VỀ NHỮNG NIỀM HÃNH DIỆN CỦA NGƯỜI

CA-TÔ RÔ-MA GIÁO VIỆT NAM

[Một Khảo Luận Qua Các Sự Kiện Lịch Sử]

Trần Chung Ngọc

http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN80.php

08 tháng 8, 2009

Vài Lời Nói Đầu:

Đối với những hiểu biết về Ca-tô Rô-maGiáo hoàn vũ và về Ca-tô Rô-maGiáo ở Việt Nam thì niềm hãnh diện của những người Việt Nam vì được ở trong Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo là một điều rất khó hiểu, vì không hiểu họ hãnh diện vì cái gì?

Lược qua lịch sử Ca-tô Rô-maGiáo ở Việt Nam thì phải chăng họ hãnh diện vì đã dẹp bàn thờ tổ tiên trong hơn 400 năm, từ 1533 đến Công đồng Vatican II vào thập niên 1960, để đi thờ một người Do Thái có một tiểu sử rất bất minh, hi vọng chỉ cần tin vào ông ta thì sẽ được ông ta ban cho “ơn cứu rỗi” mà Mục sư Ernie Bringas gọi là một “cái bánh vẽ trên trời” (A-pie-in-the sky). Phải chăng họ hãnh diện vì đã có công giúp thực dân Pháp lập được nền đô hộ trên đất nước Việt Nam gần 100 năm. Phải chăng họ hãnh diện vì đã lập nên những khu tự trị (sic) Bùi Chu, Phát Diệm và cùng với quân Pháp săn lùng, tiêu diệt kháng chiến trong khi toàn dân kháng chiến chống lại cuộc trở lại của quân đội Pháp với hi vọng tái lập nền đô hộ trên đất nước Việt Nam. Phải chăng họ hãnh diện vì đã phá hủy được nhiều Chùa Miếu, hay cướp đất của Chùa để xây nhà thờ trên đó, như nhà thờ lớn Hà Nội, nhà thờ đức Bà ở Saigon, nhà thờ La Vang ở Quảng Trị, nhà thờ Tam Tòa v…v…, và được thực dân Pháp ban thưởng cho một số tài sản đất đai để thưởng công đã cùng với Pháp đánh dẹp những người Việt yêu nước. Phải chăng họ hãnh diện vì được là tôi tớ, tỳ nữ hèn mọn hầu việc Chúa, như họ thường tự nhận, tuy rằng việc Chúa chỉ là những việc giới giáo sĩ Ca-tô bày đặt ra. Phải chăng họ hãnh diện vì được dạy từ trên xuống dưới phải tuyệt đối vâng lời một “đức thánh cha” của họ, khi thì là người Ý, khi thì là người Ba lan, khi thì là người Đức, ngồi ở ở mãi Vatican mà tuyệt đại đa số họ không hề biết ở đâu.. Phải chăng họ hãnh diện vì dưới chiêu bài tự do tôn giáo, họ có thể tập họp cầu nguyện “xin-cho” bất cứ ở đâu, dựng nhà, đặt tượng Maria và cắm cây thập giá bất cứ ở đâu trên một đất nước mà hơn 90% không phải là người Ca-tô Rô-maGiáo.. Hay phải chăng họ hãnh diện vì đã làm càn hiến dâng cả nước Việt Nam cho một người đàn bà Do Thái tên là Maria, mẹ của Giê-su, nhưng không biết chồng là ai, như Giám Mục Spong, trong cuốn Sinh Ra Từ Một Người Đàn Bà: Một Giám Mục Nghĩ Lại Chuyện Giê-su Sinh Ra Đời (Born of a Woman: A Bishop Rethinks The Birth of Jesus, 1992) đã đưa ra nhận xét, trang 41:

Ông ta (Giê-su) không là ai cả, một đứa trẻ ở Nazareth, chẳng có gì tốt đẹp có thể rút tỉa ra từ sự sinh ra đời này. Chẳng có ai biết cha ông ta là ai. Rất có thể ông ta là một đứa con hoang. Rải rác trong miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu (4 Phúc Âm), có những chi tiết chứng tỏ như vậy, giống như những trái mìn chưa kiếm ra và chưa nổ .

(John Shelby Spong, Born of a Woman: A Bishop Rethinks the Birth of Jesus, p. 41: He was a nobody, a child of Nazareth out of which nothing good was thought to come. No one seemmed to know his father. He might well have been illegitimate. Hints of that are scattered like undetected and unexploded nuggets of dynamite in the landscape of the early Christian tradition.)

Trên đây chỉ là những sự kiện lịch sử có thể tạo nên niềm hãnh diện của những người Ca-tô Rô-maGiáo ở Việt Nam. Sau đây tôi sẽ duyệt qua vài niềm hãnh diện khác của người Việt Nam theo Ca-tô Rô-maGiáo.

