Thế kỷ 19 có ba vĩ nhân làm
thay đổi bộ mặt của Ki Tô Giáo qua những nghiên cứu khoa học và xã hội:
Charles Darwin, Karl Marx, và Robert G. Ingersoll. Charles Darwin là một
khoa học gia người Anh, Karl Marx là một triết gia người Đức, còn Robert G.
Ingersoll là một nhà tư tưởng tự do (freethinker) nổi tiếng nhất của nước
Mỹ. Charles Darwin sinh năm 1809, Karl Marx, 1818, và Ingersoll, 1833.
Charles Darwin là người Anh
nên sự chống đối bắt đầu từ bên Anh với giám mục Samuel Wilberforce ở
Oxford. Giám mục Wilberforce lên án Darwin phạm tội “có khuynh hướng
giới hạn sự vinh quang của Thiên Chúa (God) trong sự sáng tạo”
(Guilty
of “a tendency to limit God’s glory in creation”); rằng “nguyên
lý chọn lọc tự nhiên thì tuyệt đối không tương hợp với lời của Thiên Chúa”
(the principle of natural selection is
absolutely incompatible with the word of God); rằng nguyên lý này
“đối ngược với sự mạc khải về những mối liên hệ giữa sự sáng tạo và đấng
sáng tạo” (contradicts the revealed
relations of creation to its Creator); rằng thuyết này “không phù
hợp với sự tràn đầy vinh quang của Thiên Chúa” (inconsistent with the fullness of His glory); rằng có một
“giải thích đơn giản hơn về sự hiện diện của những dạng kỳ lạ trong những
tác phẩm của Thiên Chúa – sự giải thích đó là “sự sa ngã của Adam””
(a
simpler explanation of the presence of these strange forms among the works
of God – that explanation being “the fall of Adam”). Rõ ràng là đầu
óc của ông giám mục này, và có lẽ của đa số các giám mục khác trong thời đó,
cũng như đầu óc của những tín đồ hạ căn cuồng tín ngày nay, điển hình là Mục
sư Rick Warren, tác giả cuốn “The Purpose Driven Life”, không chứa
được cái gì khác ngoài những điều tin nhảm tin nhí vào Thánh Kinh, cho rằng
tất cả những lời “mạc khải” của Thiên Chúa, do những người của một dân tộc
du mục trong thời bán khai, Do Thái, viết trong Thánh Kinh, tất nhiên phải
là những chân lý.
Giới giáo sĩ Ki Tô Giáo ở
khắp nơi tiếp tục lên tiếng chống đối thuyết Tiến Hóa trong nhiều năm liền,
và sự chống đối này lan sang nhiều nước Ki Tô khác ở Âu Châu như Pháp, Đức,
Ý v..v..và lan sang cả Mỹ và Úc. Chúng ta có thể đọc những lời chống đối
tương tự ở các quốc gia trên, thí dụ như: “lên án Darwin là không
tin vào Thiên Chúa” (Infidelity); là “vô thần” (atheist); hoặc
“Nếu giả thuyết này đúng thì Thánh Kinh chỉ là một chuyện giả tưởng không
thể dung thứ được.. như vậy trong gần 2000 năm nay các tín đồ Ki Tô đã bị
lừa dối bởi một lời nói láo vĩ đại.. Darwin đòi hỏi chúng ta không nên tin
vào lời đầy quyền năng của Đấng Sáng Tạo”
(If this hypothesis be true, then is the Bible an unbearable fiction..then
have Christians for nearly two thousand years been duped by a monstrous
lie..Darwin requires us to disbelieve the authorative word of the Creator);
“Thuyết Tiến Hóa trái ngược với những điều rõ ràng trong Tân Ước cũng như
Cựu Ước: Nếu tất cả chúng ta, người và khỉ, sò và chim ưmg, đều phát triển
từ một mầm gốc, thì lời tuyên bố vĩ đại của Thánh Paul: “Không phải mọi sinh
vật đều có cùng một loại xương thịt, có một loại cho người, một loại khác
cho thú vật, một loại khác cho cá, và một loại khác cho chim” – là sai bét”
(The evolution theory is as contrary to the
explicit declarations of the New Testament as to those of the Old – If we
have all, men and monkeys, oysters and eagles, developed from an original
germ, then is St. Paul’s grand deliverance – “All flesh is not the same
flesh; there is one kind of flesh of men, another of beasts, another for
fishes, and another for birds” – untrue); “Tạo trong những độc
giả một sự không tin vào Thánh Kinh” (to
produce in their readers a disbelief of the Bible); “một biếm họa
chế giễu sự sáng tạo” (a caricature
of creation); “đuổi đấng Sáng Tạo ra khỏi cửa”
(turned the Creator out of doors);
“quyết tâm săn đuổi Thiên Chúa ra khỏi thế giới”
(resolved to hunt God out of the world);
“hoàn toàn không phù hợp với Thánh Kinh”
(utterly inconsistent with the Scriptures);
“không biết đến sự thiết kế trong việc sáng tạo của Thiên Chúa là truất ngôi
Thiên Chúa”
(to ignore design as manifested in God’s
creation is to dethrone God); “một Thiên Chúa vắng mặt, không làm
gì cả, đối với chúng ta là không có Thiên Chúa”
(an absent God, who does nothing, is to us no
God); “thuyết tiến hóa và thuyết sáng tạo trong Thánh Kinh về
nguồn gốc con người không thể nào hòa hợp với nhau được”
(evolutionism and the scriptural account of the
origin of man are irreconciable); “không biết đến Chúa Cha và
không tuân theo phúc âm của con ông ta (nghĩa là Chúa Con = Giê-su)”
(know not God and obey not the gospel of his
Son); “nếu thuyết của Darwin đúng thì không có chỗ nào cho Thiên
Chúa” (if the Darwinian view is true, there
is no place for God) v..v..
Trước những sự chống đối
thuyết Tiến Hóa của Ki Tô Giáo dựa trên niềm tin tuyệt đối vào sự không thể
sai lầm của Thánh Kinh, Herbert Spencer, một khoa học gia cùng thời với
Darwin, đã đưa ra một lời phê bình sắc bén:
Thứ ba, điểm đặc biệt nhất ở
đây là chính những luận cứ của Ki Tô Giáo chống đối thuyết Tiến Hóa đã quật
ngược lại họ một cách không thể cứu vãn, do đó cái đường thẳng “tin Chúa”
của Ki Tô Giáo chỉ còn có thể cúi đầu khuất phục đi theo cái đường cong Tiến
Hóa như linh mục dòng Tên Teillard de Chardin nhận định. Thật vậy, như trên
chúng ta đã biết, những luận cứ chống đối như:
“Thuyết Tiến Hóa đúng, vậy Thánh Kinh (Cựu Ước & Tân
Ước) phải sai.”
Marx:
Trước khi nói đến Karl Marx có lẽ chúng ta cũng cần
biết qua Marx là người như thế nào?
1835: Marx vào Đại Học Bonn học Luật.
1836: Marx đổi sang học Luật tại Đại Học
Friedrich-Wilhelms-Universität ở Berlin.
1836-38: Marx học Luật, Triết Lý, Lịch Sử, Anh Ngữ
và Pháp Ngữ ở Berlin.
1839-41: Marx nghiên cứu Triết Lý Hi Lạp và viết
Luận Án Tiến Sĩ. Tốt nghiệp Ph.D. năm
1840 với luận án so sánh lý thuyết
nguyên tử của Democritus và Epicurus
Karl Max và quyển
"Das Kapital"
|
|
Ở đây tôi xin miễn kể ra những tác phẩm của Marx mà
cả thế giới đã phải để tâm nghiên cứu và được dạy trong mọi đại học danh
tiếng trên đất Mỹ.
Vị trí của Marx trong số
những tư tưởng gia vĩ đại của thế giới là như thế nào?
1. “Theo kết quả thăm dò
ý kiến thính giả đài BBC Radio 4 trong tháng 7, 2005 thì, trong số 20 tư
tưởng gia được biết đến, kính trọng, và có ảnh hưởng nhiều nhất, Marx lại
được coi như là một triết gia vĩ đại nhất của mọi thời đại”??. [BBC
Press Release: 13-7-2005: Out of a
shortlist of twenty of the best known,
most respected and influential philosophical thinkers,
nominated by the
In Our Time
audience, Karl Marx has been voted the
Greatest Philosopher of all time by BBC
Radio 4 listeners.] Theo bảng kết quả thì David Hume, một nhà nhân
bản, xếp hạng 2, Nietzshe hạng 4, Kant hạng 6, và Aquinas của Ki-tô Giáo
hạng 7.
2. “Kết quả chọn
vĩ nhân của Đức Quốc, với con số tham dự trên 5 triệu người, Karl Marx đứng
hàng thứ 3 trong 100 ứng viên, Albert Einstein đứng hàng thứ 10 (
www.unserebesten.zdf.de).
Lạ nhỉ, cả thế giới
trí thức này đều không đủ trình độ để bài bác Marx như những “lý thuyết gia”
Mít nửa mùa, dỏm, kiến thức ăn đong, tự phong trên Internet như Minh Võ, Đỗ
Thái Nhiên, Trương Minh Hòa, Trần Mạnh Hảo v…v… và v…v...
Ở đây tôi không bàn đến vấn
đề người ta đã áp dụng chủ thuyết Marx đúng hay sai trong những bối cảnh
lịch sử địa phương. Tôi cũng không bàn đến lý thuyết về “kinh tế chính trị”
(political economy) đã tạo nên những ảnh hưởng to lớn trên các xã hội Tây
phương như thế nào, thí dụ như thành lập nghiệp đoàn, thiết lập những quyền
lợi của công nhân v…v…. Nội dung bài này là viết về những ảnh hưởng đưa đến
sự suy thoái của Ki Tô Giáo. Không thể phủ nhận là Marx đã chống tôn giáo,
đúng ra là Ki Tô Giáo của Tây phương. Khi Marx nói “tôn giáo là
thuốc phiện” thì tôn giáo đây là Ki Tô Giáo mà Marx biết rõ chứ
không phải nói về mọi tôn giáo
Nhiều nhà thần học CaTô cũng
đã nghiên cứu về ý chí chống tôn giáo của Marx, điển hình là sự phân tích
của Linh mục John Courtney Murray, một nhà Thần Học Ca Tô nổi danh thuộc
hiệp hội Giê-Su (S.J. = Society of Jesus), trong cuốn "Vấn nạn về Gót"
("The Problem of God", Yale University Press, New Haven & London, 1964).
Tôi đã tóm tắt sự phân tích này trong bài “Phật Giáo Việt Nam Giữa Hai Ý
Hệ Công và Cộng”, đăng trên giaodiem.com trước đây. Ở đây tôi chỉ nói
đến kết quả của sự phân tích này.
Qua mấy điểm phân tích của
Linh Mục Murray về luận cứ chống tôn giáo của Marx, chúng ta thấy rằng cái
tôn giáo mà Marx muốn chống là cái tôn giáo độc Thần trong các xã hội tư
bản, phong kiến, cái tôn giáo đã liên kết với thế quyền và tư bản để bóc
lột dân vô sản qua sách lược lừa dối, dụ dỗ, ru ngủ, hứa hẹn những điều
không tưởng, cái tôn giáo trong đó giới giáo sĩ được hưởng những đặc quyền
vật chất, ngự trị trên sự qụy lụy của đa số giáo dân sống trong nghèo khổ,
chứ không phải là các tôn giáo Đông phương như Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão
Giáo mà Marx không hiểu gì và không hề có kinh nghiệm gì về những tôn giáo
này. Thật vậy, Marx chủ trương đánh bật vị "“Gót” trong Thánh Kinh" ra khỏi
đầu óc con người. Đây cũng là chủ thuyết nhân bản, vì thực tế cho thấy
rằng, chỉ có con người mới giúp được con người, mới thay đổi cải tiến được
xã hội, thay đổi được lịch sử, chứ không phải là một “Gót” luôn luôn vắng
mặt. Chúng ta còn nhớ chuyện một nông dân Mỹ, trong một năm được mùa, được
ông linh mục xứ khuyên hãy cảm tạ Thiên Chúa đã “giúp con được mùa”.
Nông dân Mỹ trả lời: “Thưa Cha, con phải đổ ra bao nhiêu mồ hôi công sức
mới được như vậy. Nếu phó mặc cho Thiên Chúa thì đồng lúa của con chỉ có
toàn là cỏ dại.” Óc thực tế của người Mỹ hiểu biết là như vậy.
Nói tóm lại, quan điểm tôn
giáo của Marx chủ trương bác bỏ một
“Gót”
của
Ki Tô Giáo, một “Gót” có những thuộc tính
không xứng đáng với một “Gót” nếu thực sự
là “Gót”. Marx muốn loại bỏ một
“Gót” bất xứng như vậy ra khỏi đầu óc con người, vì một “Gót” như vậy chỉ có
tác dụng làm tê liệt đầu óc con người như thuốc phiện. Kết quả lý thuyết
Marx đã làm cho người dân Âu Châu thức tỉnh phần nào, vứt đi cặp nạng Thiên
Chúa, và đưa Ki Tô Giáo vào con đường suy thoái không có cách nào cứu vãn.
Hiện tượng này thật là rõ rệt, không những chỉ ở Âu Châu, cái nôi của Ki Tô
Giáo, mà còn ở khắp nơi trên thế giới, kể cả Bắc Mỹ. Cho nên không lạ gì
khi chúng ta thấy Ki Tô Giáo, nhất là Ca-tô Rô-MaGiáo, rất tích cực chống
Marx qua sách lược mượn CS, cũng như đã mượn CS để chống vô thần trong khi
vô thần đã có từ ít ra là 2000 năm chứ không chỉ xuất hiện từ khi có Marx.
Ingersoll:
Robert G. Ingersoll là một
nhân vật rất đặc biệt trong lịch sử Hoa Kỳ. Ông ta mang cấp bậc Đại Tá
trong cuộc nội chiến, và sau đó làm Chưởng Lý (Attorney General), bang
Illinois. Tượng kỷ niệm Ingersoll hiện nay còn ở Periora, Illinois. Chỉ cần
vào Google, đánh chữ Robert G. Ingersoll là chúng ta có thể thấy tất cả
những gì chúng ta muốn biết về ông ta.
Tượng kỷ niệm Ingersoll
ở Periora, Illinois
|
|
Ingersoll là nhà tư tưởng tự
do [a freethinker] nổi danh nhất nước Mỹ, một chiến sĩ tiền phong trong chủ
trương giải phóng đầu óc con người khỏi những cùm xích của vô minh và mê tín
Ki Tô Giáo (free men’s minds from the shackles
of ignorance and Christian superstition). Trong công cuộc giải hoặc
Ki Tô vào cuối thế kỷ 19, khi mà các nhà lãnh đạo Ki Tô Giáo còn nhiều quyền
thế và người dân còn trong vòng mê tín, Ingersoll đã phải đối diện với rất
nhiều nguy hiểm. Ông ta đã bị bôi bẩn, nhục mạ, vu khống, chụp mũ, chế
giễu, xa lánh, tẩy chay và đe dọa đến tính mạng
(He was maligned, insulted, slandered, libeled, caricatured, shunned,
ostracized, and his life threatened.) Nhưng ông ta đã không thoái
lui, đứng vững như bàn thạch. Và ông ta đã đi rất nhiều nơi để thuyết
trình. Điểm đặc biệt là muốn nghe ông thuyết trình phải trả 2 đô-la (vào
khoảng 1890) cho mỗi đầu người, nhưng bao giờ phòng cũng đông nghẹt người.
Nhiều giáo dân đã bỏ đi lễ nhà thờ để đến nghe ông thuyết trình “chống đạo”
của họ. Điều này làm Ki Tô Giáo lo sợ. Chúng ta hãy đọc một đoạn Joseph
Lewis viết về Ingersoll:
“Khi thế
giới tôn giáo nhận thức được sự nguy hiểm của Ingersoll, họ tập hợp những cỗ
trọng pháo của họ để chống ông ta (Ingersoll).Từ hàng
ngũ tôn giáo, những người có khả năng nhất được tuyển mộ. Những sự khác
biệt tôn giáo được quên đi – Tin Lành và Ca Tô trở thành những “chiến hữu”
đồng vai sát cánh chống kẻ thù chung. Dưới ngọn cờ Giê-su Ki Tô chỉ có một
tiếng hô xung trận – “Phải tiêu diệt Ingersoll, không thì chúng ta thua”.
Những
tướng lãnh trang bị giáp phục và tiến tới cuộc chiến.
Những cỗ
đại pháo hướng về ông ta.
Mở đầu
là một ông “cảnh sát”, viên Chưởng Lý của chính phủ Hoa Kỳ: Jeremiah S.
Black. Rồi tới con chó sói mang lốt con cừu, hiền hòa và ăn nói nhỏ nhẹ –
giáo sĩ Henry M. Field. Những câu trả lời nhỏ nhẹ của ông này chứa đầy chất
độc của sự phẫn nộ tôn giáo. Sau đến Ngài William E. Gladstone – Thủ Tướng
Anh, đại diện dân sự cho Tin Lành, tôn giáo của quốc gia. Khi sự chuyên
chế của quốc gia cộng chung với sự đạo đức giả của giáo hội, chúng ta có một
thí dụ hiện đại về hai con chim kền kền song sinh đã từng xâu xé con người,
quyền của con người, qua nhiều thời đại. Sau cùng, nhưng không kém phần
quan trọng, là Hồng Y Manning. Chưa từng bao giờ mà giáo hội Ca Tô bị một
đòn nặng đến chết (such a death blow) như vậy. Viên chức cao cấp nói tiếng
Anh lưu loát này của giáo hội đã bị bẽ mặt và nhục nhã.
Ingersoll đã đánh đổ tất cả những người này.
Họ bị
tan tành như những cọng cỏ bị cắt bởi máy cắt cỏ.
Với kiến
thức dạt dào tuôn ra về vũ trụ và những định luật vận hành trong đó một cách
chính xác, với những câu hỏi về lôgic không thể trả lời nổi, với sự hiểu
biết Thánh Kinh nhiều hơn là những đối phương thuộc giới giáo sĩ, và với sự
hùng hồn vô tiền khoáng hậu, những kẻ thù của Ingersoll đã được bỏ lại trên
bãi chiến trường – thương tích trầm trọng – chỉ còn những tiếng thở hắt ra.
Họ không
bao giờ còn kiếm chuyện với Ingersoll nữa. Họ đã thấm đòn quá đủ. Họ không
còn muốn đối đầu với Ingersoll nữa.” [9]
Một số bài đặc sắc của
Ingersoll như “Những Lời Châu Ngọc Về Cuốn Kinh Thánh” và “Những
Lời Châu Ngọc Về Ki Tô Giáo” đã được dịch và đưa lên trang nhà Giao Điểm
trước đây.
Thế Kỷ 20:
Thời Đại Phân Tích
(The Age of Analysis)
Thế kỷ 20 là thế kỷ với
những tiến bộ vượt bực về kiến thức của nhân loại trong mọi lãnh vực. Vì có
quá nhiều khám phá trong mọi bộ môn kiến thức của nhân loại, cho nên chúng
ta không thể kể ra hết. Sau đây tôi chỉ kể vài sự kiện liên quan đến chủ đề
của bài viết này: Sự Suy Thoái Của Ki Tô Giáo.
- 1912,
Leawitt khám phá ra sự tương quan giữa chu trình Cepheid (hiện tượng ngôi
sao mới đầu sáng, rồi mờ đi, rồi lại sáng trở lại, và cứ tiếp tục thay đổi
đều đặn như vậy) và độ sáng [Khám phá này về sau được áp dụng để tính ra
khoảng cách của một ngôi sao đối với trái đất.]
-
1927, Thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ. Xin
đọc:
http://www.sachhiem.net/TCN/TCNkh/TCNkh00.php
-
1929, Hubble khám phá ra rằng các thiên hà càng ngày càng di chuyển
ra xa. [Khám phá này kiểm chứng thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ]
-
1953, Watson và Crick mô tả cái thang xoắn của DNA.
-
1965, Arno Penzias và Robert Wilson ở trung tâm khảo cứu của hãng
Bell (Bell Research Laboratories), dò ra được bức xạ nền (background
radiation), một loại âm thanh vi sóng vô tuyến thuần nhất trong vũ trụ
(microwave radio noise coming uniformly from all over the sky), di tích của
Big Bang đã được Gamow tiên đoán từ thập niên 1940.
-
1975, máy điện toán cho cá nhân (personal computer) được tung ra thị
trường.
-
1992, Internet mang đến mạng lưới thông tin toàn cầu
-
1992, vệ tinh COBE (COsmic Background Explorer) của cơ quan thám hiểm
không gian Hoa Kỳ (NASA) đã dò ra được những vân trong bức xạ nền với những
sai biệt đúng như sự tiên đoán của các khoa học gia. Thuyết Big Bang không
còn là một thuyết nữa mà trở thành một sự kiện khoa học (scientific fact) và
cả thế giới đều công nhận sự kiện này về nguồn gốc của vũ trụ.
- 1994,
khám phá ra một ông tổ của loài người cách đây 4.4 triệu năm [4.4
million-year-old human ancestor is found]
- 1996,
con cừu Dolly được con người “sáng tạo” theo phương pháp “cloning” [tạo sinh
vô tính?]
Đó là chưa kể ngày nay y học đã tiến bộ đến mức thay được những cơ quan
trong người như thận, gan, tim v..v…
|
thang xoắn của DNA -
và việc chế tạo thành công
"con cừu Dolly" năm 1996 |
|
Hài cốt loài người 4.4 triệu năm |
Ứng dụng của máy điện tóan |
Vệ tinh COBE
|
Chỉ cần những khám phá trên
mà thôi cũng đã đủ để phá đổ toàn bộ thuyết sáng tạo của Ki Tô Giáo
trong đó Thượng đế của Ki Tô Giáo mới sáng tạo ra vũ trụ và con người cách
đây khoảng 6000 năm, một thế giới thường hằng không bao giờ thay đổi, và con
người theo hình ảnh của Thượng đế mà Thượng đế, sau khi nặn ra từ đất sét,
đã tự khen là tác phẩm của mình rất tốt đẹp (very good). Ngoài ra Mạng
Thông Tin Toàn Cầu (Worl Wide Web) đã giúp cho con người tìm hiểu bất cứ vấn
đề gì và những sự thật về Ki Tô Giáo không còn có thể che dấu được nữa.
Nhưng không phải chỉ có
vậy. Hai cuộc Thế Chiến: 1914-1918 và 1941-1945, và cuộc chiến Triều Tiên,
cuộc chiến Việt Nam, với những thảm cảnh, tàn phá con người cũng như vật
chất của chiến tranh, và vô số những thiên tai v..v… đã khiến cho con người
trong những xã hội Ki-tô phải đặt câu hỏi: Nếu có một “Gót” rất mực nhân
từ, toàn năng [nghĩa là làm gì cũng được], toàn trí, thì
tại sao nhân loại lại phải gánh chịu những thảm họa như vậy?
Trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại như trên, Ki Tô Giáo bắt buộc phải
suy thoái, vì căn bản Ki Tô Giáo là một tôn giáo thuộc loại mê tín nhất
thế gian, nhốt tuyệt đại đa số tín đồ vào một “đức tin” (faith) không cần
biết không cần hiểu. Nhưng sự tiến bộ trí thức của nhân loại đã
khiến cho không ít tín đồ và một số các vị lãnh đạo Ki Tô Giáo nhận ra sự
thật cay đắng này. Những niềm tin căn bản của Ki Tô Giáo nói chung, ví dụ
như chuyện Thiên Chúa sáng tạo ra vũ trụ trong 6 ngày cách đây khoảng 6000
năm, chuyện vườn địa đàng Eden, Adam và Eve sa ngã tạo nên tội tổ tông, Chúa
Giê-su sinh ra từ một nữ trinh, bị đóng đinh trên thập giá chết đi rồi sống
lại sau ba ngày và rồi 40 ngày sau đó bay lên trời ngồi bên phải của Chúa
Cha, khả năng chuộc tội và cứu rỗi của Giê-su v..v..,
tất cả đều không còn chỗ đứng trong giới
hiểu biết và trí thức ngày nay. Bởi vậy nên một số các bậc
lãnh đạo trong Ki Tô Giáo cũng như một số học giả trí thức Ki Tô Giáo đã cố
gắng nghiên cứu, viết sách, trình bày sự thật để giáo dục những tín đồ Ki Tô
Giáo đáng thương của họ. Điều này đã góp phần lớn trong sự suy thoái của Ki
Tô Giáo trên thế giới. Sau đây là vài kết quả nghiên cứu điển hình của họ.
Tín
đồ Ki-Tô Giáo tin vào Giê-su như là đấng cứu rỗi cho họ. Do đó,
Giám Mục James A. Pike, Trưởng Ban Tôn Giáo, Đại Học Columbia
[Chairman of the Department of Religion, Columbia Universsity], đã nhận
định:
…TRONG THỜI HIỆN ĐẠI,
TÔN GIÁO CỦA NHIỀU NGƯỜI RẤT CÓ THỂ ĐƯỢC XẾP VÀO LOẠI “ĐẠO GIÊ-SU”
(Bishop JAMES A. PIKE: IN MODERN TIMES THE RELIGION OF MANY COULD WELL BE
CATEGORIZED AS “JESUSISM”) [A
Time For Christian Candor, p. 108]
Vậy trước hết chúng ta hãy tìm hiểu Giê-su là con người như thế
nào. Sau đây là một số nhận định của các học giả Tây Phương, ở trong cũng
như ở ngoài các Giáo hội Ki-Tô:
Russell Shorto đã viết trong cuốn Sự Thật Của Phúc Âm (Gospel Truth)
như sau:
Điều
quan trọng nhất là, tác động của quan điểm khoa học ngày nay đã khiến cho
các học giả, ngay cả những người được giáo hội Ca-Tô bảo thủ cho phép nghiên
cứu, cũng phải đồng ý là phần lớn những điều chúng ta biết về Giê-su chỉ là
huyền thoại… Các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng
Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng – họ
đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng những vị này
vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc
động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là
những tín đồ Ki Tô bình thường.
[10]
Đối với một số học giả trong ngành phân tâm học thì những điều Giê-su tự
nhận như: “con duy nhất của Thiên Chúa”, “có khả năng chuộc tội cho nhân
loại”, “đấng cứu thế”, “sẽ trở lại trần phán xét thiên hạ trong tương lai
rất gần thời Giê-su” v..v.. đều là những ảo tưởng của một người bị bệnh
tâm thần, mắc bệnh chứng hoang tưởng (paranoia). Bệnh chứng này bắt
nguồn từ một nguồn gốc lý lịch không mấy tốt đẹp của Giê-su [là đứa con
hoang], một tâm cảnh cuồng tín tôn giáo của Giê-su khi ông đọc và tuyệt đối
tin những điều trong Cựu Ước, sinh ra nhiều ảo giác và tự cho mình những
quyền năng thần thánh, vai trò cứu thế, rửa sạch tội lỗi của dân tộc Do Thái
để dân tộc này làm lành với Thượng đế v..v.. Đó là kết luận của những
nhà phân tâm học như các bác sĩ George de Loosten, William Hirsch,
Binet-Sanglé, Tiến sĩ Emil Rasmussen v..v..
Giám Mục John Shelby Spong, trong cuốn Sinh Ra Từ Một Người Đàn Bà: Một
Giám Mục Nghĩ Lại Chuyện Sinh Ra Đời Của Giê-su (Born of a woman: A
Bishop Rethinks The Birth of Jesus, Harper, SanFrancisco, 1992) đã đưa ra
nhận xét, trang 41:
Giê-su đã được “ sinh ra từ một người đàn bà”. Nguồn gốc
sinh ra đời của Giê-su cũng gây nhiều tai tiếng như cách ông ta chết. Ông
ta
(Giê-su) không là ai cả, một đứa trẻ ở
Nazareth, chẳng có gì tốt đẹp có thể rút tỉa ra từ sự sinh ra đời này.
Chẳng có ai biết cha ông ta là ai. Rất có thể ông ta là một đứa con
hoang. Rải rác trong miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu (4 Phúc
Âm), có những chi tiết chứng tỏ như vậy, giống như những thỏi mìn chưa
kiếm ra và chưa nổ. [11]
Ngoài ra, Giám mục John Shelby Spong, sau khi nghiên cứu Tân ước, đã đưa ra
thêm một nhận định khác về Giê-su như sau:
Có những đoạn trong bốn Phúc Âm mô tả Giê-su ở Nazareth như là một con người
thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả.
(There are passages in the Gospels that portray Jesus of Nazareth as
narrow-minded, vindictive, and even hypocritical).
Và Jim Walker cũng viết trên Internet trong bài Chúng Ta Có Nên Kính
Ngưỡng Giê-su Không? (Should We Admire Jesus?):
Giê-su trong Thánh Kinh có xứng đáng với vinh dự mà người ta đã ban cho ông
ta hay không? Bất hạnh thay, những người giảng đạo, mục sư, và giáo sĩ đã
giảng cho chúng ta những câu chuyện với thành kiến một phía, nhấn mạnh và
thổi phồng những điều mà họ thấy là tích cực và dẹp bỏ hoặc bỏ qua những
điều tiêu cực. Nền học thuật về Thánh Kinh trong trăm năm nay không được
những người thường biết đến. Trong khi đó thì, chúng ta thấy những mục sư
và nhà truyền đạo trên TV chính trị đã khẳng định những điều vô nghĩa trong
Thánh Kinh mà không bị ai đặt vấn đề trách nhiệm của họ. Tuy trên 90% gia
đình ở Mỹ có một cuốn Thánh Kinh, thường là không đọc đến, hoặc nhiều nhất
là làm nhẹ bớt hoặc lược bỏ khi muốn nói về Thánh Kinh.
Nhiều tín đồ Ki-Tô-giáo không hề biết đến là nhiều đoạn trong các Phúc Âm
trong Tân Ước, Giê-su được mô tả như là một con người đầy hận thù, xấu xa,
bất khoan dung, và đạo đức giả.
[12]
Đó là những nhận định về con
người thật của Giê-su như được viết trong Tân Ước. Bây giờ chúng ta hãy
sang phần cốt tủy đức tin trong Ki Tô Giáo: Quyền năng “cứu rỗi” của
Giê-su.
Nhận rõ được tính chất hoang
đường, vô tác dụng, lỗi thời của “bí tích rửa tội”, của vai trò “chuộc tội”
và “cứu rỗi” của Giê-su, nên trong cuốn Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Thay Đổi
Không Thì Chết (Why Christianity Must Change or Die), Giám mục John
Shelby Spong đã dành riêng chương 6 để viết về đề tài Giê-su Như Là Đấng
Cứu Thế: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ (Jesus as Rescuer: An Image That
Has To Go). Quý đọc giả có thể đọc bài trên trong trang nhà Sách Hiếm:
http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN37.php Trong chương này, Giám Mục
Spong viết như sau, trang 98-99:
“Nhân
loại chúng ta không sống trong tội lỗi. Chúng ta không sinh ra trong tội
lỗi. Chúng ta không cần phải rửa sạch cái tì vết tội tổ tông trong lễ rửa
tội. Chúng ta không phải là những tạo vật sa ngã, mất đi sự cứu rỗi nếu
chúng ta không rửa tội. Do đó, một đấng cứu thế có nhiệm vụ khôi phục tình
trạng trước khi sa ngã của chúng ta chỉ là một sự mê tín trước thời Darwin
và một sự vô nghĩa sau thời Darwin.” [13]
Và
trong cuốn “Thiên Chúa Vẫn Sống: Từ Sợ Hãi Tôn Giáo Đến Tự Do Tâm Linh”
(God Lives: From Religious Fear To Spiritual Freedom, Steven J. Nash
Publishing, IL., 1993), trang 114, Linh mục James Kavanaugh cũng đưa ra nhận
xét sau đây về tín điều “chuộc tội” trong Ca Tô Giáo:
“Đối với
bất cứ người nào trong thế giới cổ xưa đứng trước Thiên Chúa như là một nạn
nhân bất lực, tin rằng mình là một người có tội một cách vô vọng, coi Thiên
Chúa như là một ông quan tòa giận dữ không thể tới gần được, cái chết có
tính cách hi sinh của đức Ki Tô là một huyền thoại với đôi chút thực tế.
Nhưng đối với con người hiện đại, nó chẳng còn ý nghĩa gì mấy trừ khi hắn đã
bị làm cho sợ hãi và tẩy não một cách thích hợp từ khi mới sinh ra đời. Đối
với hắn, hắn là một nạn nhân tuyệt đối thụ động của sắc luật của Thiên Chúa
trong Thánh Kinh. Đối với tôi, đó là một huyền thoại “cứu rỗi” thuộc thời
sơ khai miêu tả một người cha lấy cái chết của chính con mình để bớt đi cơn
giận dữ. Đó là một chuyện ác độc không thể tưởng tượng được…
Tôi chấp
nhận sự kiện là đức Ki Tô đã chết, ngay cả chuyện ông ta bị đóng đinh trên
thập giá. Nhưng tôi không thể chấp nhận huyền thoại cho rằng cái chết của
ông ta là để chuộc tội cho tôi. Huyền thoại cứu rỗi như được viết trong Tân
Ước chỉ là một lối diễn giải. Đó là một huyền thoại của thời sơ khai, bản
chất của nó tương đương với nhiều huyền thoại cứu rỗi của nhiều dân tộc
trong thời sơ khai ở khắp mọi nơi, nhưng nó lại độc ác một cách không tưởng
hơn là hầu hết các huyền thoại khác. Nó phản ánh một thế giới mà con người
có thể làm nguôi cơn giận của những thần sấm sét trong một cơn giông tố.
Ngày nay, chó và mèo vẫn còn sợ sấm sét, nhưng con người thì ngồi yên trong
nhà và hiểu rõ cái hiện tượng thiên nhiên đang xảy ra…
Tôi sẽ
không chấp nhận cái huyền thoại về một Chúa Cha khắt khe đối xử với chính
con của mình, Giêsu, bằng một công lý vô tình cảm, và đòi hỏi con mình phải
chết trên thập giá cho những tội lỗi của tôi. Cái huyền thoại này cũng
chẳng trở thành hấp dẫn hơn vì Chúa Cha đã làm cho con sống lại, đội mồ mà
lên một cách vinh quang. Tôi không thể yêu mến một người cha như vậy hoặc
phải biết ơn một người con như vậy trong một câu chuyện mượn từ một câu
chuyện truyền tụng của nền thần học Do Thái cổ lỗ và thay đổi nó đi. Tôi
không hề yêu cầu Giêsu phải chịu khổ thay cho tôi và ngay cả muốn ông ta làm
như vậy…” [14]
Quý
đọc giả có thể đọc toàn bài “Huyền Thoại Cứu Rỗi” (The Salvation
Myth) của Linh mục James Kavanaugh trên:
http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN36.php.
Nhưng không phải chỉ có
những huyền thoại về “chuộc tội” và “cứu rỗi” của Ki Tô Giáo đã bị dẹp bỏ mà
hầu hết những tín điều mà tín đồ Ki Tô tin cũng đã không còn chỗ đứng trong
thế giới ngày nay. Chúng ta hãy đọc vài nhận định của các bậc lãnh đạo
trong Ki Tô Giáo nói chung:
Trong cuốn "Theo Đúng Như Trong Sách: Những Thảm Họa Trong Quá Khứ Và
Hiện Tại Của Quyền Lực Thánh Kinh" (Going By the Book: Past and Present
Tragedies of Biblical Authority), Mục sư Ernie Bringas, tốt nghiệp
môn thần học tại đại học United Theological Seminary ở Dayton, Ohio, nhận
định rằng:
Với
sự tái khám phá phương pháp khoa học trong thế kỷ 16 ở Âu Châu và sự tiến
triển tiếp theo của thời đại Khai sáng trong thế kỷ 18, một sự phân tích
Thánh Kinh một cách thuần lý hơn là điều không thể tránh được. Trong một thế
giới đang trở thành hướng theo tinh thần khoa học, những mô tả về Chúa đi
trên sóng, về ma quỷ, thiên thần, những câu chuyện về sự sống lại của Chúa,
và nhiều hiện tượng khác, càng ngày càng khó có thể chấp nhận như là những
sự thực lịch sử.
Trong những năm 1835-1836, cuốn
"Khảo Sát Cặn Kẽ Về Đời Sống của Giê-su" (The Life of Jesus Critically
Examined) của D. F. Strauss đã quy một số chuyện trong Tân Ước là
"huyền thoại" và định nghĩa những câu chuyện phi lịch sử như trên là sự biểu
thị của một chuỗi những ý tưởng tôn giáo. Ngày nay, kết quả những cuộc
nghiên cứu phân tích tiếp tục hỗ trợ và xác nhận sự khẳng định này. Đa số
các học giả coi những chuyện trong Tân Ước và bảy giáo lý giáo hội đưa ra
sau đây đều là huyền thoại:
1.
Đức Mẹ đồng trinh
2.
Hiện thân của Chúa
(Thượng đế hiện thân thành người, Thượng đế là Giê-su.)
3.
Nhiệm vụ cứu rỗi của Chúa
4.
Sự sống lại của Chúa.
5.
Sự thăng thiên của Chúa
(Thân xác Chúa bay lên trời 40 ngày sau khi sống lại)
6.
Chúa trở lại trần
(để
làm sống lại những người chết cho ngày phán xét cuối cùng)
7.
Ngày phán xét cuối cùng
(Chúa Cha phán xét luận tội mọi người trong ngày Giê-
su trở
lại trần thế) [15]
Đúng vậy, thực
chất của Ki Tô Giáo đã được các học giả nghiên cứu kỹ trong vòng 200 năm gần
đây, bác bỏ mọi huyền thoại mà Ki Tô Giáo dựng lên, những chuyện thuộc loại
hoang đường, mê tín cổ xưa đó bắt buộc phải ra khỏi đầu óc của con người,
nhường chỗ cho những sự kiện khoa học và những thực tế xã hội.
Một
cuốn sách điển hình về hiện tượng giải hoặc Ki Tô Giáo này là của Uta
Ranke-Heinemann, người phụ nữ duy nhất trên thế giới chiếm được ngôi vị giáo
sư thần học Ca-Tô của giáo gội Ca-Tô [the first woman in the world to hold a
chair of Catholic theology], cuốn
“Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ Con”
(Putting Away Childish Things, HarperCollins, 1995). Những chuyện trẻ con
nào? Đó là những tín lý căn bản của Ca-Tô Giáo:
-
“Tư cách
thần thánh của Chúa Ki Tô”
[The divinity of Christ]
-
“Sinh ra
từ một nữ trinh”
[The
Virgin mother]
-
“ngôi mộ
trống”[Empty
Tomb]
-
“Ngày
Thứ Sáu tốt đẹp”[
Easter, Good Friday]
-
“Phục
sinh”[
Resurrection]
-
“Thăng
Thiên” [Ascension]
-
“Bị hành
quyết để chuộc tội”
[Redemption
by execution]
-
“Hỏa
ngục”
[Hell].
Tác
giả trích dẫn câu 1 Corinthians 13:11 ở ngay đầu cuốn sách: “Khi tôi còn
là một đứa trẻ, Tôi nói như một đứa trẻ, tôi hiểu như một đứa trẻ, tôi nghĩ
như một đứa trẻ; Nhưng khi tôi trở thành một người trưởng thành, tôi dẹp bỏ
những chuyện của trẻ con” [When I was a child, I spoke as a child, I
understood as a child, I thought as a child; But when I became an adult, I
put away childish things.]
Trong cuốn
Một Ki Tô Giáo Mới Cho Một Thế Giới Mới (A New Christianity For A new
World), xuất bản năm 2001. Giám Mục Spong liệt kê ra 5 tín điều căn bản của
Ki Tô Giáo như sau:
-
Thánh Kinh là
những lời mạc khải của Thiên Chúa.
-
Tư cách thần
linh của Giê-su vì sinh ra từ một Nữ Trinh.
-
Cái chết của
Giê-su là để chuộc tội cho nhân loại, và máu của Giê-su là năng lực cứu rỗi
(saving
power of his blood).
-
Thân xác Giê-su
sống lại. Ngôi mộ trống là một sự thật cũng như chuyện Giê-su hiện ra sau
khi chết.
-
Giê-su sẽ trở
lại để phán xét nhân loại.
Và Giám mục
Spong đưa ra nhận định như sau:
Ngày nay, tôi
thấy những tín lý căn bản này mà chúng ta thường hiểu theo truyền thống,
không những chỉ là ngây ngô mà còn có thể phải dứt khoát loại bỏ. Trong thế
hệ của chúng ta, không một tín điều nào ở trên được các học giả Ki Tô danh
tiếng xác nhận.
[16]
Một khi mà
chính những bậc lãnh đạo có thẩm quyền trong Ca-tô Rô-MaGiáo như giáo sư
thần học Uta Ranke-Heinemann, Linh mục James Kavanaugh v…v… và nhiều bậc
lãnh đạo khác trong Ki Tô Giáo như Giám mục John Shelby Spong, Mục sư Ernie
Bringas v..v…, và một số học giả Ki Tô Giáo đã nhận thức được rằng, những
tín lý mà nền thần học Ki Tô Giáo tạo ra về Giê-su chỉ là những huyền thoại,
những chuyện để cho trẻ con tin, hoặc cho những người lớn có đầu óc ở trình
độ của trẻ con, và viết sách để mở mang kiến thức của các tín đồ Ki Tô trong
những xã hội Âu Mỹ, thì tất nhiên Ki Tô Giáo phải suy thoái. Chúng ta không
thể lên án họ đều là những người “chống đạo”.
Có thể những
tín đồ Ca-Tô Việt Nam ngày ngày ca tụng “Đức Thánh Cha” của họ không tin là
cái đạo cao quý của mình lại có thể suy thoái một cách trầm trọng như vậy,
và họ rất hãnh diện là tín đồ Ca-Tô Việt Nam vẫn giữ vững đức tin, kiên trì
đi trong đường hầm để bảo tồn những niềm tin đã bị phế thải ở Âu Mỹ. Nhưng
không tin là một chuyện, còn tình trạng suy thoái thực sự của giáo hội Ca-Tô
hoàn vũ lại là một chuyện khác.
Sau đây là một
số tài liệu điển hình nói về tình trạng suy thoái của Ki Tô Giáo nói chung,
Ca-Tô Rô-maGiáo nói riêng, trên khắp thế giới. Đây là những tài liệu nghiên
cứu, thống kê của các tác giả Tây Phương trong đó có một số linh mục và tín
đồ Ki Tô Giáo. Không có một tài liệu nào của Cộng Sản hay của Phật Giáo Việt
Nam. Tôi chỉ trình bày những tài liệu sau đây với tư cách của một người đã
nghiên cứu về tôn giáo và trong lãnh vực học thuật (scholarship), những tài
liệu mà tôi cho rằng trong thời đại ngày nay, không có lý do gì người dân
Việt Nam, nhất là những tín đồ Ca-Tô ở Việt Nam, không được quyền biết, mà
trái lại vì tương lai dân tộc, người dân cần phải biết như là một phần quan
trọng của bộ kiến thức thời đại. Trước hết, chúng ta hãy điểm vài tài liệu
trên vài cuốn sách đã xuất bản và trên báo chí.
Ngay từ năm
1983, Malichi Martin, một linh mục dòng Tên, giáo sư tại Viện Nghiên Cứu
Thánh Kinh của Giáo hoàng, tiến sĩ về khoa ngôn ngữ Do Thái, Khảo Cổ và Lịch
Sử Đông Phương, đã viết trong cuốn “Sự Suy Thoái Của Giáo
Hội Ca-Tô Rô Ma” [The Decline and Fall of the Roman Church], như
sau, trang 1:
“Tiến
trình bất ngờ và làm cho người ta phân vân nhất trong 20 năm gần đây là sự
suy thoái đột nhiên của giáo hội Ca-Tô Rô-ma trong tổ chức giáo quyền và
trong lý tưởng đồng nhất của giáo hội.
Với tình trạng
ngày nay, có vẻ như không có một hi vọng hợp lý nào để cho sự suy thoái đó
ngưng lại..
[Phù
hợp với lời than của Benedict XVI ngày nay]
Những thống kê đáng tin
cậy và những chi tiết khác thật là khủng khiếp cho đầu óc người Ca-Tô Rô-ma
truyền thống.
Khi vẽ trên một biểu đồ từ năm 1965 đến năm 1980, số linh mục, nữ tu
(các sơ), huynh trưởng trong đạo, học sinh trung học, sinh viên đại học
tư (của Ca Tô Giáo), số người rửa tội, vào đạo, lấy người cùng đạo,
dự lễ ban thánh thể, xưng tội, thêm sức – mọi thống kê đáng kể hiện hữu -
đều mô tả một sự suy giảm chúc đầu xuống không ngừng. Thêm vào những yếu tố
chính trên là số tín đồ Ca Tô Rô-ma dứt khoát bác bỏ hoàn toàn giáo lý của
Rô-ma về ly dị, ngừa thai, phá thai, đồng giống luyến ái, và Cộng sản.
Hơn
nữa còn có một số yếu tố vô hình nhưng không kém phần quan trọng. Ví dụ,
ngày nay không thể nào biết được là có bao nhiêu linh mục được phong một
cách có giá trị
[nghĩa là có đầy đủ giá trị về những quyền năng thần thánh mà nền thần học
xảo quyệt của giáo hội đã tạo ra cho giới chăn chiên để nắm giữ đầu óc tín
đồ, ví dụ như: có quyền gọi Thánh Linh bất cứ ở đâu đến phục vụ cho ông ta
trong những màn pháp thuật được gọi là “bí tích”, có quyền rửa sạch cái tội
tổ tông không hề có của một đứa bé mới sinh ra đời, có quyền tha tội cho ai
thì người ấy được tha, có khả năng biến một mẩu bánh làm bằng bột thành thân
thể thực sự của Chúa v..v..]. Vì chắc chắn là nhiều giám mục phong chức
linh mục cho các ứng viên không hề có ý định là tạo ra những linh mục với
quyền năng thiêng liêng là ban thánh thể và tha tội cho những kẻ xưng tội,
và nhiều ứng viên cũng không hề có ý định là sẽ nhận được những quyền năng
như vậy. [17]
Malachi Martin viết không sai, giáo hội sống còn là nhờ vào mớ quyền năng tự
tạo cho giới linh mục, khai thác sự yếu kém tinh thần và trình độ hiểu biết
của đa số giáo dân. Ngày nay, mớ quyền năng đó đã trở thành những màn bịp
bợm mê tín nên ngay cả những tín đồ Ca-Tô bình thường cũng như những người
trí thức trong giáo hội cũng không còn tin, trừ số tín đồ thấp kém ở dưới,
nên trên thực tế, giáo hội đã chết.
Trong cuốn Những Giáo sĩ thừa sai
(Missionaries) của Julian Pettifer và Richard Bradley, cuốn sách dựa trên
một chương trình TV 6 kỳ của đài BBC, nội dung nghiên cứu về lịch sử truyền
giáo của Ki Tô Giáo nói chung trên thế giới, chúng ta có thể đọc được vài sự
kiện như sau:
Trang
242: Âu châu đã trở thành “một mối bối rối, lúng túng cho Ki Tô Giáo”, một
lục địa mà nhà thần học Đức Kierkegaard đã gọi là lục địa của những “người
ngoại giáo đã được rửa tội”. Nói ngắn gọn, Âu châu, trong nhiều thế kỷ là
cái nôi của chương trình truyền giáo Ki Tô đi khắp nơi, nay chính nó lại đã
trở thành nơi cần phải được truyền giáo.. Một số người nói rằng đây là một
lục địa “hậu-Ki-Tô”.Theo Floyd McClung (một
nhà truyền giáo Ki Tô) thì: Người ta e rằng nếu Âu châu cứ tiếp tục quay
lưng lại Thượng đế thì sẽ có ngày Thượng đế sẽ quay lưng lại Âu Châu.
Những nhà truyền giáo
ngày nay tin rằng Âu Châu hiện ở trong nguy cơ bị lún sâu trong làn sóng
thủy triều của chủ nghĩa thế tục. Họ cực lực phủ nhận đó là định mệnh tối
hậu không thể tránh được của các quốc gia theo Ki Tô Giáo. [18]
Trang 244: Ở Anh Quốc: Tình trạng vô Thượng
đế ở Anh đuọc coi như là một sự truyền nhiễm trong giới lao động ở đô thị.
Tuy rằng có những biệt lệ đáng kể, giới trung lưu vẫn còn là những người,
nếu không phải là sợ Thượng đế thì ít nhất cũng là những kẻ tiếp tục đi lễ
nhà thờ... Hình ảnh này đã hoàn toàn thay đổi. Sự truyền nhiễm đã tràn vào
giới trung lưu sống ở ngoại thành, và ngay cả mạch sống của giáo hội, những
giáo xứ ở miền quê, cũng đã bị nhiễm độc. Trong cuộc kiểm tra về ngày chủ
nhật năm 1851, vào khoảng 40% dân chúng đi lễ nhà thờ. Một thế kỷ sau,
1951, số người đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật vào khoảng gần 10%.
Các nhà thống kê tranh cãi nhau về số tín đồ
Ki Tô thuần thành ở Anh thấp như thế nào. Một số người cho rằng số người
thường xuyên đi lễ nhà thờ chỉ là 4%. Tới năm 1986, 1/5 số 2870 nhà thờ
Tin Lành ở Luân Đôn chỉ có cộng đồng tín đồ dưới 25 tín đồ; 3/4 có dưới 100
tín đồ.. Nhà thờ trên khắp nước Anh bị bỏ hoang vắng. Đặc biệt là ở Luân
Đôn, sự biến cải nhà thờ thành một cơ sở khác là một dịch vụ kiếm lời lớn.
Những đèn nhấp nháy để nhảy Disco soi sáng những khung cửa kính màu của một
nhà thờ chính ở Luân Đôn, nhà thờ này đuọc đặt tên lại là Hộp Đêm Ánh Sáng;
ở Barnsbury, Bromley-by-Bow, Ealing và Highgate, những nhà phát triển địa ốc
đã biến những nhà thờ từ thời Victoria thành những căn nhà ở cho thuê; ở
Wales, giáo phái Tin Lành Bresbyterian biến cải 300 nhà thờ thành những nhà
ở cho những cặp vợ chồng trẻ đang trong cảnh khó khăn để mua được một căn
nhà đầu tiên. Ở nhiều nơi khác, nhà thờ được dùng làm kho bán hạ giá bàn
ghế tủ giường thảm, và làm tiệm ăn.
Tuy nhiên sự quan tâm về tình trạng suy sụp
tâm linh ở Anh chẳng có nghĩa lý gì khi so sánh với Pháp. Theo nhà truyền
giáo (Tin Lành) Mỹ David Barnes, mặc dù Pháp có một nền văn hóa phong phú,
dân Pháp cũng “không biết đến Thượng đế như là những thổ dân thiếu văn minh
ở trong những lục địa tối tăm nhất trên thế giới.” Trong số 54 triệu dân,
chỉ có 0.22% theo Tin Lành. Tuy rằng 94% dân chúng được rửa tội theo Ca-Tô
giáo, chỉ có 2% là thường đi lễ nhà nhờ ngày chủ nhật. Dù rằng Pháp chịu
ảnh huỏng rất lớn của Ca-Tô giáo, Hội Truyền Giáo Đến Các Nơi Chưa Biết Đến
Phúc Âm tuyên bố Pháp là miền đất phải được truyền giáo.
[19]
Không
phải là ngày nay tín đồ Ki Tô Giáo mới ít đi nhà thờ, mà chuyện này đã xảy
ra từ thế kỷ 19 trong những nước văn minh tiến bộ. Bruce Bawer viết
trong cuốn Stealing Jesus, Three Rivers Press, New York, 1998, p.
164:
Trong thế kỷ 19, những
người thuộc giai cấp cao, có học, và nhiều người thuộc mọi giai cấp, đã hàng
loạt thôi không dự các lễ ở nhà thờ, để lại đàng sau một Giáo hội gồm hầu
hết những kẻ ít học. Để xoa dịu tình cảm mê tín của những người còn lại này,
Vatican đưa vào thêm những giáo lý mới về Mary đồng trinh, nghĩa là giáo lý
về Thụ Thai Vô Nhiễm (1854) và Thăng Thiên của Mary (1950). Cả hai ý tưởng
này - đối với một tín hữu có đầu óc thì thật là vô nghĩa – không có căn cứ
trên Phúc âm mà chỉ là lòng mộ đạo dân gian. [20]
Và
những thống kê mới nhất cũng cho chúng ta thấy tình trạng này. Trong tờ
Chicago Tribune ngày 19 tháng 6, 2006, ký giả hải ngoại của tờ báo, Tom
Hundley, có một bài tường trình, đăng trên trang nhất, về tình trạng Ki Tô
Giáo ở Âu Châu với chủ đề “Đức Tin Phai Nhạt: Sự Suy Thoái Của Ki Tô Giáo
ở Âu Châu” (Fading Faith: The Decline of Christianity in Europe) trong
đó có những đoạn như sau:
Ở Pháp và ở hầu hết các
quốc gia khác ở Âu Châu, Ki Tô Giáo có vẻ như đang “rơi xuống tự do” không
phương cứu vãn
[Christianity appears to be in a free fall: Tác giả dùng từ trong khoa học:
“free fall”, có nghĩa là rơi xuống tự do, càng ngày càng nhanh mà không có
gì ngăn cản lại]. Tuy 88% dân Pháp nhận mình là tín đồ Công Giáo, chỉ có
5% đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật, 60% nói rằng họ “không bao giờ” (never)
hoặc “hầu như không bao giờ” (practically never) đi lễ nhà thờ
[Đối với người Ca-Tô Việt Nam, họ bị dọa là không đi lễ nhà thờ ngày chủ
nhật là một trọng tội, phải đày hỏa ngục, các “bề trên” dạy vậy, nên giáo
dân Bùi Chu, Phát Diệm, Hố Nai, Gia Kiệm vẫn nườm nượp kéo nhau đi lễ nhà
thờ ngày chủ nhật, và cả ngày thường, chứng tỏ trình độ tôn giáo của giáo
dân Việt Nam vượt trội hẳn trình độ giáo dân Âu Châu và Mỹ Châu về mê tín,
niềm hãnh diện của giáo hội Ca-Tô Việt Nam trong sự tiếp tục tuân theo những
giáo lý thuộc loại nhốt đầu óc tín đồ vào những ngục tù tâm linh, những giáo
lý mà Âu Châu và Mỹ Châu đang dần dần phế thải]. Không còn phải bàn cãi
gì nữa, Ca-Tô Giáo đang đối diện với một cơn khủng khoảng nghiêm trọng… Một
lễ ngày chủ nhật điển hình trên khắp nước Pháp là hình ảnh của một linh mục
già nua trước một đám phụ nữ cũng già nua. Odon Vallet, giáo sư tôn giáo ở
đại học Sorbonne nói: “Lễ Mi-sa thật là chán (Mass is boring), lễ
tiết chẳng có gì hay (the ceremony isn’t beautiful), nhạc cũng tệ
(music is bad), bài giảng không có gì hấp dẫn (the sermon is
uninteresting).
Trong bài “Hãy giữ đức tin” (Keeping The Faith) trên tờ New York
Times ngày 8 tháng 4, 2007, chúng ta có thể đọc được vài đoạn như sau:
Phong cảnh giáo hội ở Âu Châu – không chỉ là Giáo hội Ca Tô mà hầu như mọi
hình thức tổ chức của Ki Tô Giáo – đang thay đổi nhanh như chớp.
Có những ông giám mục Âu
Châu cảm thấy rằng họ không còn có thể nói về một Âu Châu Ki Tô Giáo mà
không cảm thấy mình đang mạ lỵ sự thông minh của quần chúng.
[21]
Ngày nay, tín đồ Ki Tô Giáo Tây phương
ít đi lễ nhà thờ vì họ đã nhận thức
được rằng, trong nhà thờ không có thiên đường mà chỉ có những bài giảng
ngược thời gian và những giỏ thu tiền, để làm gì, giáo dân không có quyền
biết. Nhưng chúng ta biết là Giáo hội Ca-tô thánh thiện đã phải bỏ ra trên
2 tỷ đô-la để bồi thường cho những nạn nhân tình dục của các linh mục, à
quên, các “Chúa thứ hai”, can tội loạn dâm và ấu dâm.
Trên đây là vài tài liệu điển hình về sự suy
thoái ở Âu Châu, đặc biệt là ở Anh và Pháp. Nhưng sự suy thoái không chỉ ở
trong hai nước này mà còn ở trên khắp Âu Châu kể cả các quốc gia được gọi là
Ca-tô như Ý, Tây Ban Nha, Ba Lan v…v… Tại sao vậy? Vì các quốc gia này đã
nhận thức được hiểm họa của Ki Tô Giáo trong những nước văn minh, tiến bộ,
dân chủ ngày nay.
Ở Mỹ, tình trạng Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô
Giáo Rô-ma nói riêng, cũng không sáng sủa gì hơn. Đức tin Ca-tô càng ngày
càng suy giảm, linh mục và giáo dân bỏ đạo hàng loạt, các “bí tích” trở
thành mất ý nghĩa, do đó giáo dân không chịu đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật.
Trong nhà thờ ngày chủ nhật chúng ta thấy phần lớn là những bộ mặt già nua
và những giáo dân Mít, Mễ, và gốc Phi Châu. 60% tín đồ của hệ phái Tin Lành
lớn nhất Methodist trên 50 tuổi. Một số nhà thờ, Ca-tô cũng như Tin Lành,
được rao bán để người mua muốn sử dụng làm gì thì làm, có nhiều trường hợp
nhà thờ nay biến thành chùa. Nhiều trường học Ca-tô ở các địa phương đóng
cửa vì không đủ tài chánh để tiếp tục, nhưng giáo xứ vẫn có tiền bồi thường,
thường là lên đến hàng triệu đô-la, cho các nạn nhân của các linh mục loạn
dâm.
Tờ
USA Today’s viết về sự suy thoái của Ki Tô Giáo ở Âu Châu nêu lên câu hỏi
về tương lai
[Ki
Tô Giáo] ở Mỹ. Trong nhiều phương diện khác nhau, có vẻ như Mỹ sẽ theo
gót gương của Âu Châu nhưng chậm hơn nhiều năm. Tuy nhiên nhịp độ thay đổi
luân lý ở Mỹ có thể cho thấy rằng Mỹ sẽ nhanh chóng theo kịp mẫu thế tục của
Âu Châu. [22]
Năm
1990, linh mục David Rice dòng Đô-Mi-Nic xuất bản cuốn Lời Nguyện Tan Vỡ:
Linh Mục Bỏ Đạo (Shattered Vows: Priests Who Leave), đưa ra kết quả
nghiên cứu của ông sau khi đi khắp nơi tổng cộng 38 ngàn miles (khoảng 60
ngàn cây số) để phỏng vấn và tìm hiểu đời sống của các linh mục bỏ đạo:
Một trăm ngàn ( 100 000 ) linh mục Ca-tô
Rô-ma đã bỏ đạo trong 20 năm qua – cứ mỗi 2 giờ đồng hồ lại có hơn một linh
mục ra đi. Hầu như phân nửa số linh mục Mỹ sẽ bỏ đạo – thường là để lập gia
đình – chưa tới 25 năm sau khi được tấn phong. Vatican không nói tới cuộc
di dân này, nhưng đó chính là cuộc khủng khoảng nghiêm trọng nhất mà giáo
hội phải đối diện, kể từ khi có cuộc Cải Cách tin Lành. [23]
(xem tiếp: Hình Ảnh Suy Thoái Của Ki Tô Giáo Trên Thế Giới )
Chú thích:
8. Those who cavalierly reject the Theory of Evolution,
as not adaquately supported by facts, seem quite to forget that their own
theory of creation is supported by no facts at all.
9. When the religious world realized the danger of
Ingersoll they marshalled their heaviest artillery against him.
From the ranks of religion there was recruited the
top brass. Religious differences were forgotten – protestants and catholics
became “brothers-in-arms” against a commun enemy. Under the banner of Jesus
Christ there was only one battle cry – “Ingersoll must be destroyed, or we
are lost”.
The generals buckled their armor and went forth for
battle.
The big guns were leveled against him.
First came the “policeman,” in the person of Jeremiah
S. Black, the Attoerney General of the US’ government. Then came the wolf
in sheep’s clothing, the gentle and soft-spoken clergyman – Henry M. Field.
His sof answers were poisoned with religious wrath. Next was the honorable
William E. Gladstone – England’s Prime Minister – the civil representative
of the state-church of Protestantism. When the tyrrany of the state is
combined with the hypocrisy of the church, you have a modern example of the
twin vultures that have devoured man, and his rights, throughout the ages.
Last, but not least, was Cardinal Manning. Never before had the Catholic
Church suffered such a mortal blow. This highest English-speaking Catholic
prelate was humiliated and disgraced.
Ingersoll demolished them all.
They were decimated as the blade of the grass is cut by
the steel blade of the mower.
With an outpouring of the knowledge of the universe and
the laws which operate with undeviating accuracy, with unanswerable logic,
with more understanding of the Bible than his clerical opponents, and with
an eloquence without parallel, Ingersoll'’ adversaries were left upon the
the field of battle – mortally wounded – the only audible sounds were their
dying sights.
They never sought battle again. They had enough. They
wanted no more of Ingersoll.
10. Most important, the impact of the scientific perspective is having
now that even scholars working under a conservative Catholic imprimatur
agree that much of what we know of Jesus is myth… Scholars have known the
truth – that Jesus was nothing more than a man with a vision – for decades;
they have taught it to generations of priests and ministers, who do not pass
it along to their flocks because they fear a backlash of anger. So the only
ones left in the dark are ordinary Christians.
11. But he was “born of a woman”… His origins were
as scandalous as his means of death. He (Jesus) was a nobody, a child of
Nazareth out of which nothing good was thought to come. No one seemed to
know his father. He might well have been illegitimate. Hints of that are
scattered like undetected and unexploded nuggets of dynamite in the
landscape of the the early Christian tradition.
12. Does the Biblical Jesus merit the honor bestowed upon him?
Unfortunately, preachers, ministers, and clergymen have given us biased,
one-sided stories, emphasizing and inflating what they see as positive while
subverting or ignoring the negative. Biblical scholarship of the last
hundred years has not reached the common man. Instead, we see political
ministers and televangelists making absurd biblical claims without anyone
calling them accountable. Although over 90 percent of households in America
own a Bible, it usually goes unread, or at best sanitized or bowdlerized to
what people want it to say.
Unbeknownst to many Christians, many times the Gospels of the New
Testament portray Jesus as vengeful, demeaning, intolerant, and
hypocritical.
13. We human beings do not live in sin. We are not born in sin. We do
not need to have the stain of our original sin washed away in baptism. We
are not fallen creatures who will lose salvation if we are not baptized… A
savior who restores us to our prefallen status is therefore pre-Darwinian
superstition and post-Darwinian nonsense.
14. To any man in the ancient world who stood before God as a helpless
victim, who believed himself a hopeless sinner, who considered God an
unapprochable and angry judge, the sacrificial death of Christ was a myth of
some substance. But to modern man, it makes far less sense unless he has
been suitably frightened and brainwashed from birth. To him, he is a
voiceless victim of God’s decree in the Bible. To me, it is a primitive
‘salvation” myth which portrays an angry father appeased by the death of his
own son. It is a tale of unbelievable cruelty… I accept the fact that
Jesus died, even that he was crucified. But I cannot accept the myth that
his death was an atonement for my sins. The salvation myth as it appears in
the New Testament is an interpretation. It is a primitive myth, in essence
parallel to the salvation myths of primitive peoples everywhere, but it is
more unbelievable and cruel than most myths. It rings of a world in which
man could appease the gods of thunder during a storm. Now cats and dogs are
frightened during storms; man stays inside and understands the natural
phenomenon that is taking place… I will not accept this mythical
God-the-demanding-Father Who could treat His own son Jesus in unfeeling
justice and demand his death on the cross to pay for my sins. Nor is the
myth more appealing because He brought His son gloriously from the tomb. I
cannot love such a Father or even be grateful for such a son in this
borrowed and modified tale of archaic semitic theology. I did not ask him
to suffer for me or even want him to..
15. With the rediscovery of the scientific method in 16th-century Europe
and the subsequent evolvement of the Enlightenment during the 18th-century,
it was inevitable that a more rational analysis of Scripture would occur. In
a world becoming scientifically oriented, descriptions of walking on water,
of demons, angels, resurrection stories, and other phenomena grew
increasingly unacceptable as historical realities.
In 1835-1836, The Life of Jesus Critically Examined, by D. F. Strauss,
referred to some NT narratives as "myth" and defined those unhistorical
elements as expressing a series of religious ideas. Today, analytical
studies continue to support and confirm this assertion. The majority of
scholars regard the following NT accounts and Church-developed doctrines as
myth:
1. The virgin birth
2. The Incarnation (God in human form; that is, God as Jesus)
3. The work of Atonement (plan for salvation)
4. The resurrection
5. The ascension (Jesus' bodily ascent into heaven 40 days after the
resurrection)
6. The Second Coming (the return of Jesus to raise the dead and to summon
all to the
Last Judgment)
7. The Last Judgment (the judgment of all by God at Christ's Second
Coming)
16. Today I find each of these fundamentals, as traditionally understood,
to be not only naïve, but eminently rejectable. Nor would any of them be
supported in our generation by reputable Christian scholars.
17. Malachi Martin, a Jesuit Professor at the Pontifical Biblical
Institute in Rome, doctorate in Semitic languages, archeology and Oriental
history, The Decline and Fall of the Roman Church, a Bantam Book, NY, 1983,
p.1: The most surprising and the most puzzling development in the last 20
years has been the sudden and undoubted decline of the Church of Rome in its
ecclesiastical organization and ideological unity..
As things now stand, there appears to be no reasonable hope that this
decline can be arrested…
The relevant statistics and other details are horrendous for the
traditional Roman Catholic mind. When plotted on a graph covering the years
1965-1980, the number of priests, nuns, religious brothers, junior and
senior high school students, private college students, baptisms,
conversions, inter-Catholic marriages, communions, confessions,
confirmations – every significant statistics available – describes a
plummeting, - for the priesthood have no intention of creating priests with
the sacramental powers to offer the sacrifice of the Mass and to absolve
penitents of sins, and many candidates do not have the intention of
receiving such powers..
18. Europe had become “an embarrassement to
Christianity”, a continent of what the German theologian Kierkegaard called
“baptised pagans”. In short, Europe, for centuries the craddle of Christian
Mission, had itself become a mission field… Some say it is a
“post-Christian” continent.
For Floyd McClung: there is a fear that if Europe
continues to turn its back on God, the time may come when God will turn His
back on Europe.
The missionaries believe that Europe is in danger of
being swamped by a tidal wave of secularism. They vigorously deny that this
is the inevitable and ultimate destiny for all Christian nations..
19. In Britain: Godlessness in Britain was presumed to
be a contagion confined to the urban working classes. Although there were
notable exceptions, the middle classes remained, if not God- fearing, then
at least church-going folk…The picture had completely changed. The disease
had spilled into middle-classes suburbia and even the life-blood of the
church, the rural parishes, had been infected. On census Sunday in 1851,
some 40% of the population went to church. A century later, in 1951, it was
nearer 10%.
The statisticians quibble about how just low the
figures are for practising Christians in Britain. Some argue that
consistent church attendance is as low as 4%. By 1986, a fifth of London’s
2870 Protestant churches had congregations of less than 25; had less than
100 members… Churches all over Britain lie abandoned and derelict. In
London particularly, church conversion has become big business. Disco
lights illuminate the stained-glass windows of one central London church,
renamed the Limelight Nightclub; in Barnsbury, Bromley-by-Bow, Ealing and
Highgate, developers have turned Victorian churches into exclusive
apartments; ..In Wales, the Bresbyterian Church is converting 300 churches
into homes for young married couples struggling to buy a first house.
Elsewhere, churches are being used as furniture warehouse, carpet disount
stores and restaurants.
But concerns over Britain’s spiritual welfare is
nothing compared to that over France. According to the American missionary
David Barnes, despite the richness of their culture, the French “are as
ignorant of the things of God as the uncivilised natives of one of the
world’s darkest continents”. A mere 0.22% of France’s 54 million population
are evangelical Protestants. Although 94% are baptised Catholics, a mere 2%
regularly attend church. Despite the huge influence of the Catholic Church,
the Unevangelised Fields Mission (UFM) have declared France a mission field.
20. During the 19th century, members of
the educated upper classes, and men of all classes, ceased attending service
in droves, leaving behind a church composed mostly of the under-educated.
To appease these members’ sentimental superstitions, the Vatican added new
doctrines about the Virgin Mary, namely the Immaculate Conception (1854) and
the Assumption (1950). Both ideas – “which, to a thingking believer, were
meaningless – had their basis not in scripture but in folk piety.
21. "The landscape of the church in Europe — and not just the Catholic
Church but nearly all forms of organized Christianity – is changing at a
lightning pace.
There are European bishops who feel you can’t talk about a Christian
Europe anymore without insulting people’s intelligence.”
22. USA Today's cover story on the decline of Christianity in
Western Europe raises the question of America's future. In many ways,
America seems to be following the European example, though several years
behind. Yet the pace of moral transformation in the United States may
indicate that America is fast catching up with the European model of
secularization
23. 100000 Roman Catholic priests have walked out in
the last 20 years – more than one every two hours. Almost half of all
American priests will leave – most often, to marry – before the 25th
anniversary of their ordination. The Vatican won’t talk about this exodus,
yet it is the most grievous crisis to face the Church since the Protestant
Reformation.
■ Các bài cùng chủ đề:
- Mối ác cảm của thế giới đối với Ki tô giáo (Nguyễn Mạnh Quang)