựng một ý hệ tôn giáo mới được bắt đầu bằng việc sử dụng
các ý niệm triết học Hy Lạp sẳn có để giải thích các tín điều của tôn giáo
mới, tức Công giáo trên cái nền của đạo Kitô nguyên thuỷ.
Buổi đầu sơ khai chưa có
thần học, nhưng đã bắt đầu xuất hiện những lý thuyết mới. Một trong những lý
thuyết mới đó là lý thuyết “Ba ngôi”. Lý thuyết này đã được giải thích bằng
các ý niệm Hy Lạp. Quan hệ biện chứng Ba Ngôi dựa trên ý niệm “ngôi vị” của
triết học Hy lạp là cái mà trong truyền thống văn hóa Do Thái không hề có.
Lớp trí thức (giáo phụ, tiến sĩ…) của giáo hội thời đó tận dụng triệt để các
ý niệm trong văn hóa Hy-La, biến các tín điều Kitô giáo thành một hệ thống
lý luận mang sắc thái Hy-La, dần loại trừ văn hóa Do Thái.
Sự vận hành các
phạm trù Hy Lạp vào Thần học Kitô giáo
Triết học Hy Lạp vốn là
nền tảng của triết học Tây phương. Triết học Tây phương lại là một công cụ
được giới trí thức giáo hội như các giáo phụ, tiến sĩ tận dụng làm chất
liệu để xây dựng ngôi nhà Thần học của họ. Vì vậy không thể tách được thần
học Kitô giáo ra khỏi các phạm trù Hy Lạp. Một số danh từ chỉ về Thượng đế
trong truyền thống văn hóa Do Thái như: El Shaddai, El’Elyôn, Yahvéh, Elohim
v.v… cũng đã được Hy Lạp hóa bằng các từ Theos, Deus, Dieu vốn là những từ
dùng để chỉ các vị thần trong thần thoại Hy Lạp như Zeus, Jupiter, Hercule …
Theos vốn là một danh hiệu chỉ vị thần tối cao trong văn hóa Hy Lạp thuộc hệ
thống tín ngưỡng đa thần. Aristote, Plato dùng khái niệm Theos để chỉ một
nguyên lý trừu tượng, siêu hình có tính chất phiếm thần tức “nguyên lý tối
thượng của vũ trụ”. Các nhà thần học lại vận dụng ý niệm Theos của Aristole
để lồng ghép một nội dung mới nhằm chỉ một Thiên Chúa có Ngôi Vị hình thành
một hệ thống mới mang tính độc thần…
Truyền thống văn hóa Do
Thái nói đến một Messiah (Mêsia) có nghĩa là “kẻ đưọc xức dầu” Một
nghi thức chỉ áp dụng cho giới quý tộc, nghi thức “xức dầu” được thực hiện
trong việc phong vương cho vua chúa Do thái. Messiah còn có nghĩa là “vị cứu
tinh”, người anh hùng dân tộc có thể lãnh đạo nhân dân Do Thái chống lại kẻ
thù của họ. Quần chúng bị áp bức Do Thái tôn vinh Giêsu là Mêsia chính là vì
họ tin tưởng ông có thể lãnh đạo nhân dân đứng lên dành lại độc lập từ tay
đế quốc La Mã. Về sau Mêsia đã biến tướng thành một vị “Chúa Cứu Thế” để gán
cho Giêsu. Khi Công giáo được hình thành tại Rôma, Mêsia vốn là di sản văn
hóa Do Thái cũng đã bị đồng hòa bởi văn hóa Hy-La. Từ “Messiah” biến thành
“Christus” (Latinh), “Christos” (Hy Lạp), phiên âm là “Kitô”. Kitô khi được
La-Hy hóa đã mang một ý nghĩa hoàn toàn khác với nghĩa gốc của từ Mêsia.
Ngày nay người ta gọi Giêsu là “Chúa Giêsu Kitô” chứ chẳng ai gọi “Chúa
Giêsu Mêsia”. Điều đó chứng tỏ rằng: Giêsu Nazaret, tức “Giêsu lịch sử” chỉ
là một con người bình thường muốn làm “anh hùng dân tộc” tự nhận là Mêsia dù
ông chưa một lần được “xức dầu”. Hoàn toàn khác với “Chúa Giêsu Kitô”, sản
phẩm của khoa thần học của giáo hội Rôma, ngay cả việc chọn ngày 25/12 là
ngày sinh của Giêsu cũng đã không đúng, không ai có thể biết chính xác ngày
sanh của Giêsu là ngày nào, người ta chỉ biết rằng ngày 25/12 là ngày mà
nhiều dân tộc ở Phương Tây chọn làm ngày thờ thần Mặt trời theo truyền thống
văn hóa, tín ngưỡng của người Phương Tây.
Chính vì vậy khi tác giả
tông huấn viết “Thật nghịch lý khi đại đa số người Châu Á có khuynh hướng
coi đức Giêsu, một người sinh ra trên chính mảnh đất Châu Á, là một người
Tây Phương hơn là Á Châu” (S20) là chẳng nghịch lý chút nào…. Khuôn mặt
của “Giêsu thần học” cũng được biến đổi dần theo năm tháng… Nền thần học
Kitô giáo ngày nay đã “cho phép” Giêsu biến thành “món quà” mà giáo hội Công
giáo La Mã là người độc quyền “ban tặng” cho mọi dân tộc, đặc biệt là các
dân tộc Châu Á!?…(xem chương bốn, Tông huấn GH tại Châu
Á)
v
3.
VATICAN VỚI KẾ HOẠCH “CÔNG GIÁO HÓA” CHÂU Á
Châu Á - Lộ trình khó
đến!
Phần nhập đề, đoạn số 1 với tiêu đề: “Kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa tại
Châu Á”. Tông huấn viết: “Nếu trong thiên niên kỷ thứ nhất Kitô giáo,
thánh giá đã được trồng trên đất Châu Âu, trong thiên niên kỷ Kitô giáo thứ
hai, thánh giá được trồng trên đất Mỹ Châu và Phi Châu, thì chúng ta có thể
cầu xin trong thiên niên kỷ Kitô giáo thứ ba, giáo hội sẽ gặt được một mùa
gặt lớn trên lục địa vừa rộng lớn vừa tràn trề sức sống này”.(S1). Độc
giả Châu Á cảm thấy khó hiểu tự hỏi: Sự thành công của Kitô giáo trên các
lục địa Châu Au, Châu Phi, Châu Mỹ trong hai thiên niên kỷ đầu thì đã rõ
rồi! Nhưng đối với Châu Á, cho đến tận hôm nay Kitô giáo vẫn chưa có một ảnh
hưởng nào đáng kể. “Mùa gặt bội thu” của Vatican trên lục địa này
trong thiên niên kỷ thứ ba cũng chỉ là mang tính “dự báo”. Nói một cách nôm
na dễ hiểu là Vatican đã hoàn toàn thất bại trong việc truyền giáo tại Châu
Á trong suốt hai thiên niên kỷ qua. Thế nhưng sự thất bại trên lại nằm trong
“Kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa” tại châu lục này! Hiểu thế nào đây?
Độc giả có thể kiên nhẫn đọc tiếp bản tông huấn để có thể thấy được “Kế
hoạch kỳ diệu” này ra sao.
Kitô giáo đã có măt rất sớm ở Châu Á. Ngay từ năm 52 sau tây lịch, Kitô giáo
nguyên thủy đã có mặt tại miền nam Ấn Độ. Truyền thuyết cho rằng chính Tôma,
môn đồ của Giêsu đã mang đạo Kitô nguyên thuỷ vào Nam Ấn. Ở Trung Hoa, Kitô
giáo được biết đến từ thế kỷ thứ năm. Đến thế kỷ thứ bảy, đời nhà Đường
(618-907) đã có sự hoạt động của các thừa sai Kitô giáo. Năm 1532, Phanxicô
Xavie cũng đã đến truyền đạo ở Nhật Bản. Tại Việt Nam, theo Khâm Định Việt
Sử Thông Giám Cương Mục, năm 1553 đã có giáo sĩ Giatô tên I-Ne-Khu đến
truyền đạo tại làng Ninh Cường, Quần Anh, quận Nam Chân, làng Trà Lũ quận
Giao Thủy, tỉnh Sơn Nam. Năm 1624 Lm Đắc Lộ cùng 6 thừa sai dòng Tên đến Cửa
Hàn, Đà Nẵng truyền đạo.
Nếu lấy năm 52 của thế kỷ thứ nhất làm mốc thời gian đầu tiên cho việc
truyền đạo của các môn đồ của Giêsu, thì Kitô giáo nguyên thủy có mặt tại
Châu Á cùng lúc với Châu Âu nếu không muốn nói là sớm hơn, vì khi Tôma mang
tín ngưỡng này vào Nam Ấn thì Phaolô còn là “kẻ ngoại giáo” đang bận “bách
hại” đồng bào mình. Đến khi Phaolô “trở lại làm kẻ tân tòng” và bắt đầu mang
đạo Kitô nguyên thủy truyền vào Rôma-HyLạp thì Tôma đã đến Ấn Độ từ lâu….
Tại Rôma, trong suốt 3 thế kỷ đầu, Kitô giáo nguyên thủy bị các hoàng đế La
Mã ngăn cấm. Chính các hoàng đế La Mã đã ban hành lệnh cấm truyền đạo gắt
gao trong thời kỳ này. Mãi đến thời Constantine Kitô giáo nguyên thủy được
cải biên thành Công giáo La Mã.
Tóm lại, từ cái nôi Do Thái, Kitô giáo nguyên thủy đã vượt ngàn dặm đến miền
nam Ấn Độ, vượt Địa Trung Hải thâm nhập vào thế giới Hi-La. Vậy vì sao Kitô
giáo chỉ có thể tồn tại ở Châu Âu mà không thể “bén rễ” được ở Châu Á để
rồi hôm nay, chính người cầm đầu của giáo hội Công Giáo La Mã đã phải nuối
tiếc, hy vọng: “Nếu trong thiên niên kỷ thứ nhất Kitô giáo, thánh giá đã
được trồng trên đất Châu Âu, trong thiên niên kỷ Kitô giáo thứ hai, thánh
giá được trồng trên đất Mỹ Châu và Phi Châu, thì chúng ta có thể cầu xin
trong thiên niên kỷ Kitô giáo thứ ba, giáo hội sẽ gặt được một mùa gặt lớn
trên lục địa vừa rộng lớn vừa tràn trề sức sống này”. (S1).
Lý do thành công của
Kitô giáo ở Châu Âu và Châu Mỹ
Có hai lý do để Kitô giáo có thể cắm rễ tại Châu Âu.
Một là: Tại Châu Âu, dù ban đầu Kitô gặp đôi chút khó khăn do sự ngăn cấm
của đế quốc La Mã. Nhưng chẳng bao lâu sau Kitô giáo chiếm giữ ngôi vị độc
tôn trong thế giới Hy-La vì một lẽ đơn giản: thế giới Hy-La thời đó chưa có
một tôn giáo nào ngoại trừ tín ngưỡng đa thần vốn rất tự do và lỏng lẻo, nên
Kitô giáo không có “đối thủ cạnh tranh”.
Hai là: Khi đã vững vàng trên lãnh thổ đế quốc La Mã, Kitô giáo nguyên thủy
đã biến thể thành Công giáo La Mã, chính tôn giáo này đã thỏa hiệp với thế
lực đế quốc La Mã hình thành thế lực chính trị, quân sự hùng mạnh sẵn sàng
thủ tiêu tất cả mọi thế lực đối lập. Dần dần đế quốc La Mã suy yếu nhưng
Công Giáo La Mã chẳng những không suy yếu theo mà còn mà còn hùng mạnh hơn,
Ưu thế sức mạnh về chính trị và quân sự của giáo hội đã biến Châu Âu thành
lục địa Kitô giáo. Đó là lý do giải thích vì sao “…trong thiên niên kỷ
thứ nhất của Kitô giáo, thánh giá đã được trồng trên đất Âu Châu…”
Tại Châu Mỹ. Lịch sử còn ghi nhận các nhà truyền giáo luôn đồng hành với
những thế lực thực dân Phương Tây để “mở mang nước chúa”… “Sứ Điệp
Tin Mừng” theo chân thực dân Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha đến Mỹ Châu trong
cuộc chinh phục những vùng đất mới. Họ đến Mỹ Châu với những thuận lợi khách
quan. Tại tân thế giới đời sống của thổ dân da đỏ rất lạc hậu, không có tôn
giáo bản địa, chỉ có những tín ngưỡng bình dân thô sơ theo khuynh hướng đa
thần, Tôtem, bái vật… thêm vào đó, ở Nam Mỹ, người ta cho xây nhiều nhà thờ
có đường hầm ăn thông với các trại nuôi thú dữ như cọp, beo, sư tử. Thổ dân
Nam Mỹ khi bị bắt vào nhà thờ chỉ có hai con đường chọn lựa: một là “chịu
phép Rửa” để làm con chiên ngoan, hai là đi xuống đường hầm đến các trại
nuôi thú làm mồi cho beo cọp… Với cách truyền đạo như thế, nếu trong thiên
niên kỷ thứ hai, thánh giá không được trồng trên đất Mỹ Châu và Phi Châu mới
là điều lạ!
Các thực tại văn hóa, tôn
giáo Châu Á đủ mạnh đánh bại tham vọng của Vatican
Riêng tại Châu Á, khi đặt chân đến lục địa này, những nhà truyền giáo, các
thừa sai Kitô giáo đã phải kinh ngạc trước một châu lục rộng lớn mênh mông
với diện tích rộng nhất địa cầu, quê hương của gần hai phần ba dân số trên
toàn thế giới… là cái nôi của nhiều nền văn minh, đời sống văn hóa dồi dào
phong phú, tôn giáo siêu việt. Đời sống tâm linh của các tín đồ trong các
tôn giáo Châu Á làm các thừa sai Kitô giáo phải ngạc nhiên. Phật giáo, Ấn
giáo, Lão giáo trong nhiều trường hợp đã trở thành sự “đam mê tò mò” của
nhiều thừa sai… thêm vào đó, tinh thần yêu nước của các dân tộc Châu Á
nồng nàn, trước các thế lực thực dân xâm lược, các dân tộc Châu Á luôn tỏ ra
kiên cường, bất khuất…… Lịch sử cho thấy Kitô giáo đã có mặt tại châu lục
này rất sớm. Thế nhưng mãi tận đến hôm nay, khi nhân loại bắt đầu bước vào
những năm đầu của thiên niên kỷ thứ ba, số tín đồ Kitô giáo (bao gồm nhiều
hệ phái như Tin Lành, Công Giáo v.v…) chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, khoảng
3,2%, riêng Công Giáo La Mã chiếm 2,4% tập trung đông nhất tại Philippines.
Khác với Châu Âu, Châu Phi và Châu Mỹ, Ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa của
các dân tộc Châu Á rất cao. Đúng như nhận định của đương kim Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II, tác giả tông huấn: “…Người Châu Á có một cảm thức bẩm
sinh về tâm linh và có một nền minh triết luân lý …” (S6). Tuy nhiên,
tác giả tông huấn chỉ nhìn nhận nó như một “điều kiện thuận lợi” để
từ chính là cái “cốt lõi” này, Vatican có thể “xây dựng một ý thức
bản sắc Châu Á…” đồng thời “tìm cách giới thiệu Tin Mừng sao cho vừa
trung thành với truyền thống của mình vừa không phải bội cái hồn Châu Á”.
(S6).
Đứng ở góc độ “nhân quyền”. Tự do tư tưởng, tự do tôn giáo là một trong
những quyền tự do căn bản mà bất kỳ một xã hội tiến bộ nào cũng phải thừa
nhận. Việc Công giáo La Mã muốn giới thiệu Kitô giáo cho công chúng Châu Á
cũng là một sinh hoạt tôn giáo bình thường. Tuy nhiên trong quá trình thực
hiện, Công Giáo La Mã đã bộc lộ rõ ý đồ “Phúc Âm hóa” Châu Á bằng
chính sách “thực dân văn hóa”, cố tình hạ thấp các truyền thống văn hóa,
xuyên tạc học thuyết các tôn giáo của Châu Á là một hành động khiêu khích,
khó chấp nhận, đáng lên án. Vì vậy. Khi người cầm đầu giáo hội viết :
“Giáo hội sẽ tìm cách giới thiệu tin mừng sao cho vừa trung thành với truyền
thống của mình vừa không phản bội cái hồn Châu Á” buộc người Châu Á
phải cảnh giác xem có thực sự là Vatican “không phản bội cái hồn Châu Á”
trong việc “mở mang nước Chúa” của mình hay không? Đây là một vấn
đề đang được nhiều người quan tâm mà chúng ta sẽ tìm hiểu sau.
Trở lại vấn đề Vatican thất bại trước việc đưa Kitô giáo vào Châu Á. Con số
3,2% tín đồ Kitô giáo vào những năm đầu của thiên niên kỷ thứ ba đã không
nói lên điều gì ngoại trừ lời than thở của Giáo hoàng: “Chúng ta chẳng
thể làm gì hơn, mà chỉ biết sững sờ trước con số khổng lồ của dân cư Châu Á
và trước bức tranh ghép vô cùng phức tạp của biết bao nền văn hóa, ngôn ngữ,
tín ngưỡng và truyền thống làm nên phần cơ bản của lịch sử và di sản của gia
đình nhân loại” (S6). Và lời nuối tiếc, hy vọng: “chúng ta có thể cầu
xin trong thiên niên kỷ Kitô giáo thứ ba, giáo hội sẽ gặt được một mùa gặt
lớn trên lục địa vừa rộng lớn vừa tràn trề sức sống này”. (S1). Thánh
giá chưa thể cắm và không thể cắm trên mảnh đất Châu Á bao lâu là tuỳ vào
thái độ của Vatican đối với các dân tôc Châu Á. Lẽ ra điều này Vatican là
người phải hiểu rõ hơn ai hết.
4.
THÁI ĐỘ TRỊCH THƯỢNG DẪN ĐẾN SỰ THẤT BẠI CỦA VATICAN TẠI CHÂU Á
“Phúc âm hóa” Châu Á
hay sự xuyên tạc, hạ thấp các thực tại tôn giáo, văn hóa Châu A
“Tông huấn”, nghĩa là những văn bản mang tính chất “giáo huấn” đối với
hàng giáo phẩm và tín đồ thuộc giáo hội Công giáo La Mã, giáo huấn là trách
nhiệm của Giáo Hoàng trên cương vị “chăn dắt”, và bổn phận của “đàn chiên”
là phải nghe theo vô điều kiện. Giáo Hoàng muốn “chăn dắt” kiểu gì là quyền
của ông, người ngoài giáo hội không quan tâm vì đó là chuyện nội bộ của giáo
hội Công giáo La Mã… Nhưng nếu Giáo Hoàng lợi dụng sự giáo huấn tín đồ của
mình để bôi nhọ, xuyên tạc, nhằm hạ thấp các thực tại văn hóa, tôn giáo Châu
Á, đương nhiên không thể tránh được những phản ứng. Rất tiếc điều này lại
được tác giả bản tông huấn Giáo hội tại Châu Á bộc lộ ngay trong phần nhập
đề: “Vấn đề cho Kitô giáo gặp gở các văn hóa và tôn giáo lâu đời của địa
phương đã trở nên cấp thiết. Đây là một thách đố lớn đặt ra cho việc phúc âm
hóa, vì các hệ thống tôn giáo ở đây như Phật giáo, Ấn Độ giáo đã mang tính
chất cứu độ rõ rệt. Thật vậy, quả là mầu nhiệm khi đấng cứu thế sinh ra tại
Châu Á lại vẫn cứ vô danh đối với các dân tộc trên lục địa này cho tới ngày
hôm nay” (S2)
Ý muốn “Công giáo hóa Châu Á” trong thiên niên kỷ thứ ba được người đứng đầu
giáo hội công khai thừa nhận: “giáo hội sẽ gặt được một mùa gặt lớn trên
lục địa vừa rộng lớn vừa tràn trề sức sống này” (S1).
Trong tông thư “Tiến tới thiên niên kỷ thứ ba” (Tertio Millennio
Adveniente), đương kim Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã vạch ra một lộ trình
cho công cuộc “Tân phúc âm hóa” trên phạm vi toàn cầu. Theo đó, các
Thượng Hội Đồng Giám Mục mỗi châu lục được hình thành. Các Thượng Hội Đồng
này dưới sự lãnh đạo của Vatican có nhiệm vụ nghiên cứu các thực tại văn
hóa, tôn giáo của từng châu lục từ đó vạch ra kế hoạch thực hiện “Phúc âm
hóa” cho phù hợp. Trong Tông huấn giáo hội tại Châu Á, Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II cũng đã nhắc lại một ý của Tông thư Tiến tới thiên niên kỷ
thứ ba: “vấn đề cho Kitô giáo gặp gở các văn hóa và tôn giáo lâu đời của
địa phương đã trở nên cấp thiết. Đây là một thách đố lớn đặt ra cho việc
phúc âm hóa, vì các hệ thống tôn giáo ở đây như Phật giáo, Ấn Độ giáo đã
mang tính chất cứu độ rõ rệt”. Từ nhận định trên, Tông huấn đưa ra một
luận cứ mang tính khẳng định rất khôn khéo nhưng ẩn chứa bên trong một nội
dung nhằm hạ thấp giá trị của các thực tại văn hóa, tôn giáo Châu Á:
“Thật vậy, quả là mầu nhiệm khi Đấng Cứu Thế sinh ra tại Châu Á lại vẫn cứ
vô danh đối với các dân tộc trên lục địa này cho tới ngày hôm nay”.
Người đọc có cảm giác vấn đề Kitô giáo muốn gặp gỡ các thực tại văn hóa, tôn
giáo Châu Á không phải chỉ là một “thách đố” mà là “thách thức”
của Vaticăn trong ý đồ truyền giáo ở Châu Á. Để thấy rõ vấn đề này, ta
cần phân tích một số điểm thuộc nội dung trích dẫn trên.
Hiểu thế nào về “tính chất cứu độ” trong các tôn giáo
Châu Á
Tông huấn viết : “… hệ thống tôn giáo ở đây như Phật giáo, Ấn Độ giáo đã
mang tính chất cứu độ rõ rệt…”(S2). Hiểu thế nào về “tính chất
cứu độ rõ rệt” trong Ấn giáo, Phật giáo? Đứng ở góc độ độc giả, có hai ý
để người đọc có thể hiểu. Một là “cứu độ” được hiểu theo truyền thống Phật
giáo hoặc các tôn giáo Châu Á khác, hai là hiểu theo tín điều Kitô giáo. Dù
sao mặc lòng, không thể đánh đồng các khái niệm cứu độ của các tôn giáo để
quy kết vào sự cứu độ của Kitô giáo bằng phép quy nạp máy móc. bất chấp hệ
quy chiếu, mâu thuẩn giữa các hệ thống. Ví dụ quan niệm cứu độ của Kitô giáo
và Phật giáo là hoàn toàn trái ngược, không có điểm chung.