1. Hãnh Diện Vì Được Ở Trong Một “Hội Thánh”

Nhưng có một điều chắc chắn là các tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo Việt Nam đã được nhồi sọ để hãnh diện về cái đạo Ca-tô Rô-maGiáo [Roman Catholicism] của họ, vì chúng ta thường nghe họ huênh hoang khoe rằng họ ở trong một “hội thánh” do chính Chúa của họ lập ra trong khi thực ra thì điều này chỉ do Giáo hội Ca-tô ngụy tạo ra để tự tạo quyền lực trên đám con chiên thấp kém chứ không hề có căn bản ở trong Thánh Kinh. Ngày nay, các linh mục vẫn tiếp tục giảng cho các con chiên là họ ở trong “Hội Thánh”. Cũng vì đã bị nhồi sọ kỹ cho nên chúng ta mới có thể đọc được những câu hết sức huênh hoang và hoang đường như sau trong cuốn Đất Việt, Người Việt, Đạo Việt , nxb Văn Nghệ Tiền Phong, 1995-1996, trg. 357, 358, của Phan Thiết, alias Nguyễn Kim Khanh, một trí thức Ca-tô Rô-maGiáo:

"Chúa vinh quang vì Chúa là Thánh. Chí Thánh, Cực Thánh, Rất Thánh, là bản thể của Chúa, ngoài Thiên Chúa thì chẳng có gì là Thánh.. Tín đồ Thiên Chúa Giáo là dân Thánh Chúa...số lượng của họ đông vô vàn như sao trên trời và cát dưới biển."

Những ai giữ nghĩa cùng Chúa cho đến hơi thở cuối cùng đều có quyền chia động từ "là Thánh": Tôi là thánh, Anh là thánh, Chúng ta là thánh...

Viết như vậy nhưng thực ra Phan Thiết chẳng hiểu thế nào là Thánh, vì theo Hồng Y Silvio Oddi, thì “thánh” trong Ca-tô Rô-maGiáo chỉ là những sản phẩm của một cái xưởng chế tạo thánh của Vatican [Cardinal Silvio Oddi: Vatican has become a saint factory], cho nên chỉ có giá trị trong Ca-tô Rô-maGiáo mà thôi, chứ đối với người ngoại đạo thì chẳng có giá trị gì . Cũng vì đã hiểu thực chất rẻ rúng của các thánh trong Ca-tô Rô-maGiáo như thế nào cho nên giáo dân Giuse Phạm Hữu Tạo, sau khi tỉnh ngộ và quyết tâm trở về với dân tộc, đã thẳng thắn và dõng dạc tuyên bố rằng: "Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm thánh của Đại Công Ty Rô Ma (Vatican)."

Để hiểu rõ vấn đề hơn, có lẽ chúng ta cũng nên tìm hiểu thế nào là thánh? Theo quan niệm của tuyệt đại đa số dân Việt Nam thì Thánh là những bậc đại nhân, đại đức, cao cả, thanh tịnh, trong sạch, thuần thiện, trí tuệ sáng suốt v...v... là những tấm gương để cho người đời soi vào để học hỏi, hoặc những bậc anh hùng vĩ đại có công cứu nước, giúp nước. Theo những tiêu chuẩn này thì đạo đức và trí tuệ của các thánh trong Kinh Thánh, Cựu Ước cũng như Tân Ước, kể cả Chúa Giêsu, có xứng đáng với ý nghĩa Thánh của Việt Nam hay không? Câu trả lời là một chữ “KHÔNG” quyết định, nếu chúng ta chịu khó đọc kỹ Kinh Thánh để biết rõ tư cách, tác phong, ngôn từ, cách đối xử với cha mẹ của các thánh và của Chúa Giê-su là như thế nào. Riêng về Chúa Giê-su, nếu ngại đọc Tân Ước thì có thể đọc bài “Đây!! Chúa Giê-su Của Những Người Theo Đạo Giê-su” trên http://www.sachhiem.net/TCNtg/3NGOI/TCN64_00.php. Người Việt Nam cũng tôn thờ các bậc Thánh trong dân gian như Đức Thánh Trần, Đức Thánh Gióng v..v..., những bậc đã có công giúp nước thắng ngoại xâm.

Sau đây chúng ta hãy điểm qua một số thánh nổi tiếng nhất trong Ca-tô Rô-maGiáo. Trong Kinh Thánh, từ Cựu Ước đến Tân Ước, có rất nhiều người được Ca-tô Rô-maGiáo gọi là Thánh, nhiều đến độ đếm không xuể.

a) Trước hết là “thánh tổ phụ” của các đạo Chúa: Abraham. Thánh Abraham lấy em làm vợ, Gen. 20:12 :

"Thật ra, nàng chính là em gái tôi. Nàng là con cùng cha khác mẹ với tôi, và tôi đã lấy nàng làm vợ."

(But indeed she is truly my sister. She is the daughter of my father, but not the daughter of my mother, and she became my wife.)

