Những Khác Biệt Giữa Chúng Ta
Nguyễn Mạnh Quang
http://sachhiem.net/NMQ/NMQ021.php
26 tháng 7, 2009
1 2
3 4
5 6
(gửi anh H.)
Trong lá thư thứ 4, tôi đã trình bày và chứng
minh thái độ bất công và phán đoán đầy thiên kiến của anh về ba chữ “Thưa Quí
Ngài” trong bức “Tâm Thư” của tôi gửi những vị đại diện chính quyền Việt Nam.
Anh sẽ không thể nào giải thích một cách hữu lý được về cái thiên kiến đó nếu
anh không phạm vào một thành kiến khác, thành kiến về chính quyền Việt Nam hiện
tại.
Những góc cạnh của vấn đề khác nhau giữa chúng ta đã được phác họa trong lá thư vừa qua của tôi dưới tựa đề "Chuyện Đảo Ngược Danh Dự Ông Hồ Chí Minh". Những quan niệm khác nhau do ảnh hưởng của các vấn đề về "chuyên môn, môi sinh, giáo dục", đã được đề cập rất tổng quát. Trong đó có đề cập đến ảnh hưởng của “xóm đạo Bolsa.” Đó là một môi sinh hay nếp sống văn hóa rất đặc biệt.
Nhờ tìm hiểu sâu rộng về nhân sinh quan và cung cách hành xử của một số người
hoạt động “văn hóa” ở hải ngoại và đặc biệt ở “xóm đạo” này, tôi đã tìm thấy tới
40 điều khác nhau về nếp sống văn hóa giữa họ và những người thấm nhuần đạo lý Đông Phương, và gom lại
trong một phần của tập sách có tựa đề là “Họ Và
Chúng Ta”.
Sử dụng những cụm từ “Anh và Tôi”, hay “Họ và
Chúng Ta” xét ra cũng chỉ là những đại từ cần thiết để phân biệt ngôi thứ mà thôi,
chứ tôi không dám vi phạm đến chính sách đoàn kết dân tộc của nhà nước hiện
nay. Cái tựa đề cay đắng này là kinh nghiệm chịu khổ nạn của tôi
trong việc viết sử từ khi nêu lên tội ác của Giáo Hội La Mã trong quyển sách “Đệ
Nhất Cộng Hoà” xuất bản vào năm 1998. Dù sao chữ “Họ” của tôi chỉ dành cho
những người “nước ngoài”, “nước Chúa”, “dân Chúa”, những người có "lương tâm công giáo", chứ không thuộc về “nước Việt
Nam”, “dân Việt Nam", và "lương tâm con người" của chúng tôi.
Trong một vài phương diện, anh và tôi cũng nằm trong hai nhóm khác biệt nói
trên. Tuy cùng là giáo viên dạy một trường, cùng có bằng Cao Học Giáo Dục tốt
nghiệp từ một trường Đại Học ở Hoa Kỳ, nhưng anh và tôi có một số điều khác
nhau. Tôi xin thông qua những điểm đã đề cập trong thư trước, và chỉ xin phân
tích một vài vấn đề văn hóa rất căn bản đã tạo nên những cái nhìn khác nhau về những vấn đề của lịch sử.
Ngòai sự khác nhau về khả
năng chuyên môn như đã nói trong bài trước, còn có sự khác nhau hết sức lớn lao về thành
phần xã hội, về khuôn mẫu giáo dục được rèn luyên, và về kinh nghiệm bản thân
trong tình tự dân tộc qua những cuộc thăng trầm của tổ quốc. Đây mới là những
nguyên nhân mấu chốt gây nên cái hố lớn lao ngăn cách giữa hai giới người, “Họ và Chúng Tôi” hay “anh và tôi”.
Những sự khác biệt này xin được gom vào trong 3 đề
mục: về thành phần xã hội, về căn bản giáo dục, trách nhiệm
đối với quốc gia, và môi trường văn hóa, và về tình tự dân tộc.
A - KHÁC NHAU VỀ THÀNH PHẦN GIAI CẤP XÃ HỘI
Gia đình tôi vốn là cư
dân lâu đời ở nông thôn trong vùng đồng bằng sông Hồng, thấm nhuần nền đạo lý
tam giáo cổ truyền. Đây là thành phần trong đại khối nhân dân bị trị nằm dưới
ách thống trị tàn ngược của Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican, bị bóc lột đến
tận xương tận tủy, suốt đời sống trong lũy tre làng và chìm nổi với quề hương.
Về công việc mưu sinh,
tất cả mọi người trong gia đình tôi đều là nông dân cày ruộng. Vì thế, mọi
người trong gia đình tôi đều phải lao động cực nhọc: Ngọai trừ những ngày hội hè
lễ lạc của làng và những ngày gia đình có việc quan trọng, còn thì ngày nào cũng
như ngày nào, mọi người từ 9 tuổi trở lên đều phải làm lao động chính, hoặc là
lao đông phụ. Bé nhỏ thì lao động phụ làm những công việc nhẹ như chăn trâu,
cắt cỏ, gẩy rạ, gẩy rơm, giũi lúa. Lớn hơn thì tát nước, làm cỏ, nấu cơm, phơi
lúa, phơi rạ, phơi rơm. Lớn hơn nữa thì lao động chính, làm những công việc nặng
nhọc như cuốc đất, cày ruộng, trở ải, gánh phân, gặt lúa, gánh rạ. Thời gian làm
việc trong ngày kéo dài từ sáng sớm tinh sương cho tới sương chiều buống xuống
mới ngơi tay. Cũng vì thế mà người Việt Nam ta mới có thành ngữ “hai sương
một nắng”.
Tôi phải dài dòng nói như
vậy là để anh nhớ lại “miếng cơm quốc gia” mà chúng ta ăn hàng ngày nằm
trong thành phần nông dân tương tự như gia đình tôi. Vào thời gian đó, dân ta
có tới hơn 95% trên tổng số người dân làm ăn cực nhọc như vậy, chứ không phải có
đời sống nhàn nhã như anh lầm tưởng.
Gia đinh anh: Theo như anh kể, thân phụ
anh là một công chức của chính quyền Bảo Hộ, sống trong thành phố. Nói tổng quát, anh là thị dân.
Hầu hết những gia đình công chức thời Bảo Hộ như gia đình anh, chỉ có một mình
ba anh là lao động chính cũng đủ nuôi sống cả gia đình một cách phong lưu. Vì
thế mà anh và các anh chị em của anh đều được đi học toàn phần và liên tục đi
học từ lớp mẫu giáo, qua hết bậc tiểu học và trung học cho đến khi vào học đại
học, hoặc gia nhập quân đội.
Tóm lại, với thực trạng này, anh và gia đình
anh có thể hòa mình với giai cấp thống trị thới 1885-1945 và sống trong nơi đô
thị phồn hoa, một xã hội lạnh lùng tự cô lập, tách rời khỏi đại khối nhân dân bị
trị và lao động, dù là sống trong cùng một phố mà vẫn coi nhau như xa lạ không
hề quen nhau.
B - KHÁC NHAU VỀ MÔI TRƯỜNG VĂN HÓA
Môi trường văn hóa cũng ảnh hưởng bởi nhiều phương diện: căn bản giáo dục, trách nhiệm đối với quốc gia, và môi sinh.
CĂN BẢN GIÁO DỤC
1- Đại khối nhân dân ta:
Khi đến tuổi đi học, hầu hết các làng xã trong nông thôn không có, hay có rất
giới hạn trường dạy chữ quốc ngữ. Cho đến năm 1940, tổng Tô Xuyên gồm 8 làng
(Tô Xuyên, Tô Đê, Tô Hồ, Tô Đàm, Tô Hải, Tô Trang, Thủ Nghĩa, Thanh Mai) và xóm
Đạo Trại Táo với số dân lên đến trên mười ngàn người mà chỉ có một trường học
vỏn vẹn có một giáo viên và một phòng học chứa đủ khỏang 40 học sinh của chung
cả 3 lớp [Enfantin (Đồng Ấu tức Lớp 1), Preparatoire (Dự Bị tức Lớp 2) và
Élémentaire (Sơ Đẳng tức Lớp 3). Vì sự giới hạn trường lớp như vậy, cho nên chỉ
có những con em các gia đình có thế lực như kỳ mục và hào phú mới được thâu
nhận vào học. Còn hầu hết các gia đình nông dân khác nếu có khả năng tài chánh
thì gửi con em đến học chữ Hán (là chính) và chữ Quốc Ngữ (là phụ) với một ông
đồ Nho tại một nhà riêng của một gia đình phú hộ. Tôi là một trong những người
ở vào trường hợp này.
Phần lớn những người theo học chữ Hán là học
bán thời gian (nửa ngày học, nửa ngày
lao động phụ - làm việc nhẹ giúp gia đình và phải nghỉ học trong hai vụ chiêm và
vụ mùa). Nội dung của chương trình
học là các sách Tam Tự Kinh, Sơ Học Vấn Tân, Minh Tâm Bảo Giám, rồi học lên Tứ
Thư (Luận Ngữ, Mạnh Tử, Trung Dung và Đại Học), cao hơn nữa là Ngũ Kinh (Kinh
Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu.) Tôi mới học xong hai cuốn
Minh Tâm Bảo Giám và Luận Ngữ. Nội dung của những cuốn sách này là những lời dạy
về quy tắc đạo lý và phương cách ứng xử ở đời “sao cho vừa mắt ta ra mắt người”
và phải biết rằng mọi sự ở trên cõi đời này đều có nhân và có quả, gieo nhân nào
thì sẽ tiếp nhận quả đó. Những tư tưởng này hay quy tắc đạo lý đều được thể hiện
ra qua những câu nói ở trong sách như “tích thiện phùng thiện, tích ác phùng
ác”, “Thiện giả thiện lai, ác giả ác báo”, “Chung thân hành thiện,
thiện do bất túc. Nhất nhật hành ác, ác tự hữu dư”, và “Phàm nhân hữu
thế bất khả ỷ tận, hữu phúc bất khả hưởng tận”, đặc biệt hơn nữa là những
lời dạy:
“Trời đất vô tư, thần minh thường soi xét,
không phải vì tế lễ mà Trời ban cho phúc ấm, và cũng không phải vì thất lễ mà bị
Trời giáng cho tai họa.” (Thiên địa vô tư, thần minh thì sát, bất vi tế hưởng
nhi giáng phúc, bất vi thất lễ nhi giáng họa.”
[i]
Tất cả đều là những lời dạy vô cùng vị tha có
mục đích rèn luyện thanh thiếu niên thành những con người có tinh thần thực tế,
chăm lo tu thân dưỡng tính thành những con người tốt, đối xử với nhau trong tình
người, thương yêu nhau như những người anh em trong một gia đình (tử hải gia
huynh đệ) để cùng nhau xây dựng cho cuộc sống thiết thực ở trên cõi đời này cho ngày
càng them tốt đẹp hơn. Còn về thế giới thần linh thì chỉ nên “kính nhi viễn chi”
và không nên bận tâm làm gì. Cũng vì thế mà chẳng bao giờ chúng tôi phải mất thì
giờ mang lễ vật đến các nơi thờ tự dâng cúng để cầu xín Trời Phật hay các đấng
thần ban phước lành hay một đặc ân nào cả. Chúng tôi tin rằng:
“Bình sinh làm điều thiện thì trời sẽ gia
ban cho phúc lợi. Còn như nghĩ ác, làm ác, thì sẽ phải lãnh những tai ương trời
giáng, dù cho có cao chạy xa bay thì cũng không tránh khỏi, dù cho có dâng lễ
vật đắt giá bao nhiều đi nữa để cầu xin Trời Phật tha thứ thì cũng vô ích.”
(Bình sinh hành thiện thiên gia phúc. Nhược thị ngu ngoan thụ họa ương. Thiện ác
đáo đầu chung hữu báo. Cao phi nan tẩu giã nan tàng.”
[ii]
Sau này, tôi thấy trong sách Nho Giáo - Quyển Thượng (Sàigòn: Tân Việt, 1952?)
nơii trang 88 cũng viết:
“Tế quỷ thần là để tỏ cái lòng tôn kính, chứ không phải tế để cầu lấy cái
phúc riêng cho mình như những người thường tin tưởng đâu. Quỉ thần là thông minh
chính trực, có lẽ nào thiên vị ai bao giờ. Người ta ở đời cứ theo cái lẽ công
chính mà làm, đừng làm việc già tàn bạo gian ác. Việc bổn phận của mình thế nào,
thì mình cứ cố gắng làm cho trọn vẹn, rồi sẽ có quỉ thần chứng giám, hà tất phải
nay cầu nguyện, mai cầu nguyện làm gì? Thường những việc của chính nhân quân tử
đã làm là việc cầu nguyện đó rồi, vì rằng có cầu nguyện gì hơn được cứ theo lẽ
công nhiên của trời đất mà làm việc nhân nghĩa?”
Do đó, chúng tôi coi các ông sống bằng nghề
thày cúng khoác áo chùng đen, áo chùng tím, áo chùng đỏ (hồng y) áo chùng trắng
với cái mũ ba tầng tự phong là đại diện cho ông Trời ở trên thế gian này chỉ là
những phường đại bất lương, siêu lưu manh mà Nho Giáo gọi là bọn người “vu” và
“hích”.[iii]
Không phải chỉ có chúng tôi ghê tởm và khinh rẻ bọn chúng như vậy mà còn tôi thấy
trong sách sử đều có ghi rõ có rất nhiều danh nhân và vĩ nhân trên thế giới
cũng đều ghê tởm và khinh rẻ bọn chúng như vậy.
Cũng chính cụ đồ này đã dạy tôi học chữ Quốc
Ngữ và dạy tôi học những bài thơ yêu nước mà sau này tôi thấy nằm rải rác trong các cuốn
Thi Ca Quốc Cấm (Glandale, CA: Đại Nam, 1980?) của tác giả Thái Bạch,
Hợp Tuyển Thơ Văn Yêu Nước: Thơ Văn Yêu Nước Nửa Sau Thế Kỷ XIX 1858-1900
(Hà Nội: Văn Học, 1976), Hợp Tuyển Thơ Văn Yêu Nước: Thơ Văn Yêu Nước Đầu Thế
Kỷ XX (Hà Nội: Văn Hóa 1976) và 3 cuốn Thi Nhân Tiền Chiến (Sàigòn:
Sống Mới, 1968) của tác giả Nguyễn Tấn Long.
Tổng chung của chương
trình học là những quy tắc đạo lý Đông Phuơng được tóm lược trong hai cuốn sách
mà tôi đã học và được hun đúc bằng tinh thần yêu nước qua những bài thơ ái quốc như
đã nói ở trên. Đồng thời, tôi lại sống trong môi sinh cúa nếp sống văn hóa cổ
truyền với ý niệm trật tự trên dưới về quyền lực theo thứ tự “Đạo lý, dân
tộc, quốc gia và chính quyền”, trong đó vai trò của tôn giáo được coi như là
yếu tố phụ thuộc, bị đặt dưới quyền kiểm soát và nghiêm trị những kẻ bất lương
mượn danh thần thánh bịa đặt ra những điều huyễn hoặc với dã tâm phỉnh gạt, lừa
bịp nhân dân và mưu đồ bất chính.
Nói cho rõ hơn, nền văn
hóa cổ truyền của người Việt Nam cũng là một nền đạo lý nhân bản, vị tha và
thiết thực để cho mọi người theo đó mà hành xử sao đúng với bổn phẩn của mỗi cá
nhân đối với mọi người xung quanh sao cho trọn vẹn hầu có thể làm cho đời sống
con người ở trên cõi đời này càng ngày càng được cải tiến.
Mãi đến năm 1943, tổng Tô Xuyên mới them một
trường với một phòng học và một hương sư ở ngay làng Tô Xuyên. Nhờ vậy mà tôi
mới được thâu nhận vào học lớp Élémentaire (Sơ Đẳng). Tháng 5 năm 1944, tôi thi
đậu bằng Sơ Học Yếu lược, rồi lại trở lại học chữ Hán vì huyện Phụ Dực và các
ophủ huyện kế cận như Vĩnh Bảo, Ninh Giang, Đông Quan và Quỳnh Cội không có
Trường Kiêm Bị (dạy các lớp Moyen 1 (Lớp Nhì Năm Thứ Nhất), Moyen 2 (Lớp Nhì
Năm Thứ Hai) và Supérieure (Lớp Nhất, ngày nay gọi là Lớp 5). Rồi nạn đói xẩy
ra, cả nước đều kinh hoàng, rồi Cách Mạng Tháng 8 bùng lên cả nưới đều hân hoan
vui mừng sung sướng.. Kể từ đó tôi bị cuốn hút vào phong trào này đi theo các
lớp đàn anh để cùng chìm nổi với quê hương và “khóc cười theo mệnh nước”.
2 - Dân Chúa và những người chịu ảnh hưởng trường đạo: Ngay từ khi vừa mới chào đời được
mấy tuần lễ và còn bế ẵm trong lòng mẹ, Nhà Thờ và
nhà trường đã bắt đầu cấy vào đầu óc non nớt của họ những tín lý hoang đường phi
lý, phi nhân, những giáo luật và những lời dạy nặng tính cách lừa bịp. Dân Chúa
phải tuyệt đối tin tưởng vào những thư tín lý và những lời dạy này. Vì thế mà
lúc nào họ cũng tơ tưởng mơ màng đến Chúa, giống như một cặp tình nhân mới bắt
đầu yêu nhau, không thể nào quên nhau được trong giây phút. Nhà văn Nguyễn Ngọc
Ngạn đã ghi nhận thực trạng này trong cuốn Xóm đạo (Đông Kinh, Nhật Bản: Tân
Văn, 2003). [iv]
”[v]
Ý THỨC TRÁCH NHIỆM ĐỐI VỚI QUỐC GIA
1- Đại khối dân tộc:
Đối với chúng tôi, dân tộc và quốc gia là hai thực thể luôn luôn sát cánh bên
nhau bất khả phân ly và phải được đặt lên trên hết. Những câu nói “quốc gia
hưng vong, thất phu hữu trách’, “Việc nước trước việc nhà”, “tổ
quốc trên hết” cùng với cái trật tự xã hội theo thứ tự trên dưới “Dân vi
quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” là bằng chứng bất khả phủ bác cho những
quy tắc đạo lý nói về trách nhiệm của người dân đối với quốc gia trong xã hội
Đông Phương của chúng tôi.
Cũng theo quy tắc đạo lý cổ
truyền của người dân Đông Phương, chính quyền phải là do dân mà có, vì dân mà
làm việc và làm việc để mưu cầu phúc lợi cho dân đúng như những lời dạy “Ý
dân là ý trời”, “Dân chỉ sở hiếu, hiếu chi; dân chi ở ố, ố chi. Thử chi
vị dân chi phụ mẫu.” Nói cho rõ hơn, chính quyền phải đại diện cho dân và
phải hành xử đúng theo các nguyên tắc đạo lý, nếu sai thì phải sửa sai. Nếu
không sửa sai, thì chính quyền đó sẽ bị coi như là bất chính.
Nếu chính quyền bất
chính, nhân dân có quyền nổi loạn vùng lên lật đổ, và người lãnh đạo chính
quyền đó có thể bị khử diệt để cho người có tài có đức lên thay thế. Một trong
những trách nhiệm của chính quyền là phải quản lý tôn giáo. Ngay cả các ông
thành hoàng tại các làng thôn ở các địa phương cũng phải nhận sắc phong của nhà
vua (thời phong kiến). Tựu trung, chính quyền có trách nhiệm kiểm soát chặt chẽ
những giới người mượn danh thần thánh, mượn danh tôn giáo để mưu sinh.
Nhờ có nền đạo lý vị tha
với truyền thống thứ bậc “chính quyền đứng trên tôn giáo và kiểm soát những
người hành nghề tôn giáo” như vậy mà bọn thày cúng và đồng cốt lưu manh cấu kết
với bọn cường hào trên ven sông Chương Hà (đất Nghiệp Đô, nước Ngụy, thời Tiền
Tần) mới bị quan Thái Thú Tây Môn Báo trừng trị thẳng tay về tội bịa đặt ra
chuyên Cưới Vợ cho ông Hà Bá ở khúc sông này.
2 - Trái lại, tại các trường đạo,
môn sử Việt Nam bị hạn chế tối đa để giành thì giờ cho môn sử Pháp. Học sinh
được dạy rằng “Nos ancêtres sont des Gaulois”. (Tổ tiên chúng ta là người
Gaulois). Giáo Hội La Mã có chủ trương rèn luyện “đào tạo học sinh theo tinh thần
Công Giáo”. Vấn đề này tôi thấy Giáo-sư Lý Chánh Trung nói khá rõ trong cuốn
Tôn Giáo Và Dân Tộc (Sàigòn, Lửa Thiêng, 1973). Ngòai ra, nơi các trang 25-26
trong cuốn Tìm Về Dân Tộc (Sàigòn, Lửa Thiêng, 1972), Giáo-sư Trung còn kể lại
cái phương pháp dạy học độc thoại tại trường Taberd khiến học sinh nhắc
đi nhắc lại tín lý Ki-tô như con vẹt với dã tâm làm cho các em không còn khả
năng sử dụng lý trí để tìm hiểu sự vật. Cũng vì thế mà sau khi ra trường, các
học sinh chỉ biết hành động và phát ngôn theo phản ứng Pavlov. Anh nên tìm đọc
cả hai cuốn sách này để biết phương cách dạy học và chủ trương của Nhà Thờ
Vatican rèn luyện thanh thiếu niên như thế nào. Cả hai cuốn này, mỗi cuốn chỉ có
vỏn vẹn khoảng 120 trang thôi.
Sau hơn hai mươi năm đọc rất nhiều sách nói về Giáo Hội La Mã cũng như tìm
hiểu về những suy tư và hành động của một số lớn các dân Chúa người Việt và những
người chịu ảnh hưởng các trường đạo như anh, tôi nhận thấy rằng chủ trương của Nhà Thờ
Vatican là rèn luyện tín hữu thành những người không biết gì về trách nhiệm đối
với quốc gia và dân tộc. Mục tiêu của họ là phải nỗ lực rèn luyện và uốn nắn
tín đồ sao cho họ lúc nào cũng phải hướng về Nhà Thờ, tơ tưởng đến Chúa, lúc nào
cũng nghĩ đến việc lạy lục và cầu xin được Chúa ban cho những an huệ hay những đặc quyền đặc lợi
mà họ mong muốn, và để cho Chúa (đúng ra là Nhà Thờ) thương sót họ mà bó qua
những gì họ không làm hài lòng Chúa (Nhà Thờ). Chúng ta biết rằng trong thực tế,
đối với họ Chúa là
Nhà Thờ, là các ông linh mục, giám mục, hồng y, La Mã là giáo hoàng. Những người
này được gọi chung là các vị chức sắc hay hàng giáo phẩm trong Giáo Hội. Đối với
dân Chúa, tất cả những người trong hàng giáo phẩm đều là hiện thân
của Chúa: Họ là Chúa và Chúa là họ hay ở trong họ.
Cũng vì thế mà giáo dân trở
thành những người khúm núm, hành xử rất là hèn hạ và sợ sệt khi phải tiếp xúc
hay muốn nói chuyên với họ (các ngài đại diện Chúa) một điều hay vấn đề gì.
Giáo dân lại được dạy để “hãnh diện” vì “biết run sợ” trước mặt họ và có như thế
mới được gọi là ngoan đạo. Sự kiện này được ông Đại Tá dân Chúa Nguyễn Mâu
viết trong mục Thời Sự Trong Tuần của tờ Tuần Báo Chính Nghĩa với nguyên văn như
sau:
”Vấn đề được nêu lên ở đây với tất cả mạo
muội và run sợ vì có thể bị xem như là vô lễ phạm thượng. Chúng tôi trông
vào sự độ lượng của hàng giáo phẩm cũng như hy vọng rằng sự trưởng thành của
giáo dân ở thời đại này sẽ giúp thật nhiều cho sự thể hiện lý tưởng Ki tô hữu.”[vi]
Nhờ đã biến giáo dân thành những người lúc nào
cũng tâm trạng lạy lục cầu xin và khiếp sợ giới người mặc áo chùng thâm, cho
nên Nhà Thờ Vatican mới có thể dễ dàng xúi giục giáo dân bản địa nổi loạn
chống lại chính quyền địa phương nếu chính quyền này không chịu thần phục hay
khuất phục Giáo Hội La Mã. Tất cả những hành động bất chính và ngược ngạo như
vậy của
Nhà Thờ Vatican đều được sách sử ghi lại rõ ràng. Sách Bước Mở Đầu Của Sự
Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam 1858-1897 viết:
“Hơn nữa, các nhà truyền giáo còn yêu cầu
người Công Giáo Việt Nam đừng thừa nhận quyền lực Nhà Vua và luật pháp của nước
họ. Họ nói với con chiên: “Đức Giáo Hoàng ở La Mã (Rome) mới là vị vua tối cao
duy nhất của họ, họ chỉ tuân phục quyền lực Tòa Thánh Vatican thôi.”
[vii]
Tiến thêm một bước nữa để biến họ thành những
nguời vong bản, phản dân tộc, Nhà Thờ Vatican lại đưa ra khẩu hiệu ngắn gọn như
“Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa” khiến cho họ dễ dàng ghi tâm khắc
cốt. Sự thật này đã xẩy ra ở miền Nam Việt Nam vào năm 1964 và được sách Văn Sử Địa
ghi lại với nguyên văn như sau:
“Ngày 27/ 8/1964: Tướng Khánh đã triệu tập
Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng bầu “Tam Đầu Chế” gồm: Đại Tướng Nguyễn Khánh làm
thủ tướng VNCH, Đại Tướng Dương Văn Minh làm chủ tịch chính phủ VNCH (thực chất
là bù nhìn cho bù nhìn), Đại Tướng Trần Thiện Khiêm làm chủ tịch Hội Đồng Quân
Đội VNCH. [Cả ba ông đại tướng này đều không phải là tín đồ Gia-tô - NMQ]
Trong khi các tướng họp ở Bộ Tổng Tham Mưu, thì
ở ngòai hàng rào BTTM, Nguyễn Khánh giật dây Linh-mục Hoàng Quỳnh (Tổng Quỳnh)
xách động các phần tử cuồng tín từ các trại định cư Xóm Mới, Hố Nai, Gia Kiệm,
Bùi Môn biểu tình trước Bộ Tổng Tham Mưu, đòi hỏi, yêu sách phục quyền cho các
phần tử Cần Lao với khẩu hiệu: “Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa”, “Đả đảo
Dương Văn Minh”. Chu Văn Trình, Văn
Sử Địa (Tavarès, Fl. TXB, 1989), tr. 80.
Với cái lối giáo dục như vậy của Nhà Thờ
Vatican, người dân Chúa Việt Nam quả thật không còn biết gì về ý niệm quốc gia
và dân tộc, chứ đừng nói chi đến trách nhiệm đối với tổ quốc. Họ chỉ biết có
Nhà Thờ Vatican là số 1 (nhất Chúa), kế đến là các linh mục (nhì cha, tức là Nhà
Thờ Vatican), rồi mới tới chính quyền (thứ ba Ngô Tổng Thống), nhưng chính quyền
phải là do Nhà Thờ Vatican dựng nên.
Nếu chính quyền không phải do Thờ Vatican dựng
nên hay tỏ ra không thuần phục Giáo Hội La Mã, thì giáo dân trong quốc gia đó sẽ
được Nhà Thờ nhắc nhở (xúi gịuc) rằng, “Giáo Hoàng có thể "giải trừ cho nhân
dân khỏi phải làm bổn phận đối với các ác quyền bất công." (Đối với Giáo
Hội, ác quyền là chính quyền không thuần phục Nhà Thờ Vatican). Lời dạy lưu manh
này của Giáo Hội là Nguyên Tắc 27 trong bản Tuyên Cáo "Dictatus papae" được ban
hành vào năm 1075 trong thời Giáo Hoàng Gregory VII (1073-1085) - Vấn đề này đã
được trình bày khá rõ ràng trong Chương 13, sách Tâm Thư Gửi Chính Quyền Việt
Nam. Chương sách này có thể đọc online trên sachhiem.net.
Chuyện giáo dân được khích lệ và xúi giục nổi
lọan để chống lại bất kỳ chính quyền nào không chịu thuần phục Nhà Thờ Vatican
đã xẩy ra rất nhiều lần trong lịch sử. Mỗi lần như vậy, kết quả ra sao đều hoàn
toàn tùy thuộc vào khả năng lèo lái và chống đỡ của chính quyền đó.
NẾU những người lãnh đạo chính quyền đó có đủ
uy tín với nhân dân, có đủ khả năng lôi kéo nhân dân về phía chính quyền, có đủ
bản lãnh và cương quyết đối phó với Nhà Thờ Vatican, THÌ mưu đồ xúi giục giáo
dân bản địa nổi lọan của Nhà Thờ Vatican sẽ thất bại. Đây là những trường hợp
của (1) chính quyền Đức bất tuân lệnh Giáo Hoàng Leo X (1513-1521) về việc phải
tóm cổ Linh-mục Martin Luther (1483-1546) nộp cho Tòa Án Xử Dị Giáo của Giáo Hội
khi nhà tu hành này viết bản cáo trạng nêu lên 95 tội ác của Vatican rồi dán ở
cửa chính Nhà Thờ Wittinberg vào tháng 10 năm 1517, (2) các chính quyền nước Anh
quốc từ thời Anh Hoàng Henry VIII (1491-1547), (3) chính quyền Cách Mạng Pháp
1789), (4) chính quyền Cách Mạng Ý 1870, (5) chính quyền Cách Mạng Mễ Tây Cơ
1857, (6) chính quyền Cách Mạng Cuba 1959, và (7) chính quyền Việt Nam trong các
năm 2007-2008 (khi Nhà Thờ Vatican âm mưu cùng với Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và
Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt xúi giục giáo dân Hà Nội tập trung bất hợp pháp với
ý đồ gây bạo loạn trước tòa công sở tại số 142 Phố Nhà Chúng Hà Nội trong thời
gian từ ngày 18/12/2007 cho tới ngày 30/1/2008 và tại Công Ty May Chiến Thắng từ
ngày 15/8/2008 cho đến ngày 22/9/2008.
Ngược lai, NẾU chính quyền suy yếu, bất tài
hay bất lực, THÌ Nhà Thờ Vatican sẽ thắng và chính quyền đó sẽ phải cúi đầu chấp
nhận hết tất cả những điều kiện của Nhà Thờ Vatican đưa ra. Đây là trường hợp
của Vua Henry IV (1050-1106) của Đế Quốc Thánh La Mã (Holy Roman Empire – tiền
thân của nước Đức ngày nay). Rốt cuộc, nhà vua đành phải mặc áo xám hối, đi chân
trần đứng ở giữa trời tuyết trong ba ngày ở Canova để tạ lỗi với Giáo Hoàng
Gregory VII (1073-1085). Anh có thể đọc trong sách Living World History.
[viii]
Chuyện tương tự như vậy cũng đã tái diễn ở
Việt Nam vào thế kỷ 19. Trong thời vua Tự Đức (1848-1883), Nhà Thờ Vatican xúi
gịuc giáo dân bất tuân lệnh của triều đình. Xin xem lại bản văn trích dãn từ
sách Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam
1858-1897 (Saint Raphel, Pháp:TXB, 1995) ở trên.
Vì bất tài và bất lực, vua Tự Đức và triều
đình Huế mới rơi vào tình trạng giống như Vua Henry IV của Holy Roman Empire,
phải cúi đầu chấp nhận tất cả điều kiện của kẻ thù đưa ra trong các Hiệp Ước
Nhâm Tuất 1862, Giáp Tuất 1872 và Giáp Thân 1884. Từ đó Việt Nam hoàn toàn
mất về tay Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican và phải nằm dưới ách thống trị của
họ cho tới ngày 9/3/1945.
Vì được đào tạo theo chính sách giáo dục của
Nhà Thờ Vatican như đã nói ở trên, dân Chúa và những người chịu ảnh hưởng các trường đạo không hề được dạy rằng “tổ quốc và dân tộc lên trên hết”.
Hậu quả là họ trở thành những người vong bản. Theo quy luật lịch sử “hễ vong
bản, tất nhiên lả phi dân tộc, và hễ phi dân tộc là phản tổ quốc” .
Trong cuốn Tôn Giáo và Dân Tộc (Sàigòn, lửa
Thiêng, 1973), Giáo-sư Lý Chánh Trung nói khá rõ về chủ trương đào tạo thanh
thiếu niên theo tinh thần công giáo của Nhà Thờ Vatican để biến họ thành những
hạng người phi dân tộc. Đọc cuốn sách này, chúng ta sẻ hiểu TẠI SAO mà những
người trí thức Ki-tô còn có lương tri đã phải phân vân giữa “Tôn Giáo và Dân
Tộc” để rồi cuối cùng họ dứt khóat từ bỏ Nhà Thờ, “Tìm Về Dân Tộc”, đứng về phía
Dân Tộc và chống lại Tôn Giáo (Giáo Hội La Mã) một cách vô cùng mãnh liệt. Đây
là trường hợp của rất nhiều Công Giáo đồ ở khắp nơi trên thế giới nổi lên chống
lại Giáo Hội La Mã từ khi chủ nghĩa nhân bản (humanism) ra đời vào đầu thế kỷ 14.
Những hành động chống đối này của họ được kết tinh thành hàng chục ngàn cuốn
sách nói lên những sự thật về những rặng núi tội ác của Nhà Thờ Vatican. Danh
sách những cuốn sách này đã được Giáo-sư Trần Chung Ngọc ghi lại trong bài viết
có tựa đề là Sách Báo Ngoại Quốc Về Đạo Chúa. Bài viết này có thể đọc online
trên sachhiem.net.
Sự chống đối Nhà Thờ
Vatican khởi đầu từ giới trí thức vốn là tín đồ của Giáo Hội lan truyền sang các
tầng lớp xã hội khác cũng ở trong đạo Ki-tô qua những tác phẩm trên đây, rồi sôi
sục và bùng lên thành ngọn lửa cách mạng thiêu rụi quyền lực của Nhà Thờ Vatican
ở ngay trong lòng các nước vốn đã bị Giáo Hội Khống chế từ nhiều thế kỷ. Đó là
những cuộc Cánh Mạng Anh 1691, Cách Mạng Pháp 1789, Cách Mạng Ý 1870, Cách Mạng
Tây Ban Nha 1936, Cách Mạng Mễ Tây Cơ 1857, Cách Mạng Cuba 1959, v.v… Vấn đề này
đã được trình bày tương đối khá đầy đủ trong các Chương 14, 15, 16, 17, 18, 19 và 20 trong
sách Tâm Thư Gửi Chính Quyền Việt Nam. Các chương sách này có thể đọc online
trên sachhiem.net.
TÌNH LIÊN ĐỚI TRONG XÃ HỘI
1 - Đại khối dân tộc
theo tam giáo cổ truyền: Tùy theo mối tương quan của mỗi cá nhân đối với
những người khác, nhưng tựu trung mọi người đều hành xử theo những quy tắc đạo
lý vứa thực tế và đầy nhân tính, vừa hết sức vô tư và rất công bằng, vừa khoan
dung, nhân ái và rất uyển chuyển, tôn trọng quyền tự do của những người khác để
sao cho “vừa mắt ta ra mắt người” (kỷ sở bất dục vật thi ư dân), dĩ hòa vi quý
(hiếu hòa), và “tứ hải giai huynh đệ” (nhân ái). Những đức tính này nhiều khi
trở thành kẽ hở cho một số lớn các “dân Chúa” lợi dụng để khai thác với dã tâm lôi
kéo một số người ít học, nông nổi, nhẹ dạ nghe theo những lời phỉnh gạt của họ
rồi trở thành dân Chúa.
Trong thực tế, có thể họ “theo đạo để có gạo mà ăn” hay
“theo đạo để tạo danh đời” vì rằng Việt Nam trong những năm 1945-1954 và ở miền
Nam trong những năm 1954-1975, nhờ cái thế ngồi ở hậu trường sân khấu chính quyền Bảo
Hộ và các chính quyền miền Nam Việt Nam, Nhà Thờ Vatican đã có thể sử dụng những
chức vụ trong chính quyền cũng nhưng các quyền lợi vật chất ở cả trong chính
quyền lẫn ở ngòai xã hội làm miếng mồi để câu nhử những phường tham lợi háo danh
và thèm khát quyền lực chạy theo bắt mồi rồi theo đạo để hy vọng thỏa mãn được những
tham vọng bất chính của riêng cá nhân họ. .
2 - Nhóm thiểu số dân Chúa theo học các trường
đạo: Vì phải tuyệt đối vâng lời của Nhà Thờ, giáo
dân phải hành xử đối với mọi người đúng như những tín lý trong thánh kinh và lời
dạy của Giáo Hội. Hầu hết những tín lý và lời dạy này nặng tính phi lý, phi nhân, phi luân, phản dân tộc
và phản nhân quyền. Tất cả đều có mục đích duy nhất là
tôn vinh quyền lực của Chúa và cưỡng bách tín đồ lúc nào cũng phải hướng về Chúa
(Nhà Thờ Vatican) cầu khấn van xin ân huệ và phục vụ Chúa. Giáo dân không hề
được dạy dỗ phải hành xử theo những quy tắc nhân bản đầy tình người giống như
nếp văn hóa của nền đạo lý Đông Phương. Những lời dạy hay tín lý này của Giáo
Hội đều được ghi trong thánh kinh (cả Cựu và Tân Ước) trong các sách Phục Truyền
(5:9), (6:15), (7: 6), (13: 6, 15), (17:1), (20: 13-14), (21: 11–15), (22:
13-14), (14: 21), (23: 1-2 và 13-14), (25: 11-12), (28: 15-68), (29: 20), (32:
16, 35, 39, 42- 43), Xuất Hành (4: 23, 12: 29), (13: 12, 15), (20: 5), (28
:23-25), Dân Số (11: 33, 21: 6, 31: 15-18) Leviticus (4: 17), (18: 22), (19:
19), )20: 9, 13), (21: 9), (26: 1-29), Matthew (10:21),
Matthew (10: 33-37), John (15:6) v.v…
Xin ghi lại dưới đây lời dạy của Jesus dạy, theo Matthew (10:33-37) để anh nhìn thấy rõ tính các phản nhân luân của đạo
Ki-tô quái đản này:
“Ta đến đây không phải mang lại sự bình an, mà
là mang gươm dáo. Ta đến để con trai chống lại cha, con gái chống lại mẹ, con
dâu chống lại mẹ chồng và làm cho người trong nhà trở thành thù địch chống lại
nhau. Kẻ nào yêu kính cha mẹ hơn ta thì không đáng gì đối với Ta, và kẻ nào yêu
thương con cái hơn Ta cũng không đáng gì đối với Ta. ”
[“Do not think that I came to bring peace on
earth. I did not come to bring peace but a sword.” “For I have come to set a man
against his father, a daughter against her mother, and a daugher-in-law against
her mother-in–law.” “And a man’ s foe will be be of his own household.” “He who
loves father or mother more than Me is not worthy of Me. And he who loves son or
daughter more than Me is not worthy of Me.” (Matthew 10:33-37)].
Lời dạy trên đây của ông Jesus quả thật là có
dã tâm làm thối rữa cái chất keo sơn gắn bó giữa những người thân thương trong
gia đình. Lời dạy phi luân thâm độc này lại được Giáo Hội La khai triển bằng
cách cho thiết lập các Tòa Án Xử Dị Giáo (Inquistions), rồi lại dạy dỗ giáo dân
phải rình mò dò xét mọi người trong gia đình xem nếu có người nào đáng nghi ngờ
là “tà giáo” hay có tinh thần “bất phục” hoặc chống lại Giáo Hội, thì phải báo
cáo với Nhà Thờ. Sự kiện này được sách sử ghi nhận rõ ràng như sau:
"Năm 1232, Giáo Hoàng Gregory IX
(1227-1241) thiết lập tòa án xử bọn dị giáo, gọi là Inquisition… Cha con tố các
nhau, vợ chồng tố cáo nhau, anh em tố cáo nhau, bạn hữu tố cáo nhau, hàng xóm
láng giềng tố cáo nhau, v.v. trước tòa án của Giáo Hội. Giáo Hoàng Paul IV
(1555-59) tuyên bố: "Nếu bố tô là dị giáo đồ, tôi cũng sẽ chụm củi thiêu sống
ông ta luôn."
[ix]
Chính sách giáo dục của Nhà Thờ Vatican là như
thế đó!