“Cứu độ” trong truyền thống Phật giáo là “Tự độ”. Tự độ là tự mình cứu mình
mà không cần đến một thế lực siêu nhiên nào. Tự độ còn có nghĩa là Tự giác,
Giác là “Biết” (Prajna). Biết như thế nào? “Biết như là biết” hay nói theo
thuật ngữ Phật giáo là “Như Thực Tri Kiến” nghĩa là thấy rõ tường tận thực
tướng của vạn pháp.
“Cứu độ” được hiểu theo tín điều Kitô giáo hoàn toàn khác. Như ta đã biết.
Các truyền thống tín ngưỡng Á Châu đa phần là những hệ thống không có giáo
điều, khác với Kitô giáo, một tôn giáo hoàn toàn dựa vào giáo điều. Vì vậy,
cứu độ của Kitô giáo cũng không thể nào tách khỏi giáo điều. Giáo điều
thường là những giả định mang dấu ấn của tất định luận. Khởi nguyên học
thuyết cứu độ của Kitô giáo là “tội nguyên tổ”. Ađam và Eva, hai nhân vật mà
giáo điều Kitô giáo buộc tín đồ phải tin là tổ tiên của họ đã phạm một lỗi
hết sức “vở vẩn” là ăn trái táo Chúa đã cấm. Hậu quả con cháu phải gách chịu
“tội nguyên tổ”. Giêsu xuống thế để cứu chuộc lại lỗi lầm do Ađam-Eva gây
ra. Tín đồ Kitô giáo muốn được xóa tội nguyên tổ phải chịu “phép rửa tội”.
Mặc dù khoa thần học ngày nay đã thần học hóa một cách có hệ thống các giả
định huyền thoại thuộc di sản văn hóa Do Thái, các truyền thuyết trong Cựu
ước thời tiền Kitô giáo. Các ý niệm thuộc phạm trù Do Thái được sắp xếp có
hệ thống và được giải thích bằng những ý niệm thần học thông qua công cụ
triết học Hi Lạp. Các truyền thuyết, huyền thoại của Sáng Thế Ký như Ađam,
Eva, Eđen, con rắn, trái cấm v.v… thuộc thời kỳ tiền Kitô giáo được khoác
lên một bộ mặt mới mang tính kinh viện, bác học hàn lâm… đại loại như:
“Đức Giêsu đã thi hành ý muốn của Cha Ngài, là hòa giải toàn thể nhân loại
với Cha sau khi quan hệ giữa Đấng Tạo Hóa và thụ tạo bị tội nguyên tổ cắt
đứt” (S11) v.v…
Tất nhiên với những tín điều như vậy ai muốn tin thì tin, muốn theo cứ theo
vì đó là tự do tư tưởng, tự do tôn giáo. Riêng đối với người viết tập sách
này nhận thấy, là một người Việt Nam dù có tôn giáo hay không có tôn giáo,
nếu muốn nhận “tội tổ tông” thì “tội tổ tông” đó phải do chính ông Lạc Long
Quân và bà Âu Cơ “vấp phạm” chứ không phải sự vấp phạm của một cặp vợ chồng
Do Thái Ađam-Eva vốn rất xa lạ với truyền thống văn hóa dân tộc Việt. Lm Cao
Phương Kỷ trong cuốn “Thiên Chúa Giáo và Tam Giáo viết: “Gọi là tội
nguyên tổ cũng gọi là tội tông truyền, vì mọi người đều thuộc dòng dõi của
Ông Bà Nguyên Tổ…” (tr119). nhận vơ như thế là thể hiện tinh thần vong
bản, xem thường tổ tiên dân tộc Việt. Không biết ông Cao Phương Kỷ là người
Việt hay người Do Thái?… Ngoài ra, cái gọi là “Ông Bà Nguyên Tổ…” của
Lm Cao Phương Kỷ thực sự chỉ mới được biết đến khoảng 6 ngàn năm trước, thời
mà cựu ước gọi là “tạo dựng”. Nếu so với “nguyên tổ Java” hoặc
“nguyên tổ Bắc Kinh” thì “Ông Bà Nguyên Tổ Do Thái” trẻ hơn
rất nhiều, vì người cổ Bắc Kinh và người cổ Java thuộc thời đồ đá cũ đã có
khoảng từ 500 ngàn năm trước. Đó là chưa nói đến phát hiện mới nhất về người
cổ Phi Châu mà số tuổi phải tính bằng “số triệu”!
Quy nạp máy móc về cái gọi là “Ngôn Sứ” và “Đấng Cứu Độ
duy nhất”
Vậy, cứu độ trong Kitô
giáo và Phật giáo là hoàn toàn khác nhau. Do đó, khi Tông huấn đưa ra nhận
xét : “… hệ thống tôn giáo ở đây như Phật giáo hay An Độ giáo đã mang
tính chất cứu độ rõ rệt…” thì “rõ rệt” theo kiểu nào? Chắc chắn
là theo kiểu Kitô giáo. Sở dĩ có sự khẳng định này là do hệ luận được tác
giả bản tông huấn đúc kết từ tiền đề trên: “Thật vậy, quả là mầu nhiệm
khi Đấng Cứu Thế sinh ra tại Châu Á lại vẫn cứ vô danh đối với các dân tộc
trên lục địa này cho tới ngày hôm nay”(S2).
Như tôi đã trình bày ở
phần trên. Tông huấn đưa ra một luận cứ khẳng định rất khôn khéo nhằm đánh
lừa độc giả: “Phật giáo, Ấn Độ giáo đã mang tính chất cứu độ rõ rệt”
để độc giả lầm tưởng Tông huấn ca ngợi “tính cứu độ” của các tôn giáo
ấy, kỳ thực nó ẩn chứa bên trong một nội dung xuyên tạc học thuyết các tôn
giáo, nhằm hạ thấp giá trị của các thực tại văn hóa, tôn giáo Châu Á. Điều
này thật rõ ràng qua câu: “…quả là mầu nhiệm khi đấng cứu thế sinh ra tại
Châu Á lại vẫn cứ vô danh đối với các dân tộc trên lục địa này cho tới ngày
hôm nay”. Vì có đọc tiếp bản tông huấn ta mới thấy sự khẳng định
“Đức Giêsu là đấng cứu độ duy nhất”, giáo chủ của các tôn giáo khác tại
Châu Á chỉ là “Ngôn sứ” của Thiên Chúa. Ngay cả Lm. Ant. Nguyễn Ngọc
Sơn, người được Ban Thường Huấn Giáo Phận phân công trình bày nội dung của
văn bản “Tông Huấn giáo hội tại Châu Á” đồng thời cũng là dịch giả Tông huấn
cũng phải thừa nhận: “Đức Thánh Cha đã tổng hợp tất cả các thực tại phong
phú ấy cách kỳ diệu và đầy khôn ngoan, rồi quy về Đức Giêsu Kitô như là Đấng
Cứu Độ duy nhất của toàn thể loài người và vũ trụ”. Thật vậy, ngay từ
chương nhập đề của bản Tông huấn, người ta đã gặp ngay sự khẳng định của
đương kim Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: “Đức Kitô là trung gian duy nhất
giữa Thiên Chúa và loài người, ngài là Đấng Cứu Chuộc duy nhất của thế giới,
khác hẳn với các vị sáng lập các tôn giáo lớn khác”. (S2).
Cái gọi là “tính chất cứu độ” ở đây cũng chỉ là sự lập lại của nhiều
văn bản trước đó. Trong tập sách “Bước vào hy vọng”, Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II cũng đã từng viết: “Phật giáo là một tôn giáo cứu độ…”. Các giá
trị cứu độ của các tôn giáo Châu Á đã được Thiên Chúa của Kitô giáo “lập
trình” sẵn để các giáo chủ các tôn giáo “sử dụng”. Các tôn giáo
Châu Á dù có sự dị biệt đến đâu đối với Kitô giáo cũng đều nằm trong
“chiếc lưới quan phòng” của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ của
Ngài. Chính vì thế mà “…Đấng Cứu Thế sinh ra tại Châu Á lại vẫn cứ vô
danh đối với các dân tộc trên lục địa này…” (S2) mà không cần
phải “hữu danh” như các giáo chủ của các tôn giáo Châu Á khác, vì dù
“hữu danh” nhưng các giáo chủ khác chỉ là “ngôn sư”, nói theo
ngôn ngữ thời nay là “phát ngôn viên” của Thiên Chúa Kitô giáo! Còn
nếu nói theo ngôn ngữ của dân giang hồ, các tay anh chị là: “tay sai”
hoặc “đàn em”!… “Quả là mầu nhiệm” ngoài sức tưởng tượng khiến những
người còn chút lương tri phải thở dài ngao ngán!
Đến đây chúng ta đã hiểu vì sao Kitô giáo đã thất bại hoàn toàn trong hai
thiên niên kỷ đầu truyền giáo tại Châu Á. Nhưng sự thất bại đó lại được tác
giả bản tông huấn xem như một “kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa tại Châu
Á”. Lương tri người Châu Á có thể tra vấn: đó là “kế hoạch kỳ diệu
của Thiên Chúa” hay “kế hoạch kỳ cục của Vatican?” Câu trả
lời sẽ thuộc về vế sau. Thực vậy, cái gọi là “kế hoạch” của Vatican
đã thực sự trở thành một “kế hoạch âm mưu thủ tiêu” tất cả mọi giá
trị tôn giáo, văn hóa Châu Á vốn là một di sản qúy báu mà cả nhân loại đang
thừa hưởng.
Người Châu Á phi Kitô giáo hiểu thế nào về cái gọi là “Đấng cứu độ
duy nhất”
Đoạn số 10, Tông huấn viết: “Đức Giêsu Kitô là Chúa thật và là người
thật, là vị cứu tinh duy nhất của mọi dân tộc. Điểm khác biệt giữa giáo hội
với các cộng đồng tôn giáo khác là niềm tin giáo hội đặt vào Đức Giêsu
Kitô…”(S10). Ở đây có ba vấn đề cần làm rõ.
Thứ nhất: Nếu có ai đó tin rằng ông A, bà B… là “Thiên Chúa thật” thì
đó là quyền của họ, không ai cấm cản họ, họ có quyền đặt niềm tin vào người
mà họ cho là vị cứu tinh của chính mình. Nhưng nếu họ khẳng định ông A hoặc
bà B nào đó cũng chính là vị cứu tinh của tất cả mọi người và cố gắng thuyết
phục để mọi người phải tin theo, thì dù chúng ta không phải là bác sĩ chuyên
khoa phân tâm, nhưng chúng ta cũng có thể nghi ngờ người đó “đầu óc có
vấn đế…”
Thứ hai: Nếu người đó nói họ khác biệt với chúng ta bởi họ tin và chúng ta
thì không. Sự khác biệt này hiển nhiên không bàn cải, vì ảnh hưởng của vị
cứu tinh mà họ hy vọng trông cậy, nương nhờ vào, hoàn toàn không ảnh hưởng
đến người không tin, do vậy, nếu đầu óc họ bình thường, họ phải nghĩ:
“Ngài chỉ là vị cứu tinh duy nhất của những ai tin Ngài thôi!” chứ không
phải là vị cứu tinh của tất cả mọi người.
Thứ ba: Nếu khẳng định đó là “điểm khác biệt” giữa giáo hội và các
cộng đồng tôn giáo khác thì luận điểm “Đức Giêsu Kitô là vị cứu tinh duy
nhất của mọi dân tộc” bị phá sản. Chính “điểm khác biệt” này đã
phủ định “tính phổ quát của chương trình cứu độ” dẫn đến sự phá sản
của luận điểm “vị cứu tinh duy nhất”.
Không phải Vatican không thấy được điều đó, ngược lại họ đã thấy và thấy rất
rõ. Do đó, Tông huấn viết: “Công bố Đức Giêsu là vị cứu tinh duy nhất có
thể sẽ tạo ra những khó khăn đặc biệt cho các nền văn hóa tại đây vì nhiều
tôn giáo Châu Á dạy rằng có những thần minh tự bộc lộ mình như đứng cứu độ
trung gian…” những “khó khăn đặc biệt” này đã được Lm.Ant Nguyễn
Ngọc Sơn, người được Ban Thường Huấn Giáo Phận phân công trình bày nội dung
văn kiện Tông huấn giáo hội tại Châu Á, đồng thời cũng là người dịch văn
kiện này, lưu ý nhấn mạnh về các phản ứng của cả hai phía: Kitô hữu và những
người theo những tôn giáo khác… “… vì đã nghe biết được những phản ứng e
ngại của nhiều tín hữu, trong đó có cả Giám mục qua hội nghị lần VII của
Liên Hiệp Hội Đồng Giám Mục Á Châu tại Thái Lan vào tháng 1-2000 vừa qua. Họ
e ngại rằng, tại sao Đức Thánh Cha lại cứ nhấn mạnh: Đức Giêsu là đấng cứu
độ duy nhất, trong khi Châu Á có nhiều tôn giáo lâu đời và các tín đồ thuộc
các tôn giáo ấy không thể chấp nhận khẳng định này…”.
Đôc giả có thể đọc với một thái độ vô tư, khách quan, không thiên vị, có thể
“cảm thông” và “chia sẻ” những “khó khăn đặc biệt” nêu trên. Các nền
văn hóa Châu Á nói chung, cũng không hẹp hòi gì để không tiếp nhận văn hóa
Kitô giáo. Trong khuynh hướng chung, hội nhập, giao lưu văn hóa mang tính
toàn cầu. Các nền văn hóa tự làm giàu cho nhau, chứ không riêng gì văn hóa
kitô giáo. Trong quá trình hội nhập, bản sắc văn hóa của mỗi nền văn hóa
phải tự tỏa sáng, để các nền văn hóa khác chiêm ngưỡng, tiếp thu. Đến lượt
mình, văn hóa đó lại chiêm ngưỡng, tiếp thu các nền văn hóa khác…
Kitô giáo có thể phô diễn văn hóa của mình để các nền văn hóa khác chiêm
ngưỡng mà không cần phải e ngại. Tuy nhiên, nếu biến hội nhập văn hóa thành
xâm lăng văn hóa, thực hiện ý đồ hạ thấp, chà đạp, đồng hóa, thậm chí thủ
tiêu các nền văn hóa khác là điều không thể chấp nhận được và chắc chắn phải
nhận sự phản kháng mạnh mẽ từ các nền văn hóa khác. Vatican muốn giới thiệu
một nét văn hóa mà họ cho là “nét độc đáo nhất” trong toàn bộ nền văn
hóa của mình là: “Đức Giêsu là đấng cứu độ duy nhất” chúng ta có thể
tiếp nhận, tìm hiểu, nghiên cứu và chắt lọc tính tuý (nếu có) của nét văn
hóa đó. Tuy nhiên người ta cũng phải đề phòng, bảo vệ văn hóa của mình nếu
phát hiện được ý đồ xâm lăng văn hóa Kitô giáo do Vatican chủ trương và thực
hiện. Điều này đã quá rõ ràng, lộ liễu đến người vô tâm nhất khi đọc Tông
huấn cũng dễ dàng phát hiện. Đoạn số 2, Tông huấn viết: “Đức Kitô là
trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người Ngài là đấng cứu chuộc duy
nhất của thế giới, khác hẳn với các vị sáng lập các tôn giáo lớn khác…
(S2). Độc giả có thể hỏi: Đức Kitô khác với các vị sáng lập các tôn giáo
Châu Á ở chỗ nào?” Câu trả lời sặc mùi “đạo phiệt”: “…Các giá trị tôn
giáo mà các đạo ấy giảng dạy đang chờ được hoàn thành trong Đức Giêsu Kitô”
(S6). Và lối nói khoa trương: “Nơi Ngài, các giá trị chính
hiệu của mọi truyền thống tôn giáo và văn hóa… được hoàn thành và đạt đến
mức sung mãn” (S14). “Không cá nhân nào, không dân tộc nào, không văn
hóa nào có thể dửng dưng trước tiếng gọi của Đức Giêsu”, “Khi chiêm ngắm Đức
Giêsu trong bản tính nhân loại của ngài, các dân tộc Châu Á sẽ tìm đuợc câu
trả lời cho những vấn nạn sâu xa nhất của mình” (S14)
Sự “tôn trọng” đồng nghĩa với việc “lãnh nhận phép Rửa” trong hành
trình văn hóa của Vatican tại Châu Á
Có lẽ không cần thiết để định nghĩa: “tôn trọng là gì?” mà chỉ cần để ý xem
Vatican đã “tôn trọng như thế nào” đối với các tôn giáo Châu Á như Phật
giáo, Ấn giáo… Mặc dù giáo hội “tôn trọng” các truyền thống của họ, nhưng
“…tôn trọng không có nghĩa là không được phép công khai loan báo tin mừng
một cách nguyên vẹn. Nhất là trong bối cảnh có quá nhiền nền văn hóa và tôn
giáo tại Châu Á, cần phải nói rõ rằng: Không bao giờ vì tôn trọng và yêu
qúy các tôn giáo ấy, cũng chẳng bao giờ vì tính phức tạp của các vấn đề được
đặt ra mà yêu cầu giáo hội rút lui không công bố đức Giêsu kitô cho những
người không phải là Kitô hữu” (S20).
Sự tôn trọng “quá quắt” của Vatican khiến nhiều người phải e dè, kinh sợ.
Việc loan báo Tin Mừng là quyền của họ, họ muốn loan báo kiểu gì tuỳ thích,
công chúng Châu Á ngày nay có đủ trình độ và sự khôn ngoan của mình để quyết
định lựa chọn việc có nghe hay không! Khi Giáo Hoàng nói, đối với các tôn
giáo Châu Á: Không bao giờ vì tôn trọng và yêu qúy các tôn giáo ấy, cũng
chẳng bao giờ vì tính phức tạp của các vấn đề được đặt ra mà yêu cầu giáo
hội rút lui không công bố Đức Giêsu Kitô cho những người không phải là Kitô
hữu” buộc chúng ta phải nghĩ rằng sự “tôn trọng và yêu quý” các
tôn giáo Châu Á chỉ là câu nói đầu môi chót lưỡi, lừa bịp trắng trợn, vì các
thực tai văn hóa, tôn giáo Á Châu dưới mắt của Vatican có giá trị gì đâu mà
“tôn trọng và yêu quý”? Nếu tôn trọng và yêu quý thật sự, không bao
giờ câu sau đây được viết ra: “Thật ra tín đồ trong các tôn giáo ấy vẫn
có thể nhận được ơn Chúa và được Đức Kitô cứu độ ngoài phương thế thông
thường mà Ngài đã lập ra, điều ấy không loại bỏ việc họ được kêu gọi đến
nhận lãnh đức tin và phép Rửa như chúa hằng muốn cho hết mọi người”
(S31)
Ta hãy đọc tiếp bản tông huấn để thấy Vatican kính trọng các tôn giáo khác ở
Châu Á ra sao: “Con đường giáo hội đến với các tôn giáo khác là con đường
kính trọng thực sự… Một sự kính trọng mang hai mặt: một đằng tôn trọng con
người trong hành trình tim kiếm những giải đáp cho các vấn nạn sâu xa nhất
của cuộc sống, đằng khác tôn trọng hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi con
người. Thật vậy, các nghị phụ Thượng Hội Đồng sẵn sàng nhìn nhận hoạt động
của Chúa Thánh Thần nơi các xã hội, văn hóa và tôn giáo A Châu, qua đó Chúa
Cha chuẩn bị tâm hồn của các dân tộc Châu Á đón nhận sự sống sung mãn nơi
Đức Kitô (S20).
Đấy! Tôn trọng và yêu qúy của Vatican đối với tín đồ trong các tôn giáo Châu
Á là kêu gọi họ “đến để lãnh nhận đức tin và chịu phép Rửa!”. Kính
trọng bằng cách cố “nhét” Chúa Thánh Thần vào đời sống văn hóa và tôn
giáo của các dân tộc Châu Á một cách thô thiển, kém tế nhị…
Người Châu Á
khó chấp nhận kiểu “Kính trọng” của Vatican.
Trong chương đầu tiên của Tông huấn, Giáo Hoàng nêu bối cảnh đặc thù Châu Á
với các thực tế tôn giáo, văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội và những vấn
đề thời sự khác như: toàn cầu hóa, đô thị hóa, du lịch, bùng nổ dân số, chủ
nghĩa khủng bố, dịch vu, mại dâm, truyền thông đại chúng v.v… từ đó hướng
người đọc đến một vấn đề mấu chốt: Giới thiệu “Đấng Cứu Thế là người Châu
Á, là Đấng cứu độ duy nhất cho toàn thể nhân loại…” và không dấu tham
vọng: “sẽ gặt được một mùa gặt lớn trên lục địa vừa bao la vừa tràn trề
sức sống này”.
Châu Á đúng là một châu lục rộng lớn nhất thế giới với dân số khoảng hai
phần ba dân số toàn cầu … Châu Á lại là chiếc nôi của nhiều tôn giáo lớn,
xứ sở của những nền văn minh rực rỡ, văn hóa phong phú. Đúng như nhận định
của Giáo hoàng “Nét đánh động nhất của lục địa này là sự đa dạng của các
dân tộc, những người thừa hưởng những nền văn hóa, tôn giáo và truyền thống
xa xưa. Chúng ta chẳng thể làm gì hơn, mà chỉ biết sững sờ trước con số
khổng lồ của dân cư Châu Á và bức tranh ghép vô cùng phức tạp của biết bao
nền văn hóa, ngôn ngữ, tín ngưỡng và truyền thống, làm nên phần cơ bản của
lịch sử và di sản của gia đình nhân loại.” (S6).
Đúng vậy, không còn gì phải nghi ngờ về cái di sản đồ sộ của các dân tộc
Châu Á mà nhân loại toàn thế giới đang thừa hưởng. Và cũng rất đúng với nhận
định: “Người dân Châu Á rất tự hào về các giá trị tôn giáo và văn hóa của
mình, quý trọng sự thinh lặng và chiêm niệm, sống giản dị, hòa hợp, từ bỏ,
bất bạo động, làm việc chăm chỉ, có kỷ luật, sống thanh đạm, ham học hỏi và
truy tầm triết lý. Người Châu Á rất qúy trọng các giá trị như tôn trọng sự
sống, từ bi với mọi loài, gần gũi thiên nhiên, hiếu thảo với cha mẹ, người
lớn và tổ tiên, ý thức rất mạnh về cộng đoàn.” (S6). Trước một thực tế
về các nền văn hóa đa dạng, phong phú như thế của các dân tộc Châu Á. Người
đứng đầu giáo hội công giáo ở Vatican cũng đành phải “…chẳng thể làm gì
hơn, mà chỉ biết sững sờ trước con số khổng lồ của dân cư Châu Á và bức
tranh ghép vô cùng phức tạp của biết bao nền văn hóa, ngôn ngữ, tín ngưỡng
và truyền thống, làm nên phần cơ bản của lịch sử và di sản của gia đình nhân
loại.” (S6).