Lấy em gái làm vợ [Abraham], hay lấy cô ruột làm vợ [bố của thánh Moses], và ngay cả hiếp dâm em gái [thánh Amnon] v…v…không phải là chuyện lạ trong cuốn Thánh Kinh, vì trong đó không thiếu gì những chuyện loạn luân, hay hoang dâm vô độ. Điều đặc biệt về đạo đức của Thánh tổ phụ Abraham là dâng vợ cho các Vua Ai Cập để đổi lấy trâu bò đồng ruộng, sau cùng nghe lời Chúa Cha xui dại, định ra tay giết đứa con ruột của mình? (Sáng Thế 20, 21). Thật vậy, Thánh Kinh kể rằng:

Khi Abraham tới gần đất Ai Cập, Thánh bảo vợ như sau, (Gen. 12: 11-13 ):

"Cưng à! Qua biết cưng rất đẹp. Nếu người Ai Cập nhìn thấy cưng, và biết cưng là vợ qua, có thể họ sẽ giết qua để cướp cưng. Vậy cưng hãy làm ơn làm phúc nói với họ cưng là em gái của qua nhé. Nhờ cưng mà họ sẽ hậu đãi qua và để qua sống."

(Indeed I know that you are a woman of beautiful countenance. Therefore it will happen, when the Egyptians see you, that they will say, "This is his wife"; and they will kill me, but they will let you live. Please say you are my sister, that it may be well with me for your sake, and that I may live because of you.)

[Chúng ta nên để ý là tới đây, Gen.12: 11-13, chúng ta chỉ biết Sarah là vợ của Abraham. Sau đó, tới Gen: 20: 12, Abraham mới tiết lộ Sarah chính là em gái. Cho nên có người Ca-tô cãi ẩu là: Abraham bảo Sarah nhận là em gái thì đâu có gì sai, vì Sarah chẳng là em gái Abraham là gì. Đầu óc dân Ca-tô là như vậy cả].

Về chuyện này, Frederick Heese Eaton viết trong cuốn Scandalous Saints, trg.12:

"Kế hoạch của Abraham để giữ Pharaoh [Vua Ai Cập] bận bịu trên giường với Sarah [vợ, cũng là em gái của Abraham] trong khi gia súc của Abraham gặm cỏ trên những cánh đồng cỏ của Pharaoh đã được đền đáp rộng rãi. Như Thánh Kinh của Moses đã chỉ rõ, làm bất cứ điều gì để có được đồng tiền. Ngay cả làm nghề ma cô."

(Abraham's scheme of keeping Pharaoh busy in bed with Sarah while his cattle grazed off all of Pharaoh's pasture paid off bountifully. Anything to make a shekel, as Moses' Bible indicates. Even pimping.)

[Vài lời ngoài lề: Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo đã theo đúng sách lược của Abraham: làm bất cứ điều gì để có được đồng tiền, vì vậy tài sản của Vatican đã lên đến cả ngàn tỷ đô-la. Và các giáo hội con, kể cả Việt Nam, đều theo đúng sách lược này, kể cả làm tay sai cho thực dân Pháp đưa Việt Nam vào vòng nô lệ, do đó được thực dân Pháp ban thưởng cho đất đai, và dựa thế Pháp đi cướp bóc, phá hủy chùa miếu để xây nhà thờ trên đó. Xin đọc Trần Tam Tĩnh về những tài sản của giáo hội Ca-tô Việt Nam].

Nhờ sự "hi sinh" cao cả của Sarah mà Abraham trở thành giầu có và khi Sarah bị Pharaoh thải hồi thì Thánh Kinh kể, Gen. 13: 1-2:

"Rồi Abraham rời Ai Cập đi xuống phía Nam, mang theo vợ và tài sản. Abraham rất giầu có về gia súc, vàng bạc."

(Then Abraham went up from Egypt, he and his wife and all that he had...to the South. Abraham was very rich in livestock, in silver, and in gold.)

Giầu có như vậy là phúc hay họa? Chúa Cha thì bảo là phúc vì đó là của Chúa ban cho. Chúa Con [Jesus] không chịu, dùng quyền phủ quyết, giáng phúc của Chúa Cha ban cho Abraham xuống thành họa. Thật vậy, trong Tân Ước, Luke 6: 24, Chúa Con phán: "Nhưng khốn cho những kẻ giầu có, vì đã nhận được sự an ủi rồi" (But woe to you who are rich, For you have received your consolation). Câu này có nghĩa là, những kẻ giầu có đừng có hòng bén mảng đến Thiên đường, Thiên đường chỉ để cho những người nghèo khổ. Vì vậy đạo Chúa phần lớn là dân nghèo. Nhưng chỉ có đám con chiên ở dưới là nghèo thôi. Còn từ vị chủ chăn đến các giới chăn chiên, chẳng có ai nghèo cả. Họ biết rõ, nếu họ tin lời Giê-su thì không bao giờ họ có thể bén mảng được đến thiên đường của nền thần học Ki Tô Giáo. Nhưng họ vẫn mang cái bánh vẽ trên trời đó để làm mồi nhử các con chiên. Giáo hội có nghèo không? Tài sản của Giáo hội mẹ lên đến hàng ngàn tỷ đô la, và các giáo hội con ở các nước nghèo khổ, kể cả Việt Nam, lại là những địa chủ bự nhất, tài sản đất đai phần lớn là do những chính quyền thực dân đô hộ cưỡng chiếm của Chùa chiền, của dân gian, và tặng cho giáo hội để cắm cây Thập Ác trên đó, và ngày nay cũng có màn “mục vụ xin tiền” ở hải ngoại..

