Thực Chất Đạo Công Giáo và Các Đạo Thờ Chúa
Charlie Nguyễn
http://sachhiem.net/CHARLIE/CN_TCCG/VNcanthuchien.php
¿ trở ra mục lục | 2-8-2013
Cuốn Thánh Kinh Ô Nhục Của Đạo
Công Giáo
Trên thế gian này không có tôn giáo
nào xử dụng tĩnh từ “thánh” (holy) một cách bừa bãi và vô
trách nhiệm cho bằng Công Giáo La Mã: Cây thập ác là một
dụng cụ giết người dã man vì nạn nhân phải chịu đói khát và
đau đớn rất lâu mới chết. Mọi nạn nhân đều bị lột trần
truồng trước khi bị đóng đinh vào thập ác. Đó là một sự bêu
riếu sỉ nhục cùng cực. Dù cho Jesus đã bị quân La Mã xử tử
trên thập ác chăng nữa thì cây thập ác vẫn là cây thập ác
chứ không thể trở thành “Thánh Giá” (Holy Cross) được! Giả
sử quân La Mã đã không xử tử Jesus bằng thập ác mà xử tử
bằng cách treo cổ hay chém đầu thì Công Giáo sẽ có “Thánh
Thòng Lọng” hoặc “Thánh Mã Tấu” chăng?
Sào huyệt của Mafia đội lốt tôn giáo
trú đóng ở Rome được gọi là “Tòa Thánh La Mã”. Lịch sử thế
giới ghi nhận: Từ ngày đế quốc La Mã lập ra đạo Công Giáo
(Katholicos) vào đầu thế kỷ 4 đến nay, nó đã giết hại trên
200 triệu người.
Cái tội sát nhân vô địch này chỉ là
một trong 7 núi tội mà chính Vatican đã phải thú nhận. Một
tổ chức tội ác vô tiền khoáng hậu như vậy có lẽ nào được gọi
là “Hội Thánh”? Sào huyệt Vatican phải được gọi là sào huyệt
của quân cướp quốc tế cho chính danh. Tổ chức quốc tế này
tại sao được xưng tụng là “Đức Thánh Cha”, “Đức Hồng Y”,
“Đức Cha”, “Đức Ông”?
Bà Maria đẻ ra Jesus cũng chỉ được gọi
là “Đức Mẹ” chứ có được gọi là “Đức Thánh Mẹ” bao giờ đâu?
Vậy “Đức Mẹ” cũng chỉ được coi ngang hàng với các “Đức Cha”
thôi. Đức Mẹ sẽ phải gọi các “Đức Ông” bằng bố xưng con và
phải quỳ mọp trước dung nhan của các giáo hoàng vì các giáo
hoàng là các vị thánh sống (Đức Thánh Cha)!
Tuần báo Newsweek, số ra ngày 6 tháng
5 năm 2002, có in trên trang bìa một câu hỏi lớn: “What
would Jesus do?”) Jesus nên làm gì đây?”). Bên trong là 10
trang báo viết về tình trạng lạm dụng tình dục của các tu sĩ
Công Giáo. Nơi trang 28 có in hình một bức tranh sơn dầu vẽ
gia đình Giáo Hoàng Alexander Borgia vào cuối thế kỷ 15.
Giáo hoàng này có nhiều vợ nhiều con, loạn luân với chị ruột
và con gái ruột. Cô con gái này có một đứa con với giáo
hoàng. Vào giữa thế kỷ 16, Giáo Hòang Julius III dụ dỗ một
thiếu niên 15 tuổi để làm tình theo kiểu sodomy (anal
copulation). Giáo hoàng được đứa nhỏ chiều ý nên đã phong
cho nó chức Hồng Y. Chẳng những thế, Giáo Hoàng Julius III
còn bổ nhiệm thằng nhỏ giữ chức quốc vụ khanh tòa thánh!
(trang 28).
Nơi trang 29, tờ Newsweek còn cho
biết: Trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo, ít nhất có 3 trường
hợp giáo hoàng La Mã truyền ngôi cho con ruột giống như kiểu
thế tập của các vua chúa thế gian.
Trong lịch sử Công Giáo không thiếu gì
những tên khốn nạn dùng thủ đoạn lưu manh như giết người,
lừa gạt, hối lộ... để chiếm đoạt ngôi vị giáo hoàng. Trong
khi đó luận điệu của giáo hội luôn luôn dạy giáo dân rằng:
Các giáo hoàng đều đã được Hội Đồng Hồng Y bầu chọn theo ơn
soi sáng của Đức Chúa Thánh Thần. Nếu như vậy thì tại sao
Giáo Hội Công Giáo lại có quá nhiều những tên giáo hoàng
khốn nạn? Phải chăng cặp mắt của Đức Chúa Thánh Thần là cặp
mắt heo luộc nên đã không thấy được điều đó?
Các sách Tân Ước cũng như Cựu Ước đầy
rẫy những chuyện nhảm nhí bậy bạ, tại sao lại được gọi là
“Thánh Kinh” (Holy Bible)? Trọng tâm của những sách này là
để đề cao Jesus, từ một gã thợ mộc tầm thường biến thành
Thiên Chúa dựng nên trời đất muôn vật, nghĩa là Jesus đã đẻ
ra cha mẹ tổ tiên ông bà của chính mình!
Sau đó người ta lộn lại gọi bà Maria
là “Mẹ Chúa” (Mother of God). Mẹ Thiên Chúa đẻ ra Thiên
Chúa. Trước đó Thiên Chúa đẻ ra Mẹ và cả lò tổ tiên nhà
Thiên Chúa. Đây chính là một thứ Thiên Chúa quái vật trong
truyện thần thoại dành cho nhi đồng. Đến đây, xin tạm coi
Jesus như một nhân vật đặc biệt trong lịch sử Do Thái, chúng
ta hãy đọc lại trong kinh thánh phần nói về gia phả của
Jesus để xem tổ tiên của y thánh thiện đến cỡ nào.
Hàng năm cứ đến Noel, các nhà thờ
thường đọc Kinh Thánh về gia phả của Jesus gồm có 42 đời kể
từ tổ phụ Abraham. Sách Sáng Thế Ký (Genesis, 11:27-28) kể
rằng: Thợ nặn tượng tên Terah sinh ra ba người con là
Abraham, Nabor và Haran tại thành phố UR, thành phố lớn nhất
và cổ nhất của xứ Babylon. Chính tại thành phố UR, Abraham
đã đập nát các tượng thần của cha và chỉ giữ lại một tượng
thần duy nhất là tượng thần El (hình dạng của một con bò đực
với bộ râu dài) để tôn thờ. Chính vì hành vi này mà Abraham
đã được tôn vinh là ông tổ của các Đạo Độc Thần (Monotheism)
tức các đạo chỉ thờ một Thiên Chúa Duy Nhất. Tên của bò thần
El được chuyển sang tiếng Hebrew là Elohim. Tám thế kỷ sau,
nó được Moises đổi tên thành Jehovah. Đạo Kitô gọi Jehovah
(tức con bò Elohim) là Đức Chúa Cha! Do đó, đối với Jesus,
Abraham chẳng những là tổ phụ về huyết thống mà còn là tổ
phụ về niềm tin tôn giáo của y nữa.
Abraham lấy em gái (cùng cha khác mẹ)
là Sarah làm vợ. Năm Sarah 90 tuổi mới sinh con trai đầu
lòng là Isaac. Sarah chết vào năm 127 tuổi. Mấy năm sau khi
vợ chết, Abraham lấy một cô vợ trẻ tên Keturah vào lúc y 137
tuổi. Cô này sinh cho y 6 người con. Theo sách Sáng Thế Ký
thì Abraham hưởng thọ 175 tuổi! Vào năm 1994, Giáo Hoàng
John Paul II ngỏ ý rất mong muốn đến thăm thành phố UR vì đó
mới đích thực là quê hương của các đạo thờ Chúa. (Quả thật,
Thiên Chúa đã không giáng sinh ở đất Do Thái mà ngài đã phát
sinh từ tượng bò vàng – the golden calf – ở thành phố UR
thuộc Babylon). Jean Paul II đã nói rất chí lý là thánh kinh
không khởi đầu từ Israel mà đã khởi đầu từ thành phố UR.
Jean Paul II đã tuyên bố với báo chí năm 1994: “Nếu không
khởi hành từ UR thì không thể nói là đã đi thăm vùng đất của
thánh kinh vì thánh kinh đã bắt đầu từ đó.” (No visit to the
lands of the Bible is possible without a start in UR where
it all began – Abraham, Journey of faith, by Tad Szule,
National Geographic, December 2001, p.46).
Về đức hạnh thì Abraham là kẻ loạn
luân với em gái. Về tôn giáo thì y là kẻ đã lập ra đạo thờ
bò El. (“tức Thiên Chúa Elohim”). Ở Abraham tuyệt nhiên
không có một đức hạnh hay một công trạng hiển hách nào đáng
cho chúng ta kính phục. Tất cả chỉ vì Abraham là người đầu
tiên có ý kiến thờ một thần (thay vì thờ đa thần) và vì y là
ông tổ 42 đời của Jesus nên người Công Giáo đã tôn vinh
Abraham một cách lố bịch và đồng thời mù quáng nhục mạ tuyệt
đại đa số dân tộc Việt Nam. Sách Kinh Nhựt Khóa Công Giáo
(trang 143-146) có bài “Kinh Cầu Cho Dân Nước Việt Nam Trở
Lại Đạo Thánh” có đoạn như sau: “Chúa đã phán rằng ngày sau
sẽ có nhiều kẻ bởi phương Đông, Tây đến nghỉ ngơi cùng thánh
Abraham trên nước Thiên Đàng. Nay nước Việt Nam cũng là một
nước phương Đông đang còn nhiều kẻ tin vơ thờ quấy chưa hề
biết đến Đấng Chí Tôn”.
Đấng Chí Tôn của Công Giáo cũng là
Đấng Chí Tôn của đạo Do Thái. Người Công Giáo và Do Thái
được ông tổ đạo Hồi là Mohammed gọi là “Những người của các
sách Thánh Kinh (The People of the Books).
Chúng ta hãy đọc Kinh Koran chương 4,
câu 153 (Sutra 4, verse 153) sẽ được Mohammed giải đáp cho
chúng ta biết Đấng Chí Tôn của đạo Do Thái và đạo Kitô là
ai: “Những người của các sách thánh kinh đã thờ CON BÒ thay
vì thờ Thiên Chúa, mặc dầu Thiên Chúa đã tỏ cho biết nhiều
dấu hiệu về ngài”. (The people of the Books took THE CALF
for God after clear signs had come to them). Mohammed đã
giải đáp dùm cho 92% dân tộc Việt Nam lý do tại sao họ đã
không theo đạo Công Giáo. Bởi lẽ giản dị Công Giáo chỉ là
một biến thể của đạo thờ BÒ!
Thành phố UR hiện nay chỉ còn là một
phế tích trong sa mạc ở phía Nam nước Iraq, gần giáp với
Koweit. Diện tích của thành phố UR khoảng 120 acres. Căn cứ
vào di tích các ngôi cổ mộ và các di vật khai quật được, các
nhà khảo cổ ước tính thành phố UR được xây dựng cách đây
7500 năm. Dân số ước lượng khoảng 12.000 dân vào năm 2000
TCN, tức vào thời của Abraham. Lộ trình Abraham di cư từ UR
đến Canaan (tức vùng Tây ngạn sông Jodan hiện nay) là 600
miles. Điều này cho thấy nguồn gốc thật sự của đạo Công Giáo
là kho chuyện thần thoại của thành phố UR. Chính kho tàng
thần thoại này đã đẻ ra Kinh Thánh Do Thái – Kitô và bộ
truyện nổi tiếng thế giới là “Ngàn Lẻ Một Đêm”.
Một trong những người cùng di cư với
Abraham là Lot. Lot gọi Abraham bằng bác ruột, có vợ và hai
con gái lớn. Cả hai bác cháu đều là chủ nhân của đàn gia súc
lớn. Khi tới vùng đất hứa, Abraham chọn vùng cao nguyên
Canaan, còn Lot thì chọn vùng đồng bằng sông Jordan. Tại đây
có hai thành phố Sodom và Gomorah. Sau khi di cư được ít
lâu, bọn cướp từ hai thành phố đến đồng cỏ lấy hết gia súc
của Lot khiến cho Lot và gia đình trở thành những kẻ ăn mày
trong hai thành phố này. Tệ trạng xấu nhất trong hai thành
phố Sodom và Gomorah là có rất nhiều đàn ông mắc chứng bệnh
đồng tính luyến ái. Họ thường làm tình với nhau qua đường
hậu môn. Chính vì câu chuyện này trong Thánh Kinh nên ngôn
ngữ Tây phương đã phát sinh ra danh từ SODOMY (do tên thành
phố Sodom mà ra) để chỉ cái lối làm tình theo kiểu nói trên.
Cái thói tật xấu xa của những kẻ đồng
tính luyến ái đã làm cho Chúa nổi giận và ngài quyết định
sai các thiên thần mang lửa từ trời xuống tiêu hủy hoàn toàn
hai thành phố này. Trước khi ra tay, Thiên Chúa sai thiên
thần xuống báo tin cho Lot và gia đình rút ra khỏi thành
phố. Khi vừa mới chạy ra khỏi thành phố thì bà vợ của Lot
thấy ánh lửa cháy và nghe tiếng la thét kinh hoàng ở phía
sau lưng. Bà ta xúc động ngoái cổ lại xem việc gì xẩy ra thì
ngay lập tức bà ta bị Chúa phạt biến thành tượng muối. Lot
và hai cô con gái chạy đến một cái hang núi và trú ngụ tại
đó. Kinh Thánh không nói rõ Lot ở đó bao lâu nhưng Lot đã
làm tình với hai cô con gái ruột của mình và mỗi cô cho ra
đời hai đứa con!
Đọc chuyện trên trong Thánh Kinh,
chúng ta thấy Thiên Chúa của Công Giáo tán thành sự loạn
luân nhưng rất ghét cái tội đồng tình luyến ái
(homosexuality). Chỉ vì một nhóm người đồng tính kuyến ái mà
Chúa nổi giận đốt cháy cả hai thành phố khiến cho biết bao
nhiêu người vô tội phải chết oan.
Tuần báo Newsweek số ra ngày 6.5.2002
có loan tin sau: Nhà khoa học tâm lý trị liệu Richard Sipe
nguyên là một linh mục, sau 25 năm nghiên cứu về tính dục
của các tu sĩ Công Giáo đã đưa ra sự ước tính hiện nay có
khoảng 50% tu sĩ Công Giáo Mỹ mắc chứng đồng tính luyến ái!
Nếu Chúa là đấng công bình vô cùng thì Chúa phải tính chuyện
đốt hết các nhà thờ Công Giáo như Chúa đã làm ở Sodom và
Gomorah xưa kia. Có lẽ vì vậy nên tuần báo Newsweek đã đặt
ra một câu hỏi lớn ở ngay trang bìa: “Jesus biết làm cái gì
để giải quyết đây?” (What would Jesus do?).
Chúng ta đọc tiếp Kinh Thánh về gia
phả của Jesus: Vợ chồng Abraham rất hiếm muộn, phải đợi đến
lúc vợ Abraham là Sarah 90 tuổi mới sinh con, đặt tên là
Isaac, có nghĩa là “tiếng cười”. Vì chuyện bà già 90 tuổi đẻ
con là một chuyện tiếu lâm khiến ai cũng phải phì cười!
Isaac lớn lên thay cha làm tộc trưởng (patriarch) Do Thái.
Isaac sinh ra hai con trai. Con đầu là Esau và con thứ là
Jacob. Jacob là kẻ gian tham đã lợi dụng lúc Esau đói bụng,
gạ gẫm anh ăn bát cháo để đổi lấy chức trưởng nam. Esau
trong cơn đói đã nhận lời. Do đó, sau này Jacob trở thành
tộc trưởng của Do Thái và đặt tên nước Do Thái là Isra-el để
tôn vinh thần bò El (tức Elohim trong ngôn ngữ Hebrew).
Chuyện kể trên của Kinh Thánh cho thấy
Jacob là một tên lưu manh đã cướp quyền tộc trưởng của anh
ruột bằng một thủ đoạn hèn hạ. Jacob sinh ra 12 người con.
Một trong những người con đó tên là Judas. Con trai lớn của
Judas có vợ tên là Thamar. Người con trai lớn này chẳng may
chết sớm khiến cho Thamar phải sống góa bụa. Theo cổ luật
của Do Thái thì người em trai của chồng phải lấy chị dâu để
nối dõi, nhưng người em trai này lại không thích chị dâu,
nên chị dâu không có con.
Ít lâu sau, vợ Judas qua đời. Judas
buồn quá nên đi tìm gái điếm để giải khuây, tình cờ lại gặp
con dâu Thamar. Judas ăn ở với con dâu sinh ra Perez. Perez
là tổ tiên 9 đời của David. Nếu tính từ ông tổ Abraham thì
David là đời thứ 14.
Bàn về nhân vật David thì chúng ta có
rất nhiều điều để nói. Phạm vi bài này không cho phép chúng
tôi viết quá dài ở đây. Chúng tôi xin giới thiệu với quý vị
đề tài “Thánh David là ai?” thuộc phần phụ lục trong sách
“Chúa Jesus là ai? Giảng dạy những gì? Của giáo sư Trần
Chung Ngọc, Giao Điểm (Cali) 2002. Qua gần 20 trang sách
viết về David với những bằng chứng hùng hồn, tác giả đã
chứng minh David không thể xứng đáng được gọi là thánh mà
“chỉ là một tên tướng cướp, một bạo chúa hoang dâm vô độ, vô
đạo đức và cuồng sát” (Sách đã dẫn, vị Hồng Y thuộc dòng dõi
tam đại Việt gian là Nguyễn Văn Thuận đã ca ngợi David trong
sách “Chứng Nhân Hy Vọng” trang 30, như sau: “Nơi David,
người nổi danh nhất trong các vua đã sinh ra đấng Messiah”.
Messiah là tiếng Hebrew có nghĩa là
Chúa Cứu Thế, tức chúa Kitô (Christ). Quả thật David là tổ
tiên của Jesus, đấng Merssiah của Thuận và Việt gian, nhưng
vấn đề quan trọng là David đã sinh ra đấng cứu thế trong
trường hợp nào?
Một hôm David lên sân thượng hóng gió,
tình cờ nhìn thấy bà hàng xóm là Bathseba, vợ của tướng
Uriah, đang tắm truồng trên sân thượng nhà của bà. Vì thấy
Bathseba quá đẹp nên David ỷ quyền làm vua sai người triệu
nàng vào cung cho vua thỏa mãn thú tính. Để chiếm đoạt
Bathseba, David đã đày chồng nàng là tướng Uriah ra mặt trận
nguy hiểm nhất. Cuối cùng Uriah đã tử trận như ý David mong
muốn. David đã trắng trợn giết chồng cướp vợ người để thỏa
mãn dục tình vô độ của y. Chính cái hành vi mất dạy của
David đã đẻ ra đấng Messiah của Nguyễn Văn Thuận và đồng
bọn. Cũng chính vì cái hành vi mất dạy của David mà giáo hội
Công Giáo Việt Nam mới có những câu kinh vừa ngu xuẩn vừa
hèn hạ như sau: “Xin Chúa làm cho tôi khinh dể sự đời là
chốn muông chim cầm thú, xin làm cho chúng tôi đặng về quê
thật hiệp làm một cùng vua Đa-vít”. (Sách kinh Nhựt Khóa,
trang 707).
Người Công Giáo Việt Nam đã biểu lộ
tâm tình mình qua những câu kinh vong bản như trên: Đất nước
Việt Nam không phải là quê hương thật mà chỉ là một nơi
“muông chim cầm thú” đáng khinh dể, hoặc chỉ là một nơi dung
thân tạm bợ mà thôi, vì quê hương thật phải là nơi họ được
“hiệp làm một với vua Đa-vít. Dưới con mắt mê muội của người
Công Giáo thì 92% dân tộc Việt Nam hãy còn chìm trong bóng
tối tăm vì chưa nhận được ánh sáng của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Kinh Nhựt Khóa, trang 144-145, có câu: “Xin Chúa đoái thương
nước Việt Nam đang còn ngồi trong bóng tối tăm ngoại giáo”.
Những người Công Giáo quá chủ quan nên trở thành mê muội vì
họ thực sự không biết họ tôn thờ cái gì. Đức Chúa Cha xuất
thân từ Thiên Chúa Jehovah. Theo tiếng Hebrew, Jehovah có
nghĩa là “Thiên Chúa của các tổ phụ” (Jehovah means God of
Fathers) tức Thiên Chúa của Abraham, Isaac, Jacob. Thiên
Chúa của những vị này là Thiên Chúa Elohim, tức thần bò El
của thành phố UR, thuộc xứ Babylon. Các nhà khảo cổ đã tìm
thấy tại thành phố UR một bức tượng của con bò thần El mạ
vàng thuộc niên đại 2000 năm TCN (thời Abraham). Tượng này
hiện được triển lãm tại bảo tàng viện Baghdad, Iraq. (Xin
đọc Iraq’s Ancient heritage – National Geographic Magazine,
May 1991). Muốn biết hình hài nó ra sao, xin coi bìa sách
“Công Giáo Huyền Thoại và Tội Ác” của Charlie Nguyễn, Giao
Điểm xuất bản hè 2001).
Người Công Giáo chê đất nước của mình
là “nơi chim muông cầm thú” đáng khinh dể. Trong khi đó thì
họ thờ Đức Chúa Cha là con bò Elohim (thú/muông) và thờ Đức
Chúa Thánh Thần là con chim bồ câu (cầm/chim). Vậy nơi nào
mới thật sự là “nơi chim muông cầm thú”? Ai mới thật sự là
những kẻ đáng khinh dể? Vậy nên sửa lại kinh cầu nguyện cho
Việt Nam nơi trang 144-145 của Kinh Nhựt Khóa như sau: “Xin
Chúa đoái thương 7% dân nước Việt Nam đang còn trong bóng
tối tăm ngoại giáo!”
TÔI YÊU CẦU Hội Đồng Giám
Mục Việt Nam PHẢI LÊN TIẾNG TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI TRÊN VÀ
PHẢI RA LỆNH THU HỒI CÁC CUỐN SÁCH KINH NGUYỆN CÓ NHỮNG LỜI
KINH NGU XUẨN BẬY BẠ, NHỤC MẠ DÂN TỘC VIỆT NAM, NHỤC MẠ MỌI
NGƯỜI KHÔNG THEO ĐẠO THỜ BÒ CỦA CÁC NGƯỜI!
Cuốn sách Kinh Thánh của các người và
ngay cả gia phả tổ tiên của “Đấng Messiah” đầy dẫy những
chuyện dâm đãng, loạn luân của một đoàn mất dạy!” Kinh Thánh
đó chỉ đáng gọi là “Kinh Thánh Ô Nhục”. (Gospel of Shame) mà
thôi!
Thời nay chúng ta lại có thêm một cuốn
Kinh Thánh Ô Nhục khác. Thật sự tựa đề cuốn sách này rất
dài: “A Gospel of Shame, Children Sexual Abuse and the
Catholic Church” (Kinh Thánh Ô Nhục về trẻ em bị sách nhiễu
tình dục và đạo Giáo Hội Công Giáo La Mã) của hai tác giả
Elinor Burkett, tiến sĩ sử học, giáo sư đại học về báo chí.
Công trình điều tra của bà về bệnh Aids được giải thưởng
Pulitzer năm 1991. Đồng tác giả là Frank Bruni, ký giả 28
năm chuyên nghiệp trong nghề, đoạt giải thưởng Pulitzer năm
1992 về công trình điều tra nạn rờ mó trẻ em (child
molesters). Sách dầy gần 300 trang, do Viking Penguin xuất
bản năm 1993. Để thu thập các tài liệu sống và xác thực, hai
tác giả đã lặn lội đi khắp nước để tiếp xúc với các nạn
nhân, phỏng vấn một số tu sĩ ở trong tù, gặp gỡ các chuyên
viên về tâm lý và đặc biệt phỏng vấn 188 giám mục Công Giáo
Hoa Kỳ.
Vì cuốn sách khổ lớn và khá dầy thuật
lại những vụ phạm pháp về tính dục của các tu sĩ Công Giáo
Mỹ đã bị truy tố từ thập niên 1960 đến 1993, chúng tôi không
thể thuật lại đầy đủ ở đây, nên chỉ xin nêu lên một số nét
tiêu biểu mà thôi:
Vụ đầu tiên được kể trong sách là vụ
phạm pháp liên tục của Linh Mục James Porter, chánh xứ Saint
Mary thuộc giáo phận Massachusetts, từ năm 1960. Cứ sau một
thời gian trông coi một giáo xứ nào đó, linh mục lại dở trò
rờ mó con nít, làm tình theo kiểu sodomy với các bé trai
giúp lễ (altar boy), đến khi bị mang tiếng trong giáo xứ thì
y lại được tòa giám mục thuyên chuyển đến giáo xứ khác. Cứ
như thế trên 30 năm, Linh Mục Porter đã được các giám mục
thuyên chuyển qua nhiều giáo xứ thuộc các tiểu bang
Massachusetts, New Mexico và Minnesota. Tổng số nạn nhân cả
nam lẫn nữ của linh mục Porter lên tới nhiều trăm người.
Trong phiên tòa xử Porter tại Boston trong tháng 9-1992, một
trăm nạn nhân từ các nơi kéo về tham dự. Linh mục Porter bị
tòa tuyên phạt 317 năm tù.
Điều chính yếu trong vụ án này cho
thấy các tòa giám mục hoàn toàn không quan tâm đến sự thiệt
hại của các nạn nhân mà chỉ lo bưng bít che dấu tội phạm hầu
bảo vệ uy tín của giáo hội mà thôi. Các tòa giám mục đều
biết rất rõ các hành vi bỉ ổi của Linh Mục James Porter
trong hơn 30 năm nhưng không hề có một biện pháp kỷ luật nào
với y. Y vẫn ngang nhiên thực hiện các phép bí tích rửa tội,
làm lễ Misa, truyền phép Mình Thánh v.v... Như vậy tất cả
các nghi lễ do y thực hiện đều là các trò bịp và các giám
mục bao che cho y đều là những kẻ đồng lõa. Cái vẻ nghiêm
trang từ tốn của các tu sĩ Công Giáo chỉ là những trò đóng
kịch, thực chất chúng chỉ là một đám đạo đức giả.
Trong chương 5, dưới tựa đề “False
Idols” (Nhận lầm thần tượng), các tác giả phỏng vấn một tu
sĩ dòng Tên và được ông thổ lộ bí mật: Trong mấy chục năm
làm linh mục, ông đã sờ mó và làm tình (sodomize) với 50 đứa
nhỏ trai từ 7 đến 17 tuổi và rờ mó nhiều cô gái khác. Nhưng
ông may mắn không bị ai tố cáo nên ông vẫn được bình an vô
sự. Tuy nhiên, ông muốn các tác giả nêu lên ý kiến của ông
là những chuyện dâm ô trong kinh thánh đã gây ảnh hưởng xấu
về tâm lý của ông. Thậm chí Kinh Kính Mừng (Hail Mary) cũng
làm cho ông bị ám ảnh rất nhiều. Trong Kinh Kính Mừng có câu
“Blessed is the fruit of thy womb, Jesus”. Cái tiếng “womb”
(tử cung) trong Kinh Kính Mừng làm cho ông liên tưởng đến bộ
phận sinh dục của đàn bà. Linh mục tự hỏi: “Tại sao người ta
lại đem cái danh từ tử cung vào một bài kinh cầu nguyện như
vậy?”
Xin nói thêm ở đây là trong Kinh Kính
Mừng bằng Việt ngữ không có danh từ “tử cung”. Nguyên văn
câu “Blessed is the fruit of thy womb, Jesus” được dịch
thành: “và Jesus con lòng bà gồm phước lạ”.
Chương 6, dưới tựa đề là “The
silencing of the lambs” (Sự bịt miệng con chiên) các tác giả
cho thấy đại đa số các nạn nhân bị lạm dụng đều là bị bịt
miệng bởi cha mẹ, thầy giáo và các thủ đoạn hăm dọa, khủng
bố của các tu sĩ phạm pháp.
Đối với những thiếu niên của những gia
đình ngoan đạo thì các tu sĩ Công Giáo luôn luôn được chúng
coi là những người thánh thiện (holy men) và có uy tín hơn
cả cha mẹ chúng. Khi chúng bị các tu sĩ lạm dụng tình dục,
đã không dám về mách cha mẹ vì sợ bị cha mẹ la mắng hay
trừng phạt. Năm 1992, một số nhà tâm lý học đã phỏng vấn 15
em nhỏ ở Lafayette, Louisiana bị tu sĩ lạm dụng tình dục.
Các em cho biết đã không dám tố cáo vì bị các linh mục hăm
dọa: “Nếu tố cáo sẽ bị Chúa đày xuống hỏa ngục đời đời” hoặc
“mày phải câm miệng, nếu không, quỉ sẽ bắt mày!” Mấy bé gái
bị linh mục sờ mó đã khai: “Cha nói Chúa đã chọn con để giúp
cha biết cái đó thế nào!”
Trong chương này có một chuyện đáng
chú ý, đó là chuyện của Cristine Clark thuộc giáo phận
Joliet, Illinois. Lúc cô lên 7 tuổi, đi học lớp giáo lý để
rước lễ lần đầu thì cô đã bị cha xứ là Ed Stephanie dụ dỗ
hôn hít sờ mó. Năm cô 14 tuổi, cô bị cha xứ dạy cách thủ dâm
cho ông ta. Năm 18 tuổi, cha xứ giao cấu với cô. Lúc này cô
tỏ ra rất lo lắng vì sợ tội. Cha khẳng định giao cấu với cha
không có tội vì đó là ý Chúa. Sau đó, Cristine thấy không
thể chịu đựng được nữa nên nói với cha mẹ ý định tố cáo nội
vụ trước Cảnh Sát. Linh Mục Ed Stephanie thấy nguy nên trình
sự việc với tòa Giám Mục Joliet. Tòa giám mục cho người đến
trao cho gia đình Cristine số tiền 450.000 đô la để mua sự
im lặng.
Cristine ký giấy cam kết không tố cáo
ngày 15-4-1988. Tuy nhiên, Linh Mục Ed bị nhiều người khác
tố cáo nên y bị cảnh sát bắt vào mùa thu năm 1992.
Chương cuối sách nói về sự thành lập
hội VOCAL, chữ tắt của Victims of Clergy Abuse Linkup (Hội
Liên Kết Những Nạn Nhân Bị Tu Sĩ Công Giáo Lạm Dụng Tình
Dục) quy tụ 300 người họp tại một khách sạn ở Chicago cuối
tháng 10-1992. Hội đưa ra nhiều biện pháp như viết thư cho
các tòa giám mục yêu cầu chấm dứt sự bao che cho các tu sĩ
phạm pháp. Hội viết báo và tổ chức các talk shows trên TV và
Radio để lưu ý toàn quốc về sự nguy hiểm của tu sĩ Công
Giáo, hô hào đồng bào mọi giới đừng quá tin tưởng vào các
trường Công Giáo v.v...
Rất nhiều tòa giám mục hồi đó (1992)
cam kết sẽ không bao giờ để các vụ lạm dụng tình dục trẻ em
tái diễn. Trong thực tế, các vụ lạm dụng tình dục trong giới
tu sĩ Công Giáo vẫn tiếp diễn, chẳng những không giảm bớt mà
mỗi ngày một gia tăng. Đến nay (2002) tệ trạng này đã tới
mức nghiêm trọng khiến cho tất cả mọi ngành truyền thông từ
báo chí, truyền thanh, truyền hình và Internet đều phải lên
tiếng tố cáo và nghiêm khắc lên án các tu sĩ phạm pháp cũng
như sự đồng lõa bao che của các giới lãnh đạo.
Trong tháng 4 và tháng 5 năm 2002,
cuộc tấn công của mọi ngành truyền thông nhắm vào tính vô
đạo đức của giới tu sĩ Công Giáo mạnh mẽ như một cơn bão
lửa, đến nỗi Hồng Y Mahony phải than rằng: “Giáo Hội Công
Giáo không thể tự cứu, chỉ có Chúa Jesus mới cứu nỗi mà
thôi!” (www.cnn.com
4-11-2002). Giáo Hội Công Giáo hiện chỉ còn biết trông cậy
vào phép lạ của Chúa Jesus! Đó là thái độ thường có nơi
những tín đồ cuồng tín mỗi khi họ lâm vào tình trạng nguy
hiểm tuyệt vọng. Họ vin vào niềm tin tôn giáo như chiếc phao
cuối cùng của hy vọng để tiếp tục cuộc sống. Tất cả chỉ là
ảo tưởng vì trong thực tế, dù cho Jesus chết đi sống lại
nhiều lần cũng không xóa nổi những vết đen ô nhục của các tu
sĩ Công Giáo phạm pháp trong ký ức của mọi người, ở trong
cũng như ở ngoài Giáo Hội Công Giáo.
Tội phạm lạm dụng tính dục nơi trẻ em
là tội phạm chung của giới tu sĩ Công Giáo ở khắp mọi nơi và
từ lâu đời chứ không phải chỉ ở Hoa Kỳ thời nay mới có. Tuy
nhiên, các nhà thờ Công Giáo là những tiệm buôn thần bán
thánh đạt kỷ lục thành công về mặt tài chánh nên họ luôn
luôn có sẵn tiền để thương lượng mua sự im lặng của các nạn
nhân. Do đó tất cả những vụ phạm pháp bỉ ổi của giới tu sĩ
Công Giáo bị lộ ra ngoài chỉ là cái ngọn của tảng băng sơn
trôi trên mặt biển.
Hiện nay, mọi mũi dùi dư luận đều tập
trung chĩa vào Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ, bởi lẽ giáo hội
này là một định chế phi chính phủ (non-governmental
institution) giàu nhất thế giới và có ảnh hưởng lớn nhất với
Vatican về mọi phương diện.
Vụ tai tiếng về tính dục của giới tu
sĩ Công Giáo Mỹ hiện nay chẳng những đã lột mặt nạ đạo đức
giả của họ mà còn vén lên bức màn bí mật về tài chánh của
giáo hội Công Giáo Mỹ. Chuyên gia tài chánh Richard Sipe,
nguyên là một linh mục, tuyên bố với ký giả tuần báo
Business ngày 15-4-02 rằng: “Giáo Hội Công Giáo luôn luôn
tìm cách bưng bít hai điều bí mật: Đó là bí mật về lạm dụng
tính dục và bí mật về tài chánh. Hai bí mật này có liên quan
với nhau. Từ năm 1985 đến nay, Giáo Hội Công Giáo Mỹ đã phải
chi trên 1 tỷ đô-la trong việc dàn xếp với các nạn nhân để
họ không tố cáo các vụ phạm pháp – Giáo hội đã tốn rất nhiều
tiền để bảo vệ thanh danh giả tạo.”
Luật sư Roderick Mac Leigh đã từng đại
diện cho trên 100 nạn nhân của các tu sĩ Công Giáo tại tòa
án Boston trên 10 năm qua cho biết: “Số tiền 1 tỷ đô-la bồi
thường cho các nạn nhân chỉ là số tiền đã bị tiết lộ, số
tiền mà GHCG thực sự chi tiêu về việc này lên đến nhiều tỷ
đô-la”.
Giáo sư Patrick Schiltz, viện trưởng
Đại Học Luật Khoa Saint Paul, Minnesota, cho biết: Số tiền
GHCG Hoa Kỳ dùng để dàn xếp bịt miệng các nạn nhân là một số
tiền khổng lồ mà đến nay chúng ta chưa có thể ước lượng
chính xác, nhưng hiện nay đã có nhiều giáo phận bị buộc phải
bán nhà thờ, đất đai và nhiều bất động sản để trả nợ. Thậm
chí nhiều giáo phận đã lâm vào tình trạng phá sản. Trong khi
đó các khoản đóng góp của giáo dân cho nhà thờ đã sút giảm
rõ rệt vì họ không muốn số tiền mồ hôi nước mắt của họ được
chi dùng để che lấp những thói xấu xa của giới tu sĩ Công
Giáo đã xúc phạm tính dục trên thân thể con cái của chính
họ.
Dư luận của giáo dân hiện nay kết án
các tu sĩ phạm pháp là chính yếu, nhưng bên cạnh đó họ qui
phần trách nhiệm lớn thuộc về Vatican. Giáo dân ở nhiều nơi
đã lên tiếng đòi hỏi Vatican phải thành khẩn xét lại một số
vấn đề mà từ xưa đến nay Vatican vẫn luôn luôn lẩn tránh:
1. Cho các tu sĩ (kể cả linh mục, giám
mục, hồng y) được quyền tự do lựa chọn hoặc có gia đình,
hoặc sống độc thân (optional celibacy). Không có một luật
nào của Chúa buộc các tu sĩ phải tuyên thệ độc thân. Đây chỉ
là một thói tục do con người đặt ra và do đó con người có
quyền thay đổi khi thấy nó bất lợi.
2. Hủy bỏ các giáo lý khắt khe về giới
tính và khinh rẻ phụ nữ như những giáo lý của nhà thần học Ả
Rập điên khùng St. Augustin (Cha đẻ ra Thiên Chúa Ba Ngôi,
Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và Đức Mẹ Đồng Công).
Sau vụ tai tiếng nhục nhã của giới tu
sĩ Công Giáo, GHCG sẽ bị thụt lùi rất xa so với Tin Lành về
phương diện tài chánh. Theo ký giả William C. Symonds của tờ
Business Week thì giáo dân Mormon đóng góp cho nhà thờ hàng
năm bằng 8% lợi tức. Các giáo phái Tin Lành khác đóng góp
trung bình là 2% lợi tức. Còn các giáo dân Công Giáo đóng
góp cho nhà thờ luôn luôn dưới mức 1%. Ngày nay, theo kết
quả thăm dò của Viện Gallup ngày 27.3.02 thì 30% giáo dân
Công Giáo Mỹ đã chấm dứt góp tiền cho nhà thờ vì họ không
còn tin tưởng nơi các tu sĩ như trước. Cũng theo kết quả
cuộc điều tra của ký giả William Symonds (đăng trên Busniess
Week ngày 15-4-02) thì Giáo Hội Công Giáo Mỹ đã thu được các
khoản tiền khổng lồ do các nguồn sau đây (trước khi nổ ra vụ
tai tiếng):
1. Hoa Kỳ có 194 giáo phận (dioceses)
đứng đầu bởi một hay nhiều giám mục, tổng giám mục hay hồng
y. Mỗi giáo phận có nhiều giáo xứ (parishes). Mỗi giáo xứ có
một hay nhiều linh muc. Trung bình mỗi giáo xứ có một nhà
thờ với khoảng 3000 giáo dân. Tổng số Công Giáo Mỹ hiện nay
khoảng 60 triệu với 20.000 giáo xứ. Tổng số tiền quyên tại
nhà thờ hàng năm là 7 tỷ 500.
2. Giáo Hội Công Giáo Mỹ là sở hữu chủ
lớn nhất về các trường tư thục, gồm có:
- 6900 trường tiểu học trực thuộc giáo
xứ.
- 1200 trường trung học trực thuộc các
dòng tu (như dòng Tên, dòng Phan-xi-cô, dòng St. Paul
v.v...) Tổng cộng 2.6 triệu học sinh.
Các trường trung học và tiểu học thu
lợi cho Giáo Hội hàng năm là 10 tỷ đô-la.
- Giáo Hội Công Giáo Mỹ còn thủ đắc
230 trường Cao Đẳng và Đại Học với tổng số 670,000 sinh
viên. Số thu không rõ bao nhiêu.
Ngoài ra, các trường Đại Học còn được
nhiều người tặng những khoản tiền rất lớn như Đại Học Boston
được tặng 1 tỷ, Notre Dame 2.8 tỷ.
3. Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ làm chủ
637 bệnh viện (chiếm 17% tổng số bệnh viện của cả nước), 122
cơ quan y tế (health care agencies) và 700 nhà hưu dưỡng
(senior housing) thu lợi hàng năm cho giáo hội 65 tỷ đô-la.
Ngoài ra, giáo hội còn khai thác 14,000 “cơ quan Bác Ái”
(Charities) thu lợi hàng năm cho giáo hội 2 tỷ 340 triệu
đô-la!
Làm một bài toán cộng các khoản thu
nói trên, chúng ta thấy mỗi năm Giáo Hội Công Giáo Mỹ đã thu
về trên 85 tỷ đô-la!
Về việc chi tiêu được công bố thì
không thấm gì với số thu khổng lồ nói trên:
- Khoản tiền chi cho ngân sách hoạt
động của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ (gồm 375 thành viên) là
150 triệu đô-la.
- Khoản tiền đóng góp cho ngân sách
của Vatican trong năm 2000 là 209 triệu đô-la. Đây là số
tiền rất nhỏ so với khả năng tài chánh khổng lồ (85 tỷ/năm)
của GHCG Hoa Kỳ, nhưng nó cũng đủ làm cho Công Giáo Mỹ thành
người đóng góp hàng đầu cho Vatican. Sau Mỹ là Giáo Hội Công
Giáo Đức.
Các hồng y Mỹ thường được các giáo
hoàng bổ nhiệm làm quản trị viên tài chánh (Financial
Administrator) của Tòa Thánh. Trước đây, Hồng Y John
O’Connor đảm nhận chức vụ này trong nhiều năm. Tưởng cũng
nên nhắc lại rằng O’Connor đã từng là “Tuyên Úy Công Giáo
Mỹ”, thường xuyên có mặt tại Dinh Độc Lập ở Saigon trong
nhiều năm và là bạn chí thân của cả hai tổng thống Công Giáo
Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu.
Cách đây vài năm, Hồng Y O’Connor đã
được Chúa gọi về. Giáo Hoàng John Paul II bổ nhiệm Hồng Y
Edward Egan (quản nhiệm địa phận Bridgefort) thay thế. Lý do
bổ nhiệm là vì Hồng Y Edward Egan có tài giao thiệp rộng
trong giới tài phiệt Mỹ. Một trong những bạn chí thân của
ông là ông Jack Welch, cựu chủ tịch đại công ty General
Electric. Số tiền thu của giáo hội rất lớn nhưng thường đọng
lại ở các văn phòng của các giáo phận. Không có một cơ quan
nào đại diện cho toàn giáo hội kiểm tra tài chánh của các
giáo phận. Tình trạng này đưa đến sự lạm dụng của các giáo
phận trong việc dùng tiền để thương lượng với gia đình nạn
nhân trong các vụ lạm dụng tính dục của các tu sĩ để thanh
danh của giáo hội không bị mang tiếng.
Sự thiếu trách nhiệm tài chánh tại các
giáo phận tạo cơ hội cho các giới chức cao cấp của giáo hội
dễ bị hủ hóa bằng cách đi tìm thú vui vật chất. Năm 1988, tờ
báo National Catholic Reporter tố cáo Hồng Y Anthony
Bevilaqua đã biển thủ 5 triệu đô-la của giáo phận
Philadelphia để mua nhà nghỉ mát riêng ở bãi biển. Nhà nghỉ
mát riêng rộng lớn và hết sức sang trọng xa hoa chẳng lẽ để
một mình hồng y ăn chay hãm mình ở đó? Điều mỉa mai là hầu
hết các giáo dân trong địa phận Philadelphia lại là những
người nghèo!
Cũng tờ báo Công Giáo nói trên tố cáo
một câu chuyện làm người đọc phải ghê tởm hơn nhiều. Đó là
trường hợp một linh mục thuộc địa phận Santa Rosa,
California, bị tố cáo biển thủ một số tiền của địa phận. Nội
vụ được trình lên cha Darth Vader, giám mục quản nhiệm giáo
phận Santa Rosa.
Giám mục Vader cho gọi linh mục phạm
pháp đến tra vấn. Cuối cùng, giám mục Vader điều đình với
linh mục là sẽ bỏ qua tội biển thủ với điều kiện linh mục
phải để cho y làm tình qua hậu môn! Sau đó nội vụ bị đổ bể
và Giám Mục Vader buộc phải từ chức năm 1999. Nhân vụ này,
người ta mới phát giác ra rằng: tất cả những tiền quỹ của
giáo phận Santa Rosa đã được dùng để bồi thường cho các nạn
nhân bị nhiều tu sĩ trong địa phận xâm phạm tính dục. Tuy
nhiên, tất cả ngân quỹ cũng chưa đủ nên địa phận phải bán
một số nhà thờ và bất động sản. Hiện nay, địa phận này còn
mắc nợ 16 triệu đô-la.
* * *
Kính thưa quí
vị độc giả,
Cuốn Thánh Kinh Ô Nhục của đạo Công
Giáo cũng giống như bộ truyện Ả Rập “Ngàn Lẻ Một Đêm” kể
hoài không hết. Tôi xin tạm dừng ở đây để nêu lên vài điều
nhận định sau đây:
Phong Trào Giải Trừ Kitô Giáo là một
hiện thực lịch sử có tính chất quốc tế nhắm vào kẻ thù chung
của nhân loại trong 2000 năm qua.
Trước đây chúng ta đã từng nghe nói
đến phong trào giải trừ Kitô Giáo (Dechristianization) tại
các nước Âu Mỹ. Thoạt đầu, chúng ta thấy danh từ này có vẻ
lạ tai và thật sự chúng ta chưa có đủ chứng cớ để tin rằng
điều đó có thật. Nhưng đến nay, qua nhiều diễn biến có tính
cách lớp lang qui mô và đồng loạt trên cả 3 lục địa Bắc Mỹ,
Âu Châu và Úc Châu nhắm vào Kitô Giáo nói chung và Giáo Hội
Công Giáo nói riêng, chúng ta phải khách quan thừa nhận
rằng: Phong Trào Giải Trừ Kitô quả là một hiện thực lịch sử
có tính chất quốc tế. Điều đó chứng tỏ lịch sử thế giới đã
tiến đến giai đoạn đại đa số nhân loại nhận diện ra kẻ thù
chung lớn nhất của mình trong 200 năm qua là ai.
Chiến dịch mở đầu từ sau khi Cộng Sản
Nga và Đông Âu sụp đổ trong những năm 1989-1991. Tới thời
điểm này, Kitô Giáo trở nên thừa thãi vì không còn cần thiết
cho nhu cầu chiến lược chống chủ nghĩa Cộng Sản của các đế
quốc. Phong trào chống Kitô Giáo đột nhiên bùng lên dữ dội
trong các giới trí thức Âu Mỹ trên cả ba lục địa. Theo Tuần
báo Newsweek số ra ngày 8-4-1996 thì chỉ trong vòng 5 năm từ
1991-1995, trên cả 3 lục địa Bắc Mỹ, Âu Châu và Úc Châu đã
xuất hiện trên một ngàn bài báo nảy lửa và hàng trăm đầu
sách thuộc loại best-sellers đồng loạt chĩa mũi dùi tấn công
trực diện vào các giáo lý Kitô. Một trong những chủ đề trọng
yếu của cuộc tấn công là tố giác các sai lầm nghiêm trọng
của Giáo Hội Công Giáo La Mã. Rõ ràng một điều là phải có
một kế hoạch quốc tế mới có thể nổ ra một cuộc tấn công qui
mô đồng loạt trên cả 3 lục địa như vậy được. Phải công nhận
cuộc tấn công đợt đầu của Phong Trào Giải Trừ Kitô của các
nước Âu Mỹ mạnh mẽ hơn nhiều so với Phong Trào Enlightenment
ở Âu Châu thế kỷ 18. Kết quả ngoạn mục của đợt tấn công này
là Vatican đã phải làm lễ long trọng thú nhận trước toàn thể
nhân loại về 7 núi tội ác của nó trong lịch sử.
Đến nay, riêng trong hai tháng 4 và
5-2002, chúng ta ngạc nhiên nhận thấy hầu như tất cả các
nhật báo, tuần báo, các đài phát thanh và truyền hình đồng
loạt tố giác tu sĩ các cấp của giáo hội Công Giáo Hoa Kỳ về
các tội tà dâm, đặc biệt là tội tà dâm đối với các trẻ vị
thành niên. Lúc tôi đang viết bài này là vào cuối tháng
5-2002, tôi không biết vụ tai tiếng này còn kéo dài trong
những tháng tới hay không. Tuy nhiên, hiện tượng này cũng đủ
để thêm một bằng cớ chứng tỏ việc Giải Trừ Kitô là một thực
tế nằm trong một kế hoạch toàn cầu. Kết quả của cuộc tấn
công lần này là tập đoàn tu sĩ dâm tặc Công Giáo phải cúi
đầu gục mặt nhận tội của chúng và uy tín về đạo đức của Giáo
hội Công Giáo đã bị suy sụp nghiêm trọng.
Bước kế tiếp là luật pháp quốc gia sẽ
nhắm làm giảm bớt khối lượng tài sản và số thu nhập hàng năm
quá lớn của Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ. Tất cả những diễn
tiến nói trên chứng tỏ Đạo Công Giáo đang trên đà tuột dốc
để lao xuống đáy vực diệt vong đầy ô nhục.
Charlie
Nguyễn
Các chương khác trong sách:
- Bảy Cuộc Chiến Tranh Chống Hồi Giáo ...
- Cuốn Thánh Kinh Ô Nhục Của Đạo Công Giáo
- Hỏa Giáo Ba Tư là Tiền Thân ...
- JESUS dưới cái nhìn của Do Thái Giáo và Hồi Giáo
- Những tước hiệu bịp bợm của Giáo Hoàng
- Thiên Chúa Đang Được Động Viên ...
- Thập Giá và Lưỡi Gươm của Đại đế Constantine
- Truyền Thống Abraham Dưới Ánh Sáng ..
- Vai trò của chính quyền (Charlie Nguyễn)
- Việt Nam Cần Thưc Hiện Những Biện Pháp Mạnh.. (Charlie Nguyễn)
- Đạo Hồi là Đức Tin của Chiến Tranh và Bạo Lực
- Đạo Thiên Chúa chỉ là Đạo Thờ Bò Cải Biến
- Ảnh Hưởng Thần Học Do Thái Giáo và Kitô Giáo ...
Trang Charlie Nguyễn
Trang Tôn Giáo