Thế nhưng, đối với Vatican, dù “chẳng thể làm gì hơn!”, nhưng quyết
không bó tay. Âu đó cũng là bản chất cố hữu mà lịch sử đã phải chứng kiến
trong suốt hai thiên niên kỷ tồn tại và phát triển của Vatican. Có đọc tiếp
bản tông huấn, chúng ta mới thấy được sự quyết tâm không bó tay của Vatican:
“Á Châu cũng là chiếc nôi của các tôn giáo lớn trên thế giới, như Do Thái
giáo, Kitô giáo, Hồi giáo, An giáo, đó là nơi khai sinh của nhiều truyền
thống tâm linh khác như Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo, Bái Hỏa giáo
(Zoroastrianism), đạo Giaina (Jainism), đạo Sikh và Thần đạo (Shintoism).
Chưa kể hàng triệu người theo các tôn giáo truyền thống hay bộ tộc, có nghi
thức quy củ và giáo lý chính thức ở những mức độ khác nhau. Giáo hội hết sức
kính trọng các truyền thống này và luôn tìm cách đối thoại chân thành với
các tín đồ ấy. Các giá trị tôn giáo mà các đạo ấy giảng dạy đang chờ được
hoàn thành trong đức Giêsu Kitô” (S6)
Có thực sự là “Giáo hội hết sức kính trọng các truyền thống này và luôn
tìm cách đối thoại chân thành với các tín đồ ấy” không? Câu trả lời là
“không”. Vì nếu thực sự có kính trọng và muốn đối thoại chân thành, không
bao giờ lại đưa ra một xác quyết hàm hồ, chủ quan, cố tình hạ thấp giá trị
của các tôn giáo khác để đề cao Kitô giáo bằng câu: “Các giá trị tôn giáo
mà các đạo ấy giảng dạy đang chờ được hoàn thành trong đức Giêsu Kitô”.
Từ thực tế trên, người Châu Á có quyền nghi ngờ về những lời tâng bốc dối
trá đại loại như: “các tôn giáo Châu Á đã chứng tỏ mình có nhiều sinh
lực, khả năng canh tân…” (S6). “Người Châu Á có một cảm thức bẩm sinh
về tâm linh, có một nền minh triết luân lý”(S6) và càng nghi ngờ hơn về
“thiện chí” muốn “Xây dựng một ý thức ngày càng đậm đà bản sắc
Châu Á… khám phá và khẳng định bản sắc Châu Á không phải bằng cách đối chất
và đối chọi nhau…”(S6). Sự nghi ngờ trên là hoàn toàn có cơ sở và dần
bộc lộ rõ trong suốt bản tông huấn…
Tóm lại: Phương pháp luận của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là nêu lên các thực
tại văn hóa, tôn giáo của các dân tộc Châu Á một cách chung chung mà không
giải thích, rồi đặt các phạm trù nêu trên vào một giả định “quan phòng
của Chúa Thánh Thần”, từ đó thực hiện quy nạp vào “Đức Giêsu, Đấng
Cứu Độ duy nhất” cho toàn thể nhân loại. Với phương pháp luận như vậy,
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cố tình hạ thấp, chà đạp giá trị của các nền
văn hóa, các tôn giáo lớn Châu Á, đồng thời đề cao học thuyết Kitô giáo,
khôn khéo ngụy biện, đánh lừa để độc giả lầm tưởng Giáo Hoàng tôn trọng, ca
ngợi các sắc thái văn hóa Châu Á như: “Thượng Hội Đồng cũng là một dịp
cho người ta nhận ra các truyền thống văn minh xa xưa, các triết lý và sự
minh triết đã uốn đúc Á Châu nên như ngày hôm nay…”(S4) “Người Châu Á
có một cảm thức bẩm sinh về tâm linh và có một nền minh triết về luân lý…”
(S6) v.v…
Hoạt động xã hội có điều
kiện của Vatican tại Châu Á
Vatican với sự giàu có của mình, đôi khi tỏ ra hào phóng trong các chương
trình từ thiện ở các lĩnh vực hoạt động xã hội, y tế, giáo dục… đối tượng
phục vụ đương nhiên là những quốc gia nghèo, lạc hậu, kém phát triển ở Phi
Châu, Á Châu. “Hầu hết ở nước nào của Châu Á cũng có đông đảo người bản
xứ, mà một số trong họ đang sống trong điều kiện kinh tế thấp nhất. Thượng
Hội Đồng một lần nữa ghi nhận rằng các dân bản xứ hay bộ tộc ấy lại thường
cảm thấy bị cuốn hút bởi con người Giêsu Kitô và giáo hội Ngài. Đây chính là
cánh đồng bao la cho giáo hội tham gia hoạt động giáo dục và y tế…”(S34)
Đọc đoạn trên, ta thấy Vatican không hề cho ai điều gì nếu không có lợi
cho “nước Chúa” (hay nước Vatican?) về vấn đề này, không cần phải tìm tư
liệu chứng minh, mà chỉ cần đọc tiếp tông huấn, ta thấy, vẫn những giọng
điệu cũ: “Muốn thế, phải tỏ lòng kính trọng sâu xa đối với tôn giáo
truyền thống của họ và các giá trị của các tôn giáo ấy” (S34) từ
đó người nhận ân huệ và những lời tâng bốc của Vatican cũng phải trả giá
tương xứng. “cũng cần phải giúp họ biết tự giúp lấy mình, để họ có thể
làm việc mà cải thiện tình cảnh của họ, trở thành các người phúc âm hóa
chính nền văn hóa và xã hội của mình” (S34). Ngay đến trẻ em Châu Á, nạn
nhân của sự bóc lột, bạo hành, lạm dụng sức lao động, lạm dụng tình dục,
hoặc rơi vào tình trạng nghèo đói mà Tông huấn gọi là “do những chương
trình phát triển quốc gia quy hoạch sai…” Nếu có sự giúp đỡ nào đó cho
các đối tượng này từ phía Vatican cũng là điều tốt, cần khuyến khích. Nhưng
Vatican đã không làm điều đó một cách vô vụ lợi, mà làm có điều kiện:
“Giáo hội phải làm hết sức mình để khắc phục những tệ đoan ấy, để hành động
thay mặt những người bị bóc lột nhiều nhất và để tìm cách hướng dẫn những
con người nhỏ bé ấy đến với tình yêu của Đức Giêsu, vì nước trời là của họ
(S34). Lợi dụng sự khó khăn của các dân tộc Châu Á, giúp đỡ họ để lôi
kéo họ về với Vatican, bất chấp tôn giáo truyền thống của họ. Vậy mà gọi là
“tỏ lòng kính trọng sâu xa đối với tôn giáo truyền thống của họ và các
giá trị của các tôn giáo của họ” được sao?
5. VỀ MỘT MÓN QÙA
VATICAN MUỐN GỞI TẶNG CÁC DÂN TỘC CHÂU Á
“Đức Giêsu cứu tinh:
Một món qùa gởi tặng Châu Á”.
Đó là tiêu đề của chương
hai, Tông huấn giáo hội tại Châu Á. Đoạn số 10, Tông huấn viết : “Niềm
tin của Giáo hội vào Đức Giêsu là một quà tặng vừa nhận được vừa để chia sẻ,
đó chính là món quà lớn nhất mà Giáo hội có thể tặng cho Châu Á… Giáo hội
không thể cất giữ hay độc quyền chiếm giữ sự mới mẻ và phong phú ấy mà họ đã
nhận được từ tay chúa nhân lành để thông chia cho toàn thể nhân loại…”
(S10).
Đa số người Châu Á ngày
nay không hiểu về giáo lý cao siêu của Vatican ra sao? Cũng không biết món
quà quý báu nhất mà Vatican đã hào phóng sẵn sàng tặng hết cho người Châu Á
giá trị thực sự như thế nào? Nhưng người Châu Á có thể dõi theo lịch sử,
ngược về quá khứ để tìm hiểu đôi điều về “món quà” mà Vatican định tặng cho
quần chúng Châu Á.
“Giêsu cứu tinh”
chính là “món quà” mà Vatican gởi tặng Châu Á! Điều ngạc nhiên là
“món quà” này lại bị người Do Thái quyết liệt từ chối. Chúng ta biết
rằng Giêsu đúng là vị cứu tinh (Mêsia) mà người Do Thái đã kỳ vọng nhiều nơi
ông với hy vọng ông có thể lãnh đạo nhân dân Do Thái dành lại độc lập từ tay
đế quốc La Mã. Ông đúng là “món quà” mà Thượng Đế gởi tặng nhân dân
Do Thái. Thế nhưng Đế quốc La Mã đã cướp đi “món quà” ấy bằng bản án
tử hình “đóng đinh thập giá” dành cho Giêsu. Nhiều nhà sử học
cho rằng, chính đế quốc La Mã đã chủ trương giết Giêsu vì ảnh hưởng của
Giêsu đối với quần chúng Do Thái bị áp bức là rất lớn. Hình thức xử án treo
trên thập giá đối với tử tù là của luật pháp đế quốc La Mã. Theo luật Do
Thái, người bị kết án tử hình phải chịu ném đá cho đến chết, chỉ có luật
pháp La Mã mới xử đóng đinh tội nhân trên thập giá…
Theo Kinh Thánh, Giêsu bị
dân Do Thái bắt nộp cho Philatô, họ yêu cầu phải xử tử Giêsu. Philatô muốn
tha cho Giêsu nhưng bị dân chúng phản đối. Vì thế ông đã quyết định “rửa
tay” trả Giêsu về cho dân Do Thái để họ xử Giêsu theo luật Do Thái. Nếu sự
thật là vậy thì Giêsu phải bị ném đá chứ không phải bị xử đóng đinh thập
giá. Nhiều nhà sử học cho rằng: Đã có một cuộc “chỉnh lý” Kinh Thánh sau khi
Constantine thành lập giáo hội Công giáo nhằm đáp ứng mục tiêu chính trị của
Đế quốc La Mã.
Giêsu mất đi nhưng ảnh
hưởng của ông vẫn còn đối với nhân dân Do Thái. Các nhóm Kitô nguyên thủy
vẫn còn và họ hoạt động bí mật tại Jêrusalem. Ba thế kỷ sau, “món quà
Giêsu cứu tinh” một lần nữa lại bị hoàng đế La Mã Constantine cướp đi từ
tay các nhóm Kitô nguyên thủy. Constantine thành lập Giáo hội Công giáo La
Mã và muốn thống nhất tất cả các hệ phái Kitô nguyên thủy thành một lực
lượng tập hợp dưới ngọn cờ “Giêsu”. Để phục vụ tham vọng đế quốc của mình
dưới chiêu bài tôn giáo, Giáo hội Rôma đã cho “chỉnh lý” lại toàn bộ Kinh
Thánh. Đế quốc La Mã đã khôn ngoan lèo lái vụ án Giêsu sang hướng kết án Dân
Do Thái tội “Giết Chúa”. Hành động “rửa tay” của Philatô cho thấy đế quốc La
Mã vô can… La Mã thời đó đã quá thành công trong việc cùng lúc đạt được hai
mục tiêu: Một là thống nhất tất cả các nhóm Kitô nguyên thủy thành Công giáo
La Mã, một công cụ vô cùng đắc lực hoạt động trong guồng máy cai trị của đế
quốc La Mã. Hai là khống chế hiệu qủa các lực lượng cách mạng Do Thái.
“Giết Chúa” là một cái cớ để La Mã có thể thẳng tay đàn áp các phong
trào đấu tranh dành độc lập của nhân dân Do Thái…
Jêrusalem là đất thánh,
nhưng lại nằm trong tay bọn “giết Chúa”. Vì thế, những cuộc hành
hương về đất thánh của Giáo hội Rôma luôn là những cuộc hành quân của những
binh đoàn võ trang hùng mạnh. Binh thánh giá, hay thập tự quân chính là tên
gọi của lực lượng quân sự này. Ngày 27/11/1095, Giáo hoàng Urban II triệu
tập công đồng Clermont kêu gọi “tái chiếm Jêrusalem, cứu đất thánh…”.
Giáo hoàng Urban II hứa “ban ơn toàn xá” cho tất cả những ai tình
nguyện gia nhập đoàn quân viễn chinh của Giáo hội. Những tín đồ cuồng tín
gia nhập rất đông vì họ cho rằng, lỡ có chết trận thì cũng bảo đảm được
“phần rỗi linh hồn” do đã được Giáo hoàng ban ơn toàn xá!?… Điều trớ
trêu là những người tham gia thánh chiến vì ham mê “ơn toàn xá” của
Giáo hoàng mà gia nhập chứ họ chưa hề qua một lớp huấn luyện quân sự nào.
Đây rõ ràng là một đoàn quân ô hợp, vô kỷ luật và cuồng tín… Kết quả là
nhiều người “lên thiên đàng thẳng cẳng” nhờ ơn toàn xá của Giáo
hoàng! Một năm sau (1096), khi đoàn quân ô hợp đã hoàn toàn tan rã, Thập tự
quân lại tập hợp lực lượng đến 300 ngàn quân dưới sự lãnh đạo của Giám mục
khâm sai Tòa Thánh Ademar tập kết tại Constantinopoli. Cuộc chiến đẫm máu đã
diễn ra tại nhiều nơi, từ cao nguyên Cappađocia đến Đorylêa, nhưng khốc liệt
nhất là mặt trận Antiokia. Tại đây, đoàn thập tự quân của Giáo hội bị quân
Thổ đánh tơi tả không còn manh giáp. Người ta phải dùng đến chiến tranh tâm
lý để trấn an binh sĩ. Họ phao tin đã tìm thấy chiếc mác đồng đâm cạnh sườn
Chúa Giêsu dưới bàn thờ trong đền thánh Phêrô!?… Sẽ có một đạo quân mặc giáp
trắng từ trời xuống làm viện binh… Đòn tâm lý có tác dụng tức khắc, nó vực
dậy tinh thần chiến đấu của thập tự quân, nhờ thế mà họ làm chủ được mặt
trận Antiokia. Từ đây, đoàn quân thập tự tiến thẳng về đất thánh Jêrusalem.
Năm 1146, cuộc viễn chinh thứ hai của Giáo hội do Benađô thống lĩnh cũng đã
thất bại nặng nề tại Đamas… những cuộc chiến tranh do Giáo hội phát động rất
nhiều. Trong đó có 8 cuộc chiến được ghi nhận là quy mô đã cướp đi sinh mạng
hàng triệu con người. Tất cả những cuộc thánh chiến đều lấy danh nghĩa
“hành hương đất thánh Jêsusalem!” mà người Do Thái là nạn nhân số một.
Vì thế, không lạ gì “món quà Giêsu cứu tinh” mà Vatican “ban tặng”
cho Châu Á ngày nay lại bị người Do Thái tẩy chay mà chính ra họ phải là
người đâu tiên dang tay đón nhận.
“…Món quà lớn nhất mà
Giáo hội có thể tặng cho Châu Á… Giáo hội không thể cất giữ hay độc quyền
chiếm giữ sự mới mẻ và phong phú ấy…”
(S10). Cái gọi là “mới mẻ và phong phú” khiến người ta nhớ lại cuộc
chiến đẫm máu giữa Giáo hội Rôma với giáo phái Cathar (Bogomil, Patarin,
Albigian). Giáo phái này rất mạnh, họ có tổ chức giáo hội quy củ, tín đồ có
kỷ luật và rất trung thành. Giáo phái Cathar cũng đưa ra giáo thuyết “mới
mẻ và phong phú” là không phục tùng giáo quyền Rôma. Giáo hội Công giáo
LaMã nhận thấy nguy cơ tiềm ẩn nơi giáo phái này nên đã quyết tâm ra tay trừ
khử. Giáo hoàng Innocentê III là người phát động cuộc thập tự chinh nhằm
tiêu diệt giáo phái Cathar. Giáo hoàng đã ban chiếu chỉ “…Ta thuận ban
cho tất cả những ai tham gia cuộc thánh chiến này để bảo vệ đức tin một ân
xá mà ta vốn ban cho những kẻ hành hương viếng đền thờ thánh Phêrô tại La Mã
hoặc thánh Giacôbê thành Compostella…” Thập tự quân đặt dưới quyền chỉ
huy của khâm sai Arnaud Amaury và Simon Montfort. Kết quả là hàng ngàn tín
đồ giáo phái Cathar bị giết trong giao chiến, hàng ngàn tù binh bị bắt và bị
thiêu sống trên giàn hỏa… một số khác được khuyến dụ bỏ giáo phái Cathar để
trở về với Công giáo La Mã nhưng tất cả bọn họ đều từ chối và thẳng thừng
tuyên bố dù chết cũng không bỏ giáo phái Cathar để theo Công giáo La Mã,
tuyên bố xong họ tự động nhảy lên giàn hỏa…
6.
VẤN ĐỀ “HIỆP THÔNG” VÀ TÌNH HÌNH GIÁO HỘI CÔNG GIÁO TẠI
TRUNG HOA
Trong phần nhập đề của văn kiện “Tông huấn giáo hội tại Châu Á”. Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II có nhắc đến sự kiện Hội nghị đặc biệt cho Châu Á của Thượng
hội đồng Giám mục diễn ra từ ngày 18/4 đến ngày 14/5/1998. Giáo Hoàng
“cảm thấy buồn khi không thấy các Giám mục Trung Hoa lục địa đến dự…”
(S3). Sự kiện này được nhắc lại ở chương một - “Bối cảnh Á Châu” – phần:
“Các thực tế chính trị”. Giáo Hoàng viết : “Tại một số nơi, các Kitô hữu
không được phép thực hành đức tin một cách tự do, và không được phép giới
thiệu Đức Giêsu Kitô cho người khác. Họ bị bách hại và không được dành cho
một chỗ đứng xứng hợp trong xã hội. Các nghị phụ đặc biệt nhớ tới đồng bào
Trung Quốc và tỏ ý hy vọng mãnh liệt rằng một ngày nào đó tất cả các anh chị
em Công giáo tại Trung Quốc sẽ được phép thực hành tôn giáo của mình một
cách tự do và tuyên xưng công khai sự hiệp thông trọn vẹn của mình với Tòa
Thánh”. (S8)
Để hiểu rõ vấn đề này, chúng ta cần quay lại một chút về quá khứ lịch sử. Có
thể nói Kitô giáo đến với Trung Hoa bằng hai con đường, con đường chính thức
và con đường không chính thức.
Con đường chính thức
Kitô giáo có mặt tại Trung Hoa rất sớm, từ năm 578, nhưng không phải thừa
sai Công Giáo La Mã, mà là các giáo sĩ thuộc giáo phái Nestorius. Giáo phái
này chủ trương Giêsu sinh bởi bà Maria chỉ là một con người được tiền định
mặc thiên tính, là “công cụ” của Thiên Chúa, Ngôi Lời hành động qua thiên
tính trong con người của Giêsu. Giáo phái này cho rằng: “Ngôi Lời” và
“Giêsu” hoàn toàn khác biệt. Maria chỉ là mẹ của Giêsu chứ không thể là “Mẹ
Thiên Chúa”. Các giáo sĩ thuộc giáo phái này đã đến Trường An và được vua
Đường Thái Tông cho phép chính thức truyền đạo. Sau đó ít lâu (khoảng TK
VI-VII), một giáo phái khác cũng không thuộc Vatican là giáo phái Manikeus
cũng đã đến. Cả hai giáo phái này được xã hội Trung Hoa thời đó chấp nhận vì
họ trình bày một thứ giáo thuyết mang màu sắc của đạo Kitô nguyên thủy,
giáo thuyết này mặc dù còn xa lạ nhưng cũng không quá mâu thuẫn với với văn
hóa bản địa, ví dụ khái niệm Thiên Chúa cũng gần với khái niệm Thượng Đế
hoặc Thiên của Khổng - Lão. Hoàn toàn không có khái niệm về Chúa Ba Ngôi,
Đức Mẹ đồng trinh, thánh giá chỉ là thập tự trơn, nghĩa là không có hình
tội nhân trần truồng bị hành quyết, một hình ảnh mà đối với một dân tộc xem
trọng lễ giáo như dân tộc Trung Hoa khó chấp nhận…
Công giáo La Mã, người tự nhận là “giáo hội tông truyền” chỉ là kẻ đến sau.
Khâm sứ tòa thánh Vatican là Giám mục Montecervino có thể xem là đại diện
đầu tiên của Vatican đến Trung Hoa năm 1294, nhưng họ đến Trung Hoa không
phải để truyền đạo cho người Trung Hoa mà là để khuyên dụ tín đồ của hai
giáo phái Nestorius và Manikeus mà họ gọi là “lạc giáo” trở về với Công giáo
La Mã… Nhưng thật không may cho họ, năm 1380, tất cả đều bị tàn sát sạch bởi
bàn tay của Hồi giáo Mông Cổ và Thổ Nhĩ Kỳ.
Công giáo La Mã chỉ thực sự có mặt tại Trung Hoa từ cuối thế kỷ 16. Năm
1583, Linh mục dòng Tên Matteo Ricci đến Trung Hoa với nhiệm vụ biến Hoàng
đế Trung Hoa thành Constantine. Ý đồ đó được thể hiện rõ nét qua việc chọn
lựa đối tượng để truyền đạo.
Bức họa của Matteo Ricci trong đó ông đang khoác một bộ áo choàng của Trung Quốc, năm 1611. Ảnh http://vi.wikipedia.org/wiki/Matteo_Ricci
Nếu hai giáo phái “lạc giáo” Nestorius và Manikeus chọn đối tượng truyền
giáo là quần chúng nhân dân mà tuyệt đại đa số là quần chúng vô học, họ
thích ứng với xã hội Trung Hoa bằng cách “nhập gia tùy tục”, nghĩa là cách
ăn mặc hành xử theo đúng phong tục của dân bản địa và đặc biệt là lối truyền
đạo của họ với căn bản giáo lý của đạo Kitô nguyên thuỷ, không có các tín
điều áp đặt được sáng tác từ Rôma như lý thuyết về Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ đồng
trinh v.v biểu tượng về giáo lý cứu độ được họ giới thiệu cũng chỉ là một
thập giá trơn, không có hình Giêsu trần truồng mình đầy máu me, một hình ảnh
không được “bắt mắt” lắm đối với dân bản địa, một dân tộc vốn coi trọng lễ
giáo. Đặc biệt thập giá được trình bày trên nền một hoa sen, một loài hoa
tượng trưng cho sự thanh khiết trong tâm thức văn hóa phương đông. Điều này
đã được nhà thám hiểm người Ý Marco Polo ghi nhận trong cuộc hành trình đến
miền viễn đông của ông thế kỷ 13.