Sau đó Thánh Abraham cùng bầu đoàn thê tử đi xuống phía Nam, vùng Gerar, địa phương của Vua Abimelech. Chiến thuật mang vợ là Sarah đổi lấy của cải trước đây đã thành công rực rỡ đối với Vua Ai Cập Pharaoh, nay Thánh Abraham, chưa thỏa mãn về tài sản của mình, nên lại mang ra dùng lại đối với Vua Abimelech. Câu chuyện lập lại y hệt như trong trường hợp đến Ai Cập. Ông lại bảo Sarah nói dối là em, và kết quả là Sarah lại được Vua Abimelech vời vào cung. Vào cung để làm gì? Các bạn đều biết, và tôi cũng biết. Chỉ có điều, Vua Abimelech hơi khùng, vì khi đó nàng Sarah trẻ đẹp mới có trên 70 tuổi. Có thể trước khi tới vùng Gerar, Abraham đã đưa bà vợ Sarah đến "thăm xã giao" thẩm mỹ viện Bích Ngọc. Thánh Abraham, thánh tổ phụ của các đạo Chúa, mà nhân cách và đạo đức như vậy, thì chúng ta không lấy gì làm lạ khi thấy các đạo Chúa đều có những đặc tính của ông thánh tổ phụ. Của cải, đất đai, vật chất v..v.. vốn là những gì mà các đạo Chúa nhắm tới, nhất là Ca-tô Rô-maGiáo, qua thủ đoạn buôn thần bán thánh, lợi dụng lòng mê tín của quần chúng thấp kém, mê hoặc họ bằng một cái bánh vẽ “cứu rỗi” của người Do Thái tầm thường mà họ đôn lên làm Chúa. Các vụ “đòi đất” phi lý ở Việt Nam chứng tỏ điều trên hơn gì hết. Cầu nguyện Chúa hay Mẹ Chúa là một hình thức “xin-cho”, một hình thức mà các linh mục Việt Nam đang ra sức đả phá đối với chính quyền Việt Nam. Nhưng “xin-cho” với chính quyền thì may ra còn được chút ít chứ “xin-cho” với Chúa hay Mẹ Chúa thì họa chăng đến Tết Congo mới được. Nếu cầu nguyện “xin-cho” với Chúa hay Mẹ Chúa mà được thì ngày nay cả thế giới đã là Ca-tô Rô-maGiáo rồi.

b) Thứ đến là chuyện Thánh Lot, cháu của Thánh Abraham và là người đạo đức, công chính duy nhất trong thành Sodom, chỉ vì tuyệt đối tin vào Thiên Chúa. Nhưng đạo đức của Thánh Lot là như thế nào? Muốn biết chúng ta hãy đọc một đoạn vui vui trong bài “Thiên Chúa Giết Người” [The God Murders] của Gary DeVaney nói về 4 Phiên Tòa Xử Án Thiên Chúa của Ca-tô Rô-maGiáo, trong đó Công Tố Viên đưa ra hơn 170 trường hợp trong Thánh Kinh để lên án Thiên Chúa đã giết người bừa bãi. Trong phiên tòa thứ nhất có đoạn sau về chuyện Thánh Lot:

[Gen. 19: 1-26: Thiên Chúa phá hủy toàn bộ hai thành Sodom và Gomorrah. Ông ta giết tấ cả mọi người trong đó kể cả các trẻ con vô tội. Vợ của Lot quay lại nhìn cảnh tàn sát đó. Ông ta giết luôn bà ta bằng cách biến bà ta thành một cột muối].

Công Tố Viên: Tôi buộc tội Thiên Chúa về tội giết mọi người dân ở Sodom và Gomorrah trừ Lot và 2 người con gái.

Luật sư của bị cáo (Thiên Chúa): Phản đối! 2 con gái của Lot không liên quan gì đến chuyện này.

Quan Tòa: 2 con gái của Lot thì có dính dáng gì đến chuyện Thiên Chúa giết bất cứ người nào?

Công Tố viên: Thưa quan tòa. Lot, người được Thiên Chúa chọn vì là người đạo đức, công chính, đã làm cho hai con gái của mình có mang.

Luật sư: Phản đối! Chúng ta không muốn cho hội thẩm đoàn [jury] nghe chuyện này.

Quan tòa: Tòa cũng vậy. Chấp thuận. Hội thẩm đoàn sẽ bỏ đi chuyện 2 con gái của Lot.

[Genesis 19:1-26, God destroyed the cities of Sodom and Gomorrah. He murdered all the people, including all the innocent children. Lot’s wife turned to look at the carnage. God murdered her by turning her into a pillar of salt.