Từ Lý Thuyết Đến Thực Hành
Như vậy, qua việc theo học các trường học của
người Pháp và của Nhà Thờ Vatican, anh được đào tạo bằng những lời dạy dỗ như
trên. Bình thường, những lời dạy phi nhân và phản nhân luân như vậy ở trong
thánh kinh cũng như của Giáo Hội được che đậy bằng những lời dạy đạo đức có vẻ
giống như những lời dạy của nền đạo lý Đông Phương. Trong thực tế, tất cả những
gì Nhà Thờ Vatican dạy dỗ dù cho là được coi như là đạo đức, thì đó cũng chỉ là
đạo đức giả. Chỉ khi nào nhu cầu, Nhà Thờ Vatican mới đòi hỏi giáo dân bản địa
phải chống lại tổ quốc, thì họ mới thực sự hành xử đúng như lời dạy phản nhân
luân, phản tổ quốc này của Nhà Thờ Vatican Giáo Hội. Đây là những trường hợp:
1.- Ở nước Pháp trong những năm chính quyền
Cách Mạng 1789 đập tan chế độ đạo phiệt Ca-tô, thi hành những biện pháp mạnh để
tước đọat hết tất cả quyền lực chính trị cùng tất cả đặc quyền đặc lợi dành cho
riêng Nhà Thờ cùng giới tu sĩ và bọn quý tộc phản động phong kiến, thì, một mặt,
Tòa Thánh Vatican gửi các nhà thuyết khách đến các quốc gia có chính quyền tay
sai hay đồng minh của Giáo Hội (như nước Phổ, nước Áo và nước Anh) uốn lưiỡi Tô
Tần thuyết phục các nước này lien kết với Vatican thành một liên minh thánh (a
holy alliance), đem quân tấn công vào lãnh thổ Pháp để lật đổ chính quyền Cách
Mạng và tiêu hủy những công trình Cách Mạng. Mặt khác, Nhà thờ và bọn tu sĩ xúi
giục giáo dân ở các vùng Normadie, Bretagne, Vendée nổi lọan đánh phá chính
quyền Cách Mạng Pháp 1789 để làm nội ứng cho nổi loạn tiếp ứng cho Liên Minh Xâm
Lược Thánh này sắp sửa tiến vào lãnh thổ Pháp vào năm 1792.
2.- Ở Việt Nam với những (a) sự kiện dân Chúa tích cực tham gia các cuộc nổi loạn do Lê Văn Khôi và cố đạo
Marchand (cố Du) chủ mưu trong những năm 1833-1835, và do Tạ Văn Phụng và cố đạo
Le Grand de Liraye chủ mưu vào đầu thập niên 1860, (b) sự kiên dân Chúa liên tục và tích cực đứng vào hang ngũ Liện Minh Xâm Lược Pháp – Vatican và
Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican để chống lại dân tộc và tổ quốc Việt Nam từ giữa
thế kỷ 19 cho đến ngày 30/4/1975, (c) sự kiện dân Chúa ở hải ngọai,
đặc biệt là dân xóm đạo Bolsa và một nhóm thiểu số dân Chúa ở trong nước liên
tục đánh phá tổ quốc và chính quyền Việt Nam từ cuối năm 1975 cho đến ngày nay
là những bằng chứng rõ ràng nhất nói lên sự thật này.
3.- Ở Hoa Kỳ, ông Charlie Nguyễn bị chính vợ
con của ông xử lý giống như những nạn nhân bị điệu ra các Tòa Án Xử
Dị Giáo ở Âu Châu trong thời Trung Cổ, và nhiều trường hợp khác mà tôi đã tường
thuật ở trong Chương 9, sách Tâm Thư Gửi Chính Quyền Việt Nam. Tập sách này có
thể đọc online trên sachhiem.net.
Hơn nữa, hàng ngày, anh lại giao du và tiếp
cận với những bạn bè học cùng những trường học trên đây và sống trong môi trường
văn hóa Thiên Chúa Giáo La Mã. Trong môi trường văn hóa này, những tín điều
trong đạo, những lời phán trong giáo luật và những lời dạy của Giáo Hội, tất cả đều
phải được coi như khuôn vàng thước ngọc và cũng là những qui tắc đạo lý cho giáo
dân để hành
xử.
Ngoài ra, Giáo Hội chủ trương tôn giáo phải
đứng trên chính quyền, nắm giữ vai trò chỉ đạo chính quyền và chính quyền phải
là công cụ phục vụ cho Giáo Hội. Cái quy tắc đạo lý này trong đạo Ki-tô La Mã và
cái tôn ti trật tự về quyền lực trong xã hội như vậy được Nhà Thờ Vatican chuyển
thành câu vè “nhất Chúa, nhì cha (linh mục) thứ ba Ngô Tổng Thống”. Ở miền
Nam Việt Nam trong những năm 1954-1963, câu vè này được triệt để sử dụng để dạy dỗ và nhắc
nhở giáo dân phải luôn luôn ghi tâm khắc cốt.
VỀ MÔI SINH VĂN HÓA
A.- Đại khối dân tộc theo tam giáo cổ truyền:
Như đã nói ở trên, tôi chỉ là một thành phần trong đại khối nhân dân sống theo
nếp sống cổ truyền của dân tộc. Từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu, bất kỳ ở nơi đâu,
người ta cũng đều phải hành xử theo cùng một thứ quy tắc đạo lý và nếp sống văn
hóa cổ truyền của dân tộc.
B.- Nhóm thiểu số dân Chúa:
Trái lại, hầu hết dân Chúa được gom lại hay tự động tìm đến sống
chung trong một khu vực riêng biệt gọi là họ đạo hay làng đạo hoặc xóm đạo để
cùng được rèn luyện và được uốn nắn sống theo nếp sống văn hóa vong bản như đã
nói ở trên. Sự kiện này được Linh-mục Trần Tam Tỉnh ghi lại như sau:
"Ngọai trừ các cụm nhà thành thị dân chúng
sống lẫn lộn, người Công Giáo thường được tập trung lại thành làng xóm riêng,
tách rời khỏi người lương, sống chen chúc quanh tháp nhà thờ xây theo kiểu Tây,
chọc lên trời, cao vượt khỏi lũy tre. Bị đóng khung và được đòan ngũ hóa bởi
hàng giáo sĩ, họ trở thành một lực lượng quần chúng, một lực lượng đáng ghê sợ
khi cha xứ kêu gọi họ đứng lên bảo vệ đức tin, bảo vệ nhà thờ. Hệ thống ốc đảo
đó tách biệt và cô lập phần lớn giáo dân khỏi liên hệ với đồng bào, thúc đẩy họ
từ khước, tẩy chay bất cứ điều gì không được Giáo Hội chính thức phê chuẩn,
chẳng hạn sách Truyện Kiều, một kiệt tác văn thơ cổ điển của Việt Nam, hoặc các
tài liệu cách mạng đều bị cho là ngược với đạo. Cac sách của Voltaire,
Montesquieu, khỏi nói tới Các Mac, vừa bị nhà nước thuộc địa cấm, vừa bị giáo
luật khai trừ, nhưng ngay cuốn sách thánh đã dịch ra tiếng bản xứ mà cũng chẳng
ai được biết đến (có một bản sách thánh in bằng hai thứ tiếng La Tinh và Việt
ngữ, khổ lớn, nằm trong thư viện các chủng viện và một vài cha xứ, còn giáo dân
thì không thể rờ tới.)"[x]
Xin nói cho rõ, nền đạo lý hay nếp sống văn hóa
Ki-tô, đặc biệt là nếp sống văn hóa Ki-tô La Mã rất là vị kỷ, nặng tính cách vơ
vào, dựa trên nền tảng phỉnh gạt, lừa bịp, gian tham, trịch thượng, khủng bố và
ưa thích sử dụng bạo lực. Nó hoàn toàn khác biệt với nếp sống văn hóa cổ truyền
của dân tộc. Nếp sống văn hóa cổ truyền của dân ta gồm những quy tắc đạo lý vị
tha thực tế, thật thà, nhân bản, tôn trọng nhân quyền, vừa mắt ta ra mắt người
(kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân), dĩ hòa vi quý, chứa chan tình người và đầy lòng
nhân ái (tứ hải giai huynh đệ).
Chính vì sự khác biệt này và vì đặc tính trịch
thượng trong đạo Ki-tô, Linh-mục Vũ đình Họat mới đặt ra vấn đề “Có nên công
nhận và coi Hùng Vương là tổ của dân tộc Việt Nam Không?”, để rồi ông ta kết
luận rằng “Hùng Vương chỉ là một chuyện hoang đường, không nên coi là đáng
tin.”[xi]
[Điều
ngạc nhiên là trong khi khẳng định rằng “Hùng Vương chỉ là một chuyện hoang
đường, không nên coi là đáng tin”, thì ông linh mục này lại tin tưởng mãnh
liệt vào những chuyện cực kỳ hoang đường như chuyện tội tổ tông, chuyện Chúa Ba Ngôi,
chuyện ông Jesus
chết rồi sống lai bay lên trời, chuyện bà già xế Maria đã từng làm tình với ít nhất là
hai người đàn ông và sinh ra tới 7 hay 8 người con vẫn được gọi là Đức Mẹ Đồng
Trinh, v.v... Những chuyện đại láo khoét này lại được ông ta tin tưởng một cách tuyệt
đối. Như vậy thì có tiếu lâm không?]
C - KHÁC NHAU VỀ TÌNH TỰ DÂN TỘC
Thưa anh,
Những
sự trái ngược trên đây đã khiến cho chúng ta có cái nhìn trái ngược nhau đối với Nhà
Thờ Vatican cũng như đối với chính quyền Việt Nam hiện nay. Tình trạng này đã
làm cho nhịp đập con tim của chúng ta cũng trái ngược nhau đối với cùng một biến
cố lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại. Tôi xin kể ra đây một số những
biến cố đã xẩy ra từ đầu thập niên 1930 mà thôi để anh và mọi người Việt Nam
cùng chiêm nghiệm xem có đúng hay không.
1.- Cho đến tháng 8 năm 1945, tuyệt đại
khối nhân dân ta (trong đó có gia đình tôi) phải kéo lê kiếp sống trâu cày
ngựa kéo, bị bóc lột đến tận xương tận tủy, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc,
phải sống trong cảnh nhà tranh vách lá, tồi tàn lụp xụp trong những làng thôn,
uống nước ao tù, thắp sáng bằng những ngọn đèn dầu le lói. Tình trạng nghèo đói,
lạc hậu và chậm tiến này của dân ta là do chính quyền Bảo Hộ Pháp – Vatican gây
ra, vì rằng chúng chỉ lo vơ vét cho đầy túi tham mà không cần biết tình đến thảm
cảnh khốn cùng của dân ta. Đây là một trong những lý do khiến cho đại khối nhân
dân Việt Nam trong đó có tôi thù ghét Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican và coi
tất cả những người đã tham gia các lực lượng nghĩa quân kháng chiến đánh đuổi
quân thù xâm lược trên đây là những nhà ái quốc và anh hùng dân tộc.
Cũng nên biết, hồi thế kỷ 19, các quốc gia Nam
Âu (Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Ý Đại Lợi) cũng đã quy trách nhiệm cho Nhà Thờ
Vatican về thảm cảnh nghèo đói, lạc hậu và chậm tiến của nước họ. Sự kiện này
được sách Rich Church Poor Churh ghi nhận rõ ràng như sau:
“Các nhà chính khách và vua chúa ở các quốc
gia Nam Âu cho rằng Tòa Thánh La Mã và chế độ giáo hoàng phải chịu trách nhiệm
về sự suy thoái và thua kém của nước họ so với các nước theo đạo Tin Lành."
Nguyên văn: “The statesmen and
kings in southern Europe held Rome and the papacy primarily responsible for that
degrading difference them and their Protestant counterparts.”[xii]
Bản văn sử trên đây cùng với thực trạng nghèo
đói, lạc hậu và chậm tiến ở các nước Châu Mỹ La-tinh, Phi Luật Tân và tình cảnh
nghèo đói khốn cùng củadân ta trong những năm 1885-1945 cho thấy rằng quyền lực Vatican vươn tới đâu,
thì nhân dân ở nơi đó rơi vào thảm cảnh nghèo đói, chậm tiến, lạc hậu và ngu dốt.
Trong thời 1885-1945,ó có một số người "được" sống với giai cấp thống trị thời bấy giờ và được hương ít nhiều nhưng đặc
quyền đặc lợi của chính quyền ban cho, trong đó có gia đình anh vì thân phụ anh
lúc đó là công chúac hay côn nhân viên của Nhà Nước Bảo Hội. Là những thành công
chức, tất nhiên là họ sống đời phong lưu
với đầy đủ tiện nghi, dùng nước máy đã được thanh
lọc tinh khiết và sử dụng điện thả giản tùy tiện. Ở vào trường hợp như vậy,
dĩ nhiên là anh không cảm thấy cái nhục voing quốc và luôn luôn cho rằng chính
quyền bảo hộ Pháp – Vatican đã đem lại cho bản thân anh và gia đình anh no ấm!
|
Chỉ còn là những bộ xương, đi không nổi
Nạn đói 1945 - ăn cả thịt chuột (ảnh www.tuoitre.com) |
Bức tranh về nạn đói 1945 của nhà sưu tập Nguyễn Thái Sơn - Ảnh: T.Son/www.xaluan.com
|
Anh không biết, hay không có "nhu cầu" để biết đến tình trạng dân ta bị bóc
lột tận tình, bị dồn vào thảm cảnh khốn cùng và chết đói đầy đường. Cũng vì vậy
mà anh không cảm thấy niềm đau tủi nhục của người dân vong quốc với những hình
ảnh dân ta bị ngọai nhân thống trị, nền văn hóa cổ truyền của dân ta bị chà đạp,
bị khinh rẻ, dân ta thường xuyên bị đá đít và bị đày đọa khốn khổ như đã nói ở
trên. Cũng vì lẽ này mà anh không hề có một chút căm thù đối với Liên Minh Xâm
Lược Pháp – Vatican như tôi. Nên nhớ rằng Nhật mới cướp chính quyền từ 9 tháng 3 năm 1945, mà nạn đói đã xảy ra trước đó từ mấy tháng, tức là nạn đói đã là kết quả của sự bóc lột triền miên của chính quyền bảo hộ Pháp-Vatican tứ nhiều năm trước.
2.- Khi Liên Minh Pháp -
Vatican dùng hết sức mạnh quân sự cả không lực lẫn bộ binh tấn công vào làng Cổ
Am, Phủ Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương (tiếp theo vụ quân Cách Mạng Quốc Dân Đảng dưới
quyền chỉ huy của Đảng Trưởng Nguyễn Thái Học nổi dậy vào đầu năm 1929), thì
toàn vùng quê tôi đều khốn khổ vì những trận tấn công càn quét nặng tính cách
trả thủ của Nhà Nước Bảo Hộ.[xiii].
Hình ảnh dã man ghê gớm này đã ăn sâu vào tâm trí người dân trong vùng Vĩnh Bảo
và mấy huyện kế cận như Ninh Giang (Hải Dương), Tiên Lãng (Kiến An) và Phụ Dực
(Thái Bình), trong đó có gia đình tôi. Vì chưa ra đời, tôi không có cơ hội được
chứng kiến những hành động dã man như vậy của chính quyền Bảo Hộ, nhưng các bậc
lão niên và thày giáo của tôi thường kể lại cho chúng tôi nghe cái chuyện lịch
sử đau thương này.
Vì miền Nam xa cách biệt miền Bắc cả hơn ngàn
cây số, vì chính sách bưng bít tín tức về các cuộc Khởi Nghĩa của dân ta, và
bưng bít cả chính sách trà thù một cách cực kỳ man rợ của Nhà Nước Bảo Hộ Pháp –
Vatican, cho nên anh không hề hay biết gì về biến cố lịch sử oai hùng và bi phẫn
này của đất nước.
3.-
Đầu năm 1945 nạn đói xẩy ra, chính mắt tôi
chứng kiến, tại quê làng tôi, những người đói rách chống gậy đi ăn mày: Người
thì lang thang lếch thếch, kẻ thì mệt lả ngã gục bên đường. Hầu như ở đâu cũng
thấy có người chết đói: Ngày nào cũng như ngày nào, ở khắp mọi nơi từ vỉa hè,
góc chợ cho đến thềm đình, góc quán cũng đều có xác người chết thảm thương. Mỗi
sáng, phu tuần phải đi tuần tra tất cả những nơi nào khả nghi có thể có người đã
chết trong đêm hôm trước. Mới đầu, mỗi ngày chỉ có hai hay ba xác chết. Với con
số tử thi ít oi như vây, anh em phu tuần còn có thể đào một lõ huyệt cho một
xác người, và mỗi lỗ huyệt còn có được một hay hai tầu lá chuối lót thay làm
quan tài. Nhưng rồi lần lần con số người chết tăng lên đến sáu hay bảy, chín
mười người một ngày, anh em phu tuần không còn đủ sức lực để đào chôn mỗi người
một lỗ huyệt và cũng không thể kiếm được một tầu lá chuối lót thay cho quan tài.
Họ chỉ còn đủ sức đào một cái lỗ lớn để sẵn, rồi chia nhau đi lục lọi những nơi
nào khả nghi, lượm được xác chết nào, thì họ khiêng ra bỏ vào cái lỗ đó. Chờ đến
chiều tối, không còn lượm thêm được xác chết nào nữa, họ mới lấp đất phủ lên,
chôn tập thể. Chính mắt tôi đã chứng kiến cái thảm cảnh này. Toàn thể miền Bắc,
con số người chết thảm thương như vậy lên đến hai triệu.
Thảm cảnh chết đói này đều được sách sử thế
giới ghi nhận và đã trở thành những tiếng than khóc đi sâu vào lòng người. Đây
là những trang sử vừa đau thương, vừa tủi nhục của dân ta. Ngòai những bản văn
sử như vậy, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đức cũng đã ghi lại thảm cảnh này bằng những dòng
nhạc bi thương não nùng trong bài hát có nhan đề là "Con Đò Đua Xác".
Nội dung của bài hát này nói lên cái tâm trạng đau xót của một ông già dùng một
con thuyền làm xe tang chở xác người con thân thương trong một đêm trăng trên
một dòng sông vắng lạnh. Quý vị có thể tìm nghe bản nhạc này để biết thêm về nỗi
lòng đau xót của nhân dân ta vào lúc đó.
Trái lại, miền Nam có đủ
lúa gạo, cho nên không đến nỗi chết đói như vậy, đặc biệt là gia định anh lại là
thành phần công nhân viên của nhà nước Bảo Hộ, đời sống lại càng no đủ hơn. Vì vậy
mà anh không được chứng kiến cái cảnh não lòng trên đây. Đây cũng là một trong
những lý do khiến cho anh không hề có nỗi lòng bi phẫn và căm thù đối với Nhà
Nước Bảo Hộ Pháp - Vatican như những người dân miền Bắc trong đó có gia đình tôi
và cá nhân tôi.
4.- Khi nguời Nhật lật đổ
người Pháp vào ngày 9/3/1945, dân ta ở miền Bắc (dĩ nhiên là có gia đình tôi) đã
vui mừng sung sướng vì đã rửa được mối nhục mất nước, mối nhục nếp sống văn hóa
cổ truyền của dân tộc bị khỉnh rẻ là man di, mọi rơ, là tà giáo, dân ta bị khinh
rẻ là những quân mọi da vàng, nhưng không bao lâu họ lại cảm thấy xót xa, cười
ra nước mắt, vì rằng trong thực tế dân ta chỉ là ở vào cái cảnh “tránh vỏ dưa
gặp phải vỏ dừa”.
Trong biến cố “giang sơn
đổi chủ” này, tôi không biết ở mỉền Nam, gia đình anh và cá nhân anh có cái niềm
vui rồi lại thất vong như vậy giống như chúng tôi ở miền Bắc hay không. Theo tôi
được biết, trong biến cố này, đối với hầu hết những công nhân viên (công chức)
trong chính quyền Bảo Hộ Pháp – Vatican, mối lo lớn
nhất của họ là lo sợ bị cho nghỉ việc, và niềm vui mừng lớn nhất của họ là được
lưu lại làm việc như trước, chứ không phải là nỗi lo sợ và niềm vui mừng của đại
khối nhân dân bị trị trong đó có gia đình tôi. Nhịp đập con tim của anh và tôi
khác nhau ở chỗ đó.
5.- Tháng 7 năm 1945, nước lũ tràn về, quê tôi
chìm trong biển nước. Ai ai cũng lo sợ nạn đói của đầu năm Ất Dậu lại xẩy ra một
lần nữa.
Chắc chắn là gia đình anh và cá nhân anh cũng
như tất cả những người dân Miền Nam ở cùng hòan cảnh như gia đình anh không có
kinh nghiệm này mà cũng không biết gì về tình trạng lo sợ nạn đói lại tái diễn
của người dân miền Bắc.
6.- Khi Việt Minh phất cờ khởi nghĩa cướp được chính quyền từ trong
tay người Nhật vào ngày 19/8/1945, hầu như toàn thể nhân dân Việt Nam (dĩ nhiên
là có gia đình tôi), đều hớn hở, hân hoan vui mừng.
Kể từ đó, những người trong Mặt Trận Việt Minh
với cờ đỏ sao vàng (được gọi là ngọn cờ giải phóng) có mặt ở khắp mọi nơi, trong
đó có quê tôi. Dân làng tôi hân hoan sung sướng đón chào Việt Minh, đón chào
ngọn cờ giải phóng và hăng say gia nhập Mặt Trận Việt Minh. Tôi cũng gia nhập
đoàn thiếu nhi, rồi ngày ngày cùng đoàn thiếu nhi này sinh họat và theo học các
khóa học để mở mang kiến thức. Một trong những khóa học này dạy chúng tôi về
những bước tiến loài người từ cái thuở hồng hoang, cái thuở con người còn ở
trong tình trạng chưa biết làm nhà để trú nắng trú mưa, còn sống ở trong hang
trong hốc, chưa biết dùng lửa để nấu chín miếng ăn, chưa biết sản xuất ra vải
lụa để may mặc, tiến lần đến thời đại văn minh như ngày nay. Người ta gọi khóa
học này là “Chu Kỳ Cộng Sản”. Trong
thực tế, nó là một khóa học lịch sử thế giới thu gọn và giúp rất nhiều cho học
viên mở mang kiến thức. Nhờ khóa học này, mà năm 1961, tôi có một mớ kiến thức
căn bản về sử học để viết bài thi trong kỳ thi tuyển thí sinh vào lớp Sử Đia
Khóa 4 (1961-1964). Tôi nhớ mài mại đại khái tựa đề của bài thi này là phong
trào tranh đấu giành độc lập của các dân tộc thuộc địa trên thế giới sau Đệ Nhị
Thế Chiến.
Giáo Hội La Mã rất thù ghét những khóa học
như vậy. Thù ghét không phải chỉ vì hai chữ Cộng Sản, mà thù ghét vì cái nội
dung của khóa học này là những bài học lịch sử thế giới được biện sọan dựa theo
tinh thần của thuyết tiến hóa của nhà bác học Charles Roberrt Darwin
(1809-1882).
Vào thời điểm này
(năm 1945) anh đã ở vào cái tuổi trên 12, cái tuổi đã học xong bậc tiểu học và
đang là học sinh trung học, nghĩa là anh đang theo học trường đạo, tức là Trường
Trung Học Taberd do Nhà Thờ Vatican làm chủ.
Dĩ nhiên là đối với Nhà Thờ Vatican cũng như
đối với dân Chúa, niềm vui ngày 19/8/1945 của đại khối dân tộc Việt
Nam lại là nỗi đau buồn và lo sợ của họ. Thói đời, “gần mực thì đen, gần đèn
thì sáng”. Lúc đó anh đang theo học trường đạo, trường Taberd, tất nhiên là
con tim của anh cũng đập theo nhịp con tim của Nhà Thờ Vatican cũng như
dân Chúa người Việt. Có phải thế không anh?
7.- Và sau đó, nhân dân Việt Nam lại được ngẩng mặt lên hãnh diện với
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập được long trọng công bố vào ngày 2/9/1945 loan báo cho
nhân dân khắp nơi trên thế giới biết rằng kể từ ngày này dân tộc Việt Nam là một
dân tộc độc lập với quốc hiệu là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và quốc Kỳ là Cờ Đỏ
Sao Vàng.
Tôi nghi ngờ không biết anh có niềm vui này giống như đại khối nhân dân Việt
Nam ta hay không.
8.- Đầu tháng 9 năm 1945, khi 180 ngàn quân
Quốc Dân Đảng Trung Hoa cùng với các ông Việt Quốc và Việt Cách tràn qua biên
giới vào Việt Nam để giải giới quân đội Nhật ở miền bắc vĩ tuyến 16, thì gần như
toàn thế nhân dân miền Bắc trong đó có gia đình tôi khốn khổ với những đạo quân
thổ phỉ này.
Có một điểm giống nhau giữa một bên là các ông Việt Quốc và Việt Cánh và một
bên là một số lớn các Dân Chúa người Việt ở chỗ là: các ông Việt Quốc và Việt Cách đì theo và tiếp tay cho
đoàn
quân Tầu Tường vào lãnh thổ Việt Nam để hưởng lợi rồi cùng chìm nổi với đoàn
quân Tầu thổ phỉ này, thì một số lớn các dân Chúa người Việt đi theo và tiếp tay cho
Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican để hưởng lợi và cùng chìm nổi với liên minh
giặc cướp nước này. Tôi nói như vậy có đúng không anh?
Ở miền Nam, anh không hề được chứng kiến những hành động cướp bóc và hà hiếp dân ta của
đạo quân Tầu Tưởng (Giới Thạch) thổ phỉ này. Vì vậy mà đa số người dân miền Nam, trong
đó có anh, mới lầm tưởng rằng chính quyền Tầu Tưởng ờ Đài Loan là chính quyền
tốt lắm, và cho rằng những người Việt Quốc Gia gồm dân Chúa, Việt
Quốc, Việt Cách là những người Việt Quốc gia chân chính, mà thật ra là những
người này đã tiếp tay với các thế lực ngọai xâm thổ phỉ Tầu và liên quân xâm lược
Pháp – Vatican làm khổ dân ta. Bộ mặt thật ghê tởm này của họ được ngay chính
ông Bảo Đại viết trong cuốn Con Rồng Việt Nam như sau:
“Bọn Quốc Dân Đảng là bọn lưu manh, bọn ăn
cắp. Các tướng Tàu phù là lũ cú vọ kên kên… Chẳng bao giờ thỏa mãn lòng tham
không đáy. Chẳng có gì làm cho chúng ta tin tưởng được.”
[xiv]
Vấn đề này đã được tôi trình bày khá rõ ràng trong Chương 6, sách
Chân Dung Người Việt Quốc Gia.
9.- Chiến tranh bùng nổ
trên toàn lãnh thổ vào ngày 19/12/1946. Những ngày kế tiếp, hầu như toàn thể
nhân dân ta, từ em bé 14, 15 tuổi cho đến các cụ già trên 60 tuổi đầu bạc phơ,
đều đồng tâm hiệp lực góp công, góp sức cho cuộc chiến đánh đuổi Liên Quân Xâm
Lược Pháp – Vatican để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc và cũng là cương
quyết không để cho cái thảm họa chết đói thảm thương như hồi đầu năm 1945 tái
diễn, cương quyết không thể để cho nền văn hóa cổ truyền của dân ta bị chà đạp
một các thô bạo, và để cho dân ta không còn bị khinh rẻ là những quân tà giáo, man di,
bọn mọi da vàng:
Trong mắt tôi đã thấy,
Dân tôi:
Người trước nối người sau,
Tay trong tay kết chặt một vòng,
Đi đòi lại núi sông trong tay giặc
"Thế giặc mạnh lấy gì mà chống đỡ?"
Lời Diên Hồng vạn tiếng quyết tâm.
Phải trải xương,
Phải đỏ máu với quân thù
Phải đoàn kết triệu bước chân dấn bước,
Từ sông Hồng xuôi về sông Cửu,
Từ đồng bằng nối mãi tới Trường Sơn.
Khắp non sông vang dội bước quân hành
Tay giáo mác và con tim sôi máu.
Trong ánh mắt triệu niềm tin rực sáng
Buổi quân về giải phóng Việt Nam.
Quê hương tôi hôm nay đã thấy
Những mẹ già chị gái
Làm hậu cần nuôi quân,
Những thanh niên hôm nay
Đã làm anh kháng chiến,
Những em bé mười lăm
Gánh vai trò liên lạc.
Cả nước đồng một lòng
Đứng lên tiêu diệt giặc.
Lời réo gọi của non sông đất nước:
Các anh
Xin đứng dậy
Lên đường! (Nguyễn Tố Chi)
Trong khi đó thì một số lớn các dân Chúa và có thể là cả những người theo học các trường đạo, lại liều chết
đứng về phía liên minh giặc xâm lược chống lại đại cuộc cứu nước này của dân ta.
Trong thời gian này, anh
đứng về phía bên nào?
10.- Cũng trong những năm này, TRONG KHI chúng
tôi đã kinh qua những thảm cảnh do các những toán lính đạo được các đồn giặc vũ
trang tiến vào các làng dân lương kế bên tấn công càn quét đốt nhà, đốt đình,
đốt miều, triệt hạ chùa chiền, hủy hoại mùa màng, giết người bừa bãi, hãm hiếp
đàn bà con gái, cướp của mang đi, THÌ thời gian đó có thể là vì đang theo học
trường đạo Taberd, cho nên anh không biết gì hết mà cứ tưởng lầm là dân
Chúa người Việt hiền lành và thánh thiện giống như những người dân hiền
lành theo tam giáo cổ truyền.[xv]
Chúng tôi ghê tởm những chiến dịch “làm sáng
danh Chúa” và “trả thù cho Chúa” của các toán lính đạo Phát Diệm dưới
quyền chỉ huy của Linh-mục Hoàng Quỳnh (trong những năm 1949-1954) với những
hành động tra tấn và hành hạ nạn nhân bị tình nghi là Việt Minh một cách cực kỳ
man rợ. Giữa thanh thiên bạch nhật tại một sân chợ: Họ dùng dao găm đâm chết nạn
nhân, rồi mổ bụng, phanh ngực, moi lấy mật đem hòa với rượu đế, móc lấy gan đem
nướng rồi tụ lại với chén chú chén anh với nhau.[xvi]
Còn nhiều chuyện dã man như vậy hay khủng khiếp hơn nữa. Những chuyện dã man này
sẽ được trình bày trong Chương 13, Phần III trong sách
Tâm Thư Gửi Chính Quyền Việt Nam.
Chắc chắn là những người chịu ảnh hưởng các trường đạo như anh không biết gì về những hành động dã man như vậy của một số lớn các dân
Chúa người Việt. Tôi cũng nghĩ rằng anh không biết gì về những hành
động cực kỳ man rợ như vậy của dân Chúa dù là người Âu Châu, người Phi Châu hay
là người Việt Nam. Điều này có đúng không anh? Theo tôi được biết, có rất nhiều
dân Chúa người Việt đã chứng kiến những việc làm dã man như vậy của những người
đồng đạo của họ, nhưng xem ra họ không tỏ ra một chút gì động tâm, coi đó như là
một chuyên rất bình thường.
Tuy nhiên, cũng vẫn có một số người có tri thức và lương tâm, cho nên khi đọc thấy những điều người ta viết về giáo hội mà dòng họ mình đã theo,
họ
đã biết xét lại những gì mà nhà thờ nói và những gì nhà thờ hành động. Một trong những người này là ông Charlie Nguyễn tức Bùi Văn Chấn
(cựu Thiếu-tá Thẩm Phán Tòa Án Quân Sự của Quân Đội Miền Nam trong nhiều năm
trước ngày 30/4/1975), quê làng Nịnh Cường Bùi Chu, Bắc Việt. Xin anh đọc lá thư
của ông gửi cho người bạn là Bác-sĩ Nguyễn Thanh Giản và nhiều tác phảm khác của
ông trên mạng sachhiem.net.
11.- Khi tin loan truyền
quân dân ta sắp sửa đại thắng tại Điện Biên Phủ, tất cả mọi người Việt Nam theo
tam giáo cổ truyền, dù là ở trong vùng do Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican kiểm
sóat, và ngay cả những người vì sinh kế mà phải làm việc cho chính quyền Pháp
hay chính quyền bù nhìn Bảo Đại, cũng đều cảm thấy hân hoan sung sướng. Lý do:
Chiến thắng lịch sử này cũng là chiến công rửa sạch mối nhục vong quốc của dân
tộc Việt Nam. Điển hình cho sự kiện này là Đại-tá Phạm Văn Sơn, Trường Ban Quân Sử, Phòng 5 Bộ
Tổng Tham Mưu đã viết trong cuốn Việt Sử Toàn Thư như sau:
“Sau
hai Hòa Ước 1862, 1884, nước nhà bị Pháp thuộc luôn 80 năm ròng. Cha con tủi
nhục, vợ chồng lầm than, cái thảm họa vong nô lần này hết sức não nề. Rồi cũng
luôn 80 năm ấy toàn dân lại vùng lên tranh đấu. Máu đào xương trắng tràn ngập
Bắc Nam. Mười năm qua (1944-1954) lợi dụng được cuộc Hoàn Cầu Đại Chiến (Đệ Nhị
Thế Chiến), Việt Nam cùng thực dân Pháp đánh một canh bạc cuối cùng, liều như
một mất một còn. Kết cục con cháu Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Huệ đã rửa được cái
nhục mất nước.” Phạm Văn Sơn, Việt Sử Tòan Thư (Glendale, CA: Đại
Nam, 1980?), tr. 721.
Trái lại, cũng tin vui vĩ đại này của dân tộc, của Nhà Thờ Vatican cũng như của
một số lớn các dân Chúa và có thể là của cả
những người chịu ảnh hưởng các trường đạo như anh lại lo sợ. Họ thiết tha mong mỏi chính quyền của Tổng
Thống Mỹ Eisenhower ra lệnh sử dụng bom nguyên tử để giải vây cho quân đội Liên
Minh Xâm Lược Pháp – Vatican tại cứ điểm Điện Biên Phủ, bất kể hậu quả là gì. Nếu mưu đồ dã
man này được thể hiện ra thành hành động đúng theo lòng mong muốn của họ, thì con số
nạn nhân bị thiệt mạng và tàn phế sẽ lên đến nhiều triệu người. Sự kiện này được
sách “Vietnam why did we go?” nói rất rõ.
[xvii]
và được ông Trần Thanh Lưu chuyển
dịch sang tiếng Việt như sau:
“Pius luôn luôn có ảnh hưởng sâu đến Hồng y
Francis Spellman, Tổng giám mục New York. Ông ta được cất nhắc lên Hồng y trong
tháng hai, 1946. Cả hai kiên quyết đề xướng Chiến Tranh Lạnh, không bao giờ kết
án các kế hoạch xử dụng bom nguyên tử của Hoa Kỳ, ngay cả sau khi Tổng thống
Truman tuyên bố "xem ra Chiến tranh Thế giới III đang gần kề."
Pius XII tiếp tục hỗ trợ cuộc vận động hành
lang Hoa Kỳ kêu gọi "một chiến tranh nguyên tử phòng ngừa." Vào năm 1954 khi
Quân đội Mỹ lập kế hoạch tấn công hạt nhân bộ đội Việt nam, đang bao vây lính
Pháp ở Điện Biên Phủ, chính Vatican đã hỗ trợ cho cuộc vận động hành lang tán
thành đề nghị ấy. Dưới thời Eisenhower, khianhem nhà Dulles, Spellman và Pius
XII giúp hình thành những sách lược của Hoa Kỳ, quân đội Mỹ định thả từ một đến
sáu quả bom 31-kiloton lên những lực lượng Việt nam. Những qủa bom này có sức
mạnh ba lần hơn quả bom ném xuống Hiroshima. Âm mưu sử dụng vũ khí hạt nhân
chống lại Việt nam được bạch hóa trong cuốn đầu tiên của loạt 17 cuốn lịch sử
chính thức về Chiến tranh Việt nam được xuất bản vào 1984 bởi Phòng Quân sử Lục
Quân Hoa Kỳ.[xviii]
12.- TRONG KHI toàn thể nhân dân ta coi việc
Hiệp Định Genève 1954 quy định vĩ tuyến 17 làm ranh giới chia đôi nước Việt Nam
thành hai miền Nam và Bắc chỉ là một biện pháp tạm thời (mua thời gian) để thống
nhất đất nước một cách hòa bình bằng một cuộc tổng tuyển cử được quy định vào
hai năm sau đó, THÌ một số lớn các dân Chúa lại đồng thuận với Nhà Thờ Vatican tán dương chủ trương duy trì Việt Nam
mãi mãi ở trong tình trạng chia đôi với dã tâm biến miền Nam thành một quốc gia
riêng biệt để tiến hành họach kế hoạch Ki-tô bằng bạo lực theo đúng chỉ tiêu
trong vòng mười năm thỉ toàn thể nhân dân miền Nam phải theo đạo Công Giáo hết
như ông dân Chúa Ngô Đình Nhu tuyên bố:
“Tôi có cả một chương trình đã bàn kỹ với
Đức Giám Mục (Ngô Đình Thục) sẽ lần hồi tiến tới chỗ mà Hội Truyền Giáo hoạt
động một thế kỷ mới đạt tới, còn chúng ta chỉ cần quyền mười năm thôi là cả miền
Nam này sẽ theo Công Giáo hết.”[xix]
13.- Đối với toàn thể nhân dân Việt Nam, ngày
30/4/1975 là một ngày lịch sử vẻ vang của dân tộc vì ngày này là ngày đất nước
được thống nhất. Đối với dân tộc Việt Nam, ngày 30/4/1975 giống như ngày
9/4/1865 của Hoa Kỳ, ngày mà Tướng Robert E. Lee (1807-1870) thân hành đến tận
tòa nhà Công Lý của làng Appomatox (Virginia) đầu hàng Tướng Ulysses S. Grant
(1822-1885) [Tổng Hành Dinh của vị Tướng
Chỉ Huy Quân Đội Miền Bắc đặt tổng hành dinh tại đây.]
Và ngày 30/4/1975, đối với dân tộc Việt Nam cũng giống như ngày 20/9/1870 là
ngày lịch sử vĩ đại dân tộc Ý, ngày đó Quân Đội Cách Mạng Ý dưới quyền lãnh đạo
của nhà ái quốc Gluseppe Garibaldi (1807-1882) đã thống nhất được nước Ý bằng
cách đem súng đại pháo trực xạ vào Tòa Thánh Vatican, khiến cho Giáo Hoàng IX
(1846-1878) phải đầu hàng vô điều kiện. Nhờ vậy mà nhân dân Ý Đại Lợi mới có thể
lấy lại toàn thể các lãnh địa gọi là “papal states” và thu hẹp lãnh thổ của
Vatican “chỉ còn lại có 480 ngàn mét vuông kể cả ngọn Đồi Vatican và xung
quanh” ngọn đồi này trong đó có nhà thờ St. Peter.”[xx]
Trái lại, đối với một số lớn các dân Chúa và những người chịu ảnh hưởng trường đạo như anh, ngày 30/4/1975 lại bị họ lại gọi là ngày “mất nước” và
là ngày “quốc hận”. Xin anh thử giải thích một cách trí thức TẠI SAO anh gọi ngày “30
tháng 4” là ngày “mất nước” và là ngày “quốc hận”?
14.- TRONG KHI toàn thể nhân dân ta hồi hộp lo
âu về hành động xâm lăng của Trung Công đem 600 ngàn quân tràn qua biên giới tấn
công và tàn phá các tỉnh vùng ven biên vào ngày 17/2/1979, THÌ một số lớn
các dân Chúa, những người chịu ảnh hưởng các trường đạo và những người chống Cộng cực đoan lại
tỏ ra hân hoan sung sướng, vui mừng, hồ hởi tràn đầy hy vọng… Họ hy vọng rằng
quân xâm lăng Trung Quốc sẽ đại thắng và chiếm đóng Việt Nam để thỏa lòng hận
thù vô lý hoặc là vì quyền lợi cá nhân đã mất đi vì biến cố ngày 30/4/1975, hoặc
là bị mê hoặc bởi những tín lý Ki-tô đến nỗi họ đã coi dân tộc và chính quyền
Việt Nam hiện nay như là thù địch. Vì thế mà họ đã trở thành hạng người mất hết
lương tâm và mất hết liêm sỉ.
15.- TRONG KHI hầu như tất cả người Việt Nam ở
trong nước cũng như ở khắp mọi nơi trên thế giới đều lên án nặng nề việc Tổng
Giám Mục Ngô Quang Kiệt xúi giục và chỉ đạo một số dân Chúa ở Hà Nội
nổi lọan tại tòa nhà công sở số 142 Phố Nhà Chung Hà Nội từ ngày 18/12/2008 cho
đến ngày 30/1/2008, và tại Công Ty May Chiến Thắng số 178 Đường Nguyễn Lương
Bằng, Hà Nội từ ngày 15/8 đến ngày 22/9/2008 để đòi chiếm lại hai khỏan bất động
sản ở hai nơi này cho Nhà Thờ Vatican, THÌ một số lớn các dân Chúa ở hải ngoại,
những người chịu ảnh hưởng các trường đạo và những người chống Cộng cực đoan lại hò reo
tán trợ và cổ võ những hành động bất lương và vô liêm sỉ này. Anh có ủng hộ hành
động khốn nạn này của Giám-mục Ngô Quang Kiệt và băng đảng của ông ta không?
16.- TRONG KHI toàn thể nhân dân ta buồn hận
vì Tòa Án Liên Bang Hoa Kỳ bác bỏ đơn kiện của chính quyền Việt Nam về các thế
lực có trách nhiệm về việc sản xuất và sử dụng chất độc Da Cam “rải xuống
miền Nam và miền Trung tới 77 triệu lít,, gây ảnh hưởng và tác hại đến
môi truờng của 2,630,000 mẫu Tây và gần 5 triệu người sống trong 35,585 thôn
ấp.“[xxi],
THÌ một số lớn các dân Chúa người việt, những người chịu ảnh
hưởng các trường đạo và những người
chống Cộng cực đoan lại reo hò vui sướng. Anh cảm thấy buồn hận như chúng tôi
hay reo hò vui sướng giống như một số lớn các dân Chúa và những người chống Cộng
cực đoan?
17.- TRONG KHI toàn thể nhân dân ta hân hoan
sung sướng từ khi chính quyền Hoa Kỳ lọai bỏ nước Việt Nam ra khỏi danh sách các
quốc gia bị coi là “đặc biệt phải quan tâm” (CPC), THÌ một số lớn các dân Chúa,
những người chịu ảnh hưởng các trường đạo và những người chống cộng cực đoan lại cổ võ
và vận động Quốc Hội Hoa Kỳ làm luật để đưa nước Việt Nam trở lại vào danh sách
các nước bị Hoa Kỳ coi là CPC. Anh đứng ở phía bên nào?
18.- TRONG KHI toàn thể dân tộc trên thế giới
đều coi cuộc Cách Mạng Pháp 1789 là một chiến công vô cùng quan trọng trong cuộc
chiến giải thoát con người ra khỏi “ngục tù ngu dốt” và cũng là giải
thoát họ khỏi ách thống trị tham tàn bạo ngược của Giáo Hội La Mã, một cuộc
chiến không phải của riêng dân tộc Pháp mà là của toàn thể nhân dân Âu Châu và
toàn thể nhân dân thế giới, THÌ Nhà Thờ Vatican cũng như một số lớn các dân Chúa và những
người chịu ảnh hưởng bởi các trường đạo lại khinh miệt và thù ghét cuộc cách mạng vĩ
đại này của nhân lọai. Bằng chứng là ngay sau đó, Nhà Thờ Vatican, một mặt tích
cực vận động các nước Áo, Phổ, Anh và Nga thành lập các liên minh thánh (holy
alliances) đem quân tấn công vào lãnh thổ Pháp với mục đích duy nhất là để lật
đổ chính quyền Cách Mạng Pháp và hủy diệt những công trình Cách Mạng 1789, đồng
thời, họ kêu gọi và xúi giục dân Chúa cuồng tín người Pháp nổi lọan tiếp tay cho
liên minh thánh khốn nạn này đang tiến vào đánh phá nước Pháp:
“Ngày 19/8/1792, 50 ngàn quân Phổ cộng với
29 ngàn quân Áo, theo sau bởi 8 ngàn quý tộc Pháp xuất ngoại, đã vượt biên giới
Pháp. Trong khoảng 15 hôm, những đồn longwy và Verdun đều thất thủ. Đạo quân Âu
Châu sửa soạn đánh Ba-lê.”
[xxii]
“Sau cuộc lẩn trốn của nhà vua tới
Varennes, các nước Âu Châu lại sôi nổi. Lần này, Louis XVI cam tâm chấp nhận
những điều kiện can thiệp của các nước Âu Châu. Do đó nước Áo và Phổ bắt đầu
động binh tới biên giới Pháp - Ở trong nước, nhiều địa phương trung thành với
Giáo Hội và nhà vua, cũng bắt đầu nổi loạn. Nhất là miền Bretagne, Normandie,
Vendée vốn là những miền sùng đạo, cũng võ tráng bênh vực các tu sĩ không chịu
tuyên thệ với cách mạng. – Tình trạng Pháp quốc lúc đó thực hết sức lung lay.”[xxiii]
.
Vấn đề này đã được trình bày đầy đủ trong sách
Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã (Phần VII, Mục XXVI), nơi các Chương
108, 109, 110, 111, 112, 113.
19.- TRONG KHI toàn thể nhân dân tiến bộ trên
thế giới đều đã nhìn nhận thuyết tiến hóa của nhà bác học Charles Robert Darwin
(1809-1882) là một công trình nghiên cứu hết sức công phu để tìm hiểu về nguồn
gốc của loài người và học thuyết này đã được tất cả các nước tiến bộ trên thế
giới đưa vào trong chương trình học ở bậc tiểu và trung học để giúp cho thanh
thiếu niên mở rộng kiến thức, THÌ Nhà Thờ Vatican, một số lớn các dân Chúa và những
nguời chịu ảnh hưởng các trường đạo như anh lại lo sợ và tìm đủ mọi cách để ngăn cấm,
không cho nó vào chương trình học với dã tâm bưng bít, che giấu, không cho người
đời biết gì về triết thuyết khoa học này, và nhạo báng những người tin tưởng vào
triết thuyết này là con cháu của loài khỉ. Nực cười là khi nhạo báng những người
tin tưởng vào học thuyết này là con cháu của loài khỉ, nhưng họ lại không biết
rằng tin tưởng vào cái tội tổ tông và cái đạo cứu rỗi của Nhà Thờ Vatican là họ
đã tự nhận là con cháu của một cặp tượng đất sét.
20.- Ngay từ khi chính quyền Việt Nam kêu gọi
toàn dân Kháng chiến vào chiều tối ngày 19/12/1946, tôi cũng bị cuốn hút
theo tiếng gọi của non sông, dấn bước lên đường làm em bé “liên lạc viên” góp
sức cùng với các lớp đàn anh để đòi lại núi sông cho dân tộc. Sau khi bị Pháp bắt
giam một thời gian trong tuổi vị thành niên, tôi sống bơ vơ trong vùng Pháp tạm
chiếm. Rồi Pháp bị đại bại ở Điện Biên Phủ, quê tôi được lệnh nhận diện lại kẻ thù, và tiến hành chính sách cải cách ruộng đất. Trong cái buổi giao thời tranh tối tranh sáng
nhận diện lại kẻ thù như vậy, nhiều người đã trở thành nạn nhân vì dẽ
dàng bịnghi ngờ là người của phe địch. Tôi quyết định vào Nam với một hy vọng mới mà không biết gì về hậu trường sân khấu chính trị ở đó.
Sau này, từ năm
1961 cho đến ngày nay, tôi lao vào nghề học sử, tìm hiểu lịch sử thế giới, trong đó lịch sử Giáo Hội La
Mã là quan trọng nhất, đặc biệt là các quốc gia nạn nhân trực tiếp và lâu đời
nhất của Nhà thờ Vatican là các nước Âu Châu. Vì thế tôi mới biết rõ Giáo Hội Lã Mã và giáo triều Vatican là kẻ thù lâu đời nhất, thâm độc nhất và dã man nhất của nhân loại
và của dân tộc Việt Nam. Đây là nguyên nhân TẠI SAO tôi viết bộ Lịch Sử và
Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã và tập sách Tâm Thư gửi chính quyền Việt Nam.
Còn anh, cũng trong thời gian này, anh theo
học tại trường học Pháp, nơi mà người ta dạy học sinh rằng “tổ tiên ta là
người Gaulois”, sau đó lại theo một trường đạo lớn nhất ở Sàigòn, Trường
Trung Học Taberd, nơi mà anh
được người ta “rèn luyện theo tinh thần Công Giáo”. Vì bị ảnh hưởng nền
giáo dục này, anh mới đứng về phía Nhà Thờ Vatican, kề vai sát cánh với
một số lớn các dân Chúa, quyết tâm đánh phá chính quyền Việt Nam hiện nay một cách
mãnh liệt bằng tất cả trí óc, tâm hồn và con tim, ngôn từ và hành động. Vì thế anh mới mạt sát và
sỉ nhục tôi vì tôi đã viết sách Tâm Thư gửi Chính Quyền Việt Nam hiện nay, vừa
để mạt sát và vu khống cụ Hồ Chí Minh với đủ mọi thứ tội ác ghê gớm mà không đưa
ra được bản văn lịch sử nào để chứng minh những lời anh tố cáo. Qua lá thư này,
thú thực, tôi nhận thấy anh đã “La Mã hơn cả La Mã” và đã phản ứng giống như
một số lớn các “dân Chúa" ở những khu vực nổi danh xưa nay.
MAI MỈA NGƯỢC
Trong lịch sử, chỉ có những người yêu nước
đứng về phía dân tộc mới viết thư mỉa ma, miệt thị và nhục mạ những kẻ đi theo giặc phản lại tổ quốc, chứ chưa hề có trường hợp nào lại có kẻ nào
chỉ vì muốn bênh vực những tên Việt gian , chạy tội cho quân ngọai thù
cướp nước mà quay ra miệt thị, mỉa mai và sỉ nhục một người bạn
cùng dạy học một trường chỉ vì người đó đã viết lên những sự thật lịch sử
và nói cho mọi người biết rõ những tên Việt gian bán đứng dân tộc mình.
Có câu nói rằng “không biết thì không thể
bắt tội được”. Nói sai lầm như anh là do sự không biết mà gây ra, gây ra bởi
vì anh không được học lịch sử thế giới và cũng không được học lịch sử Việt Nam
trong thời cận và hiện đại như chúng tôi, cho nên anh không biết rõ bộ mặt thật cực kỳ ghê tởm của
các thế lực mà văn hào Voltaire đã phải gọi là “cái tôn giáo ác ôn”.[xxiv]
Vì vậy, tôi mới nghĩ rằng không nên trách móc anh về vấn đề này. Có một điều đáng
buồn là anh lại sử dụng những lời lẽ mỉa mai, miệt thị và nhục mạ riêng cá nhân
tôi, một người bạn lâu năm đã từng dạy học cùng một trường với anh hơn 5 năm
trời.
Thưa anh, trong tất cả các tác phẩm của tôi, dù là dưới hình thức nào (sách, thư gửi trực
tiếp cho đối tượng, thư ngỏ hay tâm thư), tôi cũng chỉ nêu lên những sự kiện
lịch sử rồi dựa vào đó để đưa ra những nhận xét về việc làm của thế lực hay cá
nhân có liên hệ đến những sự kiện lịch sử đã được nêu lên trong tác phẩm mà
thôi. Tôi chưa hề nêu đích danh một người bạn nào của tôi đứng về hàng ngũ các
thế lực xâm lược trên đây để miệt thị và trách móc như cụ Phan Văn Trị đã trách
móc ông Tôn Thọ Tường, một nhà Nho đương thời chỉ vì miếng mồi danh lợi mà đành
lòng ra làm việc với chính quyền của quân cướp xâm lăng. Tôi cũng không hề nêu
đích danh một người bạn nào của tôi trong hàng ngũ các thế lực xâm lược trên đây
để mỉa mai dù là mỉa mai rất nhẹ như Cụ Nguyễn Khuyến viết trong bài thơ “Vãn
Đồng Niên Vân Đình Tiến Sĩ Dương Thượng Thư”) khi hay tin người bạn đồng khoa
này của cụ là cụ Dương Khuê đã vãn phần.
Cả cụ Phan Văn Trị và cụ Nguyễn Khuyến đều là
những người nặng lòng với dân tộc và đất nước, đều đưa ra những lời trách mắng
và mỉa mai những người có học mà cam lòng làm tay sai cho quân cướp ngọai thù.
Hành động của hai kẻ sĩ có tiết tháo trên đây là truyền thống cao đẹp trong nếp
sống văn hóa cổ truyền của dân ta mà những người có học còn có lương tâm và liêm
sỉ ở vào bất cứ thời đại nào cũng phải tuân thủ. Cũng vì thế mà khi thác lời cụ
Phi Khanh dặn con là Nguyễn Trãi, trong bài thơ Hai Chữ Nước Nhà, cụ Á Nam Trần
Tuấn Khải mới viết:
Kiếp luồn cúi, đỉnh chung cũng nhục,
Thân tự do, chen chúc mà vinh.
Con ơi! Nhớ đức sinh thành
Sao cho khỏi để ô danh với đời.
Chớ lần lữa theo loài nô lệ
Bán tổ tiên kiếm kế sinh nhai,
Đem thân đày đọa tôi đòi,
Nhục nhằn bêu riếu muôn đời hay chi?
Sống như thế sống đe sống mạt
Sống làm chi thêm chật non sông:
Thà rằng chết quách cho xong,
Cái thân cẩu trệ ai mong có mình. (Trần Tuấn
Khải)
Cung cách ứng xử trong nếp sống văn hóa của
dân tộc ta khi đất nước bị quân thù ngoại nhập xâm lăng và thống trị là như vậy.
Khi viết thư cho cụ Phan Đình Phùng,
ông Hoàng Cao Khải không hề có một lời nào xúc phạm đến cụ Phan Đình Phùng dù là họ
coi nhau như kẻ tử thù.
Khi làm thơ đối đáp với cụ Phan Văn Tri, Tôn Thọ Tường
cũng không dám có lời nói nào bất kính với nhà Nho ái quốc này. Khi viết thư cho
cụ Hoàng Hoa Thám, Ba Phức cũng không dám có một lời nào mỉa mai người anh hùng
dân tộc này dù là với tư cách là “dưỡng phụ” của cụ. Điều này cho chúng ta thấy
rõ nếp sống văn hóa cổ truyền của dân tộc ta đã tạo nên con người có lương tâm
và có liêm sỉ. Họ biết rõ khi đã có hành động chống lại tổ quốc và dân tộc, thì
phải biết thân biết phận là kẻ tội đồ của lịch sử.
Trái lại, chính sách giáo dục của các trường đạo đã làm cho con người mất hết lương
tâm, mất hết liêm sỉ, mất hết cả nhân tính, và mất hết cả
tình cảm thiêng liêng
đối với dân tộc và tổ quốc. Vì vậy mới có tình trạng ngược đời
là cái kẻ đi bênh vực cho những tên phản quốc và thế lực ngọai xâm mà lại còn sỉ
vả những người viết sử nói lên những sự thật lịch sử (1)
khẳng định những cá nhân và
thế lực nào là kẻ thù của dân tộc, (2) khẳng định và tôn vinh những cá nhân và thế lực nào đã
lập được công nghiệp đánh đuổi quân cướp ngọai thù ra khỏi lãnh thổ, giành lại
chủ quuyền độc lập cho tổ quốc, và đem lại vinh quang cho dân tộc.
Khi trả lời thắc mắc của em QBH, tôi chứng minh mấy ông dân Chúa Trần
Lục, Trương Vĩnh Ký và Nguyễn Trường Tộ là Việt gian (vì họ
(1) thực sự là những
người mang quốc tịch Vatican, một quốc gia thù địch với đất nước Việt Nam, (2)
thực sự đã được quốc gia thù địch của dân tộc là Vatican đưa đi huấn luyện phương cách
họat động chống phá tổ quốc ta, và (3) thực sự đã đứng vào hàng ngũ của Liên Minh Xâm
Lược Pháp – Vatican và tích cực làm tay sai đắc lực cho liên minh xâm lược này
từ khi chúng tấn chiếm nước ta cho đến khi họ qua đời.) Liền khi đó, anh lại viết thư mỉa mai, và nhục mạ tôi bằng những ngôn từ
nặng nề chỉ vì anh muốn bênh vực và bảo vệ danh dự của các ông dân Chúa Việt
gian này, bênh vực cho những hành động tội ác của Nhà Thờ Vatican chống lại dân
tộc và chính quyền Việt Nam hiện nay.
Một vài chứng cớ "bất nhân" của "lương tâm công giáo"
Đến đây, phải thành thực mà nói rằng tôi
kinh tởm đến cùng độ cái chính sách đào tạo thanh thiếu niên theo
"tinh thần" và "lương tâm" công giáo của Nhà Thờ Vatican. Qua chính sách này, họ đã có thể rèn
luyện và uốn nắn dân Chúa bản địa và những người tiếp nhân sở học qua
các trường đạo KHÔNG NHỮNG trở thành hạng người vong bản, phản tổ quốc, phản dân
tộc, MÀ CÒN làm cho họ mất hết nhân tính, sẵn sàng cắt đứt mối liên hệ thân tình
giữa con cái đối với cha mẹ, giữa vợ chồng đối với nhau để tỏ lòng tuyệt đối
trung thành với Nhà Thờ Vatican. Bằng chứng là:
1.- Gần cuối thập niên 1990, ở Houston, TX, vợ
con ông Charlie Nguyễn đã lôi ông ra xử lý hạch hỏi giống như các phán quan của
Tòa Án Dị Giáo thời Trung Cổ xử lý những người bị gán cho là tà giáo.
2.- Sau ngày 30/4/1975, một ông dân Chúa Đại
Úy nhà văn quân đội đã không thèm nhìn nhận người cha ruột đến thăm ông ta ở
trong trại học tập sau 30 năm xa cách chỉ vì thân phụ ông ta đã cưỡng lại lời
dạy của Nhà Thờ Vatican để đi theo Mặt Trận Việt Minh chiến đầu cho quyền lợi
tối thượng của dân tộc.
3.- Giám-mục Emmanuel Milingo 71 và bà Maria
Sung 43 tuổi mới cưới nhau chưa được ba tháng dù rằng họ đã có làm lễ cưới
trước bàn thờ Chúa Jesus trong một ngôi giáo đường của một hệ phái Tin Lành. Ấy
thế mà chỉ vì phải nghe lệnh của các đấng bề trên, ông giám-mục này đã đành lòng
bỏ rơi người vợ thân thương của ông cái rụp, không một chút tiếc thương không
một chút bịn rịn. Xin xem Chương 9, sách Tâm Thư Gửi Chính Quyền Việt Nam để biết
rõ hơn về 3 trường hợp này. Chương sách này có thể đọc online trên sachhiem.net.
Cũng nên biết là công giáo đồ cuồng tín người Pháp chống lại tổ quốc Pháp (từ
giữa thập niên 1790 cho đến năm 1905), công giáo đồ cuồng tín người Nhật chống
lạị tổ quốc Nhật (trong thế kỷ 17), công giáo đồ cuồng tín người Việt liên tục
chống lại tổ quốc Việt Nam từ cuối thế kỳ 18 cho đến nay.
Bản chất mất hết nhân tính của những người
được rèn luyện theo tinh thần công giáo hay chịu ảnh hưởng các trường đạo là như thế.
So với những mối liên hệ vợ chồng hoặc phụ tử tình thâm như vợ chồng ông Charlie
Nguyễn cũng như cha con ông đại úy nhà văn quân đội và tình nghĩa vợ chồng đang
mặn nồng của Giám-mục Emmanuel Milingo 71 và bà Maria Sung 43 tuổi trên đây, thì
tình bạn dạy học cùng chung một trường trong hơn 5 năm trời giữa anh và tôi chỉ
là một hạt cát trong một đại mạc mênh mông. Do đó, tôi không ngạc nhiên khi
thấy anh thẳng tay hạ bút viết những lời ngược ngạo khó nghe trong lá thư đề
ngày 17/6/2009 gửi cho Giáo-sư Nguyễn Thái An và cá nhân tôi, chỉ vì
Giáo-sư An đã khẳng định và chứng minh rằng cả ba ông dân Chúa Trần Lục, Trương
Vĩnh Ký và Nguyễn Trường Tộ đều là "Việt gian", và tôi
cũng đã khẳng định và chứng minh như vậy, và đã
biên soan hàng chục tác phẩm nói lên những thật về việc làm tội ác của Nhà Thờ Vatican
trong gần hai ngàn năm qua. Âu đó cũng là chuyện rất bình thường đối với những
nguời dân Chúa và những người chịu ảnh hưởng các trường đạo ròng rã trong nhiều năm trời.
Thôi thì xin anh coi bức tâm thư này của
tôi như là: “bức thư cuối cùng” của tôi gửi cho anh, và kể từ đây:
Anh đi đường anh, tôi đường tôi,
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi! (Thế Lữ).
Trân trọng,
Nguyễn Mạnh Quang
1 2
3 4
5 6
CHÚ THÍCH
[i]
Tạ Thanh Bạch, Minh Tâm Bảo Giám (Glendale, CA: Đại Nam, 1980?),
tr. 25.
[ii]
Tạ Thanh Bạch, Sđd., tr. 11.
[iii]
Trần Trọng Kim, Nho Giáo Tập 1
(Sàigòn: Tân Việt, 1952), tr. 45-46.
[iv]
Nguyễn Ngọc Ngạn, Xóm Đạo (Đông Kinh, Nhật Bản: Tân Văn, 2003),
tr 148.
“Toàn trại này, dường như ai cũng sùng
đạo như nhau, và sự sùng đạo ấy được thể hiện qua việc cầu nguyện và đi
lễ. Buổi sáng, năm giờ chuông đổ lần thứ nhất, họ đã lục tục đánh thức
cả nhà cùng dậy. Việc đầu tiên khi chưa bước chân xuống đất, là phải làm
dấu thánh giá và đọc vài kinh nhật tụng. Sau đó, đánh răng rửa mặt, thay
quần áo đi lễ. Trên đường đến nhà thờ, họ không bỏ phí thì giờ, lấy
tràng hạt ra vừa lần chuỗi vừa cầu xin. Vào nhà thờ đọc kinh chung cả
tiếng đồng hồ rồi mời tham dự thánh lễ mà dường như vẫn chưa thấy đủ, họ
còn quì nán lại đọc kinh thêm cho đến lúc tới giờ đi làm. Buổi trưa,
đúng giờ ngọ, chuông nhà thờ lại cất lên, nhắc họ dù đang làm gì, dù
đang ở đâu, cũng phải tạm ngưng tay để làm dấu thánh giá và cầu nguyện.
Tối về, cơm nước xong lại vội vã đến nhà thờ. Và khoảng 9 giờ tối, trước
khi đi ngủ, mọi gia đình đều tụ tập trước bàn thờ để đọc thêm một loạt
kinh nữa trước khi lên giường! Nói chung, một ngày không biết bao nhiêu
lần nhớ đến Chúa. Ăn củ khoai cũng làm dấu thánh giá. Nửa đêm mất ngủ
cũng ngồi lên lần tràng hạt! Vui cũng cám ơn Chúa, mà buồn cũng coi là
thánh giá Chúa trao cho mình gánh vác! Niềm tin mãnh liệt như thế, cho
nên chẳng lạ gì….”
[v] Nguyễn
Ngọc Ngạn, Sđd., tr 71.
“Từ thuở chưa có trí khôn, cũng giống như
bao nhiêu người Công Giáo khác, anh (Thông) đã được nuôi dưỡng trong bầu
không khí thượng tôn tín ngưỡng, bằng những giáo điều bất di bất dịch,
theo thời gian ngấm dần vào trí óc anh, khiến anh làm cái gì cũng sợ
tội, sợ Chúa trừng phạt."
[vi]
Nguyễn Mậu: "Thời Sự Trong Tuần" Chính Nghia - Bộ Mới Số 251 [San Jose, California] ngày 03/12/1994.
[vii]
Nguyễn Xuân Thọ, Bước Mở Đầu Của Sự
Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam 1858-1897 (Saint
Raphel, Pháp:TXB, 1995), tr. 17.
[viii]
Arnold Schrier & T. Walter Wallbank,
Living World History (Glenview, Illinois: Scott, Foresman and
Company, 1974), p. 149.
“Giáo
Hoàng Gregory VII (1073-1085) hăm doạ sẽ rút phép thông công bất kỳ
chính quyền thế tục nào bổ nhiệm một viên chức hay tu sĩ của Giáo Hội để
cho họ tùng phục chính quyền đó. Hoàng Đế Henry IV (1050-1106) của Đế
Quốc Thánh La Mã (nước Đức) quyết định rằng Giáo Hội không nên can thiệp
vào việc tuyển chon các ông giám mục trong lãnh địa của ông. Giáo Hoàng
Gregory VII liền lên án hành động bất hợp pháp này của Hoàng Đế Henry IV
rồi rút phép thông công. Khi Hoàng Đế Henry IV thách đố với Giáo Hoàng
Gregory VII, các ông nam tước nắm quyền cai trị tại các địa phương trong
đế quốc của ông nổi loạn đòi ông phải nhượng bộ Giáo Hoàng Gregory VII.
Năm 1077, Hoàng Đế Henry IV phải mặc y phục như người ăn năn sám hối,
đến trước lâu đài Canossa ở Apennines, chân không mang giầy, đứng giữa
trời tuyết trong ba ngày liền mới được Giáo Hoàng Gregory VII thâu hồi
ông trở lại với Giáo Hội.” Nguyên văn: “Gregory VII (1073-1085)
threatened to excommunicate any layman who tried to invest an official
of the Church or any cleric who submitted to it. Henry IV (1050-1106),
emperor of the Holy Roman Empire, was determined that the Church should
not interfere with the selection of the bishops who became his vassal.
Branding some of Henry’s acts illegal, Gregory excommunicated the king.
When Henry defied the pope, a revolt among his barons forced him to make
peace with Gregory. In 1077, he appeared at Canossa, a castle in
Apennines, dressed as a penient, and stood barefoot in the snow in three
days before Gregory received him back to the Church…”
[ix]
Phan Đình Diệm, Tuyên Cáo 6.
tanvien@kitohoc.com Ngày
15/6/1999. Xin đọc thêm Chương 4, Mục II, Phần I bộ sách Lịch Sử và Hồ
Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã.
[x]
Trần Tam Tỉnh, Sđd., tr 54.
[xi]
Vũ Đình Hoạt, Việt Nam Tôn Giáo
Chính Quan Tập II (Fall Church, VA: Alpha, 1991), tr. 1592-1593.
[xii]
Malachi Martin, Rich Church Poor Church (New York: G.P. Putnam's
Sons, 1984), p.156.
[xiii]
Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng (Sàigòn: TXB, 1970), tr.
134-135.
[xiv]
Bảo Đại, Sđd., tr. 215.
[xv]
Quang Toàn và Nguyễn Hoài, Những
Họat Động Của Bọn Phản Động Đội Lốt Thiên Chúa Giáo Trong Thời Kỳ Kháng
Chiến 1945-1954 (Hà Nội, Nhà Xuất Bản Khoa Học, 1965), tr. 55-120.
[xvi]
Cửu Long Lê Trọng Văn, Bước Qua
Nguỡng Cửa Hy Vọng Hay Đến Bờ Ảo Vọng (San Diego, CA: Mẹ Việt Nam,
1996), tr.188-193.
[xvii]
Avro Manhattan, Vietnam why did we go? (Chino, CA: Chick Publications,
1974), p. 72.
“Cardinal Spellman and Pope Pius XII. Pius
had always had deep affection for Cardinal Francis Spellman, Archbishop of New
York, whom he raised to Cardinal in Frebruary, 1946. These two consistently
promoted the Cold War, never condemning the U.S. plans to use the atom bomb,
even aftre President Truman’s declaration that “it looks like World War III is
near.”
Pius XII continued to support the U.S. lobby
advocating “an atomic preventive war.” When in 1954 the U.S. Army planned a
nuclear attack on the Vietnamese, besieging the French at Dien Bien Phu, the
same Vatican supported lobby gave their approval. During the Eisenhower
Administration, when the Dulles brothers, Spellman and thus Pius XII helped
formulate U.S. policies, the U.S. military considered dropping from one to six
31-kiloton bombs on the Vietnamese forces. The weapons were three times as
powerful as the Hiroshima bomb. The scheme to use nuclear weapons against
Vietnamese was disclosed in declassified material on the first volume of a
17-volume official history of Viet Nam war published in 1984 by the Army’s
history offlice."
[xviii]Trần
Thanh Lưu “Âm Mưu Bí Mật Giữa Pius – Spellman – Dulles.” Sachhiem.net
ngày 13/5/2009.
[xix]
Hoàng Trọng Miên, Đệ Nhất Phu Nhân
- Tập I (Los Alamitos, CA: Nhà Xuất Bản Việt Nam, 1989), tr. 428.
[xx]
Malachi Martin, Rich Church Poor Church (New York: Putnam’ s,
1984), p. 170.
[xxi]
Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Văn Tuấn, Chất Độc Màu Da Cam và Cuộc Chiến Việt Nam (Garden Grove, CA: Giao
Điểm, 2005),tr 171.
[xxii]
Nghiêm Xuân Hồng, Cách Mạng và Hành Động (Sàigon: Quan Điểm, 1964) tr.
52-53.
[xxiii]
Nghiêm Xuân Hồng, Sđd., tr. 46
[xxiv]
Bùi Đức Sinh, Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo – Phần Nhì (Sàigòn: Chân Lý,
1972), tr. 165.
Trang Lịch Sử