Ngược lại, dù là kẻ đến sau, nhưng Công giáo La Mã đến Trung Hoa với một
thái độ trịch thượng, kẻ cả. Việc đầu tiên là họ khuyến dụ “hai kẻ lạc giáo”
Nestorius và Manikeus trở lại với Công giáo La Mã. Đối với dân bản địa, đối
tượng truyền giáo của họ không phải là quần chúng vô học mà là giới trí
thức, tầng lớp nho sĩ, quan lại triều đình… ý đồ biến hoàng đế Trung Hoa
thành Constantine đã được khởi động từ giới sĩ phu.
Matteo Ricci, người Ý, Linh mục dòng Tên, là một trong những nhân vật nổi
bật của Rôma tại Trung Hoa, ông đến Trung Hoa năm 1583, đối tượng mà ông
nhắm đến để truyền đạo không phải là giới nông dân vô học là những người có
thế có quyền và có tri thức, đó chính là tầng lớp sĩ phu, quan lại. Ông viết
cuốn “Thiên Chủ thực nghĩa” để giới thiệu giáo lý Kitô giáo với giới trí
thức Trung Hoa, ông đã dùng các thực tại văn hóa sẵn có của Nho giáo như
những ý niệm về Thiên (trời), Thượng đế… để giải thích về ý niệm Thiên Chúa
của Kitô giáo. Matteo Ricci đã sáng tạo ra một từ mới: “Thiên Chủ” để chỉ
Thiên Chúa của Kitô giáo. Nhưng nỗ lực của Matteo Ricci chỉ mang lại một kết
quả quá khiêm tốn. Một chặng đường gần 20 năm (1583-1600) mà số tín đồ theo
đạo không quá 1000 người. Vatican không thể hài lòng với kết quả này. Vì vậy
Vatican quyết định tăng cường, thúc đẩy việc truyền giáo tại Trung Hoa lên
một tầm mức cao hơn.
Nicolò Longobardo (1559-1654). Ảnh http://en.wikipedia.org/wiki/Nicolò_Longobardo
Niccolo Longobardi là người được phái đến. Ông này mang theo cả cái mà
Vatican gọi là “Công đồng Tridentino” vào Trung Hoa. Với tinh thần
Tridentino, ông buộc tất cả các tin đồ bản địa phải dứt khoát đoạn tuyệt với
Tam giáo (Phật, Lão, Khổng), tín ngưỡng truyền thống của cha ông họ, đều mà
người tiền nhiệm Matteo Ricci chưa thể làm được. Niccolo Longobardi đã ra
lịnh buộc tín đồ bản địa triệt phá bàn thờ, ảnh tượng thuộc tín ngưỡng
truyền thống, cấm thờ Khổng Tử, cấm thờ cúng ông bà tổ tiên. Lệnh cấm này
được xem là một điều sỉ nhục, xúc phạm đối với dân tộc Trung Hoa, một dân
tộc mà hai chữ “trung-hiếu” được đặt lên hàng đầu trong đời sống tinh thần
của họ.
Sự kiện này buộc triều đình phải can thiệp. Triều đình đã đặt Kitô
giáo nói chung, Công giáo La Mã nói riêng ngoài vòng pháp luật. Năm 1617
lệnh trục xuất tất cả các thừa sai Phương Tây ra khỏi Trung Hoa được ban
hành. Công giáo La Mã mất đi cơ hội bành trướng tại Trung Hoa.
“Ý Chúa” tỏ ra quá vụng về khi Ngài để cho Vatican “sáng tác” ra cái “Công
đồng Tridentino” lại đem áp dụng vào Trung Hoa, trong đó có điều khoản cấm
thờ kính tổ tiên, một điều khoản mà đối với dân Trung Hoa thời đó là quá ngu
muội không thể tưởng tượng được. Nếu “ý Chúa” đã quyết như thế thì các thừa
sai chỉ cắm đầu mà làm như một cái máy, vì nói theo kiểu Mục sư Choan Seng
Song, tác giả quyển “Thần học Kitô giáo theo cung cách Châu Á”:
“…Thượng trí của Thiên chúa ai mà dò biết được…”. Vatican không thể “dò
biết thượng trí của Thiên Chúa”, nhưng triều đình Trung Hoa thì có thể
dò biết được ý của người dân Trung Hoa muốn gì. Họ muốn bàn thờ tổ tiên của
họ phải được tôn trọng. Vì vậy, triều đình đã đặt “Ý Dân” trên trên “Ý
Chúa”. Kết quả là lệnh trục xuất tất cả các thừa sai Tây Phương được ban
hành.
Trở lại sự thất bại của Vatican tại Trung Hoa. Nguyên nhân thì nhiều, nhưng
nổi bật phải kể đến hai nguyên nhân sau:
- Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là: Thái độ trịch thượng, kêu căng, tự phụ
của Vatican khi lệnh cho Linh mục Niccolo Longobardi thực hiện các điều
khoản của Công đồng Tridentino mà trong đó có điều khoản không thể nào chấp
nhận được đối với dân tộc Trung Hoa là cấm thờ cúng tổ tiên, tôn kính Khổng
Tử.
Năm 1692, vua Khang Hy với chính sách mềm dẻo đã ban chiếu chỉ cho phép
các thừa sai Vatican hoạt động truyền giáo. “Được đằng chân lân đằng đầu”,
họ đã cấm các tín đồ bản địa không được thờ cúng ông bà tổ tiên và đặc biệt
là không được tôn kính Khổng Tử. Trước thực tế trên, vua Khang Hi vẫn tỏ ra
ôn hòa, ông đã gởi thư cho Vatican. Năm 1701 Vatican nhận được thư của Khang
Hy. Nội dung thư nhằm giải thích cho Vatican hiểu Khổng Tử không phải là
Thượng Đế, Ngài chỉ là một vị Thầy được nhân dân Trung Hoa tôn kính mà thôi.
Bất chấp sự nhượng bộ mềm dẻo của hoàng đế Trung Hoa. Năm 1704, Giáo Hoàng
Clemant XI chính thức ban hành lệnh cấm tín đồ Công giáo Trung Hoa thờ cúng
tổ tiên và Đức Khổng Tử. Sáu năm sau (1710), lệnh cấm này được Vatican nhắc
lại phải thi hành một cách triệt để, dứt khoát. Năm 1717, triều đình Trung
Hoa không thể nhượng bộ được nữa, nên đã quyết định giáng trả một đòn chi
tử: trục xuất tất cả các thừa sai Vatican, đốt phá nhà thờ, buộc tín đồ Công
giáo Trung Hoa bỏ đạo, cấm đạo. Nhưng với bản chất kêu căng vốn có của
Vatican, năm 1742, Vatican ban hành văn bản “Ex quy singulari” nhắc lại lệnh
cấm tuyệt đối những điều nêu trên. Thế là Vatican tự đặt dấu chấm hết cho
con đường truyền giáo của mình trên đất nước Trung Hoa.
- Nguyên nhân thứ hai dẫn đến sự thất bại của Vatican tại Trung Hoa là sự
tranh dành ảnh hưởng giữa các thừa sai với nhau. Sự tranh chấp quyết liệt
giữa các thừa sai dòng Phanxicô, Đaminh và các thừa sai dòng Tên mà nguyên
nhân tranh chấp là quyền lợi chính trị, óc kỳ thị chủng tộc giữa các thừa
sai gốc Bồ Đào Nha và thừa sai gốc Tây Ban Nha và vì muốn lập công với
Vatican. Các quan điểm về thần học vốn là sản phẩm của Vatican lại tỏ ra
không nhất quán trong chủ trương truyền giáo của các thừa sai gốc Tây Ban
Nha, Pháp, Bồ Đào Nha…Các thực tại thần học nhằm mô tả vị thần tối cao trong
Kitô giáo được Matteo Ricci (thuộc dòng Tên) dịch ra ngôn ngữ Trung Hoa là
“Thiên Chủ” lại không được Longobardi chấp nhận. Longobardi chủ trương không
được dùng những ý niệm sẵn có như Thiên (trời) hoặc Thượng đế vốn là những ý
niệm của Khổng-Lão để chỉ Chúa (Deus) của Công giáo La Mã (chứ không phải
của đạo Kitô nguyên thủy, vì Kitô nguyên thủy dùng các khái niệm của Do Thái
giáo như El Shaddai, El Elyon, Yahveh, Elohim v.v… để chỉ về Chúa, còn Deus,
Dieu… là sản phẩm triết học Hy Lạp được Vatican cải biên…). Longobardi phản
đối dùng từ “Thiên Chủ” mà chỉ muốn phiên âm từ Deus hay Dieu theo kiểu
Phanxicô Xavie đã làm ở Nhật Bản hay Đắc Lộ làm ở Việt Nam. Tại Nhật Bản,
Deus được phiên âm ra tiếng Nhật là “Deusu”, còn tại Việt Nam phiên âm thành
“Dêu”. Nhưng đều trớ trêu khôi hài là trong khi những từ nguyên thuỷ chỉ về
vị thần tối cao của Do Thái giáo như El Shaddai, El Elyon, Yahveh, Elohim
v.v… được Vatican biến chế lại theo kiểu Latin là Deus, Dieu, Theos... thì
không có vấn đề gì, nhưng từ những từ đã được La Tinh hóa này khi dịch ra
các ngôn ngữ đông phương như Hán, Việt, Nhật lại sợ mất đi ý nghĩa ban đầu
của nó, mà điều mâu thuẫn khó hiểu ở đây là ý nghĩa ban đầu chính là tiếng
Do Thái: El Shaddai, El Elyon, Yahveh, Elohim v.v… chứ không phải mấy tiếng
Deus, Dieu, Theos… Những bất đồng về quan điểm giữa các thừa sai với nhau
được lịch sử giáo hội gọi là “cuộc tranh chấp lễ nghi” đã góp phần
đưa công cuộc truyền giáo của Vatican đến bờ vực phá sản.
Chuyện phiên âm cũng là chuyện cười ra nước mắt. Tại Nhật Bản khi Phanxicô
Xavie phiên âm từ “Deus” thành “Deusu” thì người Nhật lại đọc trại ra thành
“Daiusu” nghĩa là “bịp bợm”. Còn tại Việt Nam, từ “Deus” phiên âm thành
“Dêu”, “Đức Chúa Dêu” nghe rất tếu, ngang phè, mà “dêu” trong tiếng Việt
chẳng có nghĩa gì cả… Do sự đối nghịch của các thừa sai dòng Phanxicô,
Đaminh và dòng Tên, sự thiếu nhất quán về quan điểm thần học, sự tranh dành
ảnh hưởng của họ đối với Vatican cộng thêm thái độ “kẻ cả” của Vatican đã
góp phần làm phá sản ý đồ Công giáo hóa Trung Hoa, biến hoàng đế Trung Hoa
thành Constantine.
Con đường không chính
thức hay con đường chui con đường của súng đạn và á phiện!
Lịch sử truyền giáo của Vatican vào Trung Hoa bằng con đường chính thức đã
bị sụp đổ, Nhưng Vatican là kẻ không chịu khuất phục. Vì vậy khi con đường
chính thức (mà họ tự chặt đứt chứ không phải do triều đình Trung Hoa) không
còn sử dụng được, họ đã mon men theo con đường thứ hai, tức con đường của
chủ nghĩa thực dân đế quốc. Năm 1842, chiến tranh nha phiến bùng nổ giữa
Trung Hoa và thực dân Anh. Thế lực quân sự hùng hậu của đế quốc Anh buộc
Trung Hoa phải nhượng bộ bằng những hiệp ước bất bình đẳng. Hiệp ước Nam
Kinh 1842 có điều khoản Trung Hoa phải nhường Hồng Kông cho Anh và phải mở 5
cảng cho thừa sai Công giáo La Mã vào truyền đạo.
Lần này thì Vatican không đơn thương độc mã mà còn có bạn đồng hành bất đắc
dĩ là hai giáo phái Tin Lành: Pietism và Fondamentalism cùng vào Trung Hoa
dưới sự bảo vệ bằng súng đạn và thuốc phiện của thực dân Anh. Tin Lành và
Công giáo vốn là hai anh em không ưa nhau lại cùng cặp kè nhau vào đất nước
Trung Hoa dưới sự bảo vệ của thực dân Anh kể cũng lạ… 150 năm trước với
chiếu chỉ “được tự do truyền đạo” của vua Khang Hy, đường đường chính chính
vào đất nước Trung Hoa không chịu, lại chịu đi bằng con đường thuốc phiện,
súng đạn, đi chung với người anh em không mấy ưa thích Tin Lành ! kể cũng
lạ! Âu đó cũng là “ý Chúa”!
“Ý Chúa” thường rất oái oăm và thường đẩy Vatican vào những tình thế dở khóc
dở cười… Lịch sử đã chứng minh Vatican luôn dùng mọi thủ đoạn để có thể đạt
được mục tiêu “mở mang nước Chúa” của mình. Khi cuộc cách mạng vô sản Trung
Hoa do Mao Trạch Đông lãnh đạo thành công. Vấn nạn Công giáo La Mã được nhà
cầm quyền giải quyết dứt điểm. Năm 1950, toàn bộ thừa sai Vatican bị trục
xuất đồng loạt kể cả Công sứ Tòa Thánh. Tài sản Vatican bị tịch thu. Chính
quyền buộc Linh mục và giáo dân bản xứ không được quan hệ với Vatican. Năm
1957, Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nuớc được thành lập, tổ chức này hoạt
động độc lập không lệ thuộc vào Vatican, họ tự chọn và thụ phong Giám mục.
Sự kiện này khiến Vatican tức giận “dứt phép thông công” hàng loại các Giám
mục mới được thụ phong. “Giáo Hội Công Giáo Yêu Nước” cùng với nhân dân toàn
Trung Hoa bắt tay xây dựng đất nước. Một bộ phận khác trung thành với
Vatican gọi là “Giáo Hội Thầm Lặng” thực hành các chỉ thị của Vatican: bất
hợp tác với chế độ.
Và giờ đây, lời kêu gọi “thống thiết” của đương kim Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II được truyền đi qua Tông Huấn Giáo Hội Tại Châu Á (Ecclesia in Asia):
“…Họ bị bách hại và không được dành cho một chỗ đứng xứng hợp trong xã hội.
Các nghị phụ đặc biệt nhớ tới đồng bào Trung Quốc và tỏ ý hy vọng mãnh liệt
rằng một ngày nào đó tất cả các anh chị em Công Giáo tại Trung Quốc sẽ được
phép thực hành tôn giáo của mình một cách tự do và tuyên xưng công khai sự
hiệp thông trọn vẹn của mình với toà thánh” (S8).
Thực sự thì như ta đã biết, Vatican là một quốc gia theo đúng nghĩa trọn vẹn
của nó. Nghĩa là quốc gia này có chủ quyền, lãnh thổ, quốc kỳ, quốc huy và
tất nhiên là có vua (tức Giáo Hoàng). Các quốc gia có quan hệ ngoại giao với
Vatican đều được Vatican gởi đại sứ (Công sứ Tòa Thánh) đến đại diện. Cùng
với Thụy sĩ, Vatican là một trong số ít quốc gia có đủ điều kiện gia nhập tổ
chức Liên Hiệp Quốc nhưng không gia nhập. Thụy sĩ chưa gia nhập Liên Hiệp
Quốc là vì muốn giữ thế trung lập của mình. Vatican không gia nhập Liên Hiệp
Quốc chắc chắn phải có lý do riêng của nó. Ngoài ra, người ta còn biết đến
Vatican dưới một danh nghĩa khác, danh nghĩa một tôn giáo: Công giáo La Mã.
Từ nhận định trên ta có thể khẳng định việc truyền giáo của Công giáo La Mã
và các lợi ích về chính trị, kinh tế, giáo dục, xã hội … của nhà nước
Vatican chỉ là một, chúng vận hành hữu cơ, quan hệ mật thiết không thể tách
rời được…. Sự đồng hành của nhà nước Vatican với các thế lực thực dân, đế
quốc Phương Tây đã được lịch sử chứng minh trong suốt quá trình tồn tại và
phát triển của chúng. Tuy nhiên, bài viết này chỉ giới hạn trong một diễn
biến nhỏ của lịch sử, đó chính là sự có mặt của của Kitô giáo nói chung,
Công giáo La Mã nói riêng tại Trung Hoa lục địa.
Khi Giáo Hoàng Gioan Phaolô II kêu gọi “Công Giáo Trung Quốc được phép
thực hành tôn giáo của mình một cách tự do và tuyên xưng công khai sự hiệp
thông trọn vẹn của mình với toà thánh” (S8) là bản thân Giáo Hoàng đã
quên lịch sử. Chính Giáo Hoàng cũng thừa nhận: “… Người Châu Á ham học
hỏi, truy tầm triết lý… quý trọng sự sống, từ bi với mọi loài… Các dân tộc
Châu Á thường được tiếng là có tinh thần bao dung tôn giáo, sống chung hòa
bình…” (S6). Vậy hà cớ gì mà người Châu Á lại đi “bách hại” Kitô giáo?
Tín đồ Kitô giáo nếu thực sự bị “bách hại” thì lỗi thuộc về nhà nước
Vatican. Chính thái độ trịch tượng, kêu căng, tự phụ của Vatican đã đẩy Kitô
hữu Châu Á vào thế khó xử. Xuất phát từ tâm lý ưu thế của “kẻ cả, người ngồi
chiếu trên”, Vatican luôn đánh giá thấp các tôn giáo và các nền văn hóa
khác… Hành xử của Vatican luôn đẩy đối phương vào thế đối đầu. Thế nhưng khi
có phản ứng ngược lại thì Vatican lại kêu lên “bách hại…!?”. Tình hình thực
tế ở Trung Hoa đã chứng minh điều đó. Tín đồ Công giáo trong tổ chức “Công
giáo yêu nước” vẫn tự do hành đạo, họ vẫn sống Phúc Âm “ra phết”, nhà nước
chẳng những không ngăn cấm mà còn khuyết khích họ… vậy sao có thể gọi là mất
tự do, bị bách hại?… Chính Vatican “dứt phép thông công” của họ thì
sao lại kêu gọi họ “hiệp thông trọn vẹn với tòa thánh” được?… Sự thật
lịch sử đã phơi bày, Kitô hữu Trung Hoa vẫn tự do hành đạo, tự do “tuyên
xưng đức tin”, có điều họ đặt quyền lợi của nhà nước Trung Hoa lên trên
quyền lợi của nhà nước Vatican. Vì vậy họ vẫn “hiêp thông trọn vẹn với
chúa”. Còn việc họ không được “hiệp thông” với Vatican là do
chính Vatican “dứt phép thông công” của họ chứ không phải lỗi của nhà
nước Trung Hoa. Nhưng nếu cho rằng Vatican là “nhiệm thể của Chúa Kitô”,
nên không thể hiệp thông với chúa mà không hiệp thông với Vatican thì chẳng
qua đây chỉ là sản phẩm của khoa Thần học được hiệu lực hóa từ “tín điều
Vô Ngộ” vốn là một sáng tạo của Giáo Hoàng Pio IX từ năm 1870. Tín điều
này thừa nhận sự “không thể ngộ nhân, sai lầm” của Giáo Hoàng trong
những tuyên bố của mình, nhằm thần thánh hóa “Đức Thánh Cha”, tức ông
vua của nhà nước Vatican, đồng thời biến tín đồ Kitô giáo thành những con
chiên ngoan ngoãn, dễ dạy để phục vụ “hội thánh”. Tự thân của “tín
điều Vô Ngộ” đã bộc lộ nhiều điều vô lý và hoàn toàn không có căn bản từ
Thánh Kinh. Chính vì vậy, tín điều này hoàn toàn không có giá trị và bị các
hệ phái Kitô giáo khác như Tin Lành, Chính thống… lên án, phủ nhận. Vậy nên,
khi Giáo Hoàng kêu gọi “… hướng lòng trí về với giáo hội Công giáo Trung
Hoa lục địa và cầu xin cho sớm tới ngày anh chị em Trung Hoa thân yêu của
mình được tự do hoàn toàn để thực hành đức tin trong sự hiệp thông trọn vẹn
với Tông Tòa Phêrô…” (S28) khiến nhiều Kitô hữu chân chính vừa ngậm ngùi
chua xót vừa thầm trách Vatican trong động thái của mình đã đẩy Công giáo La
Mã vào thế phải đối đầu với nhiều nền văn hóa Châu Á. Hành xử của Vatican
đôi khi đến “Chúa Thánh Thần” cũng phải lắc đầu ngao ngán…
“Tông tòa Phêrô” và vấn
nạn “Giáo hội tông truyền”
Nhân đây cũng xin nói
thêm về cái gọi là “Tông tòa Phêrô”. Vấn đề này cho đến nay vẫn còn
là một vấn nạn. Phêrô là một trong những môn đồ đầu tiên của Giêsu. Phêrô
xuất thân là ngư dân. Ông theo Giêsu khi đang đánh cá tại hồ Galiêa. Sau khi
Giêsu chịu án tử hình. Phêrô bị bắt và vượt ngục. Sách Tông đồ Công vụ viết:
“Sau khi thoát khỏi ngục, Phêrô đã đi nơi khác…”. “Nơi khác” là nơi
nào không ai biết. Phêrô đi đâu? và làm gì? Cũng chỉ là những phỏng đoán.