Prosecutor: I charge God with the murders of all the people of Sodom and Gomorrah except for Lot and his 2 daughters.

Defense: Objection! Lot's 2 daughters are irrelevant!

The Judge asked: What relevancy does Lot's 2 daughters have to with God's murdering anybody?

Prosecutor: Your honor, Lot, God’s chosen by virtue, went on to impregnate his2 daughters.

Defense: Objection! We don't want the jury to know that.

Judge: Neither do I. Sustained. The jury will disregard Lot's 2 daughters. ]

Đây là một trong nhiều chuyện tương tự rất hay và hấp dẫn trong Thánh Kinh, nhưng có vẻ như không bao giờ được giảng trong các nhà thờ bởi các “Chúa thứ hai”.

c) Ông Thánh nổi tiếng thứ ba trong Cựu Ước là thánh David, nổi tiếng vì Hồng Y Nguyễn Văn Thuận cũng như Đức Ông Trần Văn Khả đều khoe rằng Chúa Giê-su của các ông ấy thuộc dòng dõi của một "ông vua rất nổi danh đã sinh ra đấng Messiah", và các bề trên đã viết Kinh Nhựt Khóa để cho các con chiên Việt Nam hàng ngày cầu nguyện “xin-cho”: "Xin Chúa làm cho tôi khinh dễ sự đời là chốn muông chim cầm thú, xin làm cho tôi đặng về quê thật hiệp làm một cùng vua David." (Charlie Nguyễn trích dẫn từ Kinh Nhựt Khóa của Công Giáo).

Thế nhưng, Vua David là ai? Chuyện vua David ở trong Thánh Kinh, Cựu Ước, 1 Samuel và 2 Samuel. Nhưng chắc chắn là người Ca-tô Việt Nam, từ các linh mục trở xuống, đều chưa từng đọc Thánh Kinh, bởi vì nếu đã đọc về Vua David thì không bao giờ có thể viết lên câu "Xin Chúa làm cho tôi khinh dễ sự đời là chốn muông chim cầm thú, xin làm cho tôi đặng về quê thật hiệp làm một cùng vua David." trong Kinh Nhựt Khóa để cho các con chiên cầu nguyện hàng ngày, vì câu này sỉ nhục thậm tệ các con chiên mà họ không hề biết, "Bề trên" dạy cầu nguyện như vậy thì họ cứ nhắm mắt mà cầu nguyện chứ đâu có biết là mình cầu nguyện cái gì. Tại sao lại là sỉ nhục? Tại vì như vậy là bắt họ hiệp làm một với thánh David mà thực chất chỉ là một tên tướng cướp, cầm đầu một đám lâu la 600 người [2 Samuel: 23] sau lên làm Vua thì là một bạo chúa, hoang dâm vô độ, vô đạo đức, cướp vợ thuộc hạ và cuồng sát.Thật là tội nghiệp cho những người chăn chiên cũng như những con chiên. Chứng minh? Đọc giả có thể đọc để biết chi tiết về thánh David trong http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=1048 [bài “Thánh David Là Ai? ”]. Ở đây tôi chỉ xin trích dẫn một đoạn của Charlie Nguyễn, một trí thức Ca-tô đạo gốc. Về người Công giáo Việt Nam tôn sùng những nhân vật vô đạo đức trong Thánh Kinh, ông viết như sau trong cuốn “Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm”, Phần II: “Sách Kinh Công Giáo Và Tác Hại Của Nó”, Mục 5: “Những Tác Hại Nguy Hiểm Của Các Sách Kinh Nguyện Công Giáo”, trang 267-269:

“Công giáo Việt Nam coi rẻ công ơn cha mẹ tổ tiên và các anh hùng dân tộc, ngược lại họ hết sức tôn sùng những kẻ loạn luân mất dạy.Điều này cho ta thấy Công Giáo là đạo mất dạy Số Một.

Trong nhiều thế kỷ qua, các giáo hoàng La Mã luôn luôn qui kết việc thờ cúng tổ tiên là thờ cùng ma quỉ nên người Công Giáo Việt Nam không lập bàn thờ gia tiên ở trong nhà. Đối với các vị anh hùng dân tộc thì người Công Giáo hoàn toàn dửng dưng. Ngược lại, người Công Giáo Việt Nam rất tôn sùng những kẻ loạn luân và vô đạo đức như Abraham và David... Abraham lấy em gái ruột làm vợ và toan giết con ruột mình để tế thần. David là một tên vua dâm dật vô độ. Y có cả ngàn cung nữ trong các nhà chứa gọi là ‘harem" mà vẫn chưa đủ thỏa mãn dục vọng. Vì quá say mê vẻ đẹp của bà Bathseba trong dịp David nhìn trộm bà Bathseba tắm truồng trên sân thượng nên y đã tìm cách sát hại chồng của bà là một vị tướng dưới quyền để cướp vợ của ông ta. Kinh Thánh Tân Ước không coi chuyện này là một điều xấu xa tội lỗi mà còn hãnh diện xác nhận cuộc tình tội lỗi này đã sinh ra các tổ tiên của Jesus. Tất cả để chứng tỏ Jesus là hậu duệ đời thứ 28 của tên dâm tặc David! Chuyện tình tội lỗi bẩn thỉu này chẳng có gì đáng hãnh diện cho David và Jesus. Vậy mà các sách kinh nguyện Công Giáo Việt Nam hết lời ca ngợi David là Vua Thánh: "Xin Chúa làm cho tôi khinh dễ sự đời là chốn muông chim cầm thú, xin làm cho tôi đặng về quê thật đặng hiệp làm một cùng vua thánh David" (Kinh Nhựt Khóa 330).

