Trích "Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân tại Việt Nam" nxb. Hương Quê 1988
Phần III: "DẤU IN MỌI Ý TƯỞNG CỦA NHỮNG NGƯỜI TRUYỀN ĐẠO LÊN TỔ CHỨC BẢO HỘ"
- (MT đánh máy gửi SH).
Khi chiếm Nam kỳ, người Pháp
thấy bộ máy cai trị ở đó tê liệt hoàn toàn, toàn thể quan lại đều bỏ
đi khỏi vùng bị chiếm. Muốn cai trị Nam kỳ, hệ thống cai trị trực tiếp ngay
từ đầu đã là cần thiết.
Ở Bắc và Trung kỳ, tình thế lại
khác. Quả thật, quan lại hết sức bối rối và bở ngở vì các biến cố, nhưng đa
số bọn họ đều muốn tại chức, khi người Pháp đưa Đồng Khánh lên ngôi. Nhờ sự
đầu hàng nhanh chóng của triều đình Huế, bộ máy cai trị được nguyên vẹn. Vấn
đề đặt ra cho người Pháp là có nên dùng bộ máy có sẳn đó mà sự vũng chắc
cùng hiệu nghiệm đã khiến cho mọi người quan sát nước ngoài khâm phục, hay
trái lại phải tiêu diệt nó đi để thay thế một bộ máy theo kiểu Pháp. Sự chọn
lưa giữa hai thái độ đó đã quyết định đường lối phải theo. Giải pháp đầu bao
hàm chính sách hợp tác, giải pháp sau, chính sách xâm lăng, áp chế và đồng
hóa.
Chúng ta biết các ý kiến của các
nhà truyền đạo, đặc biệt là giám mục puginier, về vấn đề này : Các quan, từ
lớn trong triều đìnhđến các viên chức nhỏ ở xã thônđều là kẻ thù của nước
Pháp và đạo Thiên chúa, cùng cai trị với họ là sa vào bẩy. Cuộc kháng chiến
kéo dài do Văn Thân lãnh đạo hình như cho thấy họ có lý, vì thế các Khâm sứ
đầu tiên, kề cả Paul Bert và các toàn quyền đều thẳng thắng đi vào con đường
áp chế và chinh phục. Chỉ có De Lanessan (1891-1894) cố gắng bơi ngược
giòng, khi thành thật áp dụng chính sách hợp tác. Nhưng hệ thống Lanessan
làm đa số các viên chức cai trị thực dân sợ hải, cũng như các kẻ truyền đạo
Thiên Chúa, những kẻ trước cho là chủ thuyết quá cởi mở, những kẻ sau ( bọn
truyền đạo) cho là sẽ gây trở ngại cho việc phát triển đạo củ họ. Thống nhất
hành động , họ gây sức ép lên chính phủ Pháp và rút cuộc De Lanessan phải bỏ
đi. Paul Doumer đến Đông dương năm 1897, thiết lập lại và gia tăng chế độ
cưỡng bức.
Chính sách thuộc địa Pháp tại
việt nam từ 1885 đến 1902 đã lần lượt thể hiện ở ba người : Paul Bert, De
Lanessan, Paul Doumer đã vẽ nên một đường cong mà điểm khởi hành và điểm kết
thúc Paul Bert và Paul Doumer gần như trùng hợp.[1]
Năm 1911, một nhà chính trị cở
lớn đồng thời là nhà lý thuyết hợp tác đến Đông dương : Albert Sarraul .
Viên toàn quyền mới khôi phục lại đạo Nho, vốn đã suy đồi trong giới trí
thức, lớn tiếng ca ngợi giá trị cao trọng của văn hóa cổ truyền Việt Nam, mở
ra một cuộc tuyên truyền ồn ào về thuyết hợp tác giữa hai nền văn hóa Đông
Tây.
Nhưng chúng ta đang đứng trước
ngưỡng cửa cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và xã hội Việt am vừa chịu hai
cuộc xáo trộn sâu xa : một mặt, tầng lớp nhà Nho xưa, “kẻ thù của người Pháp
và tín đồ Thiên Chúa” đã gần như biến mất, nhường chổ cho tầng lớp trí thức
mới, được đào tạo theo phương tây, mặt khác các giai cấp xã hội mới bắt đầu
thành hình và việc người Pháp đầu tư trong xứ. Tầng lớp trí thức mới chủ
trương tranh đấu để vừa chống lại sự thống trị của ngoại bang vừa chống lại
cơ cấu chính teị và xã hội đã lỗi thời xây dựng trên Khổng Giáo vốn không
còn thích hợp với sự tiến triển của xã hội Việt Nam. Nó sẽ cung cấp cán bộ
lúc đầu thì cho các đảng dân tộc chống thực dân kế đó cho đảng Cộng Sản Đông
Dương .
Trong viễn tượng đó, hành động
của Albert Sarraut nhằm đến cái gì khi phục hồi đạo Nho nếu không phải là để
duy trì xã hội Việt Nam dưới các thế lực phong kiến, phản động và kìm hảm đà
cách mạng của giới trí thức trẻ ?
I- CHÍNH SÁCH ÁP CHẾ ĐỐI VỚI TRIỀU ĐÌNH HUẾ, QUAN LẠI VÀ NHO SĨ.
1- Phương pháp PAUL BERT :
Sau khi Vua Hàm Nghi trốn đi
cùng Tôn Thất Thuyết năm 1885, nhà cầm quyền Pháp đã khiến cho các đình thần
còn ở lại Huế tôn người anh của ông là Đồng Khánh lên ngôi. Là sản phẩm của
Pháp, ông nầy biết rằng số phận của mình gắn liền với chế độ thống trị của
Pháp, cho nên suốt đời, y tỏ ra trung thành mẩu mực với “ nước bảo hộ ”.
Trái lại, các quan, dù được qui
tụ, vẫn không mấy chắc chắn và các tin tức do giám mục Puginier cung cấp
với “ ác ý ” và “ hoạt động ” của họ, từ quan to trong triều đến các viên
chức tận thôn ấp, làm cho người Pháp càng thêm nghi kỵ họ hơn.
Dù thế, Paul Bert, trong suốt
thời kỳ ngắn ngủi của y xuất hiện tại Việt Nam, không cho rằng nên hành động
trực tiếp và sâu hơn nữa vào triều đình và bộ máy cai trị ở Trung kỳ. Ý đồ
của y là trước hết hãy chuẩm bị việc sat nhập Bắc kỳ vào chính quốc bằng
cách áp dụng các lý thuyết về đồng hóa mà Jule Ferry rất mê thích. Theo y,
điều lý tưởng nhất là dần dần, nhờ sự phổ biến ngôn ngử cùng tập quán Pháp,
làm cho dân Bắc kỳ có cảm tình với họ và từ đó quen lần với ý tưởng cai trị
trực tiếp.[2]
Nhưng muốn làm điều đó, việc
quan trọng trước hết là tiêu diệt uy tín mà quan lại và Văn Thân có trong
dân chúng cùng giảm bớt vai trò “ cha mẹ dân của họ ”. Nhưng phải làm cách
nào đây ?
Chúng ta không quên rằng kẻ
truyền đạo đã tuyên truyền ý kiến cho là dân Bắc kỳ rên xiết dưới ách quan
lại Huế, họ sẽ tiếp đón những người Pháp đến cởi bỏ cái ách đó cho họ, như
là những người giải phóng.
Paul Bert sẽ thực hiện ý đồ nầy,
Y tóm tắt chính sách của y ở Việt nam như sau :
“Ở Bắc kỳ, làm yên tâm dân
chúng, cùng cai trị họ, thi hànhchính sách dân chủ, việc bình định do chính
nông dân bản xứ đảm trách.
“Ở Trung kỳ, làm yên tâm Văn
Thân, phục hồi uy tín nhà vua, thi hành chính sách quí tộc, việc bình định
do Văn Thân bản xứ nhận lãnh đó là nguồn gốc của tất cả những gì tôi đã làm,
những gì tôi sẽ làm.”[3]
Thật vậy, trong khi ở Huế, y ban
cho Đồng Khánh một uy quyền cần thiếtđể “đập tắt nỗi sợ hãi của nhà Nho,
cùng thỏa mãn lòng tự hào dân tộc”[4]
thì ở Bắc kỳ, Paul Bert cố “ tiêu hủy hay làm tê liêt Văn thân hay bè lũ.”[5]
bằng cách thiết lập một hội đồng nhân sĩ Bắc kỳ. Chính với tổ chức “dân chủ”
đó mà Paul Bert định cai trị với, chứ không phải với các quan, dù họ đều là
người Bắc kỳ và xuất thân từ các kỳ thi do Hàn lâm viện Bắc kỳ tổ chức, vì
rằng “ dù chúng ta tổ chức, không bao giờ họ trở thành bạn bè chân thật với
chúng ta ”[6]
Do việc thiết lập hội đồng đó, các quan bị đẩy xuống hàng thứ yếu, vai trò
trung gian của họ sẽ không còn cần thiết nữa và uy tín của họ sẽ bị tiêu tan
để chuyển sang cho giới bình dân, lần đầu tiên bước lên trường chính trị.
Trong bản tuyên ngôn gửi dân Bắc kỳ (8-4-1886) Paul Bert xác định vai trò
của Hội đồng như sau : “Để giúp cho tôi hiểu rõ các vấn đề quan trọng có ích
lợi chung, tôi sẽ triệu tập tại Hà Nội một hội đồng gồm những người đại diện
mà các nguời sẽ tuyển chọn trong giới nhân sĩ mỗi tỉnh… Họ sẽ chuyển đạt
nguyện vọng của dân chúng lên tôi, cùng cho tôi biết mọi nhu cầu, mọi vấn đề
liên tục trực tiếp đến dân chúng, tôi sẽ căn cứ vào các lời khuyên của họ.
Tôi không thể có cách gì hơn để chứng tỏ lòng tin cậy cùng sự thành thật của
tôi đối với các người…”
Ngày 30-4 , y triệu tập những
người đã được tuyển cử. Những người trúng cử thuộc đúng vào giai cấp mà Paul
Bert nghĩ rằng sẽ nhờ cầy được. Trử 2 người, còn tấ cả đều là nông dân
thường, thuộc hàng nhân sĩ trong làng, nói chung tất cả đều nghèo. Người có
học nhất là một giáo viên trường làng , được bầu làm chủ tịch. Họ không nhận
tiền thù laomà chỉ yêu cầu phát cho mỗi người một mãnh bằng !
Hội đồng nhóm ngày 28-7 . người
ta rộn ràng dẫn các người trúng cử đến chổ họ ngồi. Viên thống sứ và viên
Kinh lược cho họ an tọa. Nguời ta đưa ra cho họ một xấp vấn đề cai trị, yêu
cầu họ đưa lên nguyện vọng về các vấn đề liên hệ đến tỉnh mình. Rồi người ta
để họ tự bàn bạc với nhau mà không có sự hiện diện của các quan.
Chính Paul Bert đến bế mạc khóa
họp : “ Nguyện vọng của quí vị rất chánh đáng , rất hợp lý, y nói, các vị
có quyền tự hào về các kết quả đầu tiên của quí vị. Trong vài tháng nữa, tôi
lại triệu tập quí vị. Quí vị hãy trở về địa phương mình, nói lên những gì
quí vị đã thấy đó là hòa bình đã ngự trị rồi, và tình bạn giữa người Pháp và
người Bắc kỳ.”[7]
Kết quả sáng kiến của Paul Bert
như thế nào ? Không là gì cả. Quả thật giữa giai cấp phong kiến mà quan lại
là đại diện cùng nông dân có mâu thuẫn nhau, nhưng không hiểu gì cả n1êu cho
rằng người nông dân không có mảy may lòng yêu nước. Sáng kiến của Paul Bert
liền bị nhận ra là quá sớm vì thái độ chống đối mạnh mẽ của dân chúng.[8]
Đem đối nghịch người nông dân bị
bốc lột với quan lại bốc lột là một ý tưởng rất hay, mtộ ý tưởng cách mạng,
và về điểm nầy thì Paul Bert và Puginier có thể tự hào là marxsites trước
Marx, nhưng muốn thành công, cần phải phụng sự thật sự quyền lực của nông
dân. Nhưng tình cảnh của những người nầy có tốt đẹp gì hơn dưới sự cai trị
của các tên chủ mới ? Chúng ta hãy nghe Thống sứ Rheinart : “Chúng ta đã làm
các quan lo ngại về tài sản của họ, bằng việc xâm nhập thái quá vào địa vị
họ cùng bằng việc thu thuế, vì địa vị cai trị của họ, bằng việc thiết lập
các hội đồng nhân sĩ hay các kế hoạch hội đồng hàng tỉnh là những phủ định
của chế độ cai trị ở Trung kỳ. Chúng ta cản ngăn hoạt động cai trị khi cướp
mất các phương tiện hành xử, khi rút mất của họ các toán dân vệ. Kr61t quả
của các biện pháp nghi kỵ này là chúng ta buộc phải tự lo lấy việc cảnh sát
trong xứ, và tôi rất lo sợ là trong việc tối tăm này chúng ta thuờng tỏ ra
kém sút hơn các viên cai trị An Nam củ. Nhưng ít nhất chúng ta đã thu phục
được người dân mà chúng ta cho rằng mình muốn bảo vệ chống lại sự vơ vét của
các quan không ? Không có gì như thế cả : Chúng ta đã trưng tập không ngừng
và vô độ hàng ngàn cu ly đi lên chết tại Lai Châu, Lao Kay, Cao Bằng, những
vùng heo hút xa lạ mà sự bình định hay chiếm cứ không quan trọng gì mấy cho
người nông dân vùng Trung châu. Nhượng bộ trước các lý do ngân sách, chúng
ta đã xem xét lại thuế má, biên pháp tư pháp…Có nghĩa là gia tăng thuế má,
trong khi chính sách chúng ta đòi chúng ta giảm thuế để bù đắp lại các sự
tàn phá trong những năm mới đây và làm người ta quên đi …”[9]
Giám mục Puginier biết rằng kế
hoạch tiêu diệt quan lại và Văn Thân của ông sẽ bị thất bại nếu người nông
dân phải chịu sưu cao thuế nặng dưới chế độ mới , vì thế ông ta luôn luôn và
mạnh mẽ nhấn mạnh đến sự cần thiết đừng lập ra các sưu dịch quá nặng và đừng
lập ra các thứ thuế quá trớn.[10]
Nhưng làm sao người Pháp làm
khác được ? Trước sự chống đối mạnh mẽ của phe cực tả và phe hữu, sự giúp đở
của chính quốc ngày càng bấp bênh. Vì thế mà Bắc kỳ phải lo tiền nong cho
chế độ mới. Paul Bert đã tăng thuế phân lên 5 phần trăm, thuế ruộng đất lên
50 phần trăm. Tổng cộng thuế trực thu từ 1.235.000 đồng, năm 1888 lên
2.995.000 đồng, năm 1896 [11],
năm 1886 y lập thuế cờ bạc và tăng thuế quan. Ai phải gánh chịu mọi gánh
nặng đó nếu không phải là nông dân ?
Trong tình cảnh như thế làm sao
hy vọng được 43 ủy viên của Hội đồng, khi trở về tỉnh nhà, có thể “ đánh đổ
các lời đối trá ” của các nhà Nho, “ xóa bỏ các thành kiến ” và tuyên truyền
cho chế độ mới ?
Paul Bert biết điều đó. Để chiến
đấu chống lại “ lũ người thù nghịch và vu cáo ”, y cần có một “ đạo quân
tuyên truyền ” chính tại trường học, y tìm những người đó. Người ta phải dạy
tiếng Pháp mau và rộng rãi đến mức tối đa có thể làm được, và không có gì
ngăn cản việc phát triển trường học và “ không bao lâu nữa, chúng ta sẽ có
trong dân chúng những gì mà chúng ta tìm nhiều người giúp việc trung thành
với chúng ta và không bị đồng bào họ ngờ vực.”[12]
Dù không đem lại kết quả gì đáng
kể, hội đồng nhân sĩ do Paul Bert đưa ra vẫn là một việc làm đáng chú ý dưới
mắt của các kẻ nối tiếp Paul Bert và sau này Paul Doumer sẽ lập lại.
2. Phương pháp Richaud :
Cũng như Paul Bert, Richaud phải
chọn giữa hai chính sách hiện hữu : quân sự và dân sự. Mục đích là một,
phương tiện thì khác. Mối bất hòa sâu xa giữa giới quân sự và dân sự là một
trong các nguyên nhân góp phần vào việc duy trì sự hổn loạn ở Bắc kỳ trong
hơn 10 năm sau. Khi thiết lập “ chế độ bảo hộ ” giới quân sự nói “Các anh
đến quá sớm, việc chinh phục chưa hoàn tất, giờ của chế độ quân sự chưa
điểm. Xứ nầy đang nổi loạn, phải đánh quị phong trào nổi loạn bằng cách gia
rtăng các đồn bót và các cuộc chinh phạt, cần phải dàn lực lượng ra để tạo
nên nỗi sợ hãi thuận lợi…”
Chính sách sức mạnh và chiến
tranh nầy, như chúng ta biết là chính sách do giám mục Puginier khuyến cáo
hầu đem lại cho tín đồ Thiên Chúa chiếm vai trò trọng yếu trong việc đàn áp.
Phe dân sự đáp : các ông sợ chế độ dân sự, vì việc đó làm trở ngại hoạt động
giới hạn quyền hành các ông. Các ông là những quân nhân, dù các ông có ôn
hòa và có ý tốt đến đâu, một cách tự nhiên, vô ý thức và vì nghề nghiệp và
giáo dục, các ông vẫn coi trọng việc duyệt binh hơn là việc hành chánh. Đối
với các ông việc dập tắt sự “cướp bóc ” lập lại trật tự là một vấn đề chiến
tranh, một vụ lộn xộn nhỏ bé mà một nhân viên dân sự với vài dân vệ cũng đủ
thắng được, đối với các ông, cũng là một vụ nổi loạn qui tắc hành động của
các ông được chỉ định không phải do các hiệp ước và tinh thần bất hứng từ
chế độ bảo hộ, mà do các chỉ thị của các đoàn quân đang lâm trận. Bằng
phương pháp đó, người ta có thể đưa ngay một tỉnh vào đường cách mạng
[13]
và các ông cũng quên rằng ở Pháp, một bộ phận rất lớn đã lên án cuộc viễn
chinh và đòi rút quân về nước. Các ông có biết rằng chính phủ phải lưu tâm
đến ý kiến của quốc hội không ? Khi chính phủ Pháp phái Paul Bert sang Bắc
kỳ, ông hy vọng rằng viên cựu Bộ trưởng giáo dục sẽ thiết lập tại đó bằng
tất cả tài khôn khéo của một nhà chính trị, một chính sách hòa bình để chấm
dứt mọi chi phí thái quá gây nên do cuộc chiến bất tận, và chứng tỏ cho quốc
hội thấy Bắc kỳ, nếu chưa mang được gì về cho nước Pháp, thì cũng không phải
là một cái hố không đáy. Tại Pháp cũng nh ưtại Bắc kỳ, những người hoan hô,
tận yình việc bổ nhiệm Paul Bert là những nhà buôn và kỹ nghệ gia : quả thực
việc buôn bán bị chiến tranh làm cho tê liệt.[14]
Sau Paul Bert, Constans
(1887-1888), một trong những lãnh tụ và cũng là một trong những kẻ hiếu động
nhất của phe đa số cộng hòa trong cuộc chiến đấu chống phe hữu và giáo hữu,
cũng theo một chính sách hòa bình ở Bắc kỳ và một thái độ hòa giải ở Trung
kỳ : y duy trì những mối liên lạc thân hữu với vua và triều đình Huế, ùng hộ
việc phát triển kinh tế cho liên hiệp Đông dương và tranh đấu chống lại
tướng Bégian, viên tư lệnh đạo quân viễn chinh về vấn đề tài giảm thật nhiều
quân đội đã giảm thiểu các khó khăn tài chính.
Với Richaud thì lại là chính
sách của những kẻ truyền đạo được áp dụng từng chữ.
Được viên thứ trưởng thuộc địa
De Laporte che chở,Richaud chống lại chính sách Constans mà y mệnh danh là “
chính sách xóa mất ” .
a.
Trước hết, lấy các chủ trương của giới quân nhân làm của mình, y quyết liệt
chống đối mọi sự tài giảm quân đội và đồn bót, y cho những biện pháp đó làm
tổn thương nặng nề đến “ công trình thuộc địa chúng ta ”
Bắc kỳ, và sẽ còn là trong một
thời gian lâu dài, một xứ cần phải chinh phục, hoàn toàn không đúng nếu cho
rằng hiện nay nó đã được bình định … Tôi không tin rằng hiện nay có một cuộc
khởi nghĩa toàn diện hay cục bộ nào đáng sợ, nhưng không vì thế mà xứ này
không hổn loạn sâu xa ở nhiều điểm và ngài sẽ thấy những nhận xét đó trong
các báo cáo đính kèm mà tôi vừa nhận được của tướng Bégin.
“Trông vẽ thật bề ngoài, có thể
nói rằng dân Bắc kỳ nếu không ngoan ngoản chấp nhận , thì ít nhất cũng ráng
chịu đựng sự thống trị của chúng ta, nhưng ngoài dân chúng đó chúng ta còn
phải kể đến, một mặt nhiều toán người đi khắp lãnh thổ, bị xếp ngoài vòng
pháp luật, v2 chỉ sống bằng nghề cướp bóc, mặt khác, với tầng lớp hiếu động
và đầy tham vọng của Văn Thân gồm các quan lại cùng viên chức cũ mà chúng ta
phải đẩy về Huế, thành trì cuối cùng của họ. họ sẽ còn là, trong thời gian
lâu dài, kẻ tử thù của chúng ta, và tìm cách gây ra cho chúng ta đủ thứ rắc
rối. Nếu có một vài người trong bọn họ theo về thì chúng thành những kẻ giúp
việc có ích và trung thành, thì đa số vẫn còn căm thù sâu sắc vì chúng ta đã
tước bỏ đi danh vị cùng trách nhiệm của họ, cũng như vì họ sợ các sự lạm
dụng mà sự sống của họ bị bãi bỏ.
“Nếu cho đến nay sự cương quyết
đầy nghi kỵ của chúng ta đã trấn áp mọi cố gắng làm loạn , chúng ta vẫn chưa
tiêu diệt được hoàn toàn, và đó là mối nguy thường trực mà chúng ta luôn
luôn canh chừng, nhất là ở Bắc kỳ.”
“Đứng trước tình trạng như thế,
làm sao chúng ta có thể, như ông Constans đã viết trong các báo cáo, tin một
cách đứng đắn rằng Bắc kỳ và Trung kỳ đều hoàn toàn khuất phục, và sự có mặt
của quân đội chúng ta không những vô ích mà còn có hại cho chương trình bình
định ?
“Sự cảnh giác sơ đẳng nhất đòi
hỏi chúng ta đừng giảm bớt đồn bót mà chúng ta đặt rải rác và có cơ mật của
chúng, tôi xin lập lại, là một vũ khí tự vệ cần thiết cho công trình thuộc
địa chúng ta.”[15]
Vấn đề quân số khiến các dân
biểu lồng lộn. Họ trách móc chính phủ đã giữ bất động nhiều lính ở nơi xa
trong khi việc quốc phòng trong nước đang đòi hỏi. Họ thêm rằng quân đội đó
gồm những người trẻ đến Bắc kỳ, để chết vì bệnh tật nhiệt đới. Cuối cùng họ
nại ra lý do chi phí. Các cuộc tranh đấu nghị trường xảy ra hàng năm về vấn
đề đó, sự bối rối đó đã gieo vào trong các vấn đề Đông á, khiến cho chữ Bắc
kỳ gần như đồng nghĩa với khủng hoảng.
Một số báo chí hòa theo các nghị
sĩ chống lại việc duy trì ở Bắc kỳ một đạo quân thật sự cùng các hy sinh
tiền bạcmà việc Bắc kỳ đòi hỏi. Tờ “Le Voltaire” trong một loạt bài viết về
“sự thật ở Bắc kỳ ”, kể lại những câu chuyện của công sứ ở Trung kỳ và Bắc
kỳ nói về mối nguy của chính sách quân sự. “Chướng ngại duy nhất cho việc
bình định hoàn toàn tỉnh, một người trong bọn họ nói là các đồn bót, chúng
đã làm xao động dân chúng và tiêu hủy uy quyền dân sự, là cái duy nhất đem
lại bình yên và thịnh vượng.
“Nếu tôi gọi đến giới chức quân
sự, một người khác nói, chắc họ sẽ để cho cuôc nỗi loạn bộc phát và tậptrung
mọi lực lượng để đàn áp, rồi một cuộc chinh phạt sẽ tiếp theo,,và tỉnh đó sẽ
đầy lửa đạn và máu. Phương tiện vững chắc và mau chóng nhất là dùng cảnh sát
bản xứ và để cho các quan chịu trách nhiệm. Kết quả đã nắm trước được.”
Nhưng vô luận thế nào, các giới
chức quân sự cũng không muốn sự hợp tác của quan lại : đối với giới chức dân
sự, quan là một kẻ giúp việc, đối với giới chức quân sự thì đó là một kẻ
phản phúc và thù địch.[16]
Bất chấp sự va chạm về vấn đề
quân số nổ ra ở Pháp, Richaud vẫn cương quyết giữ lập trường của mình : “Lúc
nầy không nên rút ra lấy một người ”[17]
Quân đội cần phải có mặt để làm nản lòng các quan lại lúc nào cũng chực gây
rắc rối, cần phải làm thế nào cho dân chúng không sẵn sàng với họ.[18]
Trong số các nguyên nhân của sự
chống đối mà người Pháp gặp phải, Richaud tìm ra một nguyên nhân chính : Sự
vắng mặt của một sự áp chế hữu hiệu đối với các quan và các tổ chức cai trị
trong xứ. Tổ chức nầy, người Pháp trước kia tin là có lợi cho họ, “nhưng
chúng ta đã lầm là sự thực mà ngày nay chúng ta không kềm chế được nó. Được
tổ chức và tập trung mạnh mẽ, bộ máy cai trị nầy có thể nằm trong tay chúng
ta hoặc như một dụng cụ đàn áptốt, hoặc như một kẻ thù mạnh mẽ như ngày
nay.”
“Thực vậy, làm sao thừa nhận
được rằng trong các vùng mà quân đội chúng ta ngăn chnậ không cho mọi cuộc
khởi nghĩa toàn diện hay tinh thần xẩy ra, và có thể nói rằng xiết chúng ta
trong một màn lưới thép, mà do đó trật tự toàn diện được thiết lập, làm sao
thừa nhận được rằng các toán trộm cướp vũ trang khiến chúng ta thường xuyên
bị thất bại trong khi mà thôn ấp được tổ chức hoàn hảo và theo luât có trách
nhiệm Pháp, An Nam, đứng đầu tại mỗi Tổng , mỡi Tỉng có nhiều viên chức và
quan lại chịu trách nhiệm duy trì trật tự và an ninh ? Làm sao thừa nhận
được rằng các toán đó được thành lập và tuyển mộ người, thương ngay tại
trong làng mà các quan không hề hay biết gì về cảnh vô trật tự ? Nếu các
quan đó được các kẻ dưới quyền báo tin đầy đủ -và họ được- và nếu họ tin ở
chúng ta sự có mặt của quân trộm cướp cùng hàng ổ của chúng, và nếu họ thực
sự quy trách cho các làng chứa chấp, thì chỉ trong thời gian ngắn thôi, há
chúng ta không thấy được trật tự hoàn toàn được ngự trị trên mọi nơi của
lãnh thổ sao ?
“Còn thuế má, có một sự thật,
khổ thay, không thể phủ nhận được đó là chưa tới một phần tư số thu hiện
nay, chui vào quỷ chúng ta, và quan lại đã khéo léo loan truyền tin đồn, vì
để thỏa mãn nhu cầu chúng ta mà thuế má nặng nề.”[19]
Đó là vai trò tai hại mà các
quan đã đóng. Còn Văn thân, họ lại nguy hiểm hơn nữa :
“Đông đảo, cảm thấy bị đẹ dọa
trong đời sống, tham lam, có học, thông minh, hiếu động, có một ảnh hưởng
đối với dân chúng, thấy rõ rằng cuộc cách mạng mà sự hiện diện của chúng ta
đem lại sẽ bất lợi cho họ, họ xúi giục dân chúng nổi loạn . Ở một xứ mà giáo
dục được phổ biến nhiều như ở Trung kỳ, vấn đề quan lại và Văn thân sẽ luôn
luôn là một trở ngại cho công trình thuộc địa chúng ta. Do đó tại sao trước
hết chúng ta phải đương đầu với tình trạng mà sự có mặt của họ đã gây ra, và
vì lẽ chúng ta không tiêu diệt được họ, chúng ta phải dùng họ, nhưng muốn
dùng, trước hết chúng ta phải canh chừng các hoạt động của họ, hiện nay
chúng ta không thể làm được. Đối nghịch với tổ chức mạnh mẽ của họ dựa vào
tổ chức hành chánh và chánh trị trong nước, chúng ta chỉ có một tổ chức phôi
thai và không lãnh đạo. Vì thật là buồn khi nhận thấy rằng chúng ta tuyệt
đối thiếu sự lãnh đạo ở Bắc kỳ, mà chúng ta lại vấp phải những kẻ khôn ranh,
lợi dụng tuyệt hảo mọi mâu thuẩn trong hành động chúng ta, sự rời rạc trong
chính sách chúng ta và biến chúng ta thành khí giới để quay lại chống chúng
ta.”[20]
Làm sao sửa chửa tình trạng tồi
tệ đó ? Thiết lập một sự kiểm sóat chặt chẽ các tổ chức hành chánh An nam,
kiềm chế nó :
“Chùng nào chúng ta không bao
trùm Bắc kỳ bằng mop65t màng lưới cai trị có thể đi vào được bộ phận nhỏ
nhất của nền cai trị bản xứ, và liểm soát hành vi của nó thì uy quyền của
chúng ta vẫn còn mong manh. Chính là muốn tự tạo ảo tưởng cùng nói suông,
khi bảo rằng sự bình định đã xong xuôi. Bình định vật chất có nó trong nhất
thời hoặc vì mệt mõi hoặc vì có sự trùng hợp quyền lợi giữa viên chức cao
cấp bản xứ cùng chúng ta. Nhưng sự bình định tinh thần, việc đó cần phải
làm, và nó chỉ có khi nào chúng ta đã thiết lập và tăng cường màn lưới cai
trị mà mỗi sợi nhờ phải ở trong tay chúng ta, nghĩa là khi chúng ta nắm giữ
chặt các viên chức cai trị bản xứ bằng các viên chức chúng ta. “[21]
Nhưng cả điều đó vẫn chưa dủ.
Quan lại Richaud khẳn định vẫn còn phản chúng ta chừng nào mà chúng ta còn
chưa làm cho họ cảm thấy mọi hoạt động của họ, chúng ta đều biết, và nhất là
chừng nào mà chúng ta chưa nắm lấy triều đình Huế trong tay. Và đó là mối lo
âu chính của Richaud.
b. Đừng bịt mắt trước sự thật
nữa, y nói : nguồn gốc và đầu não phong trào khởi nghĩa nằm tại Huế. Sự xáo
trộn liên miên, làm chúng ta phải canh chừng mãi, và làm chúng ta không khai
thác được lợi lộc trong cuộc chiếm đóng, do các hoạt động ngấm ngầm của quan
lại và triều đình Huế của Tự Đức cho đến ngày ổng chết và cho đến nổi ngay
khi ổng nằm trên giường chết vẫn mơ ước lấy lại Nam Kỳ, đã gây ra tại đó
nhiều cuộc nổi dậy. Mới tháng trước đây, tại Sa Đéc ở Nam kỳ, chúng ta khám
phá ra một ông quan phát bằng cấp để phát động một cuộc nổi dậy. Thế đó, nếu
sau 30 năm chiếm đóng, quan lại còn tìm cách xúi dục nổi loạn ở Nam kỳ, và
còn có một số người nghe theo, thì ở Bắc kỳ họ còn dễ dàng đến đâu khi mà
chúng ta vừa mới đặt chân vào chỉ hôm sớm thôi ?
Vì thế tại sao “chúng ta phải
nhất quyết hành động và tập trung mọi nỗ lực để thiết lập ưu thế chúng tan
gay tại trung tâm, tức là tại Huế ? “ Richaud đề nghị dời phủ Toàn quyền
Đông dương đến kinh đô Trung kỳ : “Chính phủ sẽ làm một biện pháp rất đúng
nếu ra lệhn cho vị Toàn quyền đóng tại Huế. Tôi đi xa hơn : nếu liên hiệp
Đông dương mà có thì vị Toàn quyền phải đóng tại đó, vì rằng chính tại đó là
nơi có mọi khó khăn, chính tại đó là nơi phát sinh mọi mưu mô cản bước hành
động chúng ta.
“Vị Toàn quyền ở Saigon, quá xa,
ông phải ở ngay trung tâm xứ mà chúng ta bảo hộ, để nắm vua, nhất là các
thượng thư thân cận nhà vua, trong tay mình. Ở tại trung tâm, là nơi có vua,
các đình thần, hội đồng cơ mật và thượng thư, là nơi tổ chức các âm mưu, ông
ta sẽ hành động trực tiếp lên họ, áp đặt ý muốn của ông ta vì những gì liên
hệ đến Bắc kỳ, cho những lời cố vấn về Trung kỳ, và những lời cố vấn nầy, có
thể có tính cách mệnh lệnh nếu dính líu đến quyền lợi chúng ta.
“Vì rút cục, đây không phải là
đi làm việc nhân đạo, và nói suông. nếu nền bảo hộ của chúng ta phải bất
động và lý tưởng, thà rằng chúng ta rút lui. Mọi nền bảo hộ không đưa đến sự
chinh phục hoàn toàn cả xứ, là một sự phỉnh phờ.
“Tôi không nói rằng kết quả sau
cùng đó phải đạt được ngay trong ngày mai, và trong một hạn kỳ nhất định,
nhưng mọi hoạt động hướng dẫn hành động chúng ta đều phải nhằm mục đích đó.
. Bằng cách theo một chính sách lợi dụng ngay những trường hợp bé nhỏ để
bành trướng thế lực chúng ta, không bao lâu nữ chúng ta sẽ làm chủ hoàn toàn
xứ nầy.”[22]
Và Richaud mời người khác lưu ý
rằng các trường hợp đưa người Pháp đến chổ dùng vũ lực chiếm nhiều tỉnh ở
Trung kỳ và nhiều vị trí chung quanh Huế : “vậy chúng ta hãy ở đây, thay vì
rút lui, trái lại hãy tăng cường lực lượng ở đây. Giảm bớt, nếu muốn, số đồn
bót, nhưng hãy tập trung lại tại một số điểm chiến lược để giữ xứ nầy. Và
tôi xin lập lại, chúng ta không phải đi gây chiến, chúng ta ở Trung kỳ là do
một điều khoản trong hiệp ước, chúng ta hãy ở lại ! “[23]
Sự thực là vua Đồng Khánh, con
đẻ của Pháp, bây giờ và mãi mãi sau nầy sẽ trung thành với nước Pháp, vì
thế, “quan trọng nhất là chúng ta tránh làm mích lòng ông ta vì những hành
vi vụng về, vì những xúc phạm tinh thần, vì những sự bất kính làm ông ta bực
mình, vì ông ta có ý thức cao độ về chức vị và quyền hành vua chúa của
mình.”[24]
Khốn thay không phải ông điều khiển việc nước. “Từ lâu rồi, ở Trung kỳ, danh
giá nhà vua chỉ còn có tính chất tế tự và thiêng liêng, và tầng lớp nho sĩ,
mạnh mẽ, đã từ lâu đưa nó đến tình cảnh gần như có tính cách hình tượng tế
tự. Chúng ta cần phải áp chế từng lớp Văn thân và quan lại đang nắm giữ mọi
địa vị và mọi chức vụ nầy ,”[25]
Vì thế chúng ta phải, Richaud
nói, làm nhiều để đem lại cho ông vua nầy - một trong những lực lượng có ích
nhất mà chúng ta có thể khai thác có ích cho chúng ta – toàn thể uy quyền
cần thiết để trấn áp cận thần ông ta, vì chính tại đó, trong các hội viên
hội đồng cơ mật , trong các thượng thư, trong các quan to, chính đó là trung
tâm của mọi sự chống đối lại hoạt động và thế lực chúng ta. Các người đó
“chưa thành thực theo chúng ta, họ tiếc tình trạng củ, miễn cưỡng chịu đựng
sự can thiệp của chúng ta vào các vấn đề của vương quốc, và bất đắc dĩ họ
mới nhường những điểm cần thiết cho chúng ta. Họ quá già và quá tự phụ về
địa vị cao cả của họ để mà cố gắng tìm hiểu văn minh của chúng ta và để thấm
nhuần nó, họ chịu đựng nhẫn nhục một cách rõ rệt một tình trạng mà họ không
ngăn cản được, nhưng chúng ta sẽ tự gây ảo tưởng to lớn nếu hy vọng là chinh
phục được cảm tình họ hay mong được họ giúp đở, trung thành.”[26]
Richaud cho rằng điểm phải đưa
lên hàng đầu trong kế hoạch của y là phải lôi kéo ngày càng chặt chẽ ông vua
do y muốn của Pháp lập nên phải đi theo quyền lợi nước Pháp,[27]
Điều cốt yếu của chính sách Pháp là trút đầy vinh dự lên ông ta, nâng uy thế
ông ta, giúp đở ông ta củng cố uy quyền đối với các quan “nhưng phải có lợi
cho chúng ta “[28]
Về thái độ của người Pháp đối với vua nầy, Richaud khác hoàn toàn Constans
nhất là về điểm nầy, Richaud ttrách người trước y và viên thống sứ Hector đã
đối đãi với ông vua như hai nước đối đãi nhau, “Nhưng ođ1 là kẻ thù mà chúng
ta bảo hộ, nhất là Đồng Khánh do chúng ta đưa lên làm vua, y phải dưới quyền
của chúng ta “.
Sai lầm lớn nhất của chính sách
Pháp là, theo Richaud không biết cái gút của vấn đề Việt nam nằm tại Huế.
Nếu Rigault de Genouilly, thay vì rút quân chở về Sài gòn, mà nhắm Huế thẳng
tiến, như giám mục Penlerin khẩn thiết khuyến cáo, vấn đề Việt nam có lẽ đã
giải quyết xong từ lâu. Garnier năm 1883, cũng vậy, đáng lẽ họ phải đi thẳng
đến thủ đô.
Chúng ta đừng phạm lỗi lầm đó,
“Tôi không thể không lập lại mãi rằng trung tâm hoạt đông của chúng ta phải
là Huế…Đến ngày chúng ta đứng vững ở thủ đô vương quốc, chế ngự các hội đồng
nhà vua, giám thị âm mưu các quan, chúng ta hòa giải về mặt hình thức, nhưng
cương quyết và mau lẹ, khi đàn áp sự sai lạc của họ, tôn trọng hình thức
quan quyền cổ truyền của họ, có lúc ủng hộ nữa, cũng tôn trọng phong tục,
tập quán, tất cả đều để phục vụ hành động của chúng ta, khi nào chúng ta có
được có được một tổ chức cai trị cho phép chúng ta kiểm soát vững chắc hành
vi các quan hàng tỉnh đến độ cho họ cảm thấy rằng không có gì thoát khỏi tai
mắt chúng ta và chúng ta cương quyết trừng trị mọi cố gắng phản bội của họ,
ngày đó, chỉ cần dựa vào một đội quân chiếm đóng ít ỏi, chúng ta cũng làm
chủ cả nướcnầy. Trước khi đến ngày đó chúng ta phải cảnh giác”[29]
Cũng thuộc loại ý kiến đó,
Richaud ra lệnh cho giớiu chức quân sự tại Huế duy trì tại thủ đô – nhưng
vẫn tập trung tại một điểm xa cung vua để đừng khiến cho dân chúng nghỉ rằng
ông nầy là tên tù của người Pháp - một số quân đầy đủ “để giúp vị khâm sai,
nếu cần thì dùng sức mạnh để hổ trợ đòi hỏi của mình và để bảo vệ mạng vua
chống lại mọi âm mưu và mưu đồ của các quan”[30]
Mặt khác, y còn khiến triều đình
Huế chấp nhận một nghị định, qui định các mối tương quan phụ chánh và các
hội đồng với viên khâm sứ, theo đó, nhiếp chính viên và các hội đồng nhà
vua không được quyền ra lệnh, không được làm làm bất cứ việc gì nếu không có
sự can thiệp của Pháp. Sau đây là bản văn của nghị định đó:
“Nhiếp chính viên mỗi ngày họp
một lần để giải quyết các việc thông thường, báo cáo tóm tắt với đức vua,
việc báo cáo hàng ngày nầy sẽ bằng giấy tờ nếu là các việc quan trọng.
“Ngoài những phiên họp thường
lệ, sau khi được vị khâm sứ đồng ý, nhiếp chính viên sẽ họp để nghiên cứu và
thẩm xét các vấn đề không thể giải quyết trong các phiên họp thường lệ. Về
phần Viện Cơ mật, vị viện trưởng cùng vị Khâm sứ thỏa thuận nhau ấn định
ngày, giờ triệu tập. Vị khâm sứ sẽ thm dự hay cử người đại diện tham dự các
khóa họp của các viện.
“Mỗi viện phải có sổ chép thành
hai bản sao :
1- Để ghi biên bản tóm tắt mỗi
phiên họp, ghi những vấn đề nghiên cứu, các giải pháp phải theo, các đề nghị
đưa ra.
2- Để ghi tóm tắt những văn thư
từ các tỉnh gửi đến.
3- Để ghi tóm tắt các văn thư
gửi đi các tỉnh.
“Một bản sao của mỗi quyển sổ
được lưu lại tại viện, bản kia nộp cho tòa Khâm, Hội viên của viện và vị
khâm sứ ký vào các biên bản.
“Ở các bộ Lại, bộ Hộ, bộ Hình và
bộ Công đều có hai quyển sổ, một quyển ghi tóm lược các lệnh hay các văn thư
gửi đi các tỉnh, một quyển ghi tóm lược các văn thư từ các tỉnh gởi về. “Các
sổ đó được sao thành hai bản, ngày nào cũng có một nhân viên của bộ do quan
Thượng thư ủy nhiệm và một trưởng phòng tòa khâm duyệt lại. Một bản sao các
sổ được giữ lại ở bộ, còn bản kia nạp cho tòa khâm”[31]
Rõ rệt là với nghị định nầy,
triều đình Huế bị khống chế hoàn toàn.
Đắc chí về kết quả đó, Richaud
phê bình, trong một phiên thảo luận tại quốc hội ngày 28-2-1889, chính sách
“xóa mặt” của Constans, mà y cho là đã biến toàn quyền thành một đại sứ hay
một sứ thần bên cạnh vua An Nam chứ không phải là một giới chức bảo hộ. Đem
so sánh với chính sách của mình, y nói: “Chúng ta đã can thiệp ngay trong
việc giải quyết các vấn đề nhỏ nhặt của kho bạc nhà vua…và sau cùng, ngày
nay, chúng ta khống chế tại các hội đồng của triều đình và không có mệhn
lệnh nào truyền cho giới chức bản xứ mà không được thông tri cho chúng
ta…Chính đó là nền bảo hộ thật sự.”[32]
Trong phần trả lời, Constans lúc
đó làm Bộ trưởng Nội vụ, nghiêm khắc lên án chế độ quân sự mà Richaud đã áp
dụng có hệ thống, chế độ khe khắc, cũng như mất lòng người, chắc chắn cuối
cùng sẽ làm cho triều đình Huế và cả nước nổi dậy chống nước Pháp.[33]
Sauk hi Boulanger bỏ trốn,
Constans thành người chủ mạnh mẽ có toàn quyền, đã không còn ghép bộ thuộc
địa vào bộ Hải quân do Kantz nắm giữ mà y cho là không đáng tin cậy mấy, mà
ghép bộ thương mại hiện nằm trong tay Tirard mà y cho là mềm dẽo hơn nhiều.
Y đặt Étienne vào chức Thứ trưởng bộ Thuộc địa hiện nằm trong tay Delaporte,
người che chở cho Richaud, và ra lệnh cách chức tên nầy.[34]
II CHÍNH SÁCH XÂM LĂNG VÀ SÁT NHẬP ĐẤT ĐAI.
Chúng ta biết rằng hiệp ước 1884
đã trả lại cho Trung kỳ 3 tỉnh phía Bắc (Thanh, Nghệ, Tỉnh) mà hiệp ước 1883
đã sáp nhập vào Bắc kỳ, và 2 tỉnh phía Nam (Khánh Hòa, Bình Thuận) mà cũng
hiệp ước đó sáp nhập Nam kỳ. Rõ ràng biện pháp nầy đi ngược lại quyền lợi
của các giới chức Pháp ở Bắc kỳ và ở Nam kỳ, một đằng vì quyền lợi của các
phái bộ gia tô tại các tỉnh đó, một đằng, giới chức trên mất quyền kiểm soát
đất đai trực tiếp, giới chức dưới lại thấy bị đặt dưới sự kiểm soát của quan
lại Huế, kẻ thù của họ.[35]
Vì thế, đối với giới chức nầy cũng như đối với giới chức kia, vấn đề là phải
khôi phục lại các tỉnh đã mất.
Mặt khác, sự bất hòa giữa giới
chánh phủ dân sự và giới chức quân sự Bắc kỳ ngày càng trở nên sâu xa sau
khi Richaud từ giả. Toàn quyền Picquet, thuộc phe chính trị dân sự, thuờng
xuyên chống đối tướng Bichet, viên chỉ huy đoàn quân chiếm đóng, tên này
được giám mục Puginier ủng hộ, ngoan cố theo đuổi chính sách xâm lăng Bắc
kỳ.
Chúng ta lần lượt xét đến chính
sách thôn tính Trung kỳ và chính sách xâm lăng Bắc kỳ .
I- Các cố gắng
sáp nhập các tỉnh miền Nam Trung kỳ :
Vì triều đình Huế hết sức tha
thiết giữ tỉnh Thanh Hóa, nơi chon nhau cắt rốn của họ Nguyễn, ở lại Trung
kỳ, người Pháp sau khi suy nghỉ chín chắn, không cho rằng nên gần các khó
khăn về các tỉnh phía Bắc, trái lại họ hướng về hai tỉnh phía nam mà họ muốn
ghép vào Nam kỳ.
a- Việc chiếm Bình Thuận và
Khánh Hòa :
Sau khi Pháp chiếm Nam kỳ, một
số đông quan lại trốn khỏi xứ nầy và lánh nạn tại Bình Thuận, tỉnh tiếp giới
với thuộc địa mới của Pháp. Đối với giới chức Pháp, Bình Thuận là trung tâm
kháng chiến Việt nam và là mối đe dọa thường trực cho nền an ninh của Nam
kỳ. Đối với các kẻ truyền đạo, Bình Thuận “thiên đàng của các quan sát và
địa ngục của các con chiên”. Khắp nơi họ nói, các vụ tàn s1t nổ ra với tiếng
gào thét “trước hết, hãy giết giặc Pháp bên trong, rồi sẽ đuổi được giặc
Pháp bên ngoài ”. Trong 6 tỉnh phía Nam, từ Quảng Nam đến Bình Thuận, có
40.000 con chiên, thì đã hơn 25.000 bị giết, tài sản bị cướp hay tiêu hủy
hoàn toàn.[36]
Nhiều lần các kẻ truyền đạo ở
các tỉnh miền nam trung kỳ yêu cầu Thống đốc Nam kỳ can thiệp, giám mục Von
Camelbeck ở Bình định và linh mục Maillard ở Quảng nam còn khuyên y mở “một
cuộc thánh chiến thật sự chống lại bọn ngoại đạo”.[37]
Cuối năm 1884, thống đốc
Thompson cử Aymonier, công sứ Pháp ở Cambodge đi công cán ở Bình Thuận và
Khánh Hòa. Dưới hình thức một nhà dân tộc học đến các tỉnh để nghiên cứu đời
sống cùng phong tục Chàm ít người, Aymonier sẽ phải cung cấp cho Thompson
mọi tin tức liên hệ đến các vùng nầy.
Với sự giúp đở của các kẻ truyền
đạo nhất là hai linh mục Auger và Vullaume, Aymonier đi khắp nơi và tiếp xúc
với người Chàm, một dân tộc “bị tầng lớp Văn Thân bốc lột” và “còng lưng
dưới ách thống trị của giới quan lại gồm tất cả những kẻ được mớm sự ngụy
biện của các thánh hiền Trung quốc”[38]
Y nẩy ra ý tưởng xúi dân Chàm nổi dậy chống chính quyền Việt nam. “Thực tế
là nếu tin chắc được ủng hộ, và không bị bỏ mặt cho người An Nam trả thù,
người Chàm ở Bình Thuận ngày nào mà Pháp muốn, sẽ cống hiến cho người Pháp
một số người hết sức trung thành từ 50.000 đến 60.000 người …Đã đến lúc đưa
ra các biện pháp, mỗi ngày họ mỗi bị cướp bóc và tàn hại một cách có hệ
thống, họ nợ nần và bán ruộng đất cho người An Nam…Trong vòng 3 tháng nữa,
kể từ ngày tôi rời khỏi nơi đây…Tôi sẽ thu lượm được nhiều chứng cớ cho một
cuộc điều tra dù còn nông cạn, nhưng cũng đủ làm cho tôi trở nên người thông
dịch cho hơn 10.000 người đau khổ còng lưng dưới sự áp bức nhục nhã đáng
nguyền rủa nhất đang đợi những ngày đẹp đẽ hơn và đang chờ nước Pháp”.[39]
Cũng giống như các tín đồ Gia tô
và người Bcắ kỳ, người Chàm trông đợi người Pháp như chờ đợi người giải
phóng !
Để “giải phóng” các người Chàm
khốn nạn đó, Aymonier đã trình cho thống đốc nam kỳ một ý kiến kỳ lạ mà
chính y cũng phải thừa nhận là khó đứng vững về mặt pháp luật quốc tế, nhưng
lại tin là có thể đòi được ở chính phủ Huế : xem người Chàm như là người
nước ngoài và đặt trực tiếp dưới pháp luật của Pháp.[40]
Trở về Saigon, Aymonier bỏ ý
kiến đó, đòi chiếm hai tỉnh Bình Thuận và Khánh Hòa và y nói con chiên đang
bị tàn sát và dân chúng bị kẻ làm loạn tàn phá sau khi vua Hàm Nghi bỏ đi.[41]
“Con chiên An Nam bị tàn sát đầy dẫy với sự cương quyết man rợ theo những
khẩu hiệu đã được chuẩn bị từ lâu… Chưa có tin tức gì được thoát ra về những
gì đang xẩy đến tại các tỉnh phía nam vùng Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận mà
con chiên nếu còn bình yên chắc đã trốn một số ít ra Qui Nhơn vì đang lúc
gió mùa thuận lợi. Đây là một sự im lặng không lành, một sự im lặng của thần
chết.”
“Tuyệt đối cần dựa vào các phần
tử phi An Nam để hiện nay cũng như sau nầy chống lại đừng bỏ qua 50.000 dân
Chàm ở Bình Thuận mà một nửa theo đạo Hồi, những người Chàm đó sẽ trung
thành với chúng ta khi nào họ chắc chắn được ủng hộ… Việc chiếm các tỉnh đó
đối với Nam kỳ thuộc Pháp là một biện pháp hoàn toàn tự vệ. Cái bóng ma
chính phủ đóng tại Huế không hoạt động gì quá tầm súng quân đội chúng ta và
rất có thể rằng toàn thể Trung kỳ sẽ nằm trong lửa.”[42]
Về kế hoạch chiếm đóng, ngoài
quân đội và vài chiếc tàu, Aymonier đề nghị biện pháp hơi khác thường : chở
tức khắc cho y các người Hồi bị đày và bị kết án ở Algérie và Tunisie, vậy
phải dốc trống các nhà tù và nơi đày ải nhưng lại chỉ giữ các người lành
mạnh. Những người bị tù đày đó Aymonier sẽ phân tán cho người Chàm can giữ
và nếu hạnh kiểm xấu thì sẽ bị trừng trị. Nhiều người nầy chắc sẽ cưới vợ vì
đàn bà Chàm nhiều hơn đàn ông. Đàn ông “chết vì bị quan lại An nam trưng tập
bắt làm xâu dịch nặng nề” những người Hồi đó chắc sẽ bảo đảm vững vàng cho
người Chàm .[43]
Thônố đốc Nam kỳ hoàn toàn tán
đồng kế hoạch sáp nhập của Aymonier. :Thực vậy, các tỉnh Bình Thuận và Khánh
Hòa quá xa Huế và rất gần Sai gòn. Việc sáp nhập chúng vào Nam kỳ đem lại
cho chúngh ta các biên giới thiên nhiên rất tốt, được tạo thành bởi các eo
gần mũi Hoàng sa và trong tương lai sẽ bảo đảm được an ninh cho thuộc địa
chúng ta bằng cách chặt làm hai khúc, xứ trung kỳ là nơi mà dân chúng quyết
liệt chống lại mọi sự đồng hóa, sẽ gây cho chúngh ta các sự bối rối to lớn
và lâu dài do lòng căm thù sôi sục của quan lại và Văn Thân chống chúng ta.”[44]
Nhiều báo cáo từ Sai gon gửi về
Bộ hải quân và thuộc địa trình bày bằng một giọng bi thảm vế phong trào khởi
nghĩa của hai tỉnh đó, về các vụ thảm sát con chiên ngày càng dữ dội và cả
về sự giúp đở của Trung quốc cho quan lại khởi nghĩa nữa ! Bộ ngoại giao
được bộ Hải quân hỏi ý kiến, cuối cùng đã tán thành sự xuất chinh mà thống
đốc nam kỳ đề nghị : “Tình thế…có tính chất biện minh cho mọi biện pháp đề
phòng của ông thống đốc nam kỳ.”
Do quyết định 13-3-1886, bộ
trưởng ngoại giao bổ Aymonier làm công sứ biệt phái tại Bình Thuận. Việc bổ
nhiệm nầy là vi phạm trắng trợn hiệp ước 1884, vì hiệp ước chỉ thừa nhận một
công sứ cho toàn Trung kỳ.
Paul Bert được thống đốc Nam kỳ
cho biết ngay từ đầu kế hoạch sáp nhập, đã hứa ủng hộ hoàn toàn, “tôi tán
thành hoàn toàn ý định của ông về Bình Thuận và cám ơn ông về ý định đó” Y
nói thế với thống đốc Philippine trong điện tín ngày 29-6-1886.
[45]
Y để cho Nam kỳ được toàn quyền vế các biện pháp áp dụng ở Bình thuận, còn
y, chỉ vận động cho triều đình Huế chấp nhận ít nhất là trên nguyên tắc cuộc
xuất chinh nầy mà y trình bày như là một biện pháp cương quyết dùng để đàn
áp các phong trào ủng hộ vua Hàm Nghi và nâng cao uy quyền của Đồng kháng
đối với dân chúng.[46]
Bình Thuâ75n và khánh Hòa bị
chiếm ngày 7-8-1886 việc đàn áp thật là khủng khiếp, Aymonier nhờ nhất vào
s6ự giúp đở của tên thiên chúa giáo Trần bá Lộc, tên hợp tác tốt nhất, can
đảm nhất và kỳ cựu nhất của Pháp, y hiện đang làm tri phủ sau khi qua lần
lượt các cấp bậc dưới của cơ binh, trước kia y đã được Pháp dùng và thành
công trong việc đàn áp các cuộc khởi nghĩa ở Nam Kỳ và nổi tiếng là tàn bạo
và tham lam. Tri phủ Lộc “chặt nhiều đầu” chính y đã viết như thế trong một
bức thư, lại còn bắt những người có liên hệ với kháng chiến bối thường, và
vì thế y được khen thưởng Bắc đẩu bội tinh hạng 3.
[47]
Chỉ có sự tàn bạo của viên chỉ
huy của tên Lộc là ngang hàng với sự tàn bạo của y : “Tôi đã ra lệnh
Aymonier viết trong một báo cáo, đốt nhà và cướp bóc thật là nhỏ nhen, vì
tất cả đ ồvật có giá trị đều bị lấy hết, nhà cửa của các lãnh tụ cầm đầu,
các kẻ cộng tác cũng làm thế, với sự đồng ý của tôi. Đó là cái mà tôi gọi
là phương tiện tâm lý nhằm hai mục đích : khủng bố những kẻ làm loạn và củng
cố lòng trung thành của quân đội bản xứ mà dù sao thì động cơ không lấy gì
làm cao thượng cho lắm.
“Ngoài ra khi các kẻ cầm đầu
phiến loạn bị đuổi bắt và truy nả ở chổ xa, trong rừng, trên núi, sau những
cơn mệt lữ, tôi cũng như người giúp việc không bao giờ có ý định ngăn cản
quân đội cướp bóc tiền bạc hay vâậ dụng của các tên cầm đầu phiến loạn :
chiến tranh có những cái khắt khe mà chúng ta phải thể hiện xa vời với việc
dập tắt các việc đó, tôi còn đưa các đồ cướp được đó, các chiến lợi phẩm đó,
làm phần thưởng chính đáng cho kẻ truy nã.”[48]
Tại Huế, vua và các viện cơ mật
hết sức bối rối khi được tin về Bình Thuận và Khánh Hòa. Họ không còn chút
nghi ngờ nào nữa, trước tầm to lớn của các biến cố về các ý đồ của Paul Bert
muốn sáp nhập ba tỉnh phía Bắc, hay ít nhất là tỉnh Thanh Hóa vào Bắc kỳ và
để cho Nam kỳ sáp nhập hai tỉnh phía nam.[49]
Nhưng triều đình lại cũng không phải không biết rằng ngày nào mà quan lại và
Văn Thân tin rằng vua thông đồng với chính sách sáp nhập là ông mất hết ảnh
hưởng có thể co với họ, trái lại ảnh hưởng của vua Hàm Nghi gia tăng đến mức
độ khá lớn, khiến cho khởi nghĩa lại đồng thời tái phát khắp nơi.[50]
b.- Chương trình Aymonier :
Trung thành với tư tưởng của
mình, Aymonier cố gắng xúi người Chàm chống lại người Việt. Bình Thuận như
chúng ta biết, gồm một số đông người chàm, trước kia họ là chủ xứ nầy, nhưng
phần lớn đất đai bị người Việt nam cần cù hơn, quyền biến hơn, chiếm giữ từ
ba, bốn thế kỷ, Aymonier tuyển mộ lính tráng trong số người Chàm đó và đưa
một vài người lên làm chánh tổng hay tri huyện nữa. nhưng chính sách thật
của y là Chính sách thiên chúa . Dù là người không tín ngưởng.
Aymonier quả quyết rằng sức mạnh duy nhất mà Pháp có thể dựa vào để làm chủ
thật sự xứ nầy là các nhà truyền đạo và các con chiên. Đây là lý do :
“Bổn phận chúng ta là bình định
xứ sở, nhưng quyền lợi tối cao của chúng ta là canh chứng không để cho sự
bình định đó một ngày kia quay lại chôn vùi chúng ta. Nếu cai trị là liệu
trước, chúng ta phải thăm dò các mối nguy trong tương lai ở tận bên kia các
khó khăn hiện tại.
Nhưng một khi x! ư sở được bình định rồi, mọi
người đều được bảo vệ, những kẻ hung hăng không gọi kẻ khác là bán nước, là
tay sai cho Tây, tất cả đều xích lại gần nhau. Lúc đó chúng ta không còn tin
được vào lòng trung thành của họ, dù là có điều kiện, ngoài những người
tuyệt đối tự hoại và các kẻ Parias bị cả hai phía bạc đãi, các con chiên.
Nếu triều đình Huế có những do
dự, những mò mẩm, những phân vân về chính sách Pháp cũng như các sự tranh
chấp của các người thi hành chính sách nầy, trái lại, từ lâu họ tin rằng
phải chiến đấu nhất là chống lại một kẻ thù hăng say, không đội trời chung ,
làm mất gốc giống nòi, chuẩn bị cho ngoại bang thống trị, đe dọa nền độc lập
xứ sở- một kẻ thù có tinh thần liên tục, kiên nhẩn mà chính sách Pháp không
có.”[51]
Muốn bàn đến vấn đề đó, tuyệt
đối cần thiết, theo Aymonier, bỏ thành kiến ch61ng đối giáo hội đang ngự trị
tại chính quốc và nếu đem thành kiến nầy du nhập vào thuộc địa, nếu có khi
nào có quyết định đó, thì hậu quả sẽ cực kỳ tai hại cho chính sách thực dân
:
Cách đây hai, ba thế kỷ, nhà
chíng trị nổi tiếng nhất hay chiến sĩ anh dũng nhất sẽ bị làm chục trước
công chúng - nếu không bị đày ải - nếu có danh hiệu là kẻ ngoại đạo hay kẻ
tân tong . Ngày nay, bên ngoài thì khác hẳn, những ai tin rằng cần bảo vệ nó
- đến mức độ nào đó – cũng thành đáng nghi, và lập tức bị xem là kẻ ủng hộ
tăng lử, nhưng chắc sẽ đến một ngày mà lịch sử kết án thành kiến mới nầy, vì
nó gây tai hại cho các thuộc địa mới cũng bằng, nếu không muốn nói là hơn,
thành kiến cũ tại chính quốc.
Kẻ viết những giòng nầy xin nói
rằng y tuyệt đối dững dưng trước các vấn đề giáo điều hay thuần túy tôn
giáo, y chỉ nhìn tương quan của chúng với công trình nước Pháp ở Đông Dương
và một người xây dựng nền cộng hòa Pháp thứ ba, há đã không nói đến thân chủ
tôn giáo nước Pháp và nói “chiến tranh chống tăng lử không phải là món hàng
xuất cảng” đó sao ? Sai khi phung phí tại xứ đó quá nhiều vật quí báu, vàng
và máu của nước Pháp, há nên để hy sinh cho các thành kiến đó, mà một ngày
kia phải rút lui nhục nhã chứ không tìm phương tiện hữu hiệu nhất để thống
trị đế quốc An Nam một cách vững chắc và có lợi ?
Khi ký hiệp ước 1884, triều đình
Huế đã nghĩ đến các phương tiện tiêu diệt sức mạnh huyền bí của các con
chiên . Để làm việc đó, họ dựng những pháo đài đại bác chống lại cơ sở chúng
ta tại Qui Nhơn và Huế. Các pháo đài Qui Nhơn bị loại trừ nhờ sự đề phòng
của vị lãnh sự, các pháo đài ở Huế đã làm việc trong đêm 5-7-1885. Chắc chắn
là từ 1882, có lẽ trước nữa, việc tàn sát các con chiên đã được thảo luận và
quyết định tại triều, rồi lần lượt hoãn lại vì nhiều lý do : cái chết của Tự
Đức, việc bắn phá Thuận An, sự bất hòa giữa các quan phụ chính. tất cả đều
được chuẩn bị, theo một kế hoạch đã suy nghĩ trước từ lâu, các buổi kinh vãn
khóa Siciliennes mới, một vụ thánh Barthélé my to lớn chắc chắn xẩy ra,
trong cùng một ngày trên toàn quốc. Vụ tấn công bất ngờ chống lại tướng De
Courcy ngày 5-7-1885 làm hỏng khẩu lệnh chung, nhưng do ai đã tổ chức sẳn
sàng các vụ tàn sát tự động nổ ra tại Quảng Ngải và lan tràn xuống phía Nam,
giống như một vụ lửa cháy với nhiên liệu có sẳn. Đó là điều không thể không
nhắc lại mãi trước thành kiến của người nầy và sự không biết gì hết, nếu
không là sự lỗi lầm của người kia… Nếu 40.000 tín đồ Thiên Chúa đó vẫn còn,
tôi sẽ đủ sức mạnh để giữ xứ nầy dưới quyền thống trị của chúng ta mà hầu
như không cần quân đội Pháp.”[52]
Làm thế nào để ủng hộ sự phát
triển ảnh hưởng và sức mạnh của con chiên và phái bộ truyền giáo ? Phương
cách dễ dàng nhất có thể thực hiện ngay là bắt tất cả dân không đạo bồi
thuờng cho dân có đạo. Chúng ta đừng quên rằng các tỉnh miền Nam Trung kỳ
nghèo, luôn luôn bị đói khổ rình rập, và chỉ sống được nhờ bao công phu. Làm
nghèo thêm người dân đã nghèo sẵn rồi nầy, Aymonier nghĩ, làm dễ dàng cho
các phong trào đổi đạo.
Nếu có lúc nào mà danh dự và
quyền lợi của nước Pháp kết chặt nhau, thì chính là trong vấn đề bồi thường
cho con chiên ban đầu là do các kẻ bức hại họ, và kế đó, là chính phủ An nam
phải chịu liên đới . Ngài sẽ nói rằng có một vấn đề quan trọng hơn, đó là
vấn đề Thuận Khánh mà triều đình Huế đòi lại một cách “khẩn thiết”. Đó là
quyền của họ, nhưng quyền của chúng ta, của ngài, là đòi cả xứ phải bồi
thường cho con chiên cùng đưa ra những bảo đảm nghiêm chỉnh trong tương lai…
“Chỉ tính 25 đồng hay 100 phật
lăng cho mỗi cái đầu bị chặt, theo lệnh trước kia của triều đình…thì phải
trả cho phái bộ sáu tỉnh liên hệ một số tiền bồi thường đến 2.500.000 phật
lăng và sẽ trả bằng đất công. nếu không đủ tiền. nếu sau đó, phái bộ lôi kéo
khá nhiều những kẻ mới theo, để bù đắp, hay vượt quá số thiệt hại, nếu người
An nam sẵn sàng theo đạo vì một đồng bạc hay một túi gạo, tự thâm tâm, tôi
thú nhận rằng, tôi không thất vọng tí nào.
trước khi giai cấp tăng lử trở
thành đáng sợ ở An nam, sẽ đến lúc một thiểu số con chiên – khá mạnh để cho
không ai có thể nghĩ đến việc tàn sát họ - làm cho mọi vụ nổi loạn không thể
xảy ra được.
“nhưng, người ta sẽ nói với tôi,
ông đi lần đến chiến tranh tôn giáo”. Đó là lý luận thường được lập lại mà
không nghiên cứu sâu xa sự kiện và hoàn cảnh, vốn sai lầm từ căn bản vì
không kề đến các vụ tàn sát hàng loạt có tính cách chính trị hơn là tôn
giáo. Thạt là một lời vu cáo có hay không có ý thức khi cho rằng, như người
ta thưoơng làm, có một cuộc chiến tranh tôn giáo, cùng với các việc sát hại
lẫn nhau, nơi nào mà nạn nhân tin rằng mình có thể tự vệ được, thì họ cố
làm, nhưng nhất định họ không phải là kẻ tấn công trước …
“ Nhưng chúng ta lại không dám
thẳng thắn ủng hộ con chiên, tại nhiều nơi, những nổi hà khắc, sự đối xử tàn
tệ được dành cho họ, khi người ta nghỉ đến đó, có thể nói là đã biện giải là
để trả giá các nỗi nghi ngớ.
“Cách hành động của tôi thì khác
hẳn, trong khi trừng trị nghiêm khắc ba, bốn con chiênlợi dụng tình thế mới
để đi bắt người ta bồi đền, hay để đi khảo tiền bạc của dân chúng, tôi đã
thẳng thắn ủng hộ khối người bị áp bức, vì làm thế là công bình và cũng do
quyền lợi chúng ta mà họ phải chịu áp bức. Tôi ra lệnh thu dụng và luyện tập
lớp thanh niên nếu họ không thấy có gì bất tiện. Tại Khánh Hòa, các vụ tàn
sát thật lớn, tôi ra lệnh bồi đền 10.000 đồng…tôi cũng không lo ngại về sự
phân phát tiền bồi thường ở Khánh Hòa, mong rằng phái bộ dem dùng làm tiền
quỹ đổi đạo, nếu thấy nên,”[53]
Đâu là những ích lợi người ta
thu được từ sự che chở có tính toán kỷ lưỡng cho phái bộ ? và đâu là vai trò
chính trị của đạo Thiên Chúa ?
“Tôi không có ý tưởng nào dùng
kinh cầu nguyện, hay cây rảy nước thánh để thiên chúa hóa kẻ vô đạo , nhưng
tôi không hề dửng dưng khi các nhà truyền giáo nói với tôi rằng nếu các tỉnh
đó vĩnh viễn ghép vào Nam kỳ , dân chúng, vì không còn sợ triều đình Huế,
quan lại và ccá vụ tàn sát có tính toán, sẽ đổi đạo hàng loạt. Tôi không
dửng dưng, chỉ vì trước hết, nhờ đó mà thuộc địa chúng ta ở An Nam được an
ninh.
“Cả ở Nam kỳ, sự khống chế không
được chắc chắn của chúng là để đem lại ít tiến bộ tinh thần vì con chiên ở
đó quá ít, để khối đông đảo quần chúng làm mồi cho sự tuyên truyền của các
ông đạovà các tổ chức bí mật, những người và tổ chức này sẽ ngày một phát
triển trong tương lai.
“Về phần tôi, nếu Khánh Hòa vẫn
còn 3.000 con chiên trước kia, tôi có thể yêu cầu rút bỏ đồn Hòn Khói và giữ
vững cả vùng Thuận Khánh bằng các phương tiện riêng của tôi.
“Điều mà tôi xin cho phái bộ là
những gì mà người Anh, tại Ấn Độ, đã cấp cho các nhà truyền đạo Pháp cũng
như các mục sư Anh, đó là sự công bình, sự kính nể và sự tài trợ tương đương
với kết quả họ đạt được về mặt giáo dục.
“Kết quả do các giáo viên thay
thế các sư huynh đem lại ở Nam kỳ, giảm, theo tỷ lệ ngược với số gia tăng
của tiền chi phí. Chúng ta không thể không nhắc mãi điều đó cho nước Pháp ,
là nước muốn xây dựng một thuộc địa ở Đông dương, 200 nhà truyền giáo, trong
ngắn hạn, tương đương với 10.000 người, có tốn kém gì lắm cho nước ta chăng
? Lúc nào cũng phải nhớ lại lời nói của Gambetta mà tôi đã trưng dẫn trên.
“Việc bành trướng đạo Thiên Chúa
mà chúng ta có thể ủng hộ ở đây, bằng rất nhiều cách, mà không mất phẩm cách
chúng ta và cả danh tiếng của một nước tự do tư tưởng nửa, không những củng
cố địa vị thống trị của chúng ta trong hiện tại mà còn trong tương lai nữa,
và cắt đứt mọi mưu mô của Trung quốc bằng cách đẩy lùi mọi ý tưởng sáp nhập
của họ. Vì thế , cần phải ủng hộ sự bành trướng nầy, đặc biệt hướng lên phía
Bắc
“Chúng ta lo sợ sự thống trị của
Linh mục ? Ngày nào mà con chiên có cơ thành đa số, thì phải nghỉ đến một
chính sách khác hơn. Hiện còn xa vời điều đó. Hiện giờ, nguy hiểm lớn lao và
cấp bách là ở chổ khác. Vì người ta thấy ở Nam kỳ, người ta có thể nói rằng
các nhà truyền giáo nắm giữ dân chúng, đàn bà và rtrẻ con. Những người An
Nam có học đều dể hoài nghi, viên chức bản xứ Thiên chúa giáo chúng ta nói
chung đều không phải là kẻ ủng hộ tăng lử, người An Nam có học rất dể bị
thương tổn vì sự can thiệp của các linh mục.
“Vì thế, đặt nguyên tắc bồi
thường hợp lý , nhất quyết áp dụng và dè dặt, ủng hộ rõ rệt các con
chiêntrong khi vẫn kềm chế các nhà truyền giáo và có khi phải dập tắt lòng
nhiệt thành thái quá của họ nữa. Theo tộì, là đã bước vào con đường có đầy
kết quả có ích…”[54]
Đó là chương trình mà công sứ
Aymonier chúng ta đề nghị với Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa, chương trình
mà y xem như là “bản di chúc viên chức” mà sự có ích, theo y, “không thể
chối cải được ”
Làm sao mà chương trình đó
“đường lối hành động đầy danh dự và công bằng nầy, và chắc chắn là đường lối
tốt ”, nói theo danh từ của báo cáo được đem áp dụng tại hai tỉnh vừa mới
sáp nhập vào nam kỳ ? Vấn đề nầy, chúng ta có một bằng chứng lý thúmang lại
do Lanessan, lúc đó làm dân biểu hạt Seine, được bộ trưởng ngoại giao cử đi
điều tra ở Đông dương , Lanessan viết :
“Trong khi tri phủ Lộc săn đuổi
và xử tử các kẻ làm loạn mà không xét xử gì cả, viên công sứ do Nam kỳ cử ra
bắt các nhà giàu đã có tham dự ít nhiều vào cuộc phản loạn, phải đónh tiền
bồi thường chiến tranh. Các viên chức lâm thời An nam chịu trách nhiệm phân
phối tiền bồi thường. Người ta thấy họ núp dưới bóng Pháp mà thực hiện những
món tiền kếch sù, trong các hành vi chóng vánh sơ sài cũng như độc tài.
“Chỉ một quyết iđ5nh của viên
công sứ là cũng đủ bắt cả tỉnh đóng các thứ tiền phạt đó. Đây là một ví dụ
về cách làm của ông. Ban đầu tỉnh Khánh Hòa bị phạt 1000 nén bạc, tức độ
64,000 phật lăng, và giao cho một viên chức An nam tùy ý phân phối trong dân
chúng. Quyết định của viên công sứ đã cẩn thận nói cho dân chúng biết rằng
số tiền phạt đó chỉ vừa phải vì cuộc nổi loạn ít mạnh mẽ, Ít lâu sau, viên
chỉ huy giáo khu Minh Hòa bị mưu sát bởi một người mà ông ta biết, và ông ta
chỉ rõ cho tôi biết tên họ lẩn chổ ở của người đó, viên công sứ liền phổ
quát hóa sự trừng trị, ông buộc hai làng phải trả cho người bị thương 500
đồng, và toàn tỉnh Khánh Hòa phài bồi thường trên 1000 nén bạc và quết định,
những người tự hại nhất trong cuộc nổi loạn “hay những kẻ giàu nhất” phải
chia nhau mà trả. Cũng khoản thời gian đó, chi nội quận Ninh Hòa, theo lời
của người bị thương mà tôi nói trên, có 45 con chiên, và theo lời của vị
truyêề giáo tại chổ thì có những 100. Tôi nghỉ không cần nói rõ các nỗi bất
tiện của các phương pháp trên. Giao việc bắt nộp và chia xẻ tiền bồi thường
cho các viên chức An nam không được coi là thanh liêm, trong một xứ hổn loạn
vì nội chiến mà sự tố cáo để kiếm tiền là khí giới thông thường của các phe
phái, có thể nói rằng, làm thế là gây sự lạm dụng. Các việc nầy vốn đã không
phải không có.
“Tổng số tiền phạt do các viên
chức có trách nhiệm thu được, theo lời các giới chính thức, vượt quá 1/3 số
tiền nộp vào quỹ bồi thường chiến tranh.
“Mặt khác, sự tố cáo, trả thù cá
nhân, việc bắt các Phật tử bồi thường cho các con chiên đã gieo rắc vào dân
chúng hai tỉnh nầy các mầm móng chia rẻ và nội chiến, không sớm thì muộn
cũng sẽ gây nên các hậu quả đáng buồn.
“Ảnh hưởng của chúng ta chỉ có
thể là cái đầu tiên phải gánh chịu thiệt về các điều đó, vì người ta qui
trách nhiệm cho chúng ta, không phải là vô lý, vì mọi lạm dụng đã có. Vã
lại, tất cả những gì xảy ra tại các tỉnh nầy hình như đều do việc quên đi
các qui tắc cai trị và các hành vi chính trị hợp thời. Tiền phạt bồi thường
chiến tranh không nộp vào quỷ Nam kỳ cũng như không vào quỷ Trung kỳ mà hai
tỉnh Khánh Hòa và Bình Thuận phụ thuộc. Nò chỉ đơn giản được Nha Nội vụ
Saigon ký thác vào ngân hàng Hồng kông Thượng hải, chỉ với một chi phiếu là
viên giám đốc nội vụ có thể rút ra để dùng vào việc gì tùy ý.
“Về phần mình, viên cai trị mà
chính phủ Nam kỳ đặt lên hai tỉnh đó, đã tự lập và thu các thứ thuế, quy
định cách cho thuê ruộng, cùng cho thầu việc bán thuốc phiện, muối, thuế
quan.v.v.. ông giữ và chi tiêu các món tiền đó mà không một ai can dự gì
được vào các hoạt động tài chánh. Ông đã đuổi hết các giới chức An nam ra
khỏi tỉnh Bình Thuận, phá hủy nhà cửa họ, triệt hạ ngôi chùa Sắc Tứ và tự ý
bắt dân làm xâu, khiêng những vật liệu các nơi bị phá hủy đó đến nơi ông
chọn làm chổ ở, một nơi vắng vẽ, trong một cái vịnh bỏ hoang và chắc không
trồng trọt gì được, nhưng quả thật là đẹp nhất vịnh Cam ranh. Hiện giờ,
người ta dùng gổ chùa chiền và nhà cửa các viên chức để làm nhà ở cho viên
công sứ cùng nhà cửa cho nhân viên ông và trại mạc cho lính cơ.
“Để cho việc làm ấy không bị
giới chức An nam gây trở ngại, ông đã đuổi hết họ đi, và thay thế bằng các
viên chức ông lựa chọn lấy ở Sai gon.
[55]
“…Tóm lại, tất cả những gì đang
xảy ra ở Bình Thuận và Khánh Hòa làm như thể hai tỉnh đó là một vương quốc
độc lập mà người cai trị tôi nói đến như là một ông vua chuyên chế”[56]
Aymonierra lệnh phá hủy, không
những chùa chiền cùng nhà cửa các quan, mà còn các thành phố Phan Rí và
Khánh Hòa nửa, y nhường lại hai thành phố nầy cho phái bộ để đổi lấy lời cam
kết long trọng là sẽ định cư tại đó một số gia đình Thiên chúa giáo vừa đủ
để y bỏ bớt đi một cái đền mà y buộc phải duy trì.[57]
Sai khi chiếm Bình Thuận và
Khánh Hòa , Fillippini, kẻ theo chính sách sáp nhập dù có phải đi đến chiến
tranh hủy diệt [58]
đã cố bành trướng sự xâm lăng ra Phú Yên và Bình định.Tháng 7-1887 , Nam kỳ
mở một cuộc tiến quân mới vào hai tỉnh trên và mục đích đó, Tri phủ Lộc vừa
mới được giới chức Pháp vinh thăng làm tổng tư lệnh chỉ huy một quân đoàn,
lập tức y làm ngay tại Phú yên và Bình định những gì mà y đã làm ở Bình
Thuận và Khánh Hòa. Y lập lại sổ thuế, danh sách con chiên, danh sách các
“kẻ làm loạn” khuất phục hay không, số tài sản những kẻ thân hào và một lô
tin tức có tính chất gây những lo sợ nghiêm trọng cho những người dân hiền
lành, y ra lệnh cho các chức Việt nam cao cấp nhất, không dám không tuân
lệnh y, phải đến chổ y ở. Được thống đốc Nam kỳ ban cho chức tổng đốc danh
dự hai tỉnh Bình Thuận và Khánh Hòa, tri phủ Lộc ra lệnh cho giới chức tỉnh
Bình Định, phải xuất tiền của tỉnh ra đúc con dấu tổng đốc bằng bạc và y tự
phong cho một chức mới, tổng đốc khâm sai hai tỉnh Phú Yên và Bình Định.
Nhưng các cố gắng của chính phủ
Nam kỳ để sáp nhập hai tỉnh phía nam không thành công. Bộ ngoại giao, sau
các sự can thiệp của Richaud, người thay thế Paul Bert làm thống sứ ở Trung
và Bắc kỳ, vì y nhận xét có lý rằng, một biện pháp như thế có nguy cơ làm
tan hết chút ít uy tín còn có của Đồng Khánh, làm mích lòng các quan theo
Pháp, xâm phạm thô bạo đến lòng yêu nước của người Việt nam và làm lớn mạnh
một cách nguy hiểm hàng ngũ những người chiến đấu chống Pháp[59]
Sau những cuộc đấu khẩu sôi nổi giữa Quai Dorsei ủng hộ Bihourd và Oudinot
ủng hộ Fillippini, người ta đồng ý rút lui từ từ.
Điều đáng chú ý trong toàn thể
vụ nầy là chính sách Thiên chúa giáo được ủng hộ và áp dụng bởi Aymonier,
tác giả các cuộc tiến quân dã man và tàn bạo đã được các kẻ có trách nhiệm
về chính sách thực dân tại Paris cũng như tại Hà Nội, nhất trí tán thành.Bộ
hải quân và thuộc địa gọi báo cáo của Aymonier là “rất lấy làm vinh hạnh” được sớm biết các nhận xét của
bộ ngoại giao về các ý kiến trình bày trong đó. Bộ nầy chỉ có thể ca ngợi
các “cố gắng tốt đẹp của viên công sứ Thuận Khánh đã làm với tinh thần chính
trị và lòng tận tụy cao độ như thế để thiết lập, trong một thời gian tương
đối ngắn, trật tự và thanh bình trong một xứ quá hổn loạn, thuộc quyền cai
trị của ông. Họ thấy rằng :”ngoài một vài điểm có thể hơi thái quá, nói
chung những ý kiến của Aymonier về chính sách đối với các con chiên đều rất
chí lý và thực tế. Vã lại, chúng không có gì mới lạ đối với bộ tôi vốn đã
từng nhiều lần chủ trương như thế và tự buộc mình vào bổn phận phải lo làm
sao cho các công việc mà các nhà truyền giáo làm cho nước Pháp ở Đông dương
sẽ nhận được phần thưởng chính thức, xứng đáng của chính phủ cộng hòa”
[60]
Còn về phần Paul Bert, kẻ “chống
đối giáo hội điên cuồng”, kẻ “thù quyết liệt của giáo hội”, y đã viết như
sau cho Fillippini trong thư ngày 15-10-1886 ; “Đường lối tốt là hãy để cho
viên công sứ khéo léo vừa mới chứng tỏ khả năng hoạt động thực sự của mình
tiếp tục công việc mà ông bắt đầu rất tốt. Chương trình mà viên công sứ bày
với ông, tôi thấy là khôn khéo và tôi đồng ý hoàn toàn, ông ấy biết quá
nhiều về người và việc ở Trung kỳ để có thể quá mục đích nên đạt đến.”[61]
Những lời đó diển tả thật đúng ý tưởng thấm thiết của các tác giả, đến nổi
có nói gì thêm vào đi nữa cũng cho là vô ích mà thôi.
Sauk hi rút quân khỏi Bình Thuận
và Khánh Hòa, Aymonier trở về Pháp vì bị bệnh gan, được bổ nhậm làm giám đốc
trường thuộc địa. Trong một báo cáo dài về “tình hình chính trị ở Đông
Dương” viết năm 1889 và gửi cho thứ trưởng bộ thuộc địa - bản báo cáo mà
chúng tôi sẽ trích đăng phần lớn làm phụ lục – giám đốc Aymonier đề nghị một
loạt biện pháp cần áp dụng ở Việt Nam để cứu vãn tình hình “mỏng manh và
nguy hiểm” mà nước Pháp hiện đang bị mắc kẹt. Dau đây là phần tóm tắt :
1- Thiết lập giáo dục trên căn
bản mới, trước hết nhằm đem lại cho quần chúng một vốn tiếng Pháp đơn giản
tối đa.
2- Tài trợ cho các phái bộ, một
việc làm chính trị rất cao, lấy cớ là để dạy tiếng Pháp.
3- Đòi hỏi sự giúp đở tuyệt đối
của các nhà truyền giáo và ủng hộ sự tuyển mộ họ ở nước Pháp.
4- Luyện tập không ồn ào và
không riùnh rang toàn thể lớp thanh niên Thiên Chúa giáo và tổ chức nó thành
quân trừ bị.
“Các biện pháp đó áp dụng khéo
léo, bí mật với tinh thần liên tục, không làm mích lòng kẻ đối thủ đa nghi
nhất vốn chưa có thể đo lường được, chưa tới ba năm, sẽ đem lại cho chúng ta
một tình thế vững chắc làm cho xứ thuộc địa nghỉ đến, mà không quá sợ hải,
viễn tượng một cuộc chiến tranh Châu Âu. Chúng cũng đặt vĩnh viễn các căn
bản của một nước Pháp ở Châu Á, gia tăng lớn rộng lực lượng cùng sức mạnh
của nước Pháp ở Châu Âu.” [62]
Có sự khác biệt giữa các biện
pháp do giám đốc trường thuộc địa đề nghị và các biện pháp do giám mục Hà
Nội, Puginier chủ trương.
2- Chính sách
xâm lăng Bắc kỳ và Bắc Trung kỳ:
Tại Bắc kỳ cũng như tại các tỉnh
Bắc Trung kỳ, thực sự không phải toàn quyền hay thống sứ cai trị , chủ thực
sự vùng nầy là các quân nhân. Cùng với viên toàn quyền, các quân nhân được
đặt lên đầu lên cổ liên hiệp Đông dương 62 và có những quyền hành to lớn
quá độ, viên chỉ huy đoàn quân chiếm đóng Pháp, tự nhiên bị lôi kéo phải làm
chính trị, một thứ chính trị, dĩ nhiên chống đối với chính trị của những kẻ
dân sự. Sáng suốt mà lại đặc biệt phù hợp với chính trị của các kẻ truyền
đạo.
Vì thế tại Bắc kỳ, quân đội tiếp
tục giao chiến với dân chúng đã biến thành các đám tàn quân ô hợp lang thang
và đói khát, trong một xứ trở thành một trường chiến tranh cho sĩ quan Pháp
cai trị trực tiếp của toàn quyền Richaud, vài công sứ pháp phải cai trị mà
không có sự giúp đở của quan lại, họ không còn biết được những gì xảy ra
trong tỉnh, vì chúng quá rộng để cho họ có thể đóng được vai trò mà nền cai
trị gần như trực tiếp đòi hỏi. Do đó các quân nhân đần dần nắm lấy các việc
ở Bắc kỳ và đi đến chổ thay thế các viên chức dân sự tại các tỉnh mạn Bắc,
trong khi vùng đồng bằng ngày càng lọt ra khỏi tầm tay các viên đại diện
triều đình Huế.
Tại Trung kỳ, các giới chức quân
sự cố cướp lấy ba tỉnh phía Bắc, “Tôi không thể, toàn quyền Picquet việt cho
thứ trưởng bộ Thuộc địa, làm cho chính sàch tôi chiến thắng chính sách của
quân đội, chính sách họ vẫn chủ trương sáp nhập các tỉnh Bắc Trung kỳvào Bắc
kỳ. Khi tôi đến viếng Huế, tôi đã hứa với các quan phụ chính là chấp thuận
đòi hỏi của họ, họ còn tha thiết với các tỉnh đó nhất là Thanh Hóa, là nơi
chôn nhau cắt rốn của Hoàng tộc. Vị tướng đã chuấp thuận biện pháp đó mà
không có ý kiến gì, bây giờ lại tuyên bố rằng các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An,
Hà Tỉnh thuộc Bắc kỳ về mặt địa lý cũng như về mặt chiến lược.”[63]
Do một quyết định của tướng Bichot, các tỉnh đó nằm trong khu quân sự Sơn
Tây.
Chổ nào các quân nhân cũng thấy
có khởi nghĩa. Mỗi biến cố dù nhỏ bé, dưới mắt họ vẫn do triều đình Huế, vốn
chắc chắn đang nghiền ngẫm một vài mưu mô mới . Đương đầu với sự chống đối
âm thầm và bền bĩ đó, thật là điên rồ nếu rút quân khỏi các đồn bót.[64]
“Tôi thật nghi ngờ cacángười An nam và nhất là triều đình Huế, xưa nay vốn
là và còn là kẻ tử thù của chúng ta” tướng Bichot đã nói thế không chút
quanh co. [65]
Đối với giới chức dân sự, tình
thế Trung kỳ phải theo khuôn mẫu tình thế Nam kỳ, nghĩa là chấm dứt giai
đoạn xâm lăng và duy trì một lực lượng phòng vệ thông thường. Tráo lại, đối
với giới chức quân sự, ví như Khâm sứ Hertor ở Huế, ai chủ trương chính sách
hòa bình với Trung kỳ, nhất định là “đồ chơi của triều đình” và là “nô lệ
Hội đồng cơ mật của vua”.[66]
Sự chống đối có hệ thống của
giới chức quân sự tại Bắc kỳ chống lại “nền bảo hộ hòa bình” đã làm tê liệt
mọi hoạt động của các công sứ tại Trung kỳ mà công tác chính trị khó hòa hợp
với các đòi hỏi của quân đội vốn luôn luôn muốn có mặt tại xứ bị chinh phục.
Mặc dầu cho quyền hành rộng rãi giao cho phủ toàn quyền, sự hiện diện của
một quân đội chiếm đóng mà viên chỉ huy tùy thuộc tương đối vào viên toàn
quyền, đã làm trầm trọng thêm các khó khăn mà người Pháp đang cựa quậy trong
đó. Họ không thể đồng ý về bất cứ vấn đề gì. Khi viên toàn quyền yêu cầu dẹp
đi một cái đồn, viên chỉ huy trả lời trái lại rằng đó là một điểm cần tăng
cường, vì tại đó một cuộc nổi loạn sắp xảy ra. Các sĩ quan đồng ý duy trì
các đồn bót tại Trung kỳ thì các viên công sứ lại nhất trí đòi hủy bỏ.[67]
Các viên chức dân sự cho rằng việc chinh phục đất đai đã xong, bây giờ là
“chinh phục trái tim” . Nhưng làm sao mà làm được khi còn có mặt các quân
nhân chỉ muốn tìm cách giao chiến ?
“người ta thường thấy các toán
lính khố xanh đi cướp bóc làng xóm. Thường thì người ta để họ mặc sức làm,
nhưng cũng có đôi khi người ta đối xử họ nhủ là đang phải chịu. Họ bèn trở
về trại như thể là các nạn nhân, lập tức một toán lính võ trang đi ra khỏi
trại và theo sự chỉ dẫn của những kẻ ăn cướp, toán nầy hành hạ và bắt giữ
không phân biệt gì cả những người tai mắt mà nó gặp”
Giới dân sự tốn công vô ích
trong việc làm cho người ta vâng lệnh mình : các quân nhân bám giữ lấy cách
nhìn của họ. Họ cũng có những tin tức riêng của họ và chỉ tin vào đó mà
thôi, vì họ cho chỉ cócác tin tức đó mới chính xác. Các tin tức mà giới quân
nhân dựa vào để lập chính sáchbắt nguồn từ đâu ? Chúng ta đã biết rồi : từ
các kẻ truyền đạo, nhất là từ giám mục Puginier.[68]
Trong thời Richaud, liên lạc
giữa giới quân sự và dân sự cũng như giữa viên toàn quyền và các kẻ truyền
đạo thật là tốt, vì Richaud theo sát chính sách quân sự. Picquet muốn chấm
dứt phương pháp của kẻ đi trước, đã đụng phải sự chống đối có hệ thống của
giám mục Hà Nội :
“Giám mục Hà nội vừa gởi cho tôi
một văn thư rất bi thảm mà ông nghỉ theo lời ông nói với tôi gửi cho bộ…Văn
thư nầy thực ra chỉ là bản sao các văn thư cùng loại mà ông ta đã gửi cho
tôi. Không phủ nhận kinh nghiệm về người và việc ở Bắc kỳ của giám mục
Puginier, tôi không mấy tin về sức hiểu biết rộng rãi của đầu óc ông. Ông
nhất thiết đứng trên quan điểm của một giáo sĩ và đem hết sức mình lôi kéo
nước Pháp vào một chính sách tích cực hơn, chính sách chinh phục, để cho con
chiên rút cục đóng vai trò quan yếu. Đó là một tham vọng rất tự nhiên nhưng
sẽ đưa đến các hậu quả nguy hiểm nếu không làm dịu bớt được bởi người đại
diện chính phủ, là kẻ phải đứng trên cái nhìn cao hơn, và giảm bớt các nỗi
hăng hái hơi quá ích kỷ, Từ ngày tôi đến đây, cứ mỗi lần có vấn đề dẹp bớt
đồn bót, giảm bớt số quân, giảm bớt quyền hành nào đ ócủa giới quân nhân,
tòa tổng giám mục liền biết ngay, lúc nào tôi cũng nhận được tin tức bi thảm
giống như tin tức mà tôi báo cho ngài biết. Vì thếtôi không lưutâm gì tới và
chỉ nói với ngài trong trường hợp văn thư của giám mục Puginier đến tay
ngài…”[69]
Tại Trung kỳ, nhất định các nhà truyền giáo đã sai lầm khi phóng đại nỗi lo
sợ của họ, họ làm mọi cách để ngăn chận việc rút quân. Ngoài việc họ tìm
trong đó một bảo đảm an ninh to lớn hơn, lúc nào họ cũng hy vọng nhờ vào các
biến cố bất ngờ để dành ưu thắng cho một chính sách mạnh mẽ giúp cho con
chiên vượt lên hàng đầu. Nếu chính sách đó mà có thành tựu, thì đó là công
việc của thời gian và thật nguy hiểm với thúc bách đó. Đó là điều mà họ
không muốn hiểu, và đã gợi hứng cho các lời chỉ trích của họ
[70]
“Biến động xảy ra, sau khi tôi
rời Hà Nội đi Sai gòn, đã làm vị thống sứ sửng sốt, tình thế ông ta không
lấy gì đủ vững chắcđể chống lại sự phản ứng, biến động đó đã cho thấy giá
trị thật sự của các lời đồn đãi bi thảm mà những kẻ thích chỉ trích gắt gao
ầm ỉ việc giảm quân. Tôi lấy làm tiếc, trong dịp nầy tôi nhận thấy sự ngoan
cố của giám mục Puginier khi gởi cho tôi một thư đe dọa trong một công điện
mà tôi nghỉ là nên đừng trả lời.
“…Tôi chấm dứt bằng cách chỉ
trích những lời đồn đãi bi thảm, người ta cố loan truyền khi tôi đến, về
việc đàn áp tôn giáo cũng như về việc mưu toan tấn công của quân đội Trung
Hoa đóng chung quanh Mông Cáy, những tin đồn khiến chúng ta gởi một pháo hạm
đến tỉnh nầy cũng như việc yêu cầu gởi quân tăng viện, tôi đến Hải Phòng khá
sớm để kịp thời chống lại biện pháp sau.
“Hiện giờ việc đàn áp tôn giáo
chỉ có trong trí tưởng tượng của vị giám mục, ông cho việc 2 hay 3 nhà
truyền giáo làm bậy tự chuốc lấy sự trả thù vì lòng nhiệt thành không hợp
thời của họ là sự đàn áp tôn giáo. Quả thật một linh mục An nam đã bị chặt
đầu trong vùng Yên Thế, vì ông đã khinh xuất ở lại 24 giờ, dù muốn hay
không, trong một đồn của chúng ta, và rồi trở về với đám trộm cướp có ít
nhiều thông đồng với các nhà truyền giáo Tây Ban Nha, người ta chỉ kết tôi
ông là phản quốc và trừng phạt theo lời kết tội đó. Tôi thu lượm tin nầy vừa
ở tướng Godin vừa ở vị Thống sứ.
“Còn về ý định thù nghịch của
chính phủ Trung Hoa, con ngáo ộp thật sự được xử dụng cho các thuyết vị kỷ,
sau đây là bản sao bức điện mà tôi nh5ân hôm qua của chủ tịch ủy ban phân
chia ranh giới : “Đã nhận điện tín bi thảm của viên chỉ huy vùng, Chủ tịch
Ly khi được hỏi đã nói rằng hoàn toàn yên tịnh, tuyệt đối không có gì phải
sợ…” [71]
“Các nhà truyền giáo ở Quảng
Ngãi thấy sự an ninh của các con chiên có phần đáng ngại, rồi loan tin có
các sự chuẩn bị khởi nghĩa. Tôi hiện chỉ xem các báo cáo của họ có một tầm
quan trọng nhỏ bé, vì năm nào cũng trong thời gian đó, các người Thiên Chúa
giáo trong tỉnh nầy cũng biểu lộ nỗi lo sợ tương tự, và tôi không hề ngạc
nhiên là thời kỳ đặc biệt khốn khổ mà họ mới trải qua đã làm cho họ có phần
bất mãn sâu đậm hơnvà làm cho lời khiếu nại thông thường của họ có tiếng
vang hơn sự thực. Vị công sứ tỉnh nầy xúc động và đã chuyển cho vị Khâm sứ
các bức thư của phái bộ đang nghi ngờ ý định tương lai của viên chỉ huy vùng
Sơn Phong (?) tại Ngải Định và lo sợ các phương tiện hoạt động của người
nầy. Nhưng trong bản tường trình các mối bất bình cũng như trong báo cáo của
vị phó Khâm sứ Nee, được phái đến Quảng Ngải để làm một bản báo cáo xác thực
về tình hình, cũng như trong các báo cáo của các nhân viên công quản quê ở
Trà Bồng và Co Sam (?)ông Hector không tìm ra một bằng cớ nào hay chỉ dẫn
nào có tính chất biện minh cho các biện pháp và sự đề phòng được yêu
cầu.Nhưng nếu các nỗi lo sợ của phái bộ xẩy ra, chúng ta không ngần ngại
chống lại viên quan bằng các biện pháp mà thái độ của y gây ra.”
[72]
“Sự yên tỉnh cũng hoàn toàn tại
các tỉnh khác, kể cả tại Quảng Bình và Quảng Trị, mà mới đây các nhà truyền
giáo đã vẽ tình hình chính trị bằng các màu đen tối. Các biến cố đã cho thấy
là các nỗi nghi ngờ của họ căn cứ vào các sự hiểu lầm, các sai phạm phải do
các tín đồ Thiên chúa giáo đã làm bậy vì lòng nhiệt thành thái quá…”
[73]
Tại Quảng Ngải, các nhà truyền
giáo đã biểu lộ các nỗi sợ hãi, vị công sứ tại tỉnh đã cho thấy là thêu dệt
và hoang đường… Tôi không thấy và không có vị công sứ nào ở Trung kỳ thấy có
các dấu hiệu thật sự của chiến tranh tôn giáo. Các cảnh hổn loạn mà một vài
tỉnh đã là nơi diễn trường, như tôi đã trình bày, không có tính ghất một
cuộc chiến tranh phục khởi giữa dân giáo và dân lương. Nhưng các nhà truyền
đạo luôn luôn có khuynh hướng, như tôi đã nhiều lần trình bày, căn cứ vào
các tin tức ưa được phóng đại , tin rằng các vụ lộn xộn kinh khủng năm 1885
sắp lại bùng nổ. Đó là một trạng thái tinh thần dđ1ng tiếc nơi họ, nhất là
căn cứ vào các việc nội bộ trong vùng, các báo cáo của họ ít có sức mạnh và
uy tín hơn là khi họ thoát khỏi mọi bận tâm và lo âu có đầy thành kiến”
[74]
“Các cuộc tranh chấp tôn giáo
hình như không thể xảy ra mặc dù có các tin tức bi quan của một vài nhà
truyền giáo. Tại Thanh Hóa, giám mục Puginier, được tin tức không chính xác,
đã tin theo các con chiên – không lấy gì làm nhiều và ít hiếu động- mà cho
rằng các nỗi lo ngại, nhưng vị công sứ không chia xẻ tí nào, Phái bộ giám
mục Pino gồm có Hà Tỉnh, Nghệ An, và một phần Quảng Bình đã và có thể là chổ
rối loạn nhất : lúc nầy rất yên tỉnh….”[75]
Từ Thanh Hóa đến Bình Thuận
[76]
tức là toàn thể các tỉnh Trung kỳ, chiến thật của các nhà truyền đạo là loan
truyền các tin tức nỗi loạn toàn diện và chiến tranh tôn giáo để thúc đẩy
giới chức Pháp áp dụng ở Trung kỳ chế độ áp chế hiện hành ở Bắc kỳ và làm
tiêu tan mảy may độc lập còn lại của triều đình Huế và các quan Trung kỳ, kẻ
tử thù của họ. Vì thế, họ đặc biệt gia công làm nổi bật vai trò bí mật của
triều đình Huế trong tình trạng loạn lạc ở Bắc kỳ, lời buộc tội mà giới quân
sự ưa dùng nhưng không thuyết phục được toàn quyền Picquet cũng như Khâm sứ
Hector. “sự giám thị mà tôi thi hành trên thư từ, Hector viết, và trên vicệ
làm, sự quan sát kỷ lưởng về các khuynh hướng và các liên lạc của mỗi người,
có thể là chưa đầy đủ vì tôi không rõ các biến cố mà Bắc kỳ là diễn trường,
không cho tôi thấy có bằng cớ nào có hoạt động bí mật của chính phủ Huế. Tôi
qui nguyên nhân của phong trào nổi loạn vào việc có thể Trung Hoa đã để cho
viên Cựu phụ chánh là Thuyết trở về, hay vào việc liên lạc dễ dàng của ông
ta với Tán Thuật.
“Các nhà truyền giáo bắc kỳ,
trái lại nghỉ rằng triều đình không đứng ngoài tình trạng đó và ông Bonnal
đồng ý với họ. Tôi không biết giá trị của các tin tức của các cha Tây Ban
Nha, nhưng từ một năm nay, đã hai lần tôi báo cho ngài biết nỗi bi quan thái
quá của pháo bộ Pháp ở Bắc kỳ khi họ nói về Trung kỳ, và các biến cố đã
chứng tỏ tiên kiến của tôi là đúng.”[77]
Tóm lại, các quân nhân và các
nhà truyền đạo một phía, Toàn quyền và các người cộng tác dân sự thân cận
môtộphía, đã chủ trương hai chính sách xuyên tâm đối nhau. Họ không đồng ý
về điều gì cả, ngoài điều thấy rằng tình thế ngày một khó khăn. Dù được
Constans[78]
che chở và có trách nhiệm thực hiện chính sách tên nầy, Picquet không khiến
được giới quân sự chấp nhận ý kiến mình, vai trò và hoạt động của giới nầy
chế ngự ở Bắc kỳ có cơ phá hoại “lá bài hòa bình” của y ở Trung kỳ.
Giọng điệu gắt gao và công kích
qua thư từ của bộ tham mưu, sự phóng đại của phe quân nhân về các biến cố
nhỏ nhặt, các tình trạng khó khăn đủ loại mà các người nầy hình như muốn tạo
ra để làm tê liệt hoạt động của quan lại và của viên chức Pháp, các sự cạnh
tranh về mọi việc, các nỗi ganh tị hèn mọn hằng ngày, làm cho mọi sự đoàn
kết giữa giới dân sự và giới quân sự không thành được trước các khó khăn
chung.
Vốn bị chia rẽ, dư luận Pháp cần
nhất là ở Bắc kỳ có trên chop bu nền cai trị một nhân vật có uy quyền . Do
đó mà Lanessan được cử sang Đông dương .
[1]
- F. Perret, La Société
Annamite, sách đã dẫn tr 136
[2]
- như trên
[3]
- La République, số
13.11.1886 , thư khố Bộ Pháp quốc hải ngoại, A 82 (6) hộp 26 kép.
[4]
- J. Chailley, Paul Bert
au Tonkin, sách đã dẫn.
[5]
- như trên
[6]
- như trên
[7]
- J. Chailley , tr
130-134 sách đã dẫn
[8]
- Rheinart gửi toàn
quyền Richaud 9-2-1889 , thư khố bộ Pháp quốc hải ngoại A 30 (85)
hộp 20
[9]
- F. Perret , sách đã
dẫn , tr 137
[10]
- Văn thư về Bắc kỳ ,
3-1887 , tài liệu Đông dương
[11]
- Monel . “Tài chánh Bắc
kỳ” tạp chí Đông dương , 1909
[12]
- J. Chailley , sách đã
dẫn , tr 146
[13]
- Các nhận xét về văn
thư của M. de Lanessan của Klobukowski, thư khố bộ Pháp quốc Hải
ngoại, A00 (22) hộp 2
[14]
- J. Chailley, sách đã
dẫn , tr 25
[15]
- Thư mật gởi thứ trưởng
thuộc địa D’ Laporte 10-6-1888 , Thư khố bộ Pháp quốc hải ngoại A
20 (26) hộp 6
[16]
- “Le Voltaire” 12, 13,
14, 15, 16, và 17 tháng 4 1988 . thư khố bộ Pháp quốc hải ngoại A
30 (85) hộp 20
[17]
- Richaud gửi thứ trưởng
thuộc địa 16-1-1889 cùng chỉ dẫn.
[18]
- như trên (rất mật)
10-3-1889 , cùng chỉ dẫn
[19]
- Thư rất mật ,
10-6-1888 dã dẫn.
[20]
- như trên
[21]
- như trên
[22]
- như trên
[23]
- như trên
[24]
- Richaud gửi Thứ trưởng
Bộ Thuộc địa , 18-10-1888, thư khố bộ Pháp quốc hải ngoại, A30 (84)
hộp 19
[25]
- Thư rất mật 10-6-1888
đã dẫn
[26]
- như trên
[27]
- như trên
[28]
- như trên
[29]
- Thư 18-10-1888
[30]
- Thư rất mật của
Richaud gửi Thứ trưởng Thuộc địa 10-3-1889 , Thư khố Bộ Pháp quốc
hải ngoại A30 (85) hộp 20
[31]
- Công báo, thảo luận
quốc nội 29-2-1889
[32]
-“ nếu quí vị muốn đặt
bên cạnh mỗi quan phủ, quan huyện một viên chức dân sự Pháp để canh
chừng, rõ ràng là quí vị làm cho cả xứ nổi dậy.”
[33]
- Administrateurs
d’Indochine – Revue d’Histoire des Colonies số 137 , 1932
[34]
- trung bộ mà người Pháp
gọi là An Nam gồm có, từ ngày Nguyễn Huệ tái thống nhất đất nước,
phần đất từ Thanh Hóa ở phía bắc đến Bình Thuận ở phía Nam. Nhưng
các kẻ truyền đạo vẫn cứ tiếp tục xem ba tỉnh phía Bắc Trung kỳ như
thuộc về Bắc kỳ, thật vậy, phái bộ họ tại các tỉnh đó mang tên “Phái
bộ miền nam Bắc kỳ”
Năm 1884, khi đề cập đến
việc trả lại triều đình Huế 5 tỉnh mà hiệp ước 1883 đã lấy đi, giám
mục freppel đã phản đối quyết liệt sự trả lại đó, trong một phiên
thảo luận tại quốc hội: “ há không sợ, ông ta nói, miền Nam Bắc kỳ
đó được trả về cho Trung kỳ, sẽ không trở thành như việc mới xảy ra
đây, nơi đã đàn áp tàn bạo các con chiên, những người theo Pháp sao
?” (Công báo, thảo luận quốc hội, 8-5-1885)
[35]
- Văn thư của Thống đốc
nam kỳ Filippine gửi bộ trưởng Hải quânvà thuộc địa 22-8-1887 , Thư
khố bộ Pháp quốc hải ngoại A00 (22) hộp 2 . Cũng như bao giờ, Việc
“đàn áp” con chiên là một lý do tuyệt hảo để biện minh cho các can
thiệp vũ trang.
[36]
- Văn trhư bổ túc cho
báo cáo Lanessan , thư khố Bộ Pháp quốc Hải ngoại, cùng chỉ dẫn.
[37]
- Aymonier gửi thống đốc
nam kỳ 21-12-1884 , thư khố bộ Pháp quốc Hải ngoại , A30 (75) hộp 19
[38]
- Aymonier gửi thống sứ
La Merre và thống đốc nam kỳ 27-1-1885, thư khố Bộ Pháp quốc Hải
ngoại A3(75) hộp 19
[39]
- Aymonier gửi thống đốc
Nam kỳ 27-1-1885, cùng chỉ dẫn
[40]
- Công điện thống đốc
Nam kỳ gửi Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa 24-8-1885 . cùng chỉ dẫn
[41]
- Văn thư (do Aymonier)
về các biện pháp để tránh cho Nam bộ lọt ra ngoài cuộc khởi nghĩa
Khánh Hòa và Bình Thuận, cùng chỉ dẫn.
[42]
- Như trên
[43]
- Thống đốc nam kỳ gửi
cho Bộ trưởng hải quân và thuộc địa 22-8-1885. cùng chỉ dẫn.
[44]
- Filippine gửi Bộ
trưởng Hải quân và Thuộc địa 22-8-1887 , thư khố Bộ pháp quốc hải
ngoại , A00 (22) hộp 2
[45]
- như trên
[46]
- báo cáo của dân biểu
Lanessan gửi cho Flomens, Bộ trưởng Ngoại giao , thư khố Bộ Pháp
quốc hải ngoại A00 (22) hộp 2
[47]
- Thư khố Bộ Pháp quốc
hải ngoại A30 (75) hộp 19
[48]
- Trong một thư gửi
Philippine, sau khi chiếm Bình Thuận, Paul Bert viết :”Tôi rất sung
sướng về tình trạng mà nhờ ông, các việc xãy ra ở Bình Thuận …không
nghi ngờ gì nữa, hành động của ông ít hôm nữ sẽ đứ đến kết quả giống
như hiệp ước Harmand là hiệp ước mà tôi thấy thật là khôn khéo.”
[49]
- Báo cáo của dân biểu
Lanessan, đã dẫn
[50]
- báo cáo của Aymonier
gửi Bộ trưởng, thư khố Bộ Pháp quốc hải ngoại . A30 (75) hộp 19
[51]
Như trên
[52]
- như trên
[53]
- như trên
[54]
- Các viên chức nầy được
lựa chọn trong số tín đồ Thiên chúa giáo. những tên được biết nhiều
nhất là : phủ Nghiêm ở Phan thiết, phủ Học ở Hòn khói, huyện Miên ở
Cam ranh.
[55]
- báo cáo của Lanessan
gửi Bộ trưởng ngoai giao , thư khố bộ Pháp quốc hải ngoại, A00 (22)
hộp 2.
[56]
- Các nhà cai trị Đông
dương , tạp chí lịch sử thuộc địa , số 137 1952.
[57]
- như trên
[58]
- Bihard gưỉ Fillippini
6-5-1887 , thư khố bộ Pháp quốc Hải ngoại A30 (75) hộp 19
[59]
- Bộ trưởng Ngoại giao
gửi boô trưởng hải quân và thuộc địa 17-10-1887, cùng chỉ dẫn
[60]
- Fillippini gửi bộ
trưởng hải quân và Thuộc địa 22-8-1887 , A00 (22) hộp 2.
[61]
- Thư khố Bộ Pháp quốc
hải ngoại, A00 (32) hộp 2
[62]
- Viên tướng chỉ huy
quân đội Pháp ở Đông Dương thuộc quyền bộ Hải Quân , các thuộc địa
dưới quyền cai trị của các toàn quyền lại thuộc bộ Thương mại.
[63]
- Chỉ thị của toàn quyền
Picquet gửi thống sứ Bắc kỳ 18-8-1890 , thư khố bộ Pháp quốc hải
ngoại, A12 (3) hộp 3.
[64]
- Báo cáo mật của
Picquet gửi thứ trưởng thuộc địa 26-12-1890, thư khố bộ Pháp quốc
hải ngoại A30 (92) hộp 20.
[65]
- Văn thư 2-9-1889 thư
khố bộ Pháp quốc hải ngoại A30 (92) hộp 20
[66]
- Picquet gửi thứ trưởng
Thuộc địa 25-8-1889 , cùng chỉ dẫn.
[67]
- Richaud gửi Picquet
5-8-1889, cùng chỉ dẫn.
[68]
- Picquet gửi thứ trưởng
thuộc địa 16-9-1889
[69]
- văn thư của Picquet
25-8-1889 , đã dẫn.
[70]
- như trên.
[71]
- Đối chiếu văn thư mật
của Picquet gửi thứ trưởng thuộc địa 26-12-1890 , đã dẫn.
[72]
- Văn thư của Picquet
26-4-1890, thư khố bộ Pháp quốc hải ngoại A00 (30) hộp 2.
[73]
- Văn thư của Picquet
29-11-1890, thư khố bộ Pháp quốc Hải ngoại A20 (32) hộp 6
[74]
- Báo cáo của khâm sứ
Trung kỳ gởi toàn quyền 17-10-1890, thư khố bộ PQHN A30 (93) hộp
20
[75]
- Báo cáo của Khâm sứ
gửi toàn quyền 9-7-1890 , thư khố Bộ PQHN A20 (34) hộp 7
[76]
- như trên
[77]
- Thư khố Bộ Pháp quốc
Hải ngoại A20 (32) hộp 6
[78]
- như trên
Những bài cùng tác giả.