Công giáo La Mã ngày nay khẳng định rằng Phêrô đến Rôma để thành lập giáo
hội đầu tiên và trở thành Giáo hoàng đầu tiên của giáo hội. Một số học giả
phủ nhận việc Phêrô đến Rôma thành lập giáo hội, họ cho rằng Phêrô chưa từng
đến Rôma. Marsilio trong cuốn Defensor Pacis (1324) đã đưa ra nhiều dẫn
chứng cho thấy sự kiện “Phêrô đến Rôma lập giáo hội” là ngụy tạo. Luther và
Cavin cũng phủ nhận sự kiện trên. Riêng Công giáo La Mã bằng nhiều lý lẽ
quyết bảo vệ luận điểm: Phêrô là Giáo Hoàng đầu tiên của giáo hội đầu tiên
tại Rôma, nhằm mục đích khẳng định giáo hội Công Giáo chính là “giáo hội
tông truyền”. “Bảo vệ đức tin” là việc cần thiết bắt buộc phải thực
hiện, vì văn kiện “Niềm Tin Tông Đồ” của công đồng Nikêa khi đúc kết lại
thành kinh Tin Kính, người ta đã thòng thêm một câu: “…Tôi tin Hội Thánh
Công giáo thánh thiện duy nhất, tông truyền…” Do đó, nếu thả nổi vấn đề,
đồng nghĩa với việc chấp nhận phá sản kinh Tin Kính. Những nhà hộ giáo của
giáo hội Rôma sử dụng các văn bản của các giáo phụ đầu công nguyên như:
“Thư Clemantê gởi dân thành Corintô”, “Thư Inhaxiô gởi giáo dân La Mã”
v.v… để chứng minh sự kiện Phêrô đã đến Rôma. Nhưng phe chống đối trong giáo
hội phủ nhận, họ cho rằng có sự ngụy tạo về thời gian và địa điểm trong các
văn bản trên nhằm chứng minh yếu tố “tông truyền” của giáo hội Công giáo tại
La Mã. Đằng khác, muốn che đậy một sự kiện lịch sử: Công giáo La Mã là sản
phẩm của Constantine. Tất nhiên, các nhà hộ giáo phải tìm cách bảo vệ luận
điểm của họ. Họ lập luận: Sự mặc nhiên thừa nhận Phêrô là vị giáo hoàng đầu
tiên của giáo hội trong suốt 13 thế kỷ kể từ ngày giáo hội được thành lập,
đã minh chứng tính xác thực của sự kiện này. Nhưng họ quên rằng: trong 3 thế
kỷ đầu, các nhóm Kitô nguyên thủy hoạt động độc lập, bí mật dưới hình thức
“hội kín”. Trong thời gian này, chỉ có chức danh cao nhất là “Giám mục” điều
hành ở mỗi tổ chức giáo hội sơ khai. Chức danh “Giáo hoàng” chỉ mới có sau
khi Constantine thành lập giáo hội Công giáo. Nói cách khác, có hai vấn đề
cần làm rõ. Một là: Giáo hội Công giáo La Mã là giáo hội của chúa Giêsu, do
tông đồ trưởng của Giêsu là Phêrô sáng lập tại Rôma. Hai là: Đế quốc La Mã
đã lợi dụng “chiêu bài Giêsu” nhằm thực hiện tham vọng đế quốc của mình. Khi
La Mã thấy các nhóm Kitô nguyên thủy “đủ mạnh” để có thể tập hợp thành một
lực lượng thống nhất phục vụ đế quốc Rôma. Hoàng đế La Mã Constantine
(306-337) đã bãi bỏ lệnh cấm hoạt động của các nhóm Kitô nguyên thủy bằng
chiếu chỉ Milan (313). Lệnh cấm vốn được thực hiện gắt gao từ thời hoàng đế
Nêron (54-68). Constantine vốn không hiểu biết nhiều về giáo thuyết của đạo
Kitô nguyên thủy. Vì thế, ông sử dụng nhiều tu sĩ giỏi trong các cộng đoàn
Kitô nguyên thủy là cố vấn cho triều đình. Để thống nhất các nhóm Kitô
nguyên thủy, Constantine đã triệu tập công đồng Nikêa (325). Mục đích công
đồng là tổ chức lại giáo quyền, định ra các nguyên tắc căn bản về hàng giáo
phẩm. Công bố những giáo thuyết mới vốn không hề có trong các cộng đoàn Kitô
nguyên thủy như: Giáo thuyết Thiên Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ đồng trinh v.v… các
giáo thuyết này được tóm gọn trong một văn kiện: “Niềm tin tông đồ”, tiền
thân của kinh Tin Kính sau này. Một sự kiện không thể không nhắc đến trong
thời kỳ này: Sự xuất hiện của Công giáo La Mã. Một tôn giáo hoàn toàn mới
với một giáo thuyết mới, một kết quả tất yếu của công đồng Nikêa. Với quyết
tâm “Công giáo hóa” Rôma, Constantine từng tuyên bố trước các giám mục:
“Các vị là Giám mục bên trong giáo hội, còn tôi là Giám mục bên ngoài giáo
hội”. Sự tích cực “Công giáo hóa” đế quốc Rôma của Constantine được phản
ánh khá đầy đủ trong câu nói bất hủ của Augustin: “Khi Rôma đã quyết định
một vấn đề gì thì vấn đề đó phải được coi là giải quyết xong!”. Tóm lại:
Công giáo La Mã là một sản phẩm của hoàng đế La Mã Constantine, chỉ mới được
thành lập từ công đồng Nikêa, cách thời Giêsu đến 3 thế kỷ rưỡi… Vấn đề
“tông truyền” của giáo hội Công Giáo hiện nay vẫn còn là vấn nạn: “Tông
truyền từ Giêsu thông qua Phêrô?” hay “Tông truyền từ Hoàng đế La Mã
Constantine đến đương kim giáo hoàng Gioan Phaolô II ?” Đây là đề tài lý thú
cho nhiều người trong thế kỷ 21.
7.
QUỐC GIA VATICAN VÀ THAM VỌNG CHÍNH TRỊ TẠI CHÂU Á.
Giáo hoàng: Nguyên thủ
quốc gia hay chức sắc tôn giáo?
Nhận định về tình hình chính trị tại Châu Á, Giáo hoàng viết: “Tại Châu Á
ngày nay tình hình chính trị vô cùng phức tạp, với đủ mọi ý thức hệ từ những
hình thức chính phủ dân chủ đến những hình thức cai trị thần quyền, các chế
độ độc tài quân sự và các ý thức hệ vô thần đang có mặt rất rõ… tại một số
nơi Kitô hữu không được phép thực hành đức tin một cách tự do, và không được
phép giới thiệu đức Giêsu cho người khác…. Tuy nhiên, khắp nơi tại Châu Á,
càng ngày người ta càng ý thức hơn rằng mình có khả năng thay đổi những cơ
chế bất công ấy… ngày càng có nhiều người đòi hỏi tham gia chính phủ… Những
tập thể thiểu số về văn hóa, xã hôị và chủng tộc lâu nay “án binh bất động”
nay đang tìm cách làm chủ lấy sự thăng tiến xã hội của mình. Thánh Thần
Thiên Chúa luôn giúp đỡ và hổ trợ các nỗ lực của dân chúng muốn thay đổi xã
hội nhằm thỏa mãn khát vọng của họ là được sống dồi dào hơn như chúa hằng
mong muốn”(S8).
Luận điệu trên rõ ràng là luận điệu của một nhà chính trị chứ không phải của
một lãnh tụ tôn giáo. Mà cũng đúng thôi khi chúng ta đã từng biết Vatican là
một quốc gia theo đúng nghĩa trọn vẹn của nó. Như tôi đã trình bày ở trên:
Vatican là một quốc gia này có chủ quyền, lãnh thổ, quốc kỳ, quốc huy và tất
nhiên là có vua (tức Giáo Hoàng). Các quốc gia có quan hệ ngoại giao với
Vatican đều được Vatican gởi đại sứ (Công sứ Tòa Thánh) đến đại diện. Cùng
với Thụy sĩ, Vatican là một trong số ít quốc gia có đủ điều kiện gia nhập tổ
chức Liên Hiệp Quốc nhưng không gia nhập. Thụy sĩ chưa gia nhập Liên Hiệp
Quốc là vì muốn giữ thế trung lập của mình. Vatican không gia nhập Liên Hiệp
Quốc chắc chắn phải có lý do riêng của nó. Chính cái nhà nước Vatican này đã
một thời làm mưa làm gió trên lục địa Châu Âu. Toà án dị giáo và giàn hỏa là
biểu tượng của quốc gia này. Ngày nay, tuy không còn những binh đoàn thập tự
quân hùng hậu, nhưng thay vào đó là các hệ thống ngân hàng, các tập đoàn
kinh tế đã mang về cho Vatican những món lợi nhuận khổng lồ mà đối với nhiều
tôn giáo khác là “mơ không thấy nổi”. Ngoài ra, Vatican còn nắm trong tay
các phương tiện truyền thông đại chúng, hệ thống kênh truyền hình, phát
thanh phát đi khắp thế giới. Đây cũng là một thế mạnh mà đứng ở góc độ tôn
giáo, không tôn giáo nào trên thế giới có thể sánh bằng: “Giáo hội Châu Á
cần ý thức về sức mạnh và vai trò của truyền thông đại chúng và về những
phương tiện thông tin xã hội đa dạng, để có thể vận dụng chúng như những khí
cụ loan truyền sứ điệp tin mừng tại lục địa này” (Relatio Ante
Disceptationem).
Sự kích động đức tin phục vụ tham vọng chính trị
Vì vậy khi Giáo Hoàng kêu gọi: “…khắp nơi tại Châu Á, càng ngày người ta
càng ý thức hơn rằng mình có khả năng thay đổi những cơ chế bất công ấy…
ngày càng có nhiều người đòi hỏi tham gia chính phủ…” thì chúng ta phải
hiểu rằng đó là lời hiệu triệu của một ông vua đứng đầu một nước, chứ không
phải đó là một lời than vãn của chức sắc tôn giáo trước sự bất công xã hội…
Lời hiệu triệu lại càng “dễ sợ” hơn khiến cho những nhà lãnh đạo của các
quốc gia Châu Á không thể không dè chừng: “Những tập thể thiểu số về văn
hóa, xã hôị và chủng tộc lâu nay “án binh bất động” nay đang tìm cách làm
chủ lấy sự thăng tiến xã hội của mình”.
Chúng ta biết rằng, dân số thế giới hiện nay khoảng 6,3 tỉ người, tại Châu
Á, một lục địa mà dân số chiếm đến gần 2/3 dân số thế giới, Tỷ lệ tín đồ
Kitô giáo bao gồm tất cả các hệ phái: Tin Lành, Chính Thống, Anh giáo, Công
giáo v.v… khoảng 3%, tuy nhiên Anh giáo không có mặt tại Châu Á, Chính Thống
giáo lại là thiểu số ở các ở các quốc gia mới độc lập tách ra từ Liên xô cũ,
còn lại là Tin Lành và Công giáo. Đấy! Cái thiểu số 3% này đang “án binh
bất động” để chờ phát súng lệnh của Vatican. Điều khôi hài là “phát
súng” này không phát ra từ những chiến binh kiêu hùng của đoàn quân thập tự
chinh thời trung cổ, mà phát ra từ “Chúa Thánh Thần”, Ngài phát ra một “viên
đạn bọc đường” mà từ đó Kitô hữu (cả Tin Lành lẫn Công giáo) cùng “xung
phong!…, tiến!…”: “Thánh Thần Thiên Chúa luôn giúp đỡ và hỗ trợ các nỗ
lực của dân chúng muốn thay đổi xã hội nhằm thỏa mãn khát vọng của họ là
được sống dồi dào hơn như Chúa hằng mong muốn” (S8).
Tại Việt Nam, năm 1954, hàng triệu tín đồ Công giáo bỏ miền Bắc di cư vào
Nam, định cư tại các vùng Gia Kiệm, Hố Nai… Họ rời bỏ quê hương tha phương
cầu thực ở vùng đất lạ không phải là một chọn lựa mang tính ý thức hệ mà chỉ
vì “Chúa Kitô đã bỏ Bắc Việt, Đức Mẹ đã di cư vào Nam…”. Chính quyền
Thiên Chúa Giáo Ngô Đình Diệm (1955-1963) đã muốn biến Việt Nam thành một
quốc gia Kitô giáo, lấy Công giáo làm quốc giáo… và gần đây nhất là sự kiện
Đạo “Vàng Chứ” của dân tộc Mông ở biên giới phía Bắc và “Nhà nước Tin Lành
ĐêGa” của các sắc tộc Giarai, Bana, Eđê… ở cao nguyên miền Trung là một bài
học mà bất kỳ nhà cầm quyền nào cũng phải đề phòng….
8. VỀ MỘT VẤN ĐỀ “GÂY KHÓ CHỊU” CỦA VATICAN NHƯNG KHÔNG PHẢI CHO NGƯỜI CHÂU Á
Sự xung đột thần học giữa
những người anh em Hồi giáo, Do Thái giáo với Kitô giáo.
Đoạn số 12, Tông huấn viết: “Điều gây khó chịu nhất
trong Kitô giáo là người ta tin rằng Thiên chúa chí thánh, toàn năng, toàn
trí đã mang lấy bản tính con người của chúng ta, đã chịu đau khổ và chịu
chết để đem lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người” (S12). Thực ra, chẳng ai
“khó chịu” khi Kitô giáo tin rằng Chúa của họ là “Thiên Chúa chí
thánh, toàn năng, toàn trí đã mang lấy bản tinh con người…” ngoại trừ Do
Thái giáo và Hồi Giáo. Nhưng cả hai tôn giáo này cùng với Kitô giáo đều cùng
một gốc, cùng tin nhận chúa của Abraham. Chúng ta biết rằng, Giêsu là một
con người bình thường như mọi người, người gốc Nazaret, năm ba mươi ba tuổi
bị kết án tử hình treo trên thập giá… chính con người này mà hành trạng của
ông đã được những người theo ông (môn đệ) kể lại, về sau được các ông Luca,
Matthêu, Maccô, Gioan ghi chép, tập hợp thành một bộ sách mà ngày nay người
ta gọi là Tân Ước, Phúc Âm hay Tin Mừng… Bản thân của Giêsu chưa bao giờ tự
nhận mình chính là Thiên Chúa, ông chỉ nói ông là “con Đấng Tối Cao”
(Lc 1:32) người mà ông tôn thờ là Thiên Chúa và gọi Ngài là Cha. Ông nói:
“không thể đến với Cha ta mà không qua ta”(Ga14:6), “Cha ta ở trong
ta và Ngài đang làm việc” (Ga14:10)…v.v… ông chỉ tự xưng mình là Thầy
với môn đồ của ông, tuyệt nhiên chưa bao giờ tự nhận mình là Thiên Chúa
trước bất kỳ một môn đệ nào… Ngay cả những giờ phút sau cùng của cuộc đời
mình, ông cũng không hề nhận mình là Thiên Chúa, nhưng chỉ một mực hướng về
vị Chúa của Do Thái giáo mà ông gọi thân mật là Cha. “Lạy Cha, xin tha
cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34), trong giờ phút sau cùng
của đời ông có lúc ông phải kêu cứu: “Cha ơi! Sao cha bỏ con…” (Mc
15:3). Và trước khi trút hơi thở sau cùng: “Lạy Cha! Con xin phó dâng
linh hồn con trong tay Cha!” (Lc 23:46) v.v… Giáo phái Arius mượn câu
Phúc Âm của Gioan: “Cha ta cao trọng hơn ta” (Ga 14:28) để
chứng minh: Giêsu không phải là Thiên Chúa…
Đối với Do Thái giáo, dựa vào Cựu ước, kinh thánh của Do Thái giáo, sẽ có
một “Đấng Cứu Thế” (Messia) được Thiên Chúa sai xuống để cứu độ tín đồ Do
Thái giáo. Nhưng vị đó chắc chắn không phải là nhân vật Giêsu ở Nazaret. Đây
chính là điểm mâu thuẫn giữa Kitô giáo và Do Thái giáo.
Đối với Hồi Giáo, Thiên Chúa của tôn giáo này cũng chính là Thiên Chúa được
Abraham giới thiệu trong cựu ước, tức kinh thánh của Do Thái Giáo. Chính
Mahomet, giáo chủ Hồi giáo khẳng định Sứ Thần Gabriel đã khải thị cho ông
viết kinh Coran. Điều này thật rõ ràng khi ta lấy vài đoạn nhỏ trong kinh
Coran của Hồi Giáo đối chiếu với Cựu Ước. Kinh Coran kể lại câu chuyện Thiên
Chúa quyết tâm trừng trị dân thành Sôđôma. Abraham đã xin Thiên Chúa tha thứ
cho dân thành ấy. Nhưng Thiên Chúa đã nói với ông việc gì mà Thiên Chúa đã
quyết định thì không thể thay đổi. Kết quả là thành Sôđôma bị Thiên Chúa hủy
diệt. Cùng câu chuyện trên, nhưng tình tiết câu chuyện lại khác trong cựu
ước. Abraham đã xin Thiên Chúa tha thứ cho dân thành và “Chúa của cựu ước”
đã không quyết đoán như “Chúa của Coran”. Nếu Chúa trong kinh Coran “đã
quyết định thì không thể thay đổi” thì Chúa của Cựu ước tỏ ra dễ dãi hơn, đã
cho phép Abraham “trả giá”: Nếu có năm mươi người nhơn đức thì Ngài sẽ tha
không trừng phạt thành Sôđôma. Rồi bốn mươi người…?, ba mươi người…?, hai
mươi người thôi…? Cuối cùng chỉ cần mười người…? Chúa đã nói với Abraham:
Chỉ cần có mười người nhơn đức trong thành thôi, ta sẽ không huỷ diệt thành
đó…
Nhưng điểm mâu thuẫn lớn nhất giữa Kitô giáo và Hồi giáo lại không phải là
những tiểu tiết đó mà chính là sự thừa nhận nhân vật Giêsu. Hồi Giáo chỉ
công nhận Giêsu là một ngôn sứ như bao ngôn sứ khác. Chính việc “Thiên Chúa
hóa” nhân vật Giêsu của Kitô giáo đã đẩy Hồi giáo, Do Thái giáo vào thế đối
đầu. Hiện nay Do Thái giáo vẫn đang mong đợi một Messia nào đó chứ không
phải Giêsu. Trong khi đó thì Hồi giáo lại cho rằng khi Kitô giáo “Thiên Chúa
hóa” Giêsu, bắt một con người “làm Chúa” là đã cố tình xúc phạm, nhục mạ
Thiên Chúa.
Tóm lại, khi nói đến thần học, không nên hiểu chỉ có một loại thần học chung
nhất, mà phải phân biệt rạch ròi thần học Kitô giáo, thần học Do Thái giáo,
thần học Hồi giáo. Ngay trong nền thần học Kitô giáo cũng có những thần học
mâu thuẫn, đối lập nhau. Chính các nền thần học này đã nhào nặn ra “các
Thiên Chúa” khác nhau từ một Thiên Chúa của Abraham. Vì thế, khi thần học
Kitô giáo khởi xướng học thuyết “Mầu nhiệm nhập thể” thì bị nền thần học Do
Thái giáo và nhất là thần học Hồi giáo công kích, phủ nhận. Điều này giải
thích tại sao có những cuộc xung đột tôn giáo triền miên xảy ra giữa ba tôn
giáo vốn được xem là có cùng một gốc. Sự xung đột do mâu thuẫn về các quan
điểm thần học giữa Kitô giáo và Hồi giáo dẫn đến sự tiêu diệt lẫn nhau đã
được lịch sử ghi nhận và Tông huấn nhắc lại: “Vào thế kỷ 13, Tin Mừng
được loan báo một lần nữa cho những người Mông Cồ, Thổ và người Trung Quốc.
Nhưng Kitô giáo rất mau biến mất tại các vùng này vì nhiều lý do, trong số
đó phải kể tới sự xuất hiện của Hồi Giáo” (S9). Kitô giáo “rất mau
biến mất” tại Châu Á ở thế kỷ 13 chỉ vì người anh em Hồi giáo của mình.
“Chúa Thánh Thần” đôi khi thích làm những việc trái khoáy đẩy Vatican vào
thế bất lợi.
“Sự khó chịu” (nếu có) của người Châu Á phi Kitô giáo
Đối với các tôn giáo đông phương như Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo v.v….
các quan điểm thần học dù là của bất ký ai, Do Thái giáo, Kitô giáo hay Hồi
giáo. Tất cả đều không ảnh hưởng gì đến các tôn giáo này, nên không có
chuyện “khó chịu” trước các quan điểm thần học Kitô giáo. Các tôn giáo cùng
một gốc như Hồi giáo, Do Thái giáo, Kitô giáo thuộc về một hệ quy chiếu. Các
tôn giáo đông phương lại thuộc về một hệ quy chiếu khác. Vì thế, sự “khó
chịu” (nếu có) ở các tôn giáo đông phương đối với Kitô giáo chỉ có thể có
trong trường hợp học thuyết của các tôn giáo bị xuyên tạc, bóp méo với mục
đích “đồng hóa”. Nói cách khác, nó chỉ xảy ra trên bình diện “giao tế”, thái
độ ứng xử trong từng trường hợp cụ thể, chứ không phải do mâu thuẫn trên
quan điểm thần học. Điều này dễ hiểu vì các tôn giáo đông phương như Phật –
Lão - Khổng không có thần học, nên không có chuyện xung đột về các quan điểm
thần học giữa các tôn giáo này với Kitô giáo. Ví du: Đối với Phật giáo.
Thiên Chúa, dù là của Kitô giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo tuyệt nhiên không có
chỗ đứng trong tôn giáo này. Tuy nhiên, họ vẫn tôn trọng các quan điểm thần
học như “vị cứu tinh duy nhất” của Kitô giáo. Cũng có nghĩa là họ tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng của các tôn giáo. Nhưng nếu Kitô giáo quy chụp giáo
chủ của họ thành “ngôn sứ” của Thiên Chúa Kitô giáo, tôn giáo của họ là “cơ
hội quan phòng” của Thiên Chúa Kitô giáo thì rõ ràng đó là một sự khiêu
khích, thách thức, xúc phạm trắng trợn buộc họ không thể bỏ qua… và tất
nhiên, cái “khó chịu” ở đây chính là cách hành xử thô bạo, kém tế nhị, thiếu
tinh tế chứ không phải vì các quan điểm thần học… Tiếc rằng điều này đã trở
thành chiêu thức mà Vatican vận dụng trong hành trình văn hóa của mình tại
Châu Á.
Qua những điều vừa trình bày trên, cho thấy: “Điều gây khó chịu…” chỉ
thực sự “khó chịu” đối với những người anh em của Kitô giáo là Hồi giáo và
Do Thái giáo, hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến các nền văn hóa và tôn giáo
Đông Phương. Theo thiển ý của tôi, nếu Vatican muốn thuyết phục để người ta
tin rằng “Đức Giêsu Kitô là đấng cứu độ duy nhất” thì nên thuyết phục những
người anh em của mình trước, hãy “Phúc âm hóa” Do Thái giáo và Hồi Giáo. Nếu
không làm được việc này, khoan nói đến chuyện “Phúc âm hóa Châu Á”. Đó chỉ
là ảo tưởng, đừng nói đến thiên niên kỷ thứ ba, sang thiên niên kỷ thứ tư,
thậm chí thứ năm, thứ sáu… Thánh giá cũng chẳng bao giờ trồng được trên mảnh
đất Châu Á này !
Trong câu: “Điều gây khó chịu nhất trong Kitô giáo là người ta tin rằng
Thiên Chúa chí thánh, toàn năng, toàn trí đã mang lấy bản tính con người của
chúng ta, đã chịu đau khổ và chịu chết để đem lại ơn cứu độ cho tất cả mọi
người” (S12). Cụm từ “Điều gây khó chịu nhất..” ám chỉ “sự khó
chịu” (có thể có mà cũng có thể không) của các dân tộc Châu Á ngày nay,
thực sự chỉ là nỗi lo sợ vu vơ, không có căn cứ… vì các dân tộc Châu Á chẳng
bao giờ quan tâm đến những gì mà tín đồ Kitô giáo gọi là “đức tin”. Họ chỉ
phản ứng trong trường hợp bị xúc phạm, điển hình là vụ Giáo Hoàng cho xuất
bản quyển “Bước vào hy vọng”… Tuy nhiên, cụm từ “mang lấy bản tính
con người của chúng ta..” làm gợi nhớ đến một quá khứ lịch sử kinh hoàng
đã xảy ra ngay trong lòng giáo hội vào thời mới thành lập. Đó chính là cuộc
chiến tranh “bản tính” và “ngôi vị” đã cướp đi sinh mạng của nhiều người.
9.
CUỘC CHIẾN TRANH “BẢN TÍNH” - “NGÔI VỊ”
Arius “đảo chánh Ngôi
Hai”
Năm 321, Linh mục Arius khởi xướng học thuyết mới, đẩy Kitô giáo vào cuộc
khủng hoảng nặng nề. Cuộc tranh biện về “Thiên Tính của Giêsu” giữa Arius và
các giáo phụ Rôma đã khiến nhiều người phải bỏ mạng, nhiều người khác bị tù
đày.
Giáo thuyết của Arius khởi đi từ việc thừa nhận một Thiên Chúa duy nhất, tự
hữu. Nhưng Thiên Chúa của Arius không thể thông đồng bản tính của mình
cho ai kể cả Giêsu. Arius mượn một câu trong phúc âm của Gioan “Cha
ta cao trọng hơn ta…” (Ga 14:28) để chứng minh rằng: Giêsu không phải là
Thiên Chúa, không cao trọng, ngang bằng Thiên Chúa, không đồng bản tánh với
Thiên Chúa. Giêsu chỉ là người được Thiên Chúa chọn làm con, làm nhiệm vụ
trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Học thuyết của Arius được nhiều
Giám mục và tín đồ ở các giáo hội Đông phương hưởng ứng. Để vấn đề được rõ
ràng, Công đồng Alexanđria được triệu tập có khoảng 100 Giám mục tham dự
trong đó có cả Arius. Kết quả Công đồng phi bác học thuyết và kết án Arius
phải đi đày. Nhưng Arius được sự hậu thuẫn của Giám mục Eusebiô, từ đó cuộc
“chiến tranh tín lý” ngày càng dữ dội hơn. Constantine là một kẻ “hộ giáo”
đầy quyền lực của giáo hội Rôma. Ông quyết định triệu tập một đại Công đồng
tổ chức tại Nikêa. Công đồng Nikêa bắt đầu làm việc từ ngày 20/5/325 dưới sự
chủ trì của chính hoàng đế La Mã Constantine. Một văn kiện được đưa ra buộc
mọi người phải tin và ký nhận: Nội dung văn kiện được tóm tắt vài điểm chính
như sau :
“Tin một Thiên Chúa toàn
năng là Cha, ngài là Đấng tạo dựng. Tin Giêsu là con một Thiên Chúa, sinh
bởi Đức Chúa Cha, Giêsu cũng là Thiên Chúa, được sinh ra nhưng không phải
tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa Cha, từ trời xuống thế để cứu rỗi con
người… Giáo hội Rôma sẽ tuyên án những ai nói rằng: Giêsu không có từ trước
muôn đời. Trước khi Ngài sinh ra Ngài chưa có. Ngài bởi không hoặc bởi bản
thể khác mà được tạo dựng…”
Với một văn kiện có tính áp đặt như thế nên nhiều người đã không ký, tất
nhiên Arius cũng không ký, ông bị trục xuất khỏi giáo hội và lãnh án lưu đày
đến tận Ba Tư. Có nhiều người ký vào văn kiện chỉ vì sợ bị tù tội. Một số
người đã ký, sau đó xin rút lại chữ ký như Giám mục Eusebiô, Giám mục
Theognis, Giám mục Maris. Cả ba ông này lập tức bị bắt và bị lưu đày.
Năm 337, hoàng đế Constantine băng hà, quyền lực đế quốc thuộc về hai người
con: Constant và Constanciô. Năm 350, Constant băng hà, Constanciô nắm trọn
quyền điều hành đế quốc. Năm 351 Constanciô triệu tập Công đồng Sirmium đưa
ra một văn kiện mới: “Tin một Thiên Chúa duy nhất là Cha toàn năng và con
một Người, Chúa Giêsu Kitô sinh bởi Chúa Cha từ trước muôn đời, Thiên Chúa
bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, bởi người mà mọi vật được tạo thành…”
Nhưng lần này thì chính những người có uy tín nhất của giáo hội Rôma là
Giám mục Athanasiô và Giáo hoàng Liberiô không ký văn kiện. Những người
chống lại công đồng đều phải bị tù đày kể cả Giáo hoàng Liberiô.
Công đồng Sirmium II (357) lại đưa ra một văn kiện nhằm hạ thấp vai trò của
Giêsu: “… Chúa Cha cao trọng hơn chúa con, người vượt lên trên chúa con
về danh vọng, quyền bính, vinh quang và cả danh hiệu làm cha của người…”
Công đồng này hoàn toàn phủ nhận sự “đồng bản tính” giữa Chúa Cha và
Chúa Con.
Nhưng công đồng Sirmium
III lại công bố: “Chúa Con đồng bản tính với Chúa Cha…”
Nestorius “phẩu thuật
Ngôi Hai”
Nestorius(380-440), Giáo chủ Constantinopoli chủ trương Giêsu sinh bởi bà
Maria chỉ là một con người được tiền định mặc thiên tính, là “công cụ” của
Thiên Chúa, Ngôi Lời hành động qua Thiên Tính trong con người của Giêsu. Với
chủ trương như vậy, Nestorius đã đưa lên bàn mổ “phẩu thuật” Ngôi Hai Thiên
Chúa của Công giáo “Ngôi Lời” và “Giêsu” ra làm hai mảnh riêng biệt. Từ đó
đi đến một hệ luận: Maria chỉ là mẹ của Giêsu chứ không thể là “Mẹ Thiên
Chúa”. Hoàng đế La Mã lúc đó là Theođosiô II triệu tập Công đồng Ephesô.
Ngày 22/6/431, cách chức và tuyên án Nestorius đồng thời khẳng định:
Maria chính là mẹ Thiên Chúa (Theotokos). Chính tại công đồng này là nơi
khai sinh ra kinh Kính Mừng: “…Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng
tôi là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử…” Công đồng Ephesô kết thúc
với sự nhìn nhận : “Giêsu có hai bản tính. Đồng bản tính với Đức Chúa Cha
về Thiên Tính và với loài người về Nhân Tính…” Điều trớ trêu là sự nhìn
nhận còn nóng hổi chưa kịp nguội thì một giáo thuyết mới xuất hiện: Phủ nhận
Nhân Tính, Giêsu chỉ có một bản tính duy nhất, tức Thiên Tính. Tác giả của
giáo thuyết mới này là Eutikê (378-454). Giáo thuyết này được sự ủng hộ của
Đioscorô, Giáo chủ Alexanđria. Nhưng điều lạ là khi Eutikê bị Giáo Hoàng Leô
(440-461) tuyên án thì chính Hoàng đế Lamã Theođosiô lại bênh vực cho
Eutikê. Một công đồng mới lại được triệu tập. Một đội vệ binh tinh nhuệ được
điều đến làm nhiệm vụ. Giáo chủ Dioscorô chủ trì công đồng. Ông lệnh cho
binh sĩ bắt hết tất cả các Giám mục chống đối và tuyên bố : “Giết chết
ngay những kẻ dám tuyên bố Giêsu có hai bản tính”. Giám mục Flavian là
nạn nhân đầu tiên của bi kịch, ông bị đánh chết tại chỗ, về sau ông được
giáo hội “phong thánh”.
Về Chúa Thánh Thần cũng thế. Năm 360, các Giám mục Constantinopoli,
Marathôn, Nicomeđia… mà đứng đầu là Maceđôn chủ trương giáo thuyết: “Chúa
Thánh Thần cũng chỉ là một tạo vật…” Năm 381, Hoàng đế Theođosiô
(379-395) triệu tập Công đồng Constantinopoli để bổ túc những thiếu sót của
Công đồng Nikêa về Chúa Giêsu: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã
nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người. Người chịu đóng đinh
vào thập giá, chịu khổ hình và mai táng thời Phongxiô Philatô…” đồng
thời phi bác giáo thuyết: Chúa Thánh Thần là tạo vật… : “Tôi tin kính Đức
Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Người bởi Đức Chúa Cha
và Đức Chúa Con mà ra, người cũng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa
Cha và Đức Chúa Con. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy…” Tất nhiên
chỉ có những kẻ “điếc không sợ súng” mới dám chống lại Công đồng!
Thái độ của người Châu
Á phi Kitô giáo trước cuộc chiến tranh “Bản Tính” - “Ngôi Vị”
Người Châu Á phi Kitô
giáo ngày nay không hiểu Thiên Chúa của Công giáo La Mã “quan phòng” kiểu gì
mà nhiều người phải bỏ mạng, nhiều người khác bị tù tội, tra tấn, lưu đày
chỉ vì họ đã tham gia vào cuộc tranh biện “Đồng Bản Tính” (homoousios),
“Ngôi Vị” (hypostasis) của Thiên Chúa!
Công giáo La Mã ngày nay đã kết án những người có chủ trương đi ngược lại
tinh thần công đồng Nikêa được đúc kết lại trong kinh Tin Kính là “lạc
giáo”. Nhưng đối với người Châu Á phi Kitô giáo, chuyện “lạc” hay “không
lạc” là chuyện nội bộ của của các hệ phái Kitô giáo. Người Châu Á phi Kitô
giáo chỉ nhìn vấn đề với một thái độ bàng quan để nhận định: “Giêsu là
Đấng Cứu Độ duy nhất, có tính phổ quát cho toàn nhân loại” là cái lõi
của Tông huấn Giáo hội tại Châu Á mà Vatican muốn tất cả các dân tộc Châu Á
phải thừa nhận, lại cũng chính là cái lõi gây ra cuộc “chiến tranh tín
lý” đã cướp đi bao sinh mạng ngay trong nội bộ giáo hội.
Trước những sự kiện lịch sử không thể phủ nhận, buộc người Châu Á ngày nay
phải nghĩ rằng: Giêsu là một con người tội nghiệp bị lợi dụng, là nạn nhân
của những thế lực núp bóng tôn giáo. Vì thế, cần phải “Cứu Độ Giêsu”,
phải trả lại cho Giêsu những gì ông có và đừng bắt ông phải nhận lấy
những gì mà ông không có…
10. CHÚA THÁNH THẦN, THÁNH LINH, THẦN KHÍ LÀ MỘT HAY KHÁC?
Nhiều học giả nghiên cứu Kitô giáo cho rằng “Chúa Thánh Thần” chẳng qua là
sản phẩm của công đồng Nikêa. Theo các nhà nghiên cứu, cái mà ngày nay Kitô
giáo gọi là “Chúa Thánh Thần” không hề có trong thời Giêsu và các tông đồ.
Trong Cựu Ước, sách Sáng Thế Ký mô tả “Thần Khí” bay là là trên mặt nước
(St 1,2) … làm ta hình dung đến một hiện tượng vật lý rất tự nhiên mà ngày
nay khoa vât lý học gọi là sự bay hơi (bốc hơi), chúng tạo nên một màn sương
mờ mờ ảo ảo… Sự nhân cách hóa một hiện tượng tự nhiên thành một vị thần như:
thần sông, thần biển, thần gió, thần núi v.v… là sinh hoạt tín ngưỡng thời
sơ khai của con người trong xã hội nguyên thủy. “Thần Khí” của con người
thời sơ khai trong Cựu Ước cũng không ngoại lệ.
Trong Tân Ước, “Thần Khí” còn được biết đến dưới một tên khác: “Thánh Linh”
(Holy Ghost, Holy Spirit) được biểu thị bằng một con “chim bồ câu” (xuất
hiện khi Giêsu chịu phép rửa với Gioan Tẩy Giả trên sông Giôđan), hoặc biểu
tượng “đốm lửa” (xuất hiện trên đầu các tông đồ khi các ông đang hội họp
trong nhà Tiệc Ly). Có học giả cho rằng: “chim bồ câu” hoặc “đốm lửa” là vết
tích của tín ngưỡng Tôtem, bái vật trong thời kỳ tiền Kitô giáo…
Dấu
ấn của Tôtem giáo
Tôtem giáo là một hình thức tín ngưỡng quan trọng vào bậc nhất của xã hội
nguyên thủy. Khoa khảo cổ học đã chỉ ra ý nghĩa của những bức tranh khắc
trên vách đá được tìm thấy trong các hang động thời kỳ đồ đá, mô tả lễ hội
tín ngưỡng Tôtem. Nét độc đáo của lễ hội này là ăn thịt Tôtem (vật tổ) sau
khi đã thực hiện nghi thức cúng bái Tôtem. Người nguyên thủy tin rằng: ăn
thịt vật tổ là cách để vật tổ có thể tồn tại mãi trong mỗi con người. “Ăn”
không phải để giải quyết “vấn đề bao tử” mà ăn trong một trạng thái tâm linh
hưng phấn, một nghi thức vô cùng thiêng liêng. Nghi thức ăn thịt Tôtem (vật
tổ) mang một ý nghĩa triết lý sâu xa trong tâm thức người nguyên thủy. Thông
qua nghi thức ăn vật tổ mà con người thực hiện việc chuyển hóa quan hệ huyết
thống họ hàng sang quan hệ thiêng liêng với Tôtem, vật tổ. Niềm tin vào sự
hóa thân của vật tổ vào tất cả mọi thành viên trong cộng đồng đã khiến cho
người ta tin rằng: Khi một phụ nữ mang thai thì chính Tôtem đã tạo ra cái
thai đó…
Dấu ấn của Tôtem giáo còn khá rõ nét trong Kitô giáo nguyên thủy. Chim bồ
câu chính là Tôtem vật tổ, Khi Maria mang thai thì chính Tôtem đã “phủ” lên
bà. Maria thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần, cũng có nghĩa là bởi Tôtem vật
tổ, tức chim bồ câu… Nghi thức “ăn thịt vật tổ” trong tín ngưỡng Tôtem cũng
lại được tìm thấy trong “Bí tích Thánh Thể” của Kitô giáo. Trước ngày “chịu
nạn”, Giêsu họp các môn đồ lại, cầm bánh bẻ ra và chia cho các môn đồ nói:
“Đây là thịt ta, các con hãy ăn…”. Sau đó ông lấy rượu và chia cho
môn đồ rồi nói: “Đây là máu ta các con hãy uống…” Dù đó chỉ là một
nghi thức tượng trưng với bánh và rượu chứ chẳng có “máu thịt” gì cả! Nhưng
nó đã minh chứng ảnh hưởng của tín ngưỡng Tôtem trong giáo thuyết Kitô giáo.
Tín điều “Ba Ngôi” xác định: Chúa Cha, Chúa Con (tức Giêsu) và Thánh Thần
(biểu tượng chim bồ câu) chỉ là một. “Ăn thịt, uống máu” Giêsu cũng có nghĩa
là của Chúa Thánh Thần, mà Thánh Thần lại chính là “con chim bồ câu”, tức
Tôtem vật tổ…
“Chúa Thánh Thần” Sản
phẩm của công đồng Nikêa
Chương ba của Tông huấn
nói về “Chúa Thánh Thần”. Đoạn số 15,18 trong chương này viết :
“…Chúa Thánh Thần là mặc khải riêng của Tân Ước…”. “Chúa Thánh Thần đã từng
hoạt động tại Châu Á vào thời các tổ phụ và ngôn sứ (?), rồi hoạt động mạnh
hơn nữa vào thời Đức Giêsu Kitô và Hội Thánh sơ khai (?),…” (S15,18).
Đây là lối nói khoa trương, phóng đại, hoàn toàn không có căn bản từ Thánh
Kinh. Thật vậy, nếu trong Cựu ước, “Thần khí” được nhắc đến hơn 300
lần thì trong Tân ước, “Thánh Linh” được nhắc đến rất ít, cụ thể là
Gioan nhắc đến 5 lần (Ga 1:32,33 , 3:5,6,8,34 , 7:39, 14:26, 20:22). Matthêu
7 lần(Mt:1:18,20, 3:11,16, 4:1, 10:20, 12:18,28,31,32, 22:43, 28:19).Luca 6
lần (1:15,35,41,67, 2:25,26,27, 3:16,22, 4:1,14,18, 10:21, 11:13). Và ít
nhất là Máccô, vỏn vẹn có bốn lần trong toàn bộ Phúc Âm của ông. Lần thứ
nhất: lúc Giêsu chịu phép báptêm của Gioan tại sông Giođan (Mc 1:8,10,12).
Lần thứ hai: Giêsu trả lời các kinh sư khi họ cho rằng ông bị quỷ ám (Mc
3:29). Lần thứ ba: Đa-vít cảm nhận Đức Thánh Linh (12:36) Lần thứ tư: lúc
Giêsu giảng dạy môn đồ (Mc 13:11). Còn “Chúa Thánh Thần” thì hoàn toàn “vắng
bóng” cả trong Cựu Ước lẫn Tân Ước. Tất nhiên, người Kitô hữu sẽ nói rằng:
“Thần Khí” hay “Thánh Linh” chính là “Chúa Thánh Thần”
tức “Ngôi Ba Thiên Chúa”. Nhưng đó chỉ là tín điều của Giáo hội buộc
tín đồ phải tin, hoàn toàn không có căn cứ….
Chúa Thánh Thần như người ta hiểu ngày nay là: Đấng thông ban sự sống,
Đấng bảo trợ, hướng dẫn, dìu dắt, là ánh sáng, sức mạnh v.v… Vị Chúa này
chỉ được biết đến từ công đồng Nikêa. Mãi 300 năm sau, kể từ ngày Giêsu qua
đời, Chúa Thánh Thần mới được “sinh ra”, mà lại “sinh ra” trên đất Thổ Nhĩ
Kỳ. Người “sinh ra” Chúa Thánh Thần chẳng ai xa lạ, chính là Constantine
hoàng đế của đế quốc La Mã. Lịch sử ghi nhận rằng: năm 325 Hội nghị các Giám
mục được hoàng đế La Mã là Constantine triệu tập tại Nikêa (Thổ Nhĩ Kỳ) gọi
là Công đồng Nikêa-Constantinopoli. Trong công đồng này, người ta đưa ra một
số tín điều buộc mọi người phải tin, trong đó có tín điều Thiên Chúa Ba
Ngôi, Đức Mẹ Đồng Trinh v.v… các tín điều trên được tóm tắt trong một văn
bản mà ngày nay ta gọi là “kinh Tin Kính”. Chúa Thánh Thần được “khai sinh”
từ đó.
Năm 360, các Giám mục Constantinopoli, Marathôn, Nicomeđia… mà đứng đầu là
Maceđôn chủ trương giáo thuyết: “Chúa Thánh Thần cũng chỉ là một tạo
vật…” Có nhiều chứng cứ từ Cựu Ước lẫn Tân Ước để họ tin như thế. Ngay
danh xưng “Thần Khí” cũng đã hàm xúc một cái gì đó được Chúa Cha tạo ra để
ban lại cho con người: “Nhờ bởi Thần Khí mà Ngài đã ban cho ta…” (Rm
5:5) v.v… Tất nhiên, quan điểm xem Chúa Thánh Thành là tạo vật bị giáo hội
bác bỏ.
Năm 381, Công đồng Constantinopoli được triệu tập bởi Hoàng đế Theođosiô
(379-395). Công đồng đã phi bác giáo thuyết: Chúa Thánh Thần là tạo vật… Văn
kiện “Niềm Tin Tông Đồ” một lần nữa lại được bổ sung: “Tôi tin kính Đức
Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Người bởi Đức Chúa Cha
và Đức Chúa Con mà ra, người cũng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa
Cha và Đức Chúa Con. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy…”
“Chúa Thánh Thần” của
Vatican ngày nay
Đặc điểm của Chúa Thánh Thần thời đó là: ban ơn, che chở, giữ gìn cho các
tín đồ. Ngày nay khoa thần học đã “nâng cấp” Chúa Thánh Thần lên rất nhiều
bậc… nào là sáng tạo lịch sử, hoạt động và hướng dẫn lịch sử v.v… Ngài là
biểu tượng của sức mạnh và là sự khôn ngoan. Trong nhiều trường hợp, Vatican
đã “bắt” Chúa Thánh Thần phải “khôn ngoan” đến mức “tinh quái”. “…Khi ban
Thánh Thần Đức Kitô cho Giáo hội, là Chúa cũng đồng thời ban hoa trái sứ
mạng cứu độ của Ngài cho mọi dân tộc qua mọi thời đại dựa vào việc Giáo hội
công bố tin mừng và yêu thương phục vụ gia đình nhân loại… Giáo hội được
Chúa Thánh Thần hướng dẫn để đóng vai trò của mình trong việc hoàn thành
chương trình của chúa”(S17). Dù “khôn ngoan tinh quái” nhưng Chúa Thánh
Thần vẫn bị Vatican đánh lừa, xỏ mũi… Đọc đoạn trích dẫn trên ta có thể nhận
ra ngay dù Chúa có “ban này, ban nọ…” cho mọi dân tộc qua mọi thời đại,
nhưng phải “dựa vào việc giáo hội công bố…”. Nếu không “dựa vào”
nghĩa là không được giáo hội “cho phép” thì Chúa muốn ban cũng đành “chào
thua..” Nhưng “siêu” nhất là Vatican đã “bắt” Ngài phải “chui tọt” vào trong
các tôn giáo như Phật giáo, Ấn giáo, để làm “gián điệp” cho Vatican…
“Giáo hội tin chắc rằng ẩn sâu trong các dân tộc, các nền văn hóa và các tôn
giáo Á Châu này luôn có một sự khao khát “nước hằng sống”, một sự khao khát
do chính Chúa Thánh Thần khơi dậy và chỉ mình Đức Giêsu Cứu Thế mới có thể
thoả mãn. Giáo hội trong chờ Chúa Thánh Thần tiếp tục chuẩn bị tâm hồn các
dân tộc Á Châu này để họ bước vào cuộc đối thoại với Đấng Cứu Tinh nhân
loại. Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong khi thi hành sứ mạng yêu
thương và phục vụ, Giáo hội có thể tạo điều kiện cho Đức Giêsu Kitô và các
dân tộc Châu Á gặp gỡ nhau, trong khi các dân tộc ấy tìm kiếm một cuộc sống
sung mãn. Chỉ khi nào có cuộc gặp gỡ ấy người ta mới tìm được nước hằng sống
đem lại sự sống đời đời, hay cụ thể hơn, cho họ hiểu biết Thiên Chúa chân
thật duy nhất và Đức Giêsu Kitô do Ngài sai đến…” (S18).
Người đọc vô tư, khách quan, không thiên kiến khi đọc đoạn trích dẫn trên
cũng phải tự hỏi: Chúa toàn năng hay Vaticăn toàn năng? Vì 97% dân chúng phi
Kitô giáo ở Châu Á chưa hề biết Giêsu là ai! Chúa Thánh Thần là ai? Chúa
không thể tự bộc lộ mình trước quần chúng Châu Á mà phải thông qua Vatican,
phải được Vatican tạo điều kiện: “Giáo hội có thể tạo điều kiện cho Đức
Giêsu Kitô và các dân tộc Châu Á gặp gỡ nhau…” Đó là chưa nói đến việc
quần chúng Châu Á có “cần gặp” hay không.
Tuy nhiên với phong cách vốn có của mình Vatican cứ tiếp tục giọng điệu quen
thuộc: “…hoạt động vừa nhiều vừa đa dạng của Chúa Thánh Thần, Đấng vẫn
tiếp tục gieo các hạt giống chân lý vào các dân tộc, tôn giáo, văn hóa và
triết lý của họ…”(S15) “…Bất cứ điều gì Thánh Thần làm được trong tâm
hồn con người, trong lịch sử các dân tộc, trong các nền văn hóa và trong các
tôn giáo, đều là sự chuẩn bị cho tin mừng và có thể hiểu đó cũng chỉ là quy
chiếu về Đức Kitô…”(S16). Tuy nhiên, để không bị “hố” trước vấn nạn mà
người Châu Á phi Kitô giáo có thể đặt ra là: Giải thích thế nào về con số 3%
tín đồ Kitô giáo mà nếu trừ Philippines ra chỉ còn khoảng 1% trong tổng số
3,3 tỷ người trên lục địa Châu Á? Chúa Thánh Thần ở đâu? Ngài đang làm gì?
Nếu “…hoạt động vừa nhiều vừa đa dạng của Chúa Thánh Thần” trên lục
địa này chỉ mang lại một kết quả “quá ư khiêm nhường” như thế liệu Ngài còn
được Vatican “tín nhiệm” không? Giáo Hoàng là người khôn ngoan, nên ông có
thể đón trước vấn nạn: “Không được vin cớ Chúa Thánh Thần có mặt khắp nơi
để bào chữa cho việc không thể công bố Đức Giêsu Kitô là vị Cứu Tinh duy
nhất và có một không hai…”(S16). Nếu Chúa Thánh Thần nghe được, có lẽ
Ngài cũng phải “phì cười” và khen ngợi sự thông minh của Giáo Hoàng…
Quyết tâm của Vatican đã đạt đến cao điểm trong tuyên bố của Giáo Hoàng:
“Dù Giáo Hội sung sướng nhìn nhận bất cứ điều gì chân thật và thánh thiện
trong các truyền thống tôn giáo của Phật giáo, An Độ giáo và Hồi giáo đều là
phản ánh sự thật đang khai sáng mọi người, nhưng như thế không có nghĩa là
giáo hội phải bớt đi nhiệm vụ và quyết tâm của mình, tức tuyên bố một cách
dứt khoát Đức Giêsu Kitô là đường đi, sự thật và sự sống… Thật ra tín đồ
trong các tôn giáo ấy vẫn có thể nhận được ơn Chúa và được Đức Kitô cứu độ
ngoài phương thế thông thường mà ngài đã lập ra, điều ấy không loại bỏ việc
họ được kêu gọi đến nhận lãnh đức tin và phép Rửa như Chúa hằng muốn cho hết
mọi người” (S31)
PHẦN III
HỘI NHẬP VĂN HÓA HAY “ĐỨC TIN” THÁCH THỨC “VĂN HÓA”
1.
HIỂU THẾ NÀO VỀ “VĂN HÓA ĐỨC TIN”
Tôn giáo và văn hóa là hai lĩnh vực liên quan mật thiết với nhau, chúng quan
hệ biện chứng sinh thành. Cách nào đó, có thể nói tôn giáo thuộc phạm trù
văn hóa. Văn hóa không chỉ là học thuật, tư tưởng mà còn bao gồm nhiều lĩnh
vực khác như kinh tế, chính trị, xã hội, phong tục tập quán v.v… Nói một
cách ngắn gọn như cụ Đào Duy Anh trong Việt Nam Văn Hóa Sử Cương thì:
“văn hóa tức là sinh hoạt”. Do đó, nếu vấn đề được nhìn dưới góc độ tôn
giáo, tức nhìn ở góc độ hẹp so với góc độ rộng hơn là văn hóa. Cứ nhìn vào
nội dung văn kiện Tông Huấn Giáo Hội Tại Châu Á sẽ thấy, tác giả đã
trình bày khái quát những vấn đề lớn như kinh tế, chính trị, xã hội, đến
những vấn đề nhỏ hơn như: toàn cầu hòa, nợ nước ngoài, môi trường, du lịch,
thông tin đại chúng, thậm chí cả những vấn đề tiểu tiết hơn như các tệ nạn
xã hội ma túy, mại dâm, siđa v.v… tất cả những vấn đề trên, vấn đề nào không
thuộc phạm trù văn hóa? Ngay cả những thứ mà ngày nay người ta gọi là “phi
văn hóa” hay “phản văn hóa”, cũng là văn hóa, nhưng là văn hóa độc hại, văn
hóa đồi bại cần bài trừ…
Bảo vệ bản sắc và phát
huy truyền thống văn hóa dân tộc là điều phải làm với bất kỳ nền văn hóa
nào. Quan niệm thế nào là văn hóa cũng còn tuỳ thuộc vào các tiêu chí mà nền
văn hóa đó yêu cầu. Tuy nhiên tất các nền văn hóa đều có một điểm chung, đó
là tính thích nghi một cách có chọn lọc trong quá trình giao thoa giữa các
nền văn hóa, là động lực thúc đẩy sự phát triển của một cộng đồng dân cư.
Nói cách khác: Văn hóa là một tiến trình lịch sử phản ánh toàn bộ sinh hoạt
tinh thần lẫn vật chất của một địa phương nhất định, thuộc một cộng đồng
nhất định… Đành rằng văn hóa phản ánh các sinh hoạt về phong tục tập quán,
giao tiếp, ứng xử, văn chương, nghệ thuật… Nhưng đôi khi người ta dung tục
lạm bàn văn hóa. Ví dụ có người nói đến nền “văn hóa xe hơi” của Hoa Kỳ,
“văn hóa cà ri cay” của Ấn Độ và gần đây tại Việt Nam, người ta thường nói
đến “văn hóa ẩm thực”, “văn hóa thời trang” thậm chí còn có cả nền “văn hóa
xe gắn máy” ở những đô thị lớn. Riêng đối với Vatican, hiện nay người ta
đang ráo riết phổ biến một thứ văn hóa tại Châu Á: “văn hóa đức tin”.
Từ văn hóa dẫn vào tôn giáo để giới thiệu “Tin Mừng” Kitô giáo là lộ
trình mà Tông Huấn Giáo hội tại Châu Á vạch ra nhằm định hướng mục tiêu
“Phúc Âm hóa Châu Á”. Vatican dùng một cụm từ rất thời thượng để
chỉ mục tiêu này: “Hội nhập văn hóa.”
Thế nhưng, hội nhập văn hóa được Vatican hiểu thế nào?
Trước hết, ta hãy nghe Tổng Giám Mục G.B
Phạm Minh Mẫn nhắc lại một định nghĩa của Giáo hội Công giáo La Mã về “Hội
nhập văn hóa” trong một bài viết cùng tên của ông đăng trên website
vietcatholic như sau: “…Giáo
Hội định nghĩa về hội nhập văn hoá như là "Tiến trình qua đó một cộng đoàn
Giáo Hội sống kinh nghiệm vào đức tin Kitô giáo của mình trong một bối cảnh
văn hoá cụ thể, làm sao để không những kinh nghiệm và đức tin đó được diễn
tả bằng những yếu tố của văn hoá địa phương, mà còn trở nên sức mạnh linh
hoạt hoá, định hình và canh tân cách sâu xa nền văn hoá đó, để tạo nên những
mẫu mực hiệp thông và giao lưu trong và vượt trên nền văn hoá đó" (Chúa Kitô
và các nền văn hoá, Tài liệu của Giáo Hoàng Học Viện Gregorio, 1983).
Qua định nghĩa trên, ta thấy “Hội nhập văn hóa” kiểu Vatican là một tiến
trình được thực hiện nhiều bước. Bước thứ nhất là: Dùng “đức tin Kitô
giáo” để diễn tả các yếu tố văn hóa địa phương mà bất chấp là nó có phù
hợp hay không. Ví dụ quan niệm về “Trời” của các nền văn hóa Á Đông
được hiểu là “Thiên Chúa” của Kitô giáo!? Bước thứ hai là: “định
hình và canh tân” nền văn hóa đó. Không hiểu Vatican “định hình và
canh tân” bằng cách nào? Thắc mắc trên được giải đáp ở bước thứ ba: Tạo
nên mẫu mực “hiệp thông”. Mà “hiệp thông” theo kiểu của
Vatican như thế nào thì mọi người đã rõ, nghĩa là phải gia nhập đạo Công
giáo. Và cuối cùng là “vượt lên trên nền văn hóa đó!?” hay nói một
cách khác là đồng hóa nền văn hóa đó thành văn hóa Kitô giáo.
Để cụ thể hóa định nghĩa trên,
Giám Mục G.B Phạm Minh Mẫn giải thích: “Trong tiến trình
hội nhập văn hóa, Tin Mừng đảm nhận và thanh tẩy các nền văn hoá, giúp nền
văn hóa tìm lại được nét tinh khôi và những giá trị đích thực”
Không hiểu dựa vào đâu mà Giám mục Phạm Minh Mẫn dám quả quyết là “Tin
Mừng” có thể đảm nhận và “thanh tẩy” các nền văn hóa, giúp các
nền văn hóa tìm lại được “nét tinh khôi” và những giá trị đích thực?
Người Châu Á xưa nay vẫn tự hào về di sản văn hóa của mình. Nhiều nền văn
hóa của nhiều dân tộc Châu Á được xem là kho tàng qúy báu được cả nhân loại
trân trọng và thừa hưởng. Thế mà Vatican lại cho rằng cần phải “thanh
tẩy” các nền văn hóa đó bằng “Tin Mừng” của Kitô giáo mới có thể
mang lại “nét tinh khôi” cho các nền văn hóa đó. Phải chăng dưới con
mắt của Vatican, tất cả các nền văn hóa Châu Á đều bị “hoen ố?” nên cần phải
“thanh tẩy bằng Tin Mừng?”. Theo họ, giá trị đích thực của các nền
văn hóa Châu Á nằm trong “Tin Mừng”? Có thể coi đây là một kiểu “thực dân
văn hóa”. Dù Giám mục Phạm Minh Mẫn có quả quyết rằng các nền văn hóa
được “thanh tẩy” nhưng “mỗi nền văn hoá vẫn giữ những sắc thái
riêng” tuy nhiên, ông lại thòng thêm một câu để lòi đuôi: “đồng thời
cùng nhau tạo nên catholica unitas, nghĩa là sự hiệp nhất phổ quát trong
Giáo Hội, hiệp nhất trong đa dạng và khác biệt. Khi đó, Giáo Hội thực sự là
khí cụ và dấu chỉ sự hiệp nhất giữa con người và Thiên Chúa cũng như giữa
nhân loại với nhau.”.
Để hiểu rõ thế nào là “hiệp nhất phổ quát, hiệp nhất trong đa dạng và
khác biệt”, chúng ta hãy đọc chương năm, “Hiệp thông và đối thoại để
truyền giáo” của Tông huấn Giáo hội tại Châu Á. “…Sự đối thoại mà Giáo
hội đề xuất được xây dựng dựa trên nền tảng là lôgic của sự Nhập Thể…Là bí
tích của sự hiệp nhất toàn nhân loại… Giáo hội sẽ đi gặp gở các dân tộc trên
thế giới, và không quên rằng tuy chỉ là “đàn chiên nhỏ” giữa một tập thể
nhân loại rộng lớn, nhưng mình cũng là men trong khối bột thế giới…
Rồi nó đi xa hơn thế giới Kitô giáo để đến với những tín đồ thuộc các truyền
thống tôn giáo khác…”(S29). Vậy là rõ ràng không thể chối
cải. Cái gọi là “hiệp nhất trong đa dạng và khác biệt” chỉ là cách
đánh lừa vụng về của Vatican. Vì như ta đã biết, một khi chất “men”
Kitô giáo bắt đầu hoạt động trong “khối bột” các tôn giáo
khác thì “hợp nhất” chắc chắn phải xảy ra, còn “trong đa dạng và
khác biệt” chỉ là trò lừa bịp.
Hồng Y Joseph Ratzinger, Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Đức Tin. Trong bài nói chuyện
của ông với Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu họp tại Hongkong từ ngày 03 đến
ngày 05-03-1993 (đăng trong báo DC, số ra ngày 16-07-1995). Nội dung bài nói
chuyện được tải đi trên Internet, Website vietcatholic. Ông viết: “Ý đồ
của tôi là cho thấy đức tin Kitô giáo có quyền và có khả năng thông truyền
cho các nền văn hoá khác, tiếp nhận chúng và thể hiện phần của mình cho các
nền văn hoá đó.”
Khi đã tự cho mình “có quyền và có khả năng”, ông bắt đầu định nghĩa
về văn hóa :“Trước tiên, chúng ta cần phải đặt những câu hỏi sau đây :
văn hoá là gì ? Văn hoá có liên hệ với tôn giáo thế nào, và làm sao văn hoá
có thể tiếp xúc các hình thức tôn giáo vốn xa lạ với văn hoá ? Ta có thể đưa
ra một nhận xét rằng: chính Âu châu thời mới là tác giả đầu tiên khai sinh
ra khái niệm văn hoá, coi văn hoá là một thực tại tách biệt với tôn giáo hay
thậm chí đi ngược lại tôn giáo. Trong tất cả các nền văn hoá mà ta biết được
trong lịch sử, tôn giáo luôn luôn là một yếu tố căn bản của văn hoá, thậm
chí là linh hồn của văn hoá. Chính tôn giáo ấn định cấu trúc của các giá trị
và do đó hình thành nên lý lẽ nội tại của cấu trúc ấy. Từ đây ông quy
nạp tất cả các nền văn hóa trên thế giới vào một phạm trù giả định “thần
linh”….: “Thật vậy, điểm căn bản nhất của các nền văn hoá lớn là cho
chúng ta biết các nền văn hoá ấy đã giải thích thế giới như thế nào để bắt
thế giới quy về đấng thần linh.”
Đọc đoạn trích dẫn trên, ta thấy vị Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Đức Tin của Nhà
nước Vatican đã đề xuất một chính sách “bá quyền văn hóa”. Từ chỗ khẳng định
một tiền đề rất mơ hồ: “tất cả các nền văn hóa đều có nguồn gốc từ thần
linh”, Hồng Y Joseph Ratzinger đã tự cho mình “có quyền và có khả
năng” áp đặt “văn hóa đức tin” của Vatican lên trên các nền văn
hóa khác. Ngoài ra, người đọc có thể nhận thấy sự ám ảnh về một thời kỳ tăm
tối mà các phong trào Phục Hưng (thế kỷ 14-17), phong trào Khai Sáng (Thế kỷ
18) ở Châu Âu đã làm “bốc hơi” đức tin Kitô giáo. Vì thế không lạ gì trước
nhận xét: “chính Âu châu thời mới là tác giả đầu tiên khai sinh ra khái
niệm văn hoá, coi văn hoá là một thực tại tách biệt với tôn giáo hay thậm
chí đi ngược lại tôn giáo”. Sự phát triển của các phong trào trên vẫn
còn phát huy tác dụng đến tận hôm nay và trở thành nỗi ám ảnh đeo bám khiến
những nhà “bảo vệ đức tin Công giáo” ở Vatican không ngừng nỗ lực tìm “thuốc
giải”. (Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này trong phần nói về Tuyên ngôn Dominus
Jesus). Ở đây, có lẽ chúng ta cũng không cần phải phân tích gì nhiều để có
thể thấy được quan điểm văn hóa của Vatican. Tác giả đã lý luận lòng vòng để
cuối cùng đưa ra một luận điểm rất hàm hồ mà tác giả cho là điểm căn bản
nhất : Điểm quy chiếu duy nhất của tất cả mọi nền văn hóa chính là “thần
linh”!?
Đương
nhiên “Văn hoá
luôn gắn liền với một chủ thể xã hội là chủ thể một đàng vừa thu thập các
kinh nghiệm của các cá nhân, đàng khác vừa gọt dũa để hình thành nên các
quan niệm ấy.”
Thế nhưng tác giả lại lái sang một hướng khác, hướng của “siêu việt lý trí”
tức Thiên Chúa để biến các chủ thể văn hóa thành bù nhìn: “Chủ thể chung ấy sẽ bảo
quản và phát triển những quan niệm mà cá nhân không thể nào tự mình có được,
những quan niệm có thể được gọi là tiền lý trí hay siêu vượt lý trí...”
Từ
đó, tác giả đề xuất một hướng đi cho các nền văn hóa bằng cách bám vào “sự
khôn ngoan của các “niên trưởng” và “mặc khải”: “Muốn
vậy, các nền văn hoá sẽ nại vào sự khôn ngoan của các "niên trưởng" là những
người gần gũi với thần thánh hơn; rồi những người đó lại nại vào những
truyền thống nguyên thuỷ mang tính chất của những mặc khải…” Liệu
người Châu Á có thể nào chấp nhận một nền văn hóa mà mọi tìm tòi, sáng tạo
của con người đều bị bóp nghẹt bởi thần linh:…“Nói
khác đi, văn hoá nào cũng phải dựa vào một sự thông tin nào đó của thần
linh?”.
Như đã nói ở trên, văn
hóa là một tiến trình lịch sử phản ánh toàn bộ sinh hoạt tinh thần lẫn vật
chất của một địa phương nhất định, thuộc một cộng đồng nhất định… Văn hóa
phản ánh các sinh hoạt về phong tục tập quán, giáo tiếp, ứng xử, văn chương,
nghệ thuật… Tất nhiên, quan niệm thế nào là văn hóa cũng còn tuỳ thuộc vào
các tiêu chí mà nền văn hóa đó yêu cầu. Do vậy, Khi Vatican nói đến “văn
hóa đức tin”, ta phải hiểu rằng đó là một quan điểm về văn hóa của riêng
Vatican mà thôi, không thể quy chụp “văn hóa đức tin” cho tất cả các
nền văn hóa khác. Các tiêu chí mà Vatican đề nghị cho nền “văn hóa đức
tin” của mình không thể “phổ quát” làm nền tảng căn bản cho tất cả các
nền văn hóa khác. Do đó, khi Hồng Y Joseph Ratzinger viết: “Trước hết,
cần phải xác định rằng đức tin tự nó là văn hoá. Không có đức tin trần trụi,
cũng chẳng có văn hóa thuần túy. Nói cách khác, khi đức tin cho ta biết con
người là ai và phải trở nên người như thế nào là đức tin đã tạo ra văn hoá…”
đó là quan điểm của cá nhân ông, còn nếu ông lấy tư cách Bộ Trưởng Bộ Giáo
Dục Đức Tin, thì đó là quan điểm của Nhà nước Vatican, của Giáo hội Công
giáo, chứ không thể xem đó là quan điểm chung cho tất cả mọi nền văn hóa, vì
thế chúng ta không thể nào chấp nhận việc dựa trên sự “phổ quát” ảo
tưởng của “văn hóa đức tin” để o ép, áp đặt một cách kỳ quái: “Con
người phải cần mẫn học cách vươn lên để được sung mãn và đạt đến những điều
phổ quát, là những điều không thuộc về một dân tộc riêng lẻ nào mà chính xác
là thuộc về dân Chúa…”
2. ĐỨC TIN THÁCH THỨC VĂN HÓA
Trở lại với Tông huấn Giáo hội tại
Châu Á. Đoạn số 21,22 Tông huấn đề cập đến vấn đề “Hội nhập văn hóa”.
Tông huấn viết : “…Ngày nay vấn đề trở nên cấp thiết đặc biệt khi so sánh
với tình hình đa chủng tộc, đa tôn giáo và đa văn hóa của Châu Á, một nơi
vẫn coi Kitô giáo như một cái gì xa lạ…”.
Khi Vatican đối mặt với văn hóa,
tôn giáo Châu Á. Tâm lý xem thường, đánh giá thấp các nền văn hóa và tôn
giáo ấy đã đẩy Vatican từ thất bại này đến thất bại khác… “Hội nhập văn
hóa” chẳng phải là cái gì quá mới mẻ… Roberto de Nobili, Matteo Ricci được
xem là “người hùng”, kẻ tiên phong trong việc đưa văn hóa Kitô giáo hội nhập
vào nền văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa từ thế kỷ 16, nhưng cũng trớ trêu khi chính
Vatican công kích, khiển trách họ về tội “dám” hội nhập văn hóa không theo
truyền thống của Giáo hội. Chính Giáo hoàng Bênêđitô XIV kết án phương pháp
truyền đạo của Roberto de Nobili ở Ấn Độ. Matteo Ricci cùng chung số phận
với lời cáo buộc phá hoại việc truyền giáo tại Trung Hoa. Đến năm 1939, Giáo
hoàng Piô XII mới thừa nhận và “tuyên dương công trạng” cho họ khi xét thấy
suốt bốn thế kỷ công cuộc truyền giáo tại Châu Á vẫn trong tình trạng “dậm
chân tại chỗ”. Một trong những nét độc đáo nhất của văn hóa Phương Đông là
truyền thống xem trọng lễ nghĩa, gia đình dòng tộc là nền tảng của xã hội.
Đạo Hiếu được xem là đặc trưng văn hóa của các dân tôc Phương Đông. Nhưng
khi đến truyền đạo, các thừa sai Công giáo theo lệnh của Vatican buộc Kitô
hữu Phương Đông phải triệt phá bàn thờ tổ tiên! Hành động “phi lễ nghĩa”
buộc Vatican phải trả giá, văn hóa Kitô giáo bị tẩy chay. Trước thực tế đó,
buộc Vatican phải áp dụng chính sách “xét lại”. Ngày 8/12/1939, Giáo hoàng
Piô XII ban hành Huấn dụ Plane Compertum thừa nhận việc thờ cúng tổ tiên ở
Trung Hoa. Ngày 14/6/1965, Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng đã chính thức
công bố thừa nhận việc thờ cúng tổ tiên với sự duyệt y của Vatican. Huấn dụ
Plane Compertum của Giáo hoàng Piô XII thực ra chỉ là biện pháp “chữa cháy”.