Trong kinh cầu Đức Bà có câu: "Đức Bà là lầu đài David". Mọi người Công Giáo Việt Nam muốn hiểu”lầu đài David" là cái gì thì hãy chịu khó đem sách kinh Cựu Ước ra đọc (Các Vua-Sách thứ nhất) tất nhiên sẽ thấy đó là các harem chứa gái cho tên hôn quân David hành lạc!

Đại khái chuyện Thánh David là như vậy.Vậy mà Hồng Y Nguyễn Văn Thuận cũng như Đức Ông Trần Văn Khả đều khoe rằng Chúa Giê-su của các ông ấy thuộc dòng dõi của một "ông vua rất nổi danh đã sinh ra đấng Messiah", một nhân vật màtín đồ Ca-tô Việt Nam thường ngày tụng Kinh Nhật Khóa cầu mong mau "được về quê thật hiệp với Vua David."

Tôi không hiểu [thật ra là rất dễ hiểu] tại sao những người như Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, Đức Ông Trần Văn Khả, lại có thể viết những câu ca tụng Thánh David như trên, chẳng có lẽ họ chưa từng đọc 1 Samuel và 2 Samuel trong Cựu Ước.. Chẳng có lẽ [thật ra là như vậy] trong chương trình đào tạo Linh mục chỉ có những tiết mục nhồi sọ? Tôi cũng không hiểu [thật ra là rất dễ hiểu] tại sao trong Kinh Nhật Khóa của Ca-tô Rô-maGiáo ở Việt Nam lại có những câu ca tụng Thánh David cũng như cầu mong được về quê thật hiệp cùng vua David?Những người viết ra Kinh Nhựt Khóa bản chất chỉ là những con vẹt, có thể không bao giờ đọc Thánh Kinh, hay đầu óc đã bị điều kiện hóa nên chỉ có thể nhắc lại những điều đã được nhồi vào đầu từ khi còn nhỏ hoặc trong các lớp học làm nghề linh mục.Ngoài ra, phần chắc là các tín đồ Ca-tô Việt Nam chỉ đọc những bản kinh mà các bậc "lãnh đạo tinh thần" của họ đã viết ra với mục đích duy nhất là giam họ vào trong vòng mê tín, chứ chính họ thì không bao giờ đọc đến Thánh Kinh, nên chẳng bao giờ biết đến sự thật.Tôi tin chắc rằng họ không hề biết David là ai. Nhưng không phải tất cả các con chiên đều đáng tội nghiệp, vì trong Ca-tô Rô-maGiáo Việt Nam đã có những con chiên can đảm lột xác con chiên để lên làm người đúng nghĩa là một con người.Điển hình là Charlie Nguyễn, một trí thức Công giáo đạo gốc.

Chỉ đáng tiếc, những trí thức Ca-tô Việt Nam tỉnh ngộ và can đảm như Charlie Nguyễn không có nhiều.Chúng ta cũng thấy có lác đác những ý kiến tiến bộ trong nội bộ Công Giáo, nhưng rất hiếm người dám thẳng thắn vạch ra những sai trái của Thánh Kinh, củaGiáo hội Ca-tô hoàn vũ, và của Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Việt Nam như Charlie Nguyễn, Phạm Hữu Tạo ở Đông Dương Thời Báo, và Linh Mục Trần Tam Tỉnh và Nguyễn Thanh Sơn.

Bây giờ chúng ta bước sang Tân Ước. Trong Tân Ước, thánh nổi tiếng nhất chính là Chúa Giê-su mà tín đồ ngu đạo Phan Thiết ca tụng là Chí Thánh, Cực Thánh, Rất Thánh…. Nhưng các học giả nghiên cứu Tân Ước lại không cho là như vậy. Chúng ta hãy đọc vài nhận định sau đây:

Giám mục John Shelby Spong, sau khi nghiên cứu Tân ước, đã đưa ra một nhận định về Giê-su như sau:

Có những đoạn trong bốn Phúc Âm mô tả Giê-su ở Nazareth như là một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả.

(John Shelby Spong, Rescuing The Bible From Fundamentalism, p. 21: There are passages in the Gospels that portray Jesus of Nazareth as narrow-minded, vindictive, and even hypocritical).

