Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm
Charlie Nguyễn
http://sachhiem.net/CHARLIE/CN_CGTBVT/CN_CGTBVT_8.php
¿ trở ra mục lục | 17 Aug 2007
Phần I : Ngày Tận Thế của Giáo Hội Satan
(tiếp theo)
6. LỜI KẾT
Cả thế giới ngày nay đã đau khổ quá nhiều do
hậu quả của nền văn hóa phi nhân bản. Lương tâm và lương tri nhân
loại cần phải đi tìm một nền văn hóa nhân bản phục vụ hạnh phúc con
người. Thật ra, từ trước Công Nguyên, Hy Lạp đã có một nền văn minh
khoa học rất cao và một triết học nhân bản rất tốt đẹp nhưng đã bị
đế quốc La Mã thiêu hủy hết các sách của Hy Lạp làm cho cả Âu Châu
phải chìm đắm trong thời đại đen tối (The Dark Age) nhiều thế kỷ. Sự
mê tín hoành hành khắp lục địa Âu Châu, Các cuộc chiến tranh xảy ra
liên miên giữa các lãnh chúa trong thời Trung cổ làm cho các thành
phố phần lớn bị đổ nát, các đường sá mọc đầy cỏ dại.
Các ngành thương mại bị tê liệt. Toàn dân
Châu Âu phải qui tụ lại với nhau để tự bảo vệ trong các làng mạc hẻo
lánh hay các tỉnh nhỏ ở thôn quê. Họ sống bằng nghề nông với
thu nhập nhỏ khiến đời sống vô cùng chật
vật. Đời sống càng thêm khốn khổ do luôn luôn phải đối đầu chiến
tranh, bệnh tật và nạn đói.
Từ thế kỷ 8, Âu Châu được chia thành nhiều
nước nhỏ, mỗi nước chia thành nhiều thái ấp (fiefs) hoặc
chư hầu (vassals). Hệ
thống xã hội này được gọi là phong kiến (Feudalism) kéo dài từ thế
kỷ 8 đến 13. Dân chúng trở thành các nông
nô làm việc cơ cực ở đồng ruộng để nộp hoa lợi cho lãnh chúa. Trong khi đó các lãnh chúa thường xuyên gây
chiến tranh với nhau để duy trì quyền lực và quyền lợi riêng.
Suốt trong các thế kỷ này của thời Đại Đen Tối, giáo hội Công Giáo
La Mã là "lực lượng tinh thần" tối cao vượt trên mọi lãnh chúa.
Toàn thể dân chúng cực khổ hướng về giáo hội để
tìm đường giải thoát đau khổ bằng cách cầu nguyện Chúa và vâng lời
Tòa Thánh. Dân chúng không còn ai lưu tâm
gì đến các vấn đề thế giới bên ngoài hoặc để ý tìm hiểu vũ trụ.
Vả lại, vào thời đó dân chúng không có thể kiếm ra sách để đọc vì
các cổ thư đều được chép bằng tay công
phu và rất hiếm. Tuyệt đại đa số dân chúng đều
mù chữ, chỉ có giới quí tộc và tu sĩ biết đọc biết viết mà thôi. Mọi ngành văn học và nghệ thuật đều hướng vào
việc ca ngợi Chúa và các "thánh" của giáo hội. Các sách đều
được giấu trong các tu viện, dấu nhẹm mọi kiến thức khoa học, đàn áp
mọi sáng kiến hoặc khám phá vũ trụ đi ngược lại Thánh Kinh.
Toàn dân Âu Châu thời đó đều được giáo dục bằng
những kiến thức lệch lạc. Mọi người đều
tin trái đất phẳng và mặt trời xoay quanh trái đất. Ai sinh ra đời cũng mắc tội tổ tông, cần phải có
ơn cứu chuộc của Chúa Kitô và cần có tu sĩ coi sóc phần linh hồn.
Mọi vật trong vũ trụ được cấu tạo bằng 4 yếu tố: đất, nước, không
khí và lửa! Các học giả trí thức chỉ thích bàn
về thần học và đoán mò về thánh ý của Đức Chúa Trời.
Đầu thế kỷ 14, bắt đầu có
phong trào xét duyệt lại các giá trị của văn minh Kitô giáo. Học giả và trí thức Tây phương cố gắng moi tìm
lại trong quá khứ cổ xưa của Hy Lạp cái kho tàng nghệ thuật, khoa
học và triết học đã bị thất lạc. Thời kỳ
này kéo dài từ thế kỷ 14 đến 17, được gọi là Thời Kỳ Phục Hưng (The
Renaissance) có nghĩa là Sự Tái Sinh của nền văn hóa cổ.
Người đầu tiên khai sáng Phong Trào Phục Hưng ở Âu Châu là học giả Ý
tên Petrarch (1304-1374). Ông rất thông thạo tiếng Hy Lạp và đã nhờ
bạn bè đi khắp nơi mua về cho ông các cổ thư
Hy Lạp còn sót lại. Cuối cùng ông lập được một
thư viện và kêu gọi mọi học giả đến nghiên cứu. Ông quan
niệm: Sách là kho tàng ghi tiếng nói của các bậc khôn ngoan, các bài
kinh nghiệm của lịch sử, các tư tưởng về luân lý, tôn giáo, luật
pháp và toàn bộ nền văn minh của con người. Sách
là ký ức của quá khứ. Không có sách, không có chỗ đứng để đi
lên, không có gương sáng để theo và gương
xấu để tránh.... Dần dần, Petrarch và các bạn học giả của ông khám
phá ra rằng: Hầu hết các bản dịch của các tu sĩ đều sai lầm và bịa
đặt. Họ càng nghiên cứu càng thán phục nền văn
minh cổ Hy Lạp. Do đó, tư tưởng của các trí thức Âu Châu bắt
đầu thay đổi. Thay vì cúi đầu vào Thánh Kinh, họ ngẩng đầu lên quan
sát vũ trụ và thế giới. Họ bắt đầu đưa ra các
giả thuyết, sau đó trắc nghiệm để dần dần đi tới kết luận. Sự thay đổi não trạng của trí thức Âu Châu đã
sản xuất ra nhiều triết nhân có khuynh hướng nhân bản. Họ coi
ý kiến của mọi cá nhân là quan trọng và họ đòi hỏi mọi người phải có
quyền tự do phát biểu tư tưởng. Họ vạch ra cho mọi người thấy rằng
sự tranh luận tự do giữa mọi người sẽ thúc đẩy sự tiến bộ của xã
hội. Cái thói quen ngoan ngoãn tuyệt đối vâng
lời các giáo sĩ và giáo hội mà không thắc mắc gì cả là đầu mối của
sự mê muội và dìm xã hội trong bóng tối tâm linh.
Họ chủ trương luật pháp là sản phẩm của con
người nên con người có quyền thay đổi. Chẳng có luật nào là luật của
Chúa mà con người không có quyền thay đổi cả.
Lập luận này nhắm vào việc đả phá giáo hội Công Giáo vốn có truyền
thống cho rằng mọi giáo điều là luật của Chúa có giá trị bất di bất
dịch. Chống lại giáo điều và giáo luật không thể bị lên
án là chống lại Thiên Chúa vì đó chỉ là
cái cớ giả tạo để giáo hội đưa các kẻ chống đối lên dàn hỏa mà thôi.
(The Renaissance, by Tim Wood Pinguin Book.
1993).
Các học giả Tây phương tiếp tục đào sâu khám
phá kho tàng kiến thức của cổ Hy Lạp đều đã nhận ra các tội ác lớn
lao của đế quốc La Mã chỉ vì muốn dấu tung tích ngụy tạo của đạo
Công Giáo mà ra tay hủy diệt mọi kho sách cổ Hy Lạp khiến cho nền
văn minh nhân loại bị chậm lại trên 10 thế kỷ.
Đặc tính của La Mã là nhiều tham vọng và tàn bạo. Đặc tính của người Hy Lạp là yêu sự học hỏi (the
Hellenic love of learning).
Từ thế kỷ 6 trước Công Nguyên, Pythagore đã
dạy cho biết trái đất tròn và quay chung
quanh mặt trời. Vào thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên, Aristarchus đã
vẽ hệ thống thái dương hệ với mặt trời ở trung tâm (heliocentric
theory) như Copernicus của thế kỷ 19! Cũng trong thế kỷ 3 trước Công
Nguyên, Erathosthenes đã ước tính gần đúng chu
vi trái đất. Trong thế kỷ thứ 5 sau Công Nguyên, Democritus và
Leucippus đưa ra thuyết nguyên tử của vật chất (the atomic theory of
matter) và tiến hóa của sự sống (the evolutionary theory of life)
tương tự như Einstein và Darwin!
Sử gia Lloyd M. Graham viết: "Thế giới Kitô
Giáo từ chối khoa học và triết học Hy Lạp, tất cả kho học vấn cổ này
bị đốt ở nơi công cộng. Điều đó còn tệ hại hơn
cả tội ác. Đó là tội của các tổ phụ của
đạo Kitô di hại đến ngày nay. Vì cái tội ác này mà ánh sáng
của Hy Lạp đã phải tắt đi từ Arisarchus đến Copernicus, từ Aristotle
đến Bacon, từ Dimocritus đến Darwin..." (The Christian world
renounced Greek Science and philosophy for this all ancient learning
was burned in the marketplace. It is worse than a crime. Thus are
the sins of the Christian Fathers visited to the present
time. But for this crime the light of
Greek might have burned on from Aristarchus to Copernicus, from
Aristotle to Bacon and from Democritus to Darwin – Deceptions and
Myths of the Bible, page 450).
Tội ác của Đế Quốc La Mã, tổ phụ đích thực của
đạo Công Giáo, là hủy diệt nền văn hóa nhân bản Hy Lạp để phát triển
văn hóa du mục phi nhân bản của Babylon – Do Thái, tràn ra khắp Âu
Châu và thế giới. Văn hóa du mục phi nhân bản của "Babylon – Do
Thái" chú trọng đến việc phụng sự thần linh và sẵn sàng hy sinh con
người (như Abraham giết con trai duy nhất của mình là Issaac) để tế
thần. Đạo thờ thần Bal của Babylon tế
thần bằng người sống rồi chia nhau ăn thịt. Cũng
tương tự như Công Giáo lên rước lễ ăn bánh thánh (thịt Chúa) hay
rượu (máu Chúa). Các tôn giáo xuất phát từ huyền thoại
Babylon như Do Thái Giáo, Kitô Giáo (gồm cả Công Giáo, Tin Lành,
Chính Thống) và Hồi Giáo đều lấy Cựu Ước Do Thái làm căn bản và đều
có đặc tính hiếu thắng và hiếu sát. Gọi chung các đạo này là đạo
Thiên Chúa hay Độc Thần Giáo (Monotheism) và có lẽ chính xác nhất là
nên gọi chung là Đạo Uống Máu Ăn Thịt Người.
Ngày nay, người Tây Phương đã nhận ra điều đó
và họ đã tăng cường công tác giáo dục đồng bào họ bằng cách viết ra
rất nhiều sách báo để soi sáng tâm linh. Nhờ vậy chúng ta hiện sẵn
có rất nhiều tài liệu học hỏi để soi sáng tâm linh của mình và tôi
ước mong những gì tôi đã viết sẽ mang lại đôi điều ích lợi cho đồng
bào đồng đạo của tôi, trong đó có những người thân yêu nhất của tôi
là vợ con, anh em, chị em tôi. Tôi không mong
điều gì khác hơn là mọi người Công Giáo hãy bắt đầu sự nghi ngờ để
rồi từ đó rà xét lại niềm tin của mình.
Hãy biết nghi ngờ về sự thánh thiện của Tòa Thánh Vatican và giáo
hoàng. Vì thật sự tất cả chỉ là giả tạo. Bên trong tòa thánh và bản thân giáo hoàng đầy
dẫy những chuyện thối tha bẩn thỉu còn ghê tởm hơn các triều đình
thế gian. Những màn giáo hoàng ban phép lành tại Tòa Thánh
cho các đám đông ở Vatican chỉ là những màn giả tạo để quay phim
chụp ảnh. Các ký giả chuyên săn tin Vatican gọi đó là các màn "Shows
tailor-made for video". Các hồng y da đen chẳng
có chức vụ gì thật ở Vatican ngoài cái nhiệm vụ chính yếu là đi qua
đi lại ở công trường Thánh Phêrô cho thiên hạ chụp ảnh quay phim để
chứng tỏ giáo hội không kỳ thị chủng tộc.
Sự thật, Vatican là cái gốc xua đẩy bọn thực dân da trắng Âu Châu đi
bắt dân da đen ở Phi Châu về làm nô lệ trong những thế kỷ qua. Cựu Linh Mục dòng Tên Peter de Rosa, tác giả
Vicars of Christ, đã phải thốt lên "Vatican là cái xưởng sản xuất đồ
giả lớn nhất thế giới". (Vatican is the largest document -
forgery - factory of the world).
Tổ tiên của chúng ta đã dạy: chỉ có cái thật
mới phát sinh ra sự tốt lành, sự thật và sự lành sinh ra cái đẹp:
chân, thiện, mỹ.
Vatican là trung tâm của
sự gian trá không thể nào có được sự thiện lành. Sự gian trá chỉ có thể sinh ra tội ác xấu xa. Trên đời này chỉ có sự "gian ác" đối nghịch với
sự "ngay lành" mà thôi. Cuối cùng sự thiện lành sẽ chiến
thắng sự gian ác, dù cho kẻ gian ác khôn ngoan và quỉ quyệt đêᮍ đâu!
Từ cổ chí kim, các
bậc minh triết của nhân loại đã băn khoăn rất nhiều về sự thật.
Họ đã để lại cho chúng ta nhiều kinh nghiệm để
chúng ta học hỏi. Tất cả đều chỉ cho chúng ta thấy rằng: muốn
có cuộc sống hòa bình hạnh phúc tốt đẹp, chúng ta phải bắt đầu bằng
lòng yêu sự thật, bởi lẽ phải có CHÂN trước hết rồi mới có thể có
THIỆN và MỸ. Nhà tư tưởng nổi tiếng vào thế kỷ 17 gốc Do Thái là
Spinoza (1632-1677) được coi là một trong những triết gia vĩ đại
nhất của Tây Phương và được xếp ngang hàng với Lão Tử của triết học
Đông phương, đã viết: "Không có gì có giá trị hơn tình bạn với những
người chân thành yêu sự thật vì không có gì ngoài sự thật có khả
năng đoàn kết được mọi ý kiến dị biệt và mọi tính tình khác nhau".
(I value nothing more than friendship with people who sincerely love
the truth... since nothing but truth can unite different opinions
and temperaments – The Enlightened Mind – Harper-Collins Pub. 1991,
page 142).
Dù cho chúng ta hiện đang ở trong một nhóm
thiểu số giữa một tập thể đông đảo đang hùa theo
một tà thuyết hay một tà đạo, chúng ta hãy can đảm chiến đấu cho
"cái lý của sự thật". Cổ nhân thường nói "Vạn sự
nhất lý". Dù chúng ta chỉ là một nhóm rất nhỏ nhưng một khi
đã nắm được cái lý do, chúng ta sẽ trở nên những người có sức mạnh
vô địch. Cái lý của sự thật sẽ giúp chúng ta
vượt thắng mọi trở ngại khó khăn để đạt tới thắng lợi vẻ vang cuối
cùng. Trong lịch sử nhân loại, nhiều thế lực gian ác đã có
một thời hùng mạnh, nhưng cuối cùng "không có thế lực nào có thể
mạnh hơn sự thật". (There is nothing powerful
than truth – Daniel Webster 1930). Dù cho sự thật có bị các
thế lực gian ác đè bẹp tới sát mặt đất chăng nữa, cuối cùng sự thật
sẽ lại vươn lên (Truth crushed to earth shall raise again – William
Cullen Bryant 1839). Nhiều triết gia yêu sự thật
còn hơn cả ái tình tiền tài danh vọng (Rather than love, than money,
than fame, give me truth (Henry Thoreau, 1817-1862). Tất cả
chỉ vì một nguyên do: Sự thật là quyền năng và sẽ chiến thắng tất cả
(Truth is mighty and will prevail – Đại văn hào Mark Twain).
Tuy nhiên, trong khi chiến
đấu cho sự thật, chúng ta cũng phải trả giá cho lòng yêu sự thật.
Người chiến đấu cho sự thật luôn luôn bị những kẻ gian ác rắp tâm
hãm hại và đe dọa sự an toàn thân mạng.
Nhưng các chiến sĩ chiến đấu cho sự thật hãy bền gan vì những người
chân thật luôn luôn là những người có lòng nhân ái lớn
lao. Đó chính là đức
từ bi mà Đức Phật đã dạy. Một khi đã có
đức BI tất sẽ có TRÍ và DŨNG. Những người thiện lành yêu mến
sự thật sẽ được "Thượng Đế" [Không nên hiểu chữ Thượng Đế như người
Kitô giáo.] soi sáng và ban sức mạnh tinh thần hết sức dồi dào để
chiến thắng mọi loại quỉ vương.
Vào thế kỷ 18, văn hào chống Công Giáo số một
tại Pháp là Voltaire đã nói lên kinh nghiệm của mình: "Hãy nói lên
sự thật rồi chạy trốn để có an toàn"
(Tell the truth and run). Voltaire đã trở nên
người lãnh đạo hàng đầu của Phong Trào Soi Sáng tại Âu Châu vào thế
kỷ 18 (The enlightenment). Tư tưởng của ông là một trong
những nguyên nhân dẫn đến hai cuộc cách mạng lớn giải phóng con
người là cuộc cách mạng Hoa Kỳ năm 1776 và Cách Mạng Pháp 1789. Cựu
Tổng Thống Mỹ Truman cũng cho chúng ta một kinh nghiệm là những thế
lực tội ác có thể sẽ kết án chúng ta đã
đẩy họ vào hỏa ngục. Nhưng thật ra, "chúng ta
chẳng có ý đẩy ai xuống địa ngục cả, chúng ta chỉ muốn nói lên sự
thật mà thôi". (I never give them hell, I just tell the truth
and they think it is hell!)
Đến đây, xin quí độc giả
cho phép tôi được mở dấu ngoặc để nói lên một kinh nghiệm bản thân. Tôi vốn được giáo dục trong nền văn hóa Công
Giáo từ nhỏ đến lớn nhưng cuối cùng tôi đã phải giã từ cái tôn giáo
lâu đời của gia tộc mình.
Cuộc hành trình đi đến chỗ
bỏ đạo này khởi đầu từ sự nghi ngờ về cái giá trị chân thực của các
tín lý và giáo điều của đạo Công Giáo.
Tôi cố gắng vận dụng lý trí và đồng thời tìm đến các tài liệu khách
quan có giá trị cao để soi rọi vào niềm tin cố hữu của mình.
Tôi như một con bệnh tâm trí dần dần được phục hồi để tìm đường về
với sự thật. Động cơ thúc đẩy tôi mạnh mẽ nhất là lòng thiết tha yêu
mến sự thật và sẵn sàng chết cho sự thật. Sở dĩ
tôi cố gắng viết ra những điều này không nhằm mục tiêu nào khác hơn
là giúp những người cùng cảnh ngộ có một tài liệu để tự suy nghiệm
về niềm tin của mình. Tôi thành khẩn mong
những người đó không phải phí thì giờ và công sức đi tìm các tài
liệu này.
Mới đây, tôi đọc được lời
Phật dạy rất hợp với hoàn cảnh của tôi đã khiến tôi vui sướng vô
cùng. Phật dạy rằng: "Sự nghi ngờ là chính đáng.
Đừng để cho các sách thánh dẫn dắt bởi uy quyền
của các vị thầy của các tôn giáo. Khi
nhận ra điều gì xấu xa và không xứng hợp với mình thì hãy dứt bỏ nó. Và khi nhận ra điều gì là tốt và xứng hợp thì
hãy làm điều đó. Hãy là ngọn đèn tự soi sáng mình.
Hãy duy trì sự thật trong mình và chỉ vì sự thật
mà thôi". (It is proper to doubt. Do not be led by Holy
Scriptures... But when you realize that something is unwholesome and
bad for you, give it up. And when you realize that something is
wholesome and good for you do it... Be a lamp to yourself. Be your
own confidence. Hold to the truth within yourself, as to the only
truth – The Buddha – The enlightenment Mind by Stephen Mitchell,
Harper Perennial 1991, page 10-11).
Tôi rất yêu những lời sau đây của vị Phật Sống
Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma: "Một người có đức tin tôn giáo hay
không cũng không quan trọng cho lắm. Điều quan trọng hơn nữa chính
là họ phải là người thiện lành... Không có một
tôn giáo nào thỏa mãn được toàn thể nhân loại. Chúng ta có
thể kết luận rằng: Loài người có thể sống khá tốt đẹp mà không cần
phải cần đến tín ngưỡng. Điều đó có vẻ như một xác nhận bất thường
khi sự xác nhận đó đến từ một nhân vật tôn giáo... Là một con người,
tôi có trách nhiệm lớn lao hơn nữa đối với toàn thể "gia đình nhân
loại" – mà thật sự chúng ta đều có. Và bởi vì đa số không thực hành
tôn giáo cho nên tôi cố gắng tìm ra một con đường phục vụ toàn nhân
loại mà không cần kêu cầu đến tín ngưỡng". (Đạo
Lý Cho Thiên Niên Kỷ Mới – Linh Thụy chuyển ngữ. Văn Nghệ xuất bản 1999, trang 33-35).
Mọi người thân yêu nhất của tôi đều đang có
niềm tin Công Giáo. Tôi không có một lý do nào để căm thù cái đạo
gốc của mình. Tuy nhiên, tôi không thể nào chấp nhận được cái thói
cao ngạo láo xược của đại đa số tu sĩ Công Giáo luôn luôn cho rằng
chỉ có Công Giáo là duy nhất thánh thiện, duy nhất đúng đắn.
Họ gọi mọi tôn giáo khác là các đạo thờ quỉ.
Sự thật chẳng có tôn giáo nào thờ quỉ cả vì theo
giáo lý Công Giáo Quỉ là kẻ bị Chúa phạt đày xuống hỏa ngục.
Như vậy, quỉ là kẻ thất bại và bị tước đoạt mọi
quyền năng. Liệu có ai ngu xuẩn để
tôn thờ một kẻ không còn quyền năng gì mà còn đang bị giam trong lửa
hỏa ngục? Các tu sĩ Công Giáo thường có thói quen gọi các đạo khác
là "bụt thần ma quỉ" chẳng qua chỉ muốn dùng danh từ này để nhục mạ
các tôn giáo khác, nhất là để nhục mạ đạo Phật.
Nếu các tôn giáo khác có
ai gọi Công Giáo là đạo thờ quỉ, chắc chắn Công Giáo sẽ gây thánh
chiến thật thảm khốc chống lại tôn giáo đó. Vậy mà trong các sách kinh Công Giáo vẫn còn
chình ình rất nhiều những câu kinh nhục mạ các tôn giáo khác.
Thật là một sự tự cao tự đại một cách trơ trẻn và không sáng suốt.
Sự tự cao tự đại đó ai cũng có thể nhận thấy
rõ ràng khiến cho các tu sĩ Công Giáo không thể chối cãi. Nhưng cái
tội ác của giáo hội Công Giáo ở chỗ đã nhân danh cái quyền tự phong
là "độc quyền chân lý" để tàn sát các đạo khác bằng các cuộc "thánh
chiến" [Chiến tranh là chết người, là đau khổ thì không thể gọi là
thánh được.] đẫm máu và bằng các tòa án tôn giáo đưa hàng triệu
người lên dàn hỏa để thiêu sống trong nhiều thế kỷ qua là một tội ác
không thể không nguyền rủa.
Sau 40 năm chuyên nghiên cứu về Kitô Giáo,
giáo sư cựu linh mục Công Giáo gốc Ái Nhĩ Lan John Dominic Crossan,
đã từng được giải thưởng của Hàn Lâm Viện Hoa Kỳ, tác giả tác phẩm
best sellers "The Historical Jesus" và "Who is Jesus" đã viết về
giáo hội Công Giáo như sau: "Con đường độc đạo chỉ có ta là duy nhất
tuyệt đối đúng có nghĩa là tất cả nọi người khác đều phải chết".
(One way I alone can be absolutely right is for
all others to be dead – "Who is Jesus" Harper – Collines 1996, page
30). Công Giáo La Mã có quyền gì mà dám
nhân danh thần linh để hủy diệt mọi người không chấp nhận các tín
điều bậy bạ vô luân của Công Giáo. Chỉ có
Công Giáo là một thứ đạo khốn nạn và phi nhân nhất trong lịch sử
loài người mới có cái thái độ đáng nguyền rủa đó mà thôi. Vậy tại sao loài người lại không có quyền tự vệ
chính đáng để bỏ cái đạo khốn nạn đó?
Công Giáo là đám cỏ dại trên cánh đồng Việt Nam, tại sao chúng ta
không bỏ cái đám cỏ dại này để cứu cánh đồng Việt Nam?
Chúng ta cần phải học hỏi
các bài học lịch sử đầy đau thương của các quốc gia Âu Mỹ đã từng là
những nạn nhân của hiểm họa Công Giáo La Mã.
1. Kinh nghiệm của các nước Hy
lạp, Nga và Đông Âu.
Năm 1054, các giáo hội Công Giáo tại Hy Lạp,
Nga và Đông Âu đã là những nước đầu tiên nhận thức được âm mưu xâm
lược toàn cầu dưới chiêu bài tôn giáo của Đế Quốc La Mã. Do đó, họ
đã đồng loạt tuyên bố tách rời khỏi Vatican. Sử gia John B. Noss đã
ghi nhận sự kiện này không phải do xung đột về giáo lý mà là để
chống lại ý đồ bành trướng lãnh thổ của Đế Quốc La Mã. Tác giả viết:
"CATHOLIC in the West (Vatican) has required the meaning of
UNIVERSAL in the sense of the geographic extention of the church
throughout the world" – (MAN’S RELIGION, p. 457). Xin tạm dịch:
"Trong thế giới phương Tây (của Vatican) danh từ CÔNG GIÁO với
nguyên nghĩa là TOÀN CẦU, trong ý nghĩa thật của nó là bành trướng
lãnh thổ của giáo hội ra khắp thế giới".
Từ đó đến cuối thế kỷ 20, Công Giáo La Mã đã
gây ra nhiều cuộc thánh chiến chống lại các quốc gia nói trên, gọi
chung là giáo hội Đông Phương hoặc giáo hội Chính Thống. Thảm khốc
nhất là các cuộc nội chiến tại Nam Tư giữa xứ Croatia theo Công Giáo
và xứ Serbia Chính Thống Giáo.
Giữa thời đại văn minh của thế kỷ 20, thế giới
đã phải xúc động trước các tin về những vụ giết người tập thể vì lý
do tôn giáo tại các xứ Croatia, Serbia và Bosnia tại Nam Tư. Tất cả
đều cùng là một giống dân Slave nhưng đã chia thành những quốc gia
riêng biệt thù hận lẫn nhau hằng chục thế kỷ chỉ vì sự cuồng tín tôn
giáo!
Từ những kinh nghiệm đau thương đó nên vào
tháng 8 năm 1997, quốc hội Nga (hậu Cộng Sản) đã biểu quyết đạo luật
công bố quyền tự do truyền đạo và hành đạo cho mọi tôn giáo.
Chỉ có một biệt lệ duy nhất là tuyệt đối cấm
Công Giáo La Mã và Tin Lành không được hoạt động tại Nga (như đã nói
ở phần trước).
2. Kinh nghiệm Anh Quốc:
Tiếp theo các nước
Đông Âu là Anh Quốc tách rời khỏi Vatican năm 1535.
Từ đầu thập niên 1530, vua Anh đã vận động quốc
hội Anh chuẩn y việc tách rời này. Công
cuôvận động của vua Anh bị thủ tướng Anh thời đó là Thomas More cực
lực phản đối. Thomas More xin từ chức thủ
tướng Anh Quốc năm 1532. Y vận động chống lại vua Anh và ủng
hộ việc thiết lập các tòa án dị giáo để
đưa các người chống Công Giáo lên dàn hỏa. Ngày
1.2.1935, nghị viên Anh thông qua đạo luật "The Act of Supremacy"
xác nhận vua Anh có quyền tối thượng đối với chủ quyền quốc gia và
là giáo chủ của giáo hội Công Giáo Anh quốc. (The King is the
supreme head of the church of England).
Năm 1559, Quốc Hội Anh biểu quyết đạo luật Tổ chức thống nhất cho
toàn hệ thống Công Giáo nước Anh (Act of uniformity) và duyệt xét
lại toàn bộ các sách kinh nguyện (prayers) và cho phép giáo dân chỉ
được đọc các kinh đã được in trong sách kinh chính thức được gọi là
"The Book of Common Prayers". Năm 1535, Thomas
More bị đưa ra công trường Westminster chém đầu về tội phản nghịch.
Trước khi lên đoạn đầu đài, Thomas More tuyên bố: "Công Giáo La Mã
là giáo hội toàn cầu. Tôi chết trong và vì niềm tin Công Giáo". (I
die in and for the faith of the Holy Catholic Church).
Năm 1935, kỷ niệm 400 năm
Thomas More chết vì đạo, Vatican đã phong tên phản quốc này lên bậc
hiển thánh. (xin đọc Man’s
Religion và A World only lit by fire).
3. Kinh nghiệm các nước toàn
tòng Công Giáo tại Mỹ Châu La Tinh.
Ở phần trên của bài viết
này, tôi đã có dịp kể chuyện về cuộc sống dâm ô cuồng loạn có một
không hai của giáo hoàng gốc Tây Ban Nha là Alexander VI. Ông ta nổi tiếng vì đã loạn luân với mẹ ông, với
con gái, với cô em ruột và với con riêng của vợ. Nhưng ông ta
cũng nổi tiếng vì đã phát động cuộc xâm lược đại qui mô của thực dân
Tây Ban Nha và tu sĩ Công Giáo vào lục địa Châu Mỹ. Giáo Hoàng
Alexander VI và người con trai là ông hoàng Borgia Caesar cũng nổi
tiếng vì đã là nguồn cảm hứng cho Machiavel viết nên tác phẩm lừng
danh Quân Vương tôi đã có dịp trình bày ở những đoạn trên nhằm mục
đích chứng minh rằng: Vatican là trung tâm phát sinh ra một xu hướng
méo mó về đạo đức chính trị phi nhân bản đã phá hoại hòa bình thế
giới và hạnh phúc nhân loại trong những thế kỷ qua và còn tiếp tục.
Trong mục tiêu bành trướng lãnh thổ và cướp
đoạt vàng bạc của cải làm giàu cho tòa thánh, giáo hoàng Alexander
VI giao độc quyền khai thác vùng đất do Columbus khám phá (tức Châu
Mỹ) cho hoàng gia Tây Ban Nha năm 1503. [Ngày 4.5.1493, Giáo Hoàng
Alexander IV ký sắc chỉ Inter Catera, sắc chỉ nầy về sau được dùng
làm căn bản cho việc triển khai quyền sở hữu về Tân Thế Giới (new
World).]
Năm 1519, hoàng gia Tây Ban Nha xử dụng một
tên du thủ du thực 35 tuổi, chuyên đi tìm vàng là Hernan Cortez làm
tướng chỉ huy một hạm đội gồm 11 chiến thuyền, 10 đại bác và 600
binh sĩ, cùng với một đoàn tu sĩ dòng Phan xi cô do giám mục Diego
de Landa lãnh đạo lên đường chinh phục Châu Mỹ. Tháng 3.1519, đoàn
quân này đổ bộ ở vùng vịnh Tabasco. Tháng 5.1519, chúng chiếm thành
phố Cholula và phá hủy 400 kim tự tháp
tại đây. Năm 1521, chúng chiếm Tenchtitlan và
hoàn tất cuộc xâm lược Mexico (Mễ Tây Cơ).
Trước khi tiến chiếm thành phố lớn nhất của
Mexico thời đó là thành phố Montezanur, chúng đột nhập vào các nhà
tù phóng thích tù nhân và dụ họ hợp tác dẫn đường trong thành phố
nhưng sau khi thành công, bọn chúng đã giết hết đám tù nhân đã giúp
chúng. Giám mục lãnh đạo tinh thần của đoàn quân
xâm lược là Giám Mục Diego de Landa chủ trương đốt sạch để xóa bỏ
mọi vết tích của nền văn minh cổ đại của người Da Đỏ.
Trong các đền thờ được xây
cất tương tự như Kim Tự Tháp của các dân tộc Aztec, Toltecs, Maya
thường có nhiều tượng và đồ vật trang sức bằng vàng. Bọn thực dân đem nấu chảy thành vàng khối chở về
Tây Ban Nha. Các thứ còn lại chúng đều
phá hủy hoặc đốt cháy thành than. Trong số các Kim Tự Tháp có
một cái gọi là đền thờ Tepanapa cao tới 60 mét, mỗi cạnh rộng 300
mét, lớn gấp đôi kim tự Tháp Cheop của Ai Cập, hiện trên đỉnh của nó
là nhà thờ "Đức Mẹ Đồng Trinh".
Năm 1843, nhà khảo cổ Mỹ
John Lloyld Stephen viết sách kể chuyện ông đã tìm được dấu vết của
44 thành phố thuộc văn minh Maya bị thực dân Tây Ban Nha phá hủy. Ông đã tìm được một kho sách cổ của dân tộc Maya
gồm hàng ngàn bản gỗ có ghi chữ tượng hình (pictograph) nhưng đều đã
bị cháy thành than. Nhiều tấm bia
đá có khắc hình và chữ bị đập vỡ vứt xuống đáy hồ.
Hiện nay các nhà khảo cổ chỉ tìm lại được rất ít
tượng đồng và tượng đá của văn minh Maya.
Người Maya đã đạt được trình độ cao trong việc sản xuất đồ gốm và
nhiều loại nữ trang rất đẹp. Theo các nhà
khảo cổ ước tính thì nền văn minh Maya đã có từ thế kỷ 12 trước Tây
lịch.
Tội ác của đoàn quân xâm lược dưới sự lãnh đạo
của Giám Mục Diego và Hernan Cortez còn được ghi lại trong những
cuốn sách thuộc loại hồi ký của các cha dòng đi
theo đoàn quân xâm lược, trong đó có một số hình ảnh vẽ cảnh
chặt tay chặt chân tù binh da đỏ rất dã man.
Nhiều thổ dân trên các đảo thuộc quần đảo Antilles đã bị bọn thực
dân tiêu diệt sạch không còn một ai sống sót. Theo một số báo
cáo của những đoàn quân xâm lược gửi về triều đình Tây Ban Nha thì
vào giữa thế kỷ 16, dân số Mexico khoảng 15 triệu người.
Nhưng đến đầu thế kỷ 17, chỉ còn có 2 triệu
người mà thôi. [Dân số Mễ Tây Cơ hiện nay là 100.349.766]
Phần lớn thổ dân đã chết vì bị nhiễm các loại vi trùng lạ do thực
dân Tây Ban Nha đem từ lục địa Âu Châu qua.
Sau khi chiếm được Mexico,
thực dân Tây Ban Nha và tu sĩ nhà thờ lập nên các đồn điền và các
khu khai thác mỏ và biến thổ dân thành nô lệ. Từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, thực dân đến Phi
Châu bắt cóc người da đen đem đến Mỹ Châu khoảng 60 triệu người để
tăng cường nhân lực nô lệ cho các đồn điền và hầm mỏ. Ngay từ
những năm đầu của cuộc xâm lược vào Mexico, riêng một mình Hernan
Cortez đã chiếm 250 héc ta đồn điền và làm chủ 200.000 nô lệ da đỏ!
Cuối thế kỷ 18, do ảnh hưởng của các cuộc cách
mạng tại Hoa Kỳ và Pháp, nhất là do ảnh hưởng tư tưởng của các nhà
tư tưởng thuộc phong trào Soi Sáng Âu Châu (Enlightement) được dịch
sang tiếng Tây Ban Nha, một số linh mục cấp tiến đã cầm đầu các cuộc
cách mạng chống lại chính quyền thuộc địa và nhà thờ Công Giáo. Phần
lớn các cuộc cách mạng này đều bị tắm trong biển máu! Phải đợi đến
thế kỷ 19, nhiều nước tại Châu Mỹ mới đạt được thắng lợi lớn
lao về chính trị kinh tế và xã hội trên
toàn lục địa Châu Mỹ La Tinh. Sự kiện lớn lao
này được mô tả khá chi tiết trong tác phẩm The Emergence of Latin
America in the Nineteenth Century" (2nd edition, by David Bushenell
and Neil Macaulay. Oxford University
Press xuất bản năm 1994).
Đáng chú ý nhất là Hiến
Pháp Mexico năm 1857. Hiến pháp này được nhiều nước Châu Mỹ
La Tinh noi theo. Bản
hiến pháp này của Mexico đã đưa ra nhiều biện pháp táo bạo và cương
quyết đối với các tu sĩ và nhà thờ Công Giáo khiến ta cũng phải ngạc
nhiên sững sờ.
- Hiến pháp tước bỏ mọi đặc quyền đặc lợi của
các tu sĩ đã được chính quyền thuộc địa Tây Ban Nha công nhận trong
các thế kỷ trước . Các đặc quyền đặc lợi
như: tu sĩ được miễn đi lính, tu sĩ được xét xử tại các tòa án riêng
và theo luật riêng. Các tu sĩ tự xưng là
người của Chúa (agents of God), nên đòi phải được xử
theo luật của Chúa chứ không thể bị xét
xử theo luật của người phàm (law of man). Tu sĩ bị tước đoạt độc
quyền làm khai sinh hôn thú, chứng từ khai tử...
Tất cả các việc này đều được thế tục hóa, tức là được chuyển cho các
viên chức nhà nước thực hiện.
- Điều quan trọng là nhà
thờ phải được tách rời hoàn toàn ra khỏi chính quyền (the separation
of Church and State). Các tu viện bị đặt ra ngoài vòng pháp
luật (outlawed monasteries). Các viện nữ tu bị hoàn toàn dẹp bỏ với
hình phạt tử hình được áp dụng cho bất cứ nữ tu nào bị bắt gặp còn ở
lại trong tu viện (the suppression of all nunneries upon the death
of the present occupants), Các nam tu sĩ bị cấm không được mặc áo
dòng khi xuất hiện ở các nơi công cộng (forbidding the wearing of
clerical clothing in public). Toàn bộ tài sản của giáo hội bị tịch
thu, [Nhưng tại Viêt Nam, các tài sản của
giáo hội Công Giáo nhờ thế lực của thực dân mà vẫn còn, chưa ai đụng
đến]. trong số đó có một số nhà thờ được
bán cho những người Tin Lành ngoại quốc (The general confiscation of
church property).
Hầu hết các nước Châu Mỹ La Tinh
theo đuổi chính sách công khai chống các
tu sĩ Công Giáo (Anticlericalism) nhất là ở Venezuela, Colombia và
West Granada.
Với rất nhiều kinh nghiệm chống tà đạo Công
Giáo trên khắp thế giới, ước mong cần phải nghiên cứu và học hỏi để
có thể đề ra các biện pháp hữu hiệu nhằm tiêu hủy, hoặc ít ra là
giảm thiểu, các ảnh hưởng tai hại của
Công Giáo La Mã trên đất nước ta. Không có gì có thể ngăn cản chúng
ta ban hành một đạo luật tương tự như nước Nga là cấm chỉ mọi hoạt
động của Công Giáo La Mã và Tin Lành trong khi vẫn cho phép các tôn
giáo khác được tự do hoạt động.
Bài học Anh Quốc thế kỷ 16 đã chỉ cho chúng ta
thấy là muốn bảo tồn chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc thì, giáo
hội Công Giáo bản xứ phải dứt khoát đoạn tuyệt với Vatican, vì
Vatican luôn luôn tìm cách xâm phạm chủ quyền quốc gia của các nước
trên thế giới qua giáo hội Công Giáo bản địa mà ban tham mưu của nó
là các hội đồng giám mục tại mỗi nước. Quốc hội Anh thế kỷ 16 đã
khẳng định mọi cuốn sách kinh nguyện (prayer books) phải được quốc
hội thông qua để loại bỏ mọi câu kinh đi ngược lại quyền lợi
chung của quốc gia dân tộc. [Trong cuốn
Vatican Thú Tội và Xin Lỗi, Giao Điểm 2001, ông Bùi Kha đề nghị giáo
hội Công Giáo Việt Nam nên chỉnh đốn lại toàn bộ Thánh Kinh trước
lúc mở các chủng viện và giảng dạy cho tín đồ vì Thánh Kinh có hơn
80% là ngụy tạo, và vô số lời dạy trong đó đã đối nghịch với phong
tục tập quán, đạo đức và luật pháp Việt Nam.]
Các nước Châu Mỹ La Tinh,
như chúng ta đều biết, là những quốc gia toàn tòng Công Giáo từ
nhiều thế kỷ qua. Vậy mà hầu hết các nước này đều noi gương
Mexico đặt tu viện nam nữ Công Giáo ra ngoài vòng pháp luật
theo tinh thần Hiến Pháp Mexico năm 1857.
Toàn thể tài sản của giáo hội Công Giáo bị tịch
thu. Các tu sĩ Công Giáo bị tước đoạt
quyền dạy học và quyền ứng cử bầu cử. Các
nhà trường Công Giáo hoàn toàn bị đóng cửa. Các tu sĩ dòng Tên ngoại quốc bị trục xuất.
Các tu sĩ nhà thờ bị cấm ngặt không được thu
tiền của giáo dân dưới bất cứ hình thức nào. Các
nhà thờ được đặt dưới sự kiểm soát thường xuyên của chính phủ.
Sở dĩ các dân tộc Châu Mỹ La tinh có những
biện pháp quyết liệt để trói tay giáo hội Công Giáo vì họ không thể
quên được tội ác diệt chủng và diệt nền văn hóa cổ xưa của tổ tiên
họ là người Da Đỏ. Thiết tưởng những biện pháp nêu trên vẫn là quá
nhẹ so với các tội ác tày trời của giáo hội Công Giáo đã phạm trong
quá khứ đối với toàn thể các dân tộc Châu Mỹ La Tinh.
Năm 1917, Mexico có bản
hiến pháp mới nhưng lập trường của họ đối với giáo hội Công Giáo vẫn
giữ nguyên tinh thần của bản hiến pháp 1857.
Năm 1979 và trong thập
niên 1990, Giáo Hoàng Jean Paul II đã nhiều lần đến thăm Mexico để
làm hòa nhưng đã hoàn toàn thất bại. Mối
quan hệ ngoại giao giữa Mexico và Vatican đến nay vẫn chưa được nối
lại sau trên một thế kỷ hoàn toàn gián đoạn. Trong các nước
Châu Mỹ La Tinh toàn tòng Công Giáo mà còn có những bản hiến pháp
đặt các tu viện Công Giáo ra ngoài vòng pháp luật như vậy, không lẽ
tại Việt Nam, Công Giáo chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ nhoi chúng ta lại
không thể có được một đạo luật cho toàn bộ hệ thống tu sĩ Công Giáo
[Các giáo phái Tin Lành còn nguy hiểm hơn. Họ
muốn biến các sắc dân thiểu số thành những khu vực tự trị.]
ra ngoài vòng pháp
luật được hay sao? Tuy số tín đồ Công Giáo chỉ chiếm khoảng 8% dân
số Việt Nam nhưng hệ thống tu sĩ Công Giáo là một tổ chức chặt chẽ
nắm đa số các trường học tư thục từ cấp tiểu học đến đại học, chi
phối đa số ghế quốc hội của thời đệ nhị Cộng Hòa, chi phối các giới
chức trong chính quyền và quân lực Việt Nam Cộng Hòa ở cấp lãnh đạo
cao nhất. Hiện nay số giáo dân Việt Nam tại hải ngoại phần đông rất
giàu có sẽ là nguồn tài trợ đắc lực cho mọi mưu toan lũng đoạn quốc
gia của giới tu sĩ Công Giáo Việt Nam
Đứng trước các hiểm họa đó, thiết tưởng một
đạo luật đặt hệ thống tu sĩ Công Giáo Việt Nam ra ngoài vòng pháp
luật là điều hết sức cần thiết để kịp thời đối phó với các xáo trộn
chính trị có thể xảy ra khi đất nước ta bước vào giai đoạn phú
cường.
Biện pháp này càng tỏ ra cần thiết hơn nữa vì
có triệu chứng cho thấy các tôn giáo khác như một nhóm người của
Phật Giáo, Hòa Hảo, Cao Đài cũng bắt chước Công Giáo củng cố hệ
thống tu sĩ riêng của mình để lũng đoạn chính trị trong cái gọi là
"Liên Tôn". Các ủy ban liên tôn sẽ là những sào huyệt để cho kẻ lưu
manh chính trị núp đằng sau tha hồ phá rối an
ninh quốc gia và vô hiệu hóa hoàn toàn mọi cố gắng của bất cứ chính
phủ nào trong công cuộc kiến thiết quốc gia để mưu cầu hạnh phúc cho
toàn dân tộc.
Các bài học chống giáo hội
Satan của các nước Âu Mỹ giúp các quốc gia khác một số kinh nghiệm
về phương diện luật pháp và hành chánh.
Người Nhật trong thế kỷ 17 thấy biện pháp này
không đủ hiệu năng nên họ đã treo cổ hoặc đóng đinh trên thập giá
toàn bộ hệ thống tu sĩ Công Giáo bản địa và thừa sai ngoại quốc cùng
một lúc với việc tiêu diệt trọn 37.000 giáo dân tại Nagasaki năm
1638. [Nên tránh bài học đau thương như Nhật Bản
lúc bấy giờ.]
Chính nhờ biện pháp quyết
liệt này, nước Nhật đã bảo toàn chủ quyền độc lập, bảo toàn danh dự
quốc gia và văn hóa dân tộc. Đó chính là
yếu tố đã đưa nước Nhật lên địa vị siêu cường ngày nay.
Xin xem tiếp phần Hai: Sách Kinh Công giáo và
tác hại của nó -
Charlie Nguyễn