Nội dung vẫn phản ánh tinh thần “đạo phiệt” với những ngôn từ như:
“cho phép” giáo hội Trung Hoa và
các giáo hội lân cận “được phép”
thờ cúng tổ tiên! Người Kitô hữu Phương Đông phải tự hỏi Vatican lấy quyền
gì? và vì sao việc thờ cúng tổ tiên của mình lại phải được Vatican
“cho phép” mới “được
phép” thực hiện? Văn hóa Kitô giáo trở
nên xa lạ với các dân tộc Châu Á không phải vì người Châu Á cố chấp, hẹp
hòi, không muốn chấp nhận văn hóa Kitô giáo, nhưng vì thái độ áp đặt, tự
phụ, kêu căng, trịch thượng của Vatican.
Trước những thất bại liên tục,
buộc Giáo hội phải nhìn lại và thừa nhận “Hội nhập văn hóa” là con đường tất
yếu để có thể tồn tại trước một thế giới đa văn hóa… Từ Công đồng Vatican II
đến nay, “Hội nhập văn hóa” được xem là một trong những tiêu chí mà Giáo hội
phải đạt được nhằm thực hiện tham vọng “Công giáo hóa” Châu Á. Muốn thế
Vatican “…Không thể xây dựng nước Chúa mà không vay mượn một số yếu tố
lấy từ các nền văn hóa nhân loại…” (S21)
Trong quá trình hội nhập, các nền
văn hóa tiếp thu tinh hoa của nhau để làm giàu nền văn hóa của mình đã trở
thành một xu thế tất yếu. Nhưng đối với Vatican, họ “vay mượn một số yếu
tố lấy từ các nền văn hóa nhân loại … thu dụng nhiều yếu tố tích cực tìm
thấy được từ các nền văn hóa khác nhau ấy…” chỉ nhằm mục đích “xây
dựng nước Chúa”. Tất nhiên, Vatican có quyền làm như vậy, có điều
“Trong quá trình gặp gỡ các nền văn hóa khác nhau của thế giới. Giáo hội
truyền đạt các chân lý của mình, cũng như đổi mới các nền văn hóa ấy từ bên
trong…” là điều các dân tộc Châu Á không bao giờ chấp nhận, nó phơi bày
lộ liểu tham vọng đồng hóa các nền văn hóa Châu Á thành văn hóa Kitô giáo
bằng những ngôn từ hoa mỹ: “đổi mới các nền văn hóa ấy từ bên trong…”
Lợi dụng hội nhập văn hóa để Công
giáo hóa Châu Á càng lộ liễu hơn khi Tông huấn viết tiếp: “các nền văn
hóa khác nhau ấy một khi đã được tinh lọc và đổi mới lại dựa vào Tin Mừng sẽ
trở thành những cách biểu đạt rất chính đáng đức tin duy nhất của Kitô
giáo…”. Người Châu Á có thể khẳng định: Vatican chưa đủ tư cách để “đổi
mới và tinh lọc các nền văn hóa” Châu Á, bất chấp Vatican sử dụng
lá bùa hộ mệnh “Chúa Thánh Thần” vừa cũ kỹ, vừa lạc hậu của mình để
“hù dọa” các dân tộc Châu Á: “Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của việc
đưa đức tin Kitô giáo hội nhập văn hóa vào Châu Á…Thánh Thần tạo điều kiện
cho cuộc đối thoại với các giá trị văn hóa và tôn giáo của các dân tộc ấy
một cách nào đó rồi, ban cho những ai thiện chí nghị lực cần thiết để thắng
vượt sự dữ và mưu mô của Thần Dữ, đồng thời tạo điều kiện cho mọi người được
tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua một cách nào đó chỉ có Chúa biết?…” Tôi
có cảm tưởng tác giả bản Tông huấn đang “mộng du” trên con đường “hội nhập
văn hóa” của mình. “Chúa Thánh Thần” đã “tạo điều kiện” cho cuộc đối thoại
của Vatican với các nền văn hóa Châu Á bằng “một cách nào đó rồi… chỉ có
Chúa biết?” mà chính tác giả dù được “thông ban sự sáng” cũng mù
mờ không thể biết!? Đã thế, từ chỗ “mù mờ không biết…” đi đến chỗ miệt thị
các nền văn hóa đủ mạnh để kháng lại sự áp đặt “văn hóa đức tin” của
Vatican bằng những ngôn từ nghe rất buồn cười: “sự dữ…, mưu mô thần dữ…”.
Tóm lại hành trình văn hóa của Vatican ở Châu Á chỉ là dự phóng không
tưởng.
Từ dự phóng không tưởng, chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Tông Huấn
mang “văn hóa đức tin Kitô giáo” ra để “…thách thức mọi nền văn
hóa dám vươn tới những đỉnh cao mới của sự hiểu biết và diễn đạt…”(S20).
Quyết tâm của Vatican đã quá rõ ràng và trở nên quyết liệt hơn khi muốn tầt
cả các nền văn hóa Châu Á phải được định vị từ “Đức tin Kitô giáo”.
Và vì thế, “trái tim giáo hội sẽ không bao giờ nghỉ ngơi bao lâu toàn bộ
Châu Á chưa tìm được sự nghỉ ngơi trong Đức Kitô, Đức Chúa Phục Sinh”
(S10). Nói cách khác, bằng mọi cách, Vatican không bao giờ tự cho phép mình
“nghỉ ngơi” chừng nào toàn bộ nền văn hóa của các dân tộc Châu Á chưa
được định vị từ văn hóa kitô giáo.
Văn hóa, như có người ví là “món ăn tinh thần”, món ăn rất đa dạng, phong
phú, có thể hợp với khẩu vị người này, nhưng không hợp khẩu vị với người
khác. Có món giàu chất này lại cũng có món giàu chất khác. Hương vị của
chúng lại cũng rất khác nhau, nhưng tất cả chúng đều có một đặc tính chung
là “bổ dưỡng”. Nếu tất cả những “món ăn tinh thần” đó được bày trên “bàn
tiệc văn hóa” để mọi người cùng lựa chọn thưởng thức, “thực khách” có cơ hội
tự do chọn lựa món ăn hợp khẩu vị với mình. Điều quan trọng là chúng ta phải
ăn chứ không phải chỉ nhìn để bình phẩm về món ăn, Tuy nhiên, không loại trừ
khả năng vì một lý do nào đó (có thể là vô tình hoặc cố ý) mà những món ăn
bổ dưỡng kia lại bị lẫn lộn sạn, cát… làm cho món ăn mất ngon, thậm chí
không thể dùng được. Trong lĩnh vực văn hóa cũng thường thấy có những yếu tố
phản văn hóa mà những nhà bảo vệ văn hóa cần phải loại bỏ. Người viết tập
sách này tự xác định mình không làm công việc của một nhà phê bình văn hóa,
nhưng cảm thấy có trách nhiệm phải “nhặt sạn” (nếu có) trong những “món ăn
tinh thần” hầu trả lại giá trị vốn có của chúng.
Hội nhập văn hóa là một vấn đề không phải mới, nhưng chúng trở nên ngày càng
quan trọng trong xã hội loài người. Khi đời sống vật chất được nâng cao thì
nhu cầu hưởng thụ tinh thần cũng được nâng cao theo tỷ lệ thuận với đời sống
vật chất… Trong một thế giới đa chủng tộc, đa văn hóa, xu thế giao lưu, hội
nhập văn hóa đang ngày càng phát triển, các thực thể văn hóa không thể tự
đóng khung, tự cô lập mình để chấp nhận quy luật tự đào thải. Khẩu hiệu
“hòa nhập mà không hòa tan” giữa các nền văn hóa đã và đang được cổ vũ
mạnh mẽ, khuynh hướng giao lưu, giới thiệu bản sắc văn hóa giữa các nền văn
hóa của các quốc gia trên thế giới ngày càng được các nhà làm văn hóa quan
tâm ủng hộ tích cực. Hội nhập văn hóa là cách tự giới thiệu tinh hoa văn hóa
mình với thế giới đồng thời tiếp thu văn hóa thế giới làm cho nền văn hóa
mình phong phú hơn.
Ngày nay, khi trình độ con người đã phát triển cao về mọi mặt, giao thông
thuận tiện, công nghệ thông tin đã chứng tỏ ưu thế của minh trong lĩnh vực
thông tin liên lạc với thế giới bên ngoài, “Toàn cầu hóa” không chỉ
có ý nghĩa trong lãnh vực kinh tế mà còn ảnh hưởng rất lớn đến các vấn đề
giáo dục, văn hóa, xã hội, thậm chí cả lĩnh vực được xem là tế nhị, nhạy cảm
như lĩnh vực tôn giáo. Trong viễn cảnh ấy vấn đề “hòa nhập” được xem
như là một xu thế tất yếu. Hòa nhập mà không hòa tan là một khẳng định của
nhiều nền văn hóa, nhờ không hòa tan mà văn hóa ngày càng phát triển, nhưng
vẫn giữ được bản chất, sắc thái đặc thù của mỗi nền văn hóa.
Nếu hội nhập văn hóa đã là khuynh hướng chung của mọi quốc gia trên hành
tinh này, thì “quốc gia Vatican” cũng không thể ngoaị lệ nếu không
muốn tự cô lập, tự đào thải. Vì vậy, hội nhập văn hóa là một trong những nội
dung quan trọng được Vatican vạch ra từ Công đồng Vatican II. Nhưng Vatican
đã “hội nhập” với thái độ nào? Đó là điều mà hiện nay nhiều người đang quan
tâm.
2.
NGUY CƠ LÀM “BỐC HƠI” ĐỨC TIN CÔNG GIÁO VÀ TUYÊN NGÔN DOMINUS
JESUS
Hồng Y Ratzinger, Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Đức Tin của Vatican, trong bài viết
"Niềm tin vào Đức Kitô trước sự thách đố của các nền văn hoá”
được tải đi trên mạng Internet, Website vietcatholic, có một đoạn như sau:
“Chính Âu châu mới là tác giả đầu tiên khai sinh ra khái niệm văn hoá,
coi văn hoá là một thực tại tách biệt với tôn giáo hay thậm chí đi ngược lại
tôn giáo”. Ở đây, tôi không có ý phê bình, phân tích các giá trị
“đúng-sai” về quan niệm “văn hóa” của tác giả. Tôi chỉ muốn tìm hiểu về hoàn
cảnh, động lực nào để tác giả có nhận định như trên.
Tại Âu Châu, lục địa được mệnh danh là “lục địa Kitô giáo” với sự tồn tại
của các hệ phái Kitô giáo mà nổi bật nhất phải kể đến Công giáo La Mã. Tôn
giáo này đã có một thời làm bá chủ Châu Au, vua chúa các nước Châu Âu đều
phải thần phục! Đương nhiên văn hóa Châu Âu nói chung là văn hóa Kitô giáo.
Đến thế kỷ 14-17, nổi lên một trào lưu văn hóa mới: Phong trào Phục Hưng.
Đại diện cho phong trào này là Petrarch (1304-1374). Phong trào Phục Hưng đã
thẩm định lại toàn bộ giá trị văn hóa Kitô giáo. Đến thế kỷ 18, với phong
trào Khai Sáng. Một trong những con chim đầu đàn của phong trào này là
Voltaire, với câu nói nổi tiếng: “Nói thật rồi chạy!” (Tell the truth and
run!). Chính họ đã làm đức tin Kitô giáo lung lay đến tận gốc rễ. Các phong
trào Phục Hưng và Khai Sáng thực sự đã trở thành nỗi ám ảnh của những nhà
“bảo vệ đức tin” ở Vatican. Ảnh hưởng của chúng vẫn còn phát huy tác dụng
đến tận hôm nay, chúng không những chỉ ảnh hưởng trong lĩnh vực xã hội mà
còn tác động đến cả những nhà thần học có khuynh hướng cấp tiến, khiến nguy
cơ làm “bốc hơi” đức tin Kitô giáo ngày càng trở nên hiện thực hơn. Đặc
biệt, khi văn hóa Phương Tây giao lưu với văn hóa Châu Á, nguy cơ phá vỡ các
cơ cấu “văn hóa đức tin” của Vatican tăng lên bội phần. Đây là lý do khiến
những nhà “bảo vệ đức tin Công giáo” ở Vatican không ngừng nỗ lực tìm “thuốc
giải”. Tuyên ngôn Dominus Jesus được ban hành không ngoài mục đích đó.
Tuyên ngôn Dominus Jesus
được Hồng Y Ratzinger, Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin của Vatican ký ban hành
ngày 6/8/2000 với sự phê duyệt của Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã là một đề
tài mang tính thời sự trong thời gian gần đây.
Nội dung Tuyên ngôn
Dominus Jesus nhằm khẳng định lại vấn đề “Giêsu là đấng cứu độ phổ quát
duy nhất và Giáo hội Công giáo La Mã cũng là Giáo hội cứu độ phổ quát duy
nhất!”. Chính từ căn bản này, Tuyên ngôn Dominus Jesus nêu lên một số
vấn đề cơ bản như: Xác tín Thiên Chúa là điều không thể lãnh hội và diễn tả
bằng trí năng con người. Cảnh cáo các khuynh hướng tương đối hóa “Ngôi Lời
Nhập thể”, qua việc chọn lựa các phạm trù Đông phương trong suy tư thần học
nhằm biện minh cho thuyết đa nguyên tôn giáo. Theo đó, các thần học gia
phóng khoáng đã trình bày lý thuyết cứu độ của các tôn giáo khác như là hệ
thống song song hoặc tương đương với lý thuyết cứu độ của Công giáo La Mã.
Điều này dẫn đến nguy cơ làm phá sản tính “cứu độ phổ quát và tuyệt đối duy
nhất” của Giêsu và của Giáo hội Rôma…
Tuyên ngôn Dominus Jesus
mang tính chất “hộ giáo” vì nó không đưa ra một tín lý giáo điều nào mới mà
chỉ khẳng định lại một điều đã được nói nhiều từ công đồng Vatican II và mới
đây nhất là Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, đó là “tính phổ quát và duy
nhất của Giêsu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa và giáo hội Công
giáo La Mã là phương tiện duy nhất để đạt được sự cứu độ”.
Mặc dù đối tượng mà Tuyên
ngôn Dominus Jesus nhắm đến là các Giám mục, các nhà Thần học và tín đồ Kitô
giáo và mục đích Tuyên ngôn chỉ là sự khẳng định lại giáo lý đức tin Công
giáo dựa trên những văn kiện đã được Vatican ban hành trước đây như Thông
điệp Redemptoris Missio, Sắc lệnh Ad Gentes, Tuyên ngôn Nostra Aetate v.v…
nên có thể xem Tuyên ngôn Dominus Jesus là một hoạt động nội bộ của Vatican.
Nhưng với thời đại “bùng nổ thông tin” hiện nay, với phương tiện truyền
thông Vatican hiện nắm trong tay, những điều gọi là “nội bộ” của Vatican đã
trở thành “thông tin đại chúng”. Đó là chưa nói đến Internet. Con người dù ở
bất cứ nơi nào trên hành tinh này, thông qua mạng thông tin toàn cầu
Internet, chỉ cần một cú “click chuột”, người ta có thể biết được tất cả… Do
đó, “chuyện nội bộ” mà Vatican cố tình “bỏ ngỏ” trên các phương tiện truyền
thông đại chúng khiến người ta không thể ngó lơ. Hơn nữa, Tuyên ngôn lại là
một văn kiện mang tính pháp lý của Vatican do Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin
của Vatican đã ký ban hành với sự duyệt y của Giáo hoàng Gioan Phaolô II.
Nội dung chuyển tải những điều hạ thấp học thuyết, xúc phạm những vị sáng
lập các tôn giáo khác nhằm đề cao Giáo hội Công Giáo La Mã như: không thể
chấp nhận quan điểm cho rằng Giáo hội Công giáo La Mã chỉ là một phương thế
trong nhiều phương thế “cứu độ” như các tôn giáo khác. Không thể có sự tương
đương giữa các con đường cứu độ của các tôn giáo khác với Giáo hội. Vì thế
không thể có sự bình đẳng trên bình diện giáo lý và nhất là không thể xem
Chúa Giêsu ngang bằng với các giáo chủ của các tôn giáo khác.
Chẳng những đối với các
tôn giáo phi Kitô giáo, các hệ phái Kitô giáo khác như Anh giáo, Chính
Thống, Tin Lành v.v… đều lên tiếng phản đối, phẩn nộ trước một tam đoạn luận
mà tuyên ngôn đã vận dụng: Tất cả những ai chịu phép Rửa đều được sát nhập
vào Thân Thể mầu nhiệm Chúa Kitô. Giáo hội Công giáo La Mã là Nhiệm thể Chúa
Kitô. Vậy tín đồ trong các hệ phái Anh giáo, Chính Thống, Tin Lành v.v…
không thuộc Giáo hội Công giáo La Mã, tất nhiên không thể sát nhập vào Thân
Thể mầu nhiệm Chúa Kitô một cách trọn vẹn được. Nghĩa là không thể hiệp
thông một cách hoàn hảo như Giáo hội Công giáo La Mã, vì Vatican là “Hội
thánh duy nhất thánh thiện, Công giáo và tông truyền!?”
Trong lúc Vatican đang ra
sức kêu gọi “hiệp thông, đại kết” với các “giáo hội anh em”, thì Hồng Y
Ratzinger, Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin lại ban hành Tuyên ngôn Dominus
Jesus làm sống lại châm ngôn đã lạc hậu của Cypriano “ngoài Giáo hội
không có ơn cứu độ” (Extra Ecclesiam nulla salus). Giám mục George
Carey, Giáo chủ Liên hiệp Anh giáo. Mục sư Peter Sulston thuộc Giáo hội
Methodist cho rằng Vatican đã mưu toan “xoá sổ” các hệ phái Kitô giáo ngoài
Giáo hội Công giáo La Mã…
-- o0o --
THAY LỜI KẾT
Châu Âu từng được mệnh
danh là lục địa Kitô giáo trong suốt hai thiên niên kỷ qua. Công giáo La Mã
là một thực thể tôn giáo quan trọng nhất trên lục địa này. Cũng tại Châu Âu,
mảnh đất của sự tiến bộ, chính tại nơi đây các phong trào Phục Hưng (thế kỷ
14-17), phong trào Khai Sáng (Thế kỷ 18) đã làm lung lay đức tin Kitô giáo
đến tận gốc rễ. Châu Au cũng là nơi khai sinh ra các ngành khoa học, các học
thuyết Tiến hóa, big bang v.v… đã đẩy tín lý Kitô giáo đến bờ vực phá sản.
Trên lĩnh vực xã hội, tín đồ Kitô giáo Châu Âu nói chung ngày càng ít đi.
Lớp trẻ ngày nay gần như không biết nhà thờ là gì! Nhiều người tự thú trong
suốt cuộc đời, họ đến nhà thờ ba lần, Chỉ có một lần khi lập gia đình, họ tự
đến để nhận “phép bí tích hôn phối”. Hai lần kia hoàn toàn không biết gì, đó
là lúc mới sinh người ta mang họ đến nhà thờ “rửa tội”, và khi chết người ta
lại đưa họ vào nhà thờ trước khi đưa ra nghĩa trang!… Ngày nay, Vatican luôn
phải đương đầu với các vấn đề xã hội mà thường là những vấn đề chống lại tín
lý Kitô giáo như: ngừa thai, ly dị, tình dục ngoài hôn nhân và mới đây nhất,
một vấn đề được xem là thời sự nóng hổi: nhân bản vô tính. Con người bắt đầu
cướp quyền sáng tạo của Thiên Chúa... Trong nội bộ giáo hội cũng không lấy
gì làm sáng sủa, nhiều linh mục bỏ nghề, nhiều linh mục khác đòi quyền … lấy
vợ. Chính tại nơi được mệnh danh là lục địa Kitô giáo này đã dần lấy lại thế
chủ động khiến quyền uy của Vatican ngày càng thu hẹp, tất nhiên không loại
trừ nguy cơ mất hẳn ảnh hưởng của mình tại Châu Au. Đó là lý do giải thích
vì sao thời gian gần đây Vatican muốn chuyển hướng sang Châu Á.
Văn kiện Tông huấn Giáo
hội tại Châu Á là sự khởi đầu cho một kế hoạch dài hơi của Vatican tại Châu
Á trong thiên niên kỷ thứ ba. Mặc dù Vatican đã thấy trước được những khó
khăn mà họ gọi là “thách đố” khi phải đối mặt với các thực tại văn hóa, tôn
giáo Châu Á. nhưng họ vẫn không tránh được vết xe đã đổ trong quá khứ, vẫn
cứ tiếp tục phong cách vốn có của mình, vẫn khoa trương ngạo mạn, đánh giá
thấp các nền văn hóa Châu Á. Dự đoán về những thất bại của Vatican tại Châu
Á trong thiên niên kỷ thứ ba là hoàn toàn có cơ sở.
Người Châu Á với truyền
thống bao dung, rộng lượng sẵn sàng góp tiếng nói của mình với mong muốn
Vatican phải có một thái độ nghiêm túc hơn nếu muốn đối thoại chân thành với
các thực tại văn hóa Châu Á.
________________
Cùng đề tài:
- Nhận Định Về Văn Kiện “Tông Huấn Giáo Hội Tại Châu Á” (Ngô triệu Lịch)
http://sachhiem.net/TONGIAO/tgN/NgoTrieuLich.php
- Vài Ý Kiến Về Vấn Đề Bang Giao Với Vatican (Trần Chung Ngọc)
http://sachhiem.net/TCN/TCNts/TCNts34.php
- Từ Tông Huấn Á Châu Của Giáo Hoàng Gioan Phaolồ II Đến Hịch Xuất Quân Của Vua Quang Trung (Trí Tánh ĐHT)
http://sachhiem.net/TONGIAO/tgTR/TriTanhDHT02.php
- Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam (Nguyễn Mạnh Quang)
http://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_Main.php
___________
Cùng tác giả:
- Về Một Vấn Đề “Gây Khó Chịu” Của Vatican Nhưng Không Phải Cho Người Châu Á (Ngô triệu Lịch)
- Giêsu Có Phải Là Một Tiên Tri Không? (Ngô triệu Lịch)
- Nhận Định Về Văn Kiện “Tông Huấn Giáo Hội Tại Châu Á” (Ecclesia In Asia) - (Ngô triệu Lịch)
- Sách Lược Mục Vụ Của Vatican - Hội Nhập Văn Hóa Hay Xâm Lăng Văn Hóa? (Ngô Triệu Lịch)
Trang Tôn Giáo