Và Jim Walker cũng viết trên Internet trong bài http://www.nobeliefs.com/jesus.htm: Chúng Ta Có Nên Kính Ngưỡng Giê-su Không? (Should We Admire Jesus?):

Nhiều tín đồ Ki-Tô-giáo không hề biết đến là nhiều đoạn trong các Phúc Âm trong Tân Ước, Giê-su được mô tả như là một con người đầy hận thù, xấu xa, bất khoan dung, và đạo đức giả.

[Unbeknownst to many Christians, many times the Gospels of the New Testament portray Jesus as vengeful, demeaning, intolerant, and hypocritical.]

Trong Tân ước có rất nhiều chuyện chứng tỏ Giê-su còn phàm hơn cả người phàm, nhưng ở đây tôi chỉ muốn chứng minh qua một chuyện.

Câu chuyện sau đây trong Thánh Kinh sẽ chứng tỏ rằng sự ước mơ của những tín đồ Việt Nam theo Ki Tô Giáo để được Giê-su cứu rỗi đích thực là một ảo vọng. Chúng ta hãy đọc và đọc kỹ đoạn sau đây trong Tân Ước, Matthew 15: 21-28:

"Thế rồi Giê-Su đi tới vùng Tyre và Sidon. Và có một người đàn bà người Canaan đến từ vùng đó và kêu với Giê-Su "Hãy thương tôi, Chúa ơi, Con của David. Con gái tôi đang bị quỷ ám nặng." Nhưng Người không thèm trả lời bà ta một tiếng. Và các đệ tử của Giê-Su tới và yêu cầu Giê-Su: "Hãy đưổi bà ta đi, vì bà ta cứ kêu cứu cùng chúng ta." Nhưng Giê-Su trả lời: "Ta được phái xuống đây chỉ để cứu dân Do Thái mà thôi." Rồi người đàn bà kia tới và thờ phượng Giê-Su và nói: "Chúa ơi, hãy giúp tôi." Nhưng Người trả lời: "Lấy bánh của con dân Do Thái mà ném cho mấy con chó nhỏ ăn thì thật là chẳng tốt tí nào." Và người đàn bà kia nói: "Đúng vậy, Chúa ơi, nhưng dù là những con chó nhỏ thì chúng cũng được ăn những mảnh bánh vụn rơi vãi từ trên bàn của chủ chúng xuống chứ." Rồi Giê-Su trả lời: "Ô, Bà Già! Lòng tin của bà thật là lớn lao! Thôi tôi cũng chiều theo ý bà." Và con gái bà ta hết bị quỷ ám ngay từ gìờ phút đó."

(When Jesus went out from there and departed to the region of Tyre and Sidon. And behold, a woman of Canaan came from that region and cried out to Him, saying, "Have mercy on me, O Lord, Son of David! My daughter is severely demon-possessed." But He answered not a word. And His disciples came and urged Him, saying, "Send her away, for she cries out after us.". But He answered and said, "I was not sent except to the lost sheep of the House of Israel." Then she came and worshipped Him saying, "Lord, Help me!" But He answered and said, " It is not good to take the children's bread and throw it to the little dogs." And she said, "True, Lord, yet even the little dogs eat the crumbs which fall from their masters' table." Then Jesus answered and said to her, "O woman, great is your faith! Let it be to you as you desire." And her daughter was healed from that very hour.)

Về câu chuyện “chí thánh, cực thánh, rất thánh..” của thánh Giê-su ở trên, Frederick Heese Eaton đã bình luận như sau trong cuốn Scandalous Saints, trang 214:

Giê-Su thường nhắc nhở đệ tử là phải thương yêu nhau, và thương yêu ngay cả kẻ thù (John 13:35; Matthew 5:44) Nhưng khi một người đàn bà không phải là người Do Thái tới nhờ Giê-Su chữa lành bệnh cho con gái, thì Giê-Su lại bảo bà ta rằng, "Không thể lấy bánh của con dân Do Thái vứt cho chó ăn." (Matthew 15:26) Nói cách khác, ông nói, "Người phi Do Thái là đồ chó. Tại sao ta lại phải làm bất cứ gì cho ngươi?" Anh cảm thấy thế nào khi Jesus gọi anh là chó? Gọi người phi Do-Thái là đồ chó không phải là sự biểu thị của lòng thương yêu. Giê-Su thật là hỗn hào, kiêu căng và tự phụ khi gọi người đàn bà kia là chó. Vậy trong vấn đề thực hành, Thánh Giê-Su chẳng có chút gì là Thánh cả. Những sự kiện cho thấy Giê-Su thực sự ghét những người không phải là dân Do-Thái.

Thánh Phao-Lồ (Paul) viết rằng, theo lời mặc khải của Thiên Chúa, "Giê-Su luôn luôn như vậy, ngày hôm qua, ngày hôm nay và cho tới mãi mãi, không bao giờ thay đổi." (Hebrew 13:8) Vậy nếu anh dự định lên Thiên Đường ở cùng Giê-su đầy tình thương, và anh không phải là người Do Thái, anh nên nghĩ lại đi thì vừa

(Frederick Heese Eaton, Scandalous Saints, p. 214: Jesus repeatedly admonished his disciples to love one another, and even to love their enemies. (John 13:35; Matthew 5:44) Yet when a non-Jewish woman begged him to heal her daughter, Jesus told her, "It is not fit to take the children (of Israel's) bread and to cast it to dogs." (Matthew 15:26) In other words he said, "You non-Jews are dogs. Why should I do anything for you?" How would you like to have Jesus call you a dog? Calling people dog who were not Jews is hardly an expression of love. Jesus was insolent, arrogant and conceited in calling this woman a dog. So in actual practice, Jesus the Saint was not so saintly after all. The facts show that Jesus actually hated those who were not Jews.

Saint Paul writes, allegedly under inspiration of God, "Jesus Christ the same yesterday, and today, and for ever." (Hebrew 13:8) So if you were planning to go to heaven to be with the loving Jesus, and you are not a Jew, you had better think it over again.)

Về chuyện Giê-su gọi người phi-Do Thái là chó ở trên, Tiến Sĩ Madalyn O’Hair cũng bình luận như sau:

Trừ khi anh là người Do Thái, chẳng ai muốn anh trong tôn giáo này [Đạo Giê-su]. Đối với người nào thực sự “thực tâm cảm thấy Giê-Su là đấng cứu rỗi của họ” tôi xin giới thiệu một bác sĩ phân-tâm học [chuyên trị bệnh tâm thần].

(Unless you are a Jew, you are not wanted in this religion. For someone who really “truly feels in his heart that Jesus is his Savior” I would recommend a psychiatrist.)

۞

Sau đây là thêm vài lời “thánh phán” trong Thánh Kinh về phụ nữ, người phụ nữ Việt Nam theo đạo nên tuân theo những lời này, không phải đối với chồng mà đối với các “bề trên”..

Thánh Cha (Jehovah trong Leviticus 12: 1-5: “Một người đàn bà thì không được sạch sẽ 40 ngày sau khi sinh con trai, 80 ngày sau khi sanh con gái.” (A woman is unclean 40 days after the birth of a son, 80 days after the birth of a daughter.)

Thánh Paul, 1 Corinthians 7:1 : “Thật tốt cho đàn ông là đừng có dính dáng gì tới một người đàn bà.” (It is a good thing for a man to have nothing to do with a woman.)

Thánh Paul, 1 Corinthians 11:3: “Nhưng tôi muốn các người hiểu rằng đấng Ki Tô là chủ nhân của mọi đàn ông, chủ nhân của mọi đàn bà là chồng họ, và chủ nhân của đấng Ki Tô là Thượng đế.” (But I want you to understand that the head of every man is Christ, the head of every woman is her husband, and the head of Christ is God.)

Thánh Paul, 1 Tim. 2:11-12: “Hãy để cho người đàn bà học sự phục tùng trong im lặng. Tôi không cho phép người đàn bà nào được giảng dạy hay được quyền hơn người đàn ông; họ phải giữ im lặng” (Let a woman learn in silence with all submissiveness. I permit no woman to teach or to have authority over men; she is to keep silent.)

Trên đây chỉ là vài thánh điển hình trong Thánh Kinh. Ông Giu-se ngậm đắng nuốt cay, mang cặp sừng trên đầu, đóng vai bố hờ của Giê-su cũng được gọi là thánh. Mấy người viết 4 Phúc Âm, Mark, Matthew, Luke, John, không phải là tông đồ của Giê-su, nguồn gốc bất minh, viết ngu như bò và đầy mâu thuẫn, cũng được gọi là thánh. Sau đây chúng ta hãy sang phần các thánh thời đại trong Ca-tô Rô-maGiáo. Tôi chỉ trích dẫn những lời “thánh phán” chứ không bình luận.

Thánh Clement ở Alexandria (150-215): “Mọi phụ nữ đều nên cảm thấy mình nhục nhã vì nghĩ đến điều mình đã sinh ra là đàn bà” (Every woman should be filled with shame by the thought that she is a woman. [HE, 114]

Thánh Jerome (342-420): “Về phần tôi, tôi nói rằng những người con gái đã trưởng thành không được tắm, vì họ sẽ cảm thấy xấu hổ nhìn thấy mình trần truồng.” (But for my part I say that mature girls must not bathe at all, because they ought to blush to see themselves naked.” [JD, 175]; “Đàn bà là cửa ngõ của quỷ, của đường ác, cái chích của con bọ cạp, nói tóm lại, là một vật nguy hiểm.” (Woman is the gate of the Devil, the way of evil, the sting of the scorpion, in a word, a dangerous thing.) [EB, 47]

Thánh John Chrysostom (347-407): "Trong những thú dữ, không có con nào gây hại như một người đàn bà" (Among savage beasts none is found so harmful as a woman). Trách cứ những người đàn ông đi chơi gái điếm, Thánh John Chrysostom còn phán: “Các người không chỉ để một gái điếