|
10 tháng
10, 2008
|
“Với tất cả kinh
nghiệm của con người, tôi nghĩ, có thể nói với chúng ta một điều rằng,
có một ý nghĩa cho điều đó. Khi tôi nắm bàn tay lạnh lẽo của một người
bạn vừa lìa xa cõi đời, và nhìn thấy một diễn tả về sự hy vọng và niềm
vui sướng trong đôi mắt của người bạn đó, thậm chí ngay ở thời khắc của
sự chết đến. Tôi có thể nhìn thấy ý nghĩa cho sự tồn tại mà điều này
vượt ra ngoài những phát minh khoa học”
Thuyết Sáng thế và Vũ trụ học
Không đơn
thuần chỉ là quá trình tiến hóa sinh học đã đặt ra những thách thức trong
quan điểm Thiên chúa giáo truyền thống. Những hiểu biết khoa học về quá
trình tiến hóa của vũ trụ đã làm suy giảm đức tin tâm linh của con người.
Trong cuốn sách về sự sáng thế, Chúa đã tạo dựng nên toàn cõi vũ trụ trong
vòng sáu ngày. Nhưng theo các nhà vũ trụ học ngày nay thì vũ trụ bắt đầu từ
một “vụ nổ” và thường được ví von với thuật ngữ “Vụ Nổ Lớn-Big Bang”. Sau
hàng tỷ năm, các ngôi sao và thiên hà bắt đầu hình thành. Giống như Darwin
đã giả thuyết, tiến hóa của sự sống là một quá trình đều đặn, chậm rãi và
lâu dài. Bởi vậy, các nhà vũ trụ học cũng tin rằng, vũ trụ của chúng ta cũng
trải qua một quá trình tiến hóa lâu dài và chậm chạp như thế.
Nhưng giả thuyết và phương thức giải quyết vấn đề của Kinh Thánh và Khoa
học lại không tương thích với nhau. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là cả
hai đều gợi ý rằng, vũ trụ bắt đầu từ hư không trong một khoảng thời gian
hữu hạn ở quá khứ. Quả thực, rất nhiều đức tin tôn giáo hiện thời coi lý
thuyết Vụ Nổ Lớn như là một lời khẳng định ý niệm của Chúa về sự tạo thành
vũ trụ. Thật là thú vị khi bằng chứng đầu tiên của lý thuyết Vụ Nổ Lớn được
khám phá vào năm 1929 bởi nhà thiên văn người Mỹ Edwin Hubble. Các quan sát
của Hubble chỉ ra rằng vũ trụ đang giãn nở. Rất nhiều nhà khoa học đã bác bỏ
ý kiến này, bởi theo họ, nó mang thoang thoảng hương vị của tôn giáo. Nếu vũ
trụ có một khởi đầu thì phải có một Đấng tạo hóa. Đó là một điều phản khoa
học. Quan điểm thịnh hành ở thời điểm đó cho rằng, vũ trụ trong trạng thái
tồn tại vĩnh hằng, và do đó, không có khởi điểm.
Khám phá của
Hubble về sự giãn nở của vũ trụ đã đặt dấu chấm hết cho một vũ trụ tĩnh
không thay đổi theo thời gian, đồng thời nó cũng đưa chúng ta tới một sự
ngoại suyrằng, vũ trụ có một thời khắc khởi đầu xác định trong quá khứ. Hơn
nữa, quan niệm này đã củng cố cho thuyết tương đối rộng của Einstein, mà ở
đó, nó đưa ra một loạt các phương trình đẹp đẽ miêu tả cách thức mà vũ trụ
xuất hiện từ hư không. Một số các nhà khoa học ngày nay đã giành lại thế
thượng phong để tranh luận rằng, thuyết Vụ Nổ Lớn minh chứng vũ trụ xuất
hiện từ những quá trình tự nhiên thuần túy mà không cần có sự can thiệp bởi
một sức mạnh siêu nhiên nào.
Quan niệm này được diễn tả rành rọt bởi nhà vật lý người Anh Stephen
Hawking. Trong cuốn sách bán chạy nhất thế giới của ông “Lược sử thời gian”,
Hawking đã chỉ ra rằng, nếu lý thuyết vũ trụ hiện tại là đúng thì sự tạo
thành của vũ trụ hoàn toàn có thể giải thích được bằng các định luật vật lý
thuần tuý. Trong tình huống như thế, Hawking đặt ra câu hỏi, cái gì đóng vai
trò cho một Đấng sáng tạo?
Trong khi Hawking nhìn nhận khoa học như một sự lột tả bức tranh của Chúa
thì cũng có nhiều nhà khoa học mang những quan niệm khác nhau. Chẳng hạn,
nhà vật lý Paul Davies đã diễn tả rằng, vẻ đẹp và trật tự của các định luật
vật lý đã gợi mở một vài điều còn ẩn sau chính những định luật đó, một vài
điều bắt nguồn từ vẻ đẹp của toán học và trật tự của vũ trụ. Tương tự như
vậy, nhà vật lý John Polkinghorn và John Barrow tin vào sự cân bằng tinh tế
đáng kinh ngạc của trật tự toán học cho phép mô tả vũ trụ. Điều đó ngụ ý
rằng, có một tác động trí tuệ nào đó có trách nhiệm cho chính sự tinh tế
này. Chính Stephen Hawking đã liên hệ Chúa với các định luật vật lý. Đặc
biệt, Hawking và Davies đã gán Chúa với cái gọi là “Lý thuyết của vạn vật”-
Một lý thuyết đơn lẻ mà các nhà vật lý hy vọng một ngày nào đó nó sẽ thống
nhất được cả thuyết tương đối rộng và cơ học lượng tử, bởi vậy có thể mang
toàn bộ vũ trụ vào trong một cái bóng lớn đầy hiệu lực của toán học. Lý
thuyết này là mục tiêu lớn nhất mà các nhà vật lý lý thuyết đương đại muốn
vươn tới. Đây cũng là cái mà Hawking ám chỉ là “ý niệm của Chúa”. Tuy nhiên,
vươn xa hơn các ngành khác, vũ trụ học là trường hợp mà bạn có thể hoặc
không thể nhìn thấy Chúa phản ánh trong bức tranh. Và cuối cùng, khoa học
hoặc không làm sáng tỏ hoặc không bác bỏ sự tồn tại của Chúa.
Đi tìm cội nguồn của vũ trụ
Ý tưởng cho rằng vũ trụ có một bắt đầu lần
đầu tiên được tiên đoán bởi thuyết tương đối rộng của Einstein vào năm 1916.
Các phương trình Einstein miêu tả cấu trúc của không gian và thời gian đã ám
chỉ rằng, vũ trụ không phải là tĩnh, và nó phải giãn nở theo thời gian. Cả
Einstein và các nhà vật lý khác đã sớm nhận ra hệ quả tất yếu này. Nhưng hầu
hết các nhà vật lý thời đó đều có một niềm tin vững chắc vào một vũ trụ tĩnh
tại. Chính Einstein cũng bị thống trị bởi cách suy nghĩ này hơn là chấp nhận
hệ quả mà phương trình của ông đưa ra, để rồi buộc ông phải thêm vào phương
trình vốn dĩ rất đẹp một thuật ngữ xa lạ để làm sao phương trình đó miêu tả
một vũ trụ tĩnh. Sau khi các quan sát của Hubble về sự lùi xa của các thiên
hà cho thấy vũ trụ đang giãn nở thì Einstein mới thừa nhận “đó là sai lầm
lớn nhất của đời tôi”. Ông đã bỏ lỡ cơ hội mà chắc chắn đó là tiên đoán vĩ
đại nhất trong lịch sử khoa học.
Một trong những người đầu tiên đưa ra ý tưởng về sự giãn nở và nguồn gốc
của vũ trụ là một cha cố người Bỉ George Lemaitre. Ông gợi ý rằng, vũ trụ
bắt đầu từ cái gọi là “nguyên tử khổng lồ”. Trong kịch bản của ông về sự
tiến hóa của vũ trụ thì siêu nguyên tử này sau đó bị vỡ ra thành nhiều mảnh
nhỏ, dần dần tạo ra các nguyên tử, các hạt mà sau đó là những viên gạch kiến
tạo nên toàn bộ vũ trụ. Các nhà vật lý đã không chấp nhận ý tưởng về “nguyên
tử khổng lồ” của Lemaitre. Nhưng họ cũng lần theo ý tưởng đó để suy đoán về
sự bắt đầu của vũ trụ từ một điểm vật chất đặc và nhỏ, sau đó giãn nở và tạo
nên vô vàn các cấu trúc trong vũ trụ mà chúng ta có thể quan sát thấy ngày
nay. Cha cố Lemaitre hoạt động nghề nghiệp vinh quang như một nhà vũ trụ
học, và trong nhiều năm ông cũng là lãnh đạo của Viện Hàn lâm Giám mục của
khoa học nằm trang trọng trong khuôn viên của Vatican.
Chúa của Stephen Hawking Trong cuốn sách “Lược sử thời gian”, nhà vật lý
Stephen Hawking đã tuyên bố rằng, khi một nhà vật lý tìm ra một lý thuyết,
anh ta và các đồng nghiệp đang tìm kiếm cái gọi là “Lý thuyết của vạn vật”-
sau đó họ sẽ nhìn vào “Ý niệm của Chúa”. Hawking là nhà vật lý duy nhất gán
Chúa với các định luật vật lý. Nhà khoa học đoạt giải Nobel, LeonLederman,
đã tạo ra mối liên kết giữa Chúa và các hạt hạ nguyên tử được gọi là các
boson Higgs. Lederman đã gợi ý rằng, khi các nhà vật lý tìm ra các hạt đó
trong các máy gia tốc của họ, nó cũng giống như việc nhìn thấy khuôn mặt của
Chúa. Nhưng các dạng nào của Chúa mà các nhà vật lý muốn nói đến?
Nhà vật lý đoạt giải Nobel Steven Weinberg
diễn tả rằng, thực tế không có Chúa nào hết. Weinberg lưu ý rằng, theo cách
hiểu truyền thống, “Chúa” có nghĩa là một cá nhân cụ thể. Nhưng đó không
phải là điều mà Hawking và Lederman có ý nói đến. Ông nói, Chúa của họ thực
ra chỉ là một nguyên lý trừu tượng của trật tự và sự hài hoà, một tập hợp
các phương trình toán học. Weinberg sau đó đặt câu hỏi, “Tại sao họ lại sử
dụng thuật ngữ “chúa”?”. Ông đã tạo ra một quan điểm khá sâu sắc rằng, “nếu
một ngôn từ có bất cứ ý nghĩa gì đối với chúng ta thì chúng ta hãy cố gắng
gìn giữ ý nghĩa của ngôn từ ấy, và “Chúa” xét về mặt lịch sử không có nghĩa
là các định luật của tự nhiên”. Câu hỏi “Chúa” là gì đã đánh nặng các nhà
thần học trong suốt hàng nghìn năm. Những điều mà Weinberg nhắc nhở chúng ta
là phải thận trọng với những khái niệm chế tác.
Chúa và thời gian Cũng trong cuốn “Lược sử thời gian”,
Hawking đã chỉ ra rằng, nếu mô hình về một vũ trụ không có biên là đúng thì
không cần phải viện đến một Đấng sáng tạo. Mô hình này giả thiết rằng, không
cần một thời khắc chính xác cho sự bắt đầu của vũ trụ, bởi vì không có thời
khắc xác định nào khi thời gian bắt đầu. Lý thuyết Vụ Nổ Lớn nói rằng, vụ nổ
xảy ra ở tất cả mọi điểm trong không gian và là bắt đầu của thời gian. Bởi
vì điều mà Hawking đã tuyên bố là không có vai trò nào cho một Đấng sáng
tạo. Trong mô hình của ông, đại lượng được gọi là thời gian được nảy sinh ra
từ một dạng của rối lượng tử, trong đó có một thành phần ảo của thời gian,
tối thiểu ở những thời khắc ban đầu của Vụ Nổ Lớn. Nó có một ý nghĩa toán
học chính xác liên hệ với cái gọi là số phức. Những tình tiết của thời gian
ảo này thực ra không quan trọng. Theo Hawking, vũ trụ không bắt đầu trong
thời gian mà chính thời gian bắt đầu cùng với vũ trụ.
Nhưng nếu Hawking nhìn nhận vấn đề này như
một sự tranh luận chống lại một đấng sáng tạo thì nhà vật lý đồng thời cũng
là nhà thần học Robert Russelllại có ý kiến khác. Russell chỉ ra rằng, ý
kiến của Hawking cũng khá tương tự như ý kiến được đưa ra hơn 1500 năm trước
bởi một nhà thần học Thiên chúa giáo nổi tiếng. Augustine cũng tuyên bố vũ
trụ không sinh ra trong thời gian, đúng hơn là cùng với thời gian.Như Russel
nhận xét, đây là một ví dụ đẹp, nơi mà các học thuyết thần học kinh điển và
khoa học đương đại khá tương đồng. Ông nói, “Nếu bạn mang trong mình một bức
tranh đầy thú vị về hai nền văn hoá khác nhau, nhưng có thể đặt ra cùng một
câu hỏi cho cả hai nền văn hoá đó, và hơn nữa, sẽ có cùng một câu trả lời
được đưa ra”. Những điều chỉ cho chúng ta, như Russell nói, đó là “Trên
phương diện thần học, Hawking thực sự là một người đồng minh của chúng ta
bởi vì ông ta đã nói cho chúng ta ý niệm về một vũ trụ hữu hạn như là sự
sáng tạo của Chúa được duy trì, cho dù vũ trụ đó có điểm khởi đầu hay
không”.
Lý thuyết của vạn vật Chúng ta đã tìm đến một thời điểm phi thường trong
lịch sử khoa học. Một số nhà vật lý tin rằng, họ đang tiệm cận đến một lý
thuyết duy nhất có thể kết hợp được tất cả các khoa học dưới một cái bóng
quyền lực của toán học. Đặc biệt, lý thuyết này có thể thống nhất được hai
hai pháo đài vĩ đại nhất của nền vật lý thế kỷ 20: thuyết tương đối rộng và
cơ học lượng tử. Thuyết tương đối rộng miêu tả thế giới ở thang đo vĩ mô như
những cấu trúc của vũ trụ, trong khi cơ học lượng tử lại miêu tả mọi hành xử
của vật chất ở thang vi mô, trong thế giới hạ nguyên tử. Việc thống nhất cả
hai lý thuyết này cho phép giải thích một cách toàn vẹn và chính xác về toàn
bộ thế giới. Một lý thuyết như thế được ví von như là “Lý thuyết của vạn
vật”.
Đặc biệt, lý thuyết này sẽ thống nhất được tất cả các
tương tác cơ bản vốn điều hành mọi hành xử của vũ trụ. Các nhà vật lý đã tìm
ra tất cả bốn tương tác cơ bản trong tự nhiên: tương tác hấp dẫn giữ cho các
hành tinh quay xung quanh Mặt trời và đóng vai trò cốt yếu trong sự hình
thành các sao và thiên hà trong vũ trụ. Tương tác điện từ giữ cho các
electron chuyển động xung quanh hạt nhân nguyên tử và liên kết các các
nguyên tử với nhau. Tương tác hạt nhân yếu có tác dụng bên trong hạt nhân
nguyên tử và gây ra các phân rã phóng xạ. Và cuối cùng, tương tác hạt nhân
mạnh có vai trò liên kết các proton và notron trong nguyên tử với nhau, và
như vậy, rất cần thiết cho sự ổn định của vật chất. Ở thời điểm này, các nhà
vật lý đã xây dựng thành công từng lý thuyết riêng biệt cho mỗi loại tương
tác, nhưng mục đích cuối cùng mà họ muốn đạt được là xây dựng một lý thuyết
thống nhất được tất cả các tương tác trên. Mục tiêu trên phần nào đã có
những tiến triển lạc quan, bởi vì hiện tại họ đã thống nhất được tương tác
điện từ và tương tác yếu thành tương tác điện yếu. Nhưng quả thật, việc
thống nhất cả bốn tương tác trên là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Dù sao
các nhà vật lý đều rất tự tin rằng, trong một vài thập kỷ tới họ có thể hoàn
thành được sứ mạng cao cả đó.
Nhà vật lý lý thuyết Steven Weinber, người đóng vai trò quan trọng trong
việc thống nhất thành công lý thuyết điện yếu và đoạt giải Nobel cùng với
hai đồng nghiệp Abdus Salam và Sheldon Glashow, đã gọi lý thuyết thống nhất
cả bốn tương tác trên là một “lý thuyết tối hậu”.Ông và nhiều nhà vật lý
khác phát biểu, khi các nhà vật lý tìm ra được lý thuyết này thì nền vật lý
sẽ đặt hồi chuông cáo chung. Ngày nay, vũ trụ được mô tả bởi tập hợp các
phương trình hoặc chỉ một phương trình. Nhưng vẫn còn lại câu hỏi là, các
phương trình đó thực chất là gì?
Mang cho vũ trụ một ý nghĩa
Weinberg từng viết “Chúng ta càng hiểu vũ trụ bao nhiêu, thì dường như nó
càng trở nên vô nghĩa bấy nhiêu”. Đối lập với cách nhìn nhận lạnh lùng của
Weinberg, nhà sinh học Australia Charles Birch, một trong những người sáng
lập nên sinh thái học hiện đại, lại tìm thấy vũ trụ có một ý nghĩa nào đó
khi ông coi mình như là một phần cố hữu của vũ trụ.
Tương tự như vậy, vị linh mục và cũng là một nhà thiên văn George Coyne đã
phát biểu rằng, vũ trụ tự nó đã có một mục đích và một ý nghĩa đầy đủ. Ông
chỉ ra rằng, đối với tất cả những thành tựu vĩ đại của khoa học, nó không
cần thiết phải là một bãi chiến trường để chỉ cho chúng ta quan điểm hoặc là
cuộc đời của mỗi chúng ta hoặc vũ trụ là tất cả. Nhiệm vụ đó ngoài khả năng
của khoa học. Thay vì thế, chúng ta có thể tìm thấy trong kinh nghiệm thường
ngày và ngay tại thế giới này. Ông giải thích, “Với tất cả kinh nghiệm của
con người, tôi nghĩ, có thể nói với chúng ta một điều rằng, có một ý nghĩa
cho điều đó. Khi tôi nắm bàn tay lạnh lẽo của một người bạn vừa lìa xa cõi
đời, và nhìn thấy một diễn tả về sự hy vọng và niềm vui sướng trong đôi mắt
của người bạn đó, thậm chí ngay ở thời khắc của sự chết đến. Tôi có thể nhìn
thấy ý nghĩa cho sự tồn tại mà điều này vượt ra ngoài những phát minh khoa
học”
Thú vị thay, Weinberg lại tán thành với quan điểm của Cha cố Coyne, mặc
dù ông tin tưởng rằng, khoa học đang vẽ lên bức tranh về một vũ trụ vô
nghĩa, lạnh lùng và dửng dưng. Ông cũng tuyên bố mạnh mẽ rằng, chúng ta,
những con người, đang mang cho vũ trụ một ý nghĩa và một mục đích thông qua
cách mà chúng ta đối xử với nhau trong cuộc sống, bởi tình yêu thương đối
với tha nhân, bởi khám phá những điều bí mật còn chôn dấu trong tự nhiên,
bởi làm việc và sáng tạo nghệ thuật. Chúng ta không phải là những ngôi sao
trong vở kịch vĩ đại của vũ trụ, nhưng chúng ta buộc phải đối mặt với một vũ
trụ thờ ơ vô cảm và không có tình yêu. Tuy nhiên, chúng ta lại mất khả năng
sáng tạo nên chính bản thân mỗi chúng ta, một ốc đảo nhỏ của sự ấm áp, tình
yêu và cả trong đó là khoa học và nghệ thuật. Đó là một tuyên bố nhân văn
sâu sắc từ một con người với cách nhìn lạnh lùng dường như là vô cảm. Tuy
vậy, điều gì là ngạc nhiên nhất? Đó chính là một nhà khoa học vô thần thẳng
thắn đã diễn tả một quan niệm không tương đồng với quan điểm của những tông
đồ tôn giáo.
Điểm tương đồng giữa Khoa học và Phật giáo
Khác biệt với quan điểm của Thiên chúa giáo, Phật giáo lại có nhiều điểm
tương đồng với nền khoa học đương đại. Trong đạo Phật, Đức Phật đã đưa ra
thuyết Vô thường và Duyên khởi, tức là vạn vật hiện hữu trong thế giới luôn
vận động và biến đổi. Vạn vật khi hội đủ duyên thì được sinh ra, hết duyên
thì hoại diệt. Không có gì hiện hữu tự thân, một vật chỉ có thể tồn tại và
ghi nhận trong tổng hoà các quan hệ với các đối tượng khác trong thế giới
thực tại. Các học thuyết khoa học đương đại đã minh chứng cho quan điểm này
của Phật giáo. Bất cứ một đời sống nào trong vũ trụ này đều trải qua bốn
giai đoạn “sinh, lão, bệnh, tử”. Và để sinh vật đạt đến một đời sống trí tuệ
lại phải trải qua một chuỗi các tiến hoá. Ngay cả với vũ trụ, thông qua một
loạt các biến cố từ Vụ Nổ Lớn đến vũ trụ giãn nở, và hình thành nên các cấu
trúc vũ trụ mà chúng ta quan sát thấy ngày nay. Cả chúng ta nữa, những đời
sống trí tuệ biết thưởng thức vẻ đẹp cùng sự hài hoà của vũ trụ và có thể
đặt những câu hỏi về vũ trụ. Tất cả đều có một đời sống và một lịch sử. Hơn
thế nữa, ý niệm về tánh không trong Phật giáo tương ứng với lưỡng tính sóng
hạt trong cơ học lượng tử. Cũng nhờ ý niệm về duyên khởi và tánh không mà
Phật giáo không chấp nhận ý niệm về Đấng sáng tạo.
Có chăng, điều khác nhau giữa khoa học và Phật giáo là phương thức tiếp
cận đối tượngcủa chủ thể quan sát trong thế giới thực tại. Khoa học xây dựng
các quy luật của thế giới thực tại bằng một hệ thống cấu trúc toán học chặt
chẽ và kiểm chứng thông qua các khí cụ khoa học. Còn trong Phật giáo, phương
pháp chính là quán tưởng và công cụ là tâm. Einstein từng phát biểu: “Tôn
giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo hoàn vũ. Nó sẽ phải vượt qua một vị
Thượng Đế có nhân trạng và tránh xa những học thuyết lẫn giáo điều. Bao gồm
cả khoa học tự nhiên và tâm linh, nó sẽ phải được đặt căn bản trên một ý
thức tôn giáo phát khởi từ cảm nghiệm về tất cả mọi sự vật, khoa học tự
nhiên lẫn tâm linh, và đây được xem như một sự hợp nhất đầy ý nghĩa… Phật
giáo là câu trả lời cho sự mô tả này… Nếu có bất kỳ một tôn giáo nào có thể
đáp ứng được những nhu cầu của nền khoa học đương đại, thì đó chính là Phật
giáo”.
Mối tương hỗ
Các nhà thiên văn đang cố gắng nhìn sâu hơn vào không gian và các nhà vũ
trụ học có thể mở rộng các phương trình để mô tả nhiều hơn về vũ trụ, các
nhà di truyền học tháo gỡ tất cả những bí mật của gene người và các nhà sinh
học tiến hoá khám phá nhiều hơn nữa nguồn gốc và sự phát triển của cuộc
sống. Tất cả họ đang cố gắng trả lời những những câu hỏi thần học hóc búa.
Trong kỷ nguyên này của khoa học chúng ta có thể hỏi tôn giáo có vai trò gì?
Khoa học và tôn giáo cùng tương hỗ cho nhau như thế nào?
Theo nhà vật lý và thần học Robert Russell - giám đốc Trung tâm Thần học
và Khoa học tự nhiên ở Berkeley - thì, cả khoa học và thần học đều cần đến
nhau. Mặc dù các nhà khoa học đang trả lời một lượng lớn các câu hỏi, nhưng
lại nảy sinh ra những câu hỏi khác mà khoa học chưa thể làm sáng tỏ, và
thường là những câu hỏi liên quan đến triết học và đạo đức: Tại sao lại có
vũ trụ này? Vì sao chúng ta đi tìm kiếm trật tự của toán học trong thế giới
xung quanh? Tại sao khoa học tự nó lại mang một ý nghĩa nào đó?...Theo
Russell, những câu hỏi này muốn giải quyết được không chỉ cần các nhà khoa
học mà phải có sự tham gia của các nhà triết học, nhà đạo đức học và thần
học.
Mặt khác, Russell chỉ ra rằng, trong kỷ nguyên của khoa học hiện đại, các
nhà thần học và những người có tín ngưỡng không đủ sức để lờ đi những gì
đang tiếp diễn trong khoa học. Nhà triết học Thiên chúa giáo Nancey
Murphygiải thích, nếu quan điểm của tôn giáo không liên hệ với một vũ trụ cụ
thể mà khoa học mô tả thì nó rất dễ bị tàn lụi. Chúng ta cần tránh sự tách
biệt của tôn giáo từ khoa học trong Thời kỳ Khai Sáng, thời kỳ ở châu Âu thế
kỷ 18, cho rằng chỉ có lý trí và tri thức của khoa học mới đưa loài người
tiến bộ.
Theo Murphy, để tôn giáo duy trì được sức mạnh trong việc giảng dạy đạo
đức thì họ phải nhìn một cách hài hoà trong sự thật của khoa học. Nếu bạn
muốn ai đó tin vào những gì bạn nói trong những phạm trù đạo đức, bạn cần
mang cho họ bức tranh về thế giới dựa trên những kinh nghiệm của chính bạn.
Điều đó không có nghĩa là phủ nhận những lý thuyết của khoa học.
Đức Phường
nguồn: http://www.vatlyvietnam.org/home/modules.php?name=News&file=article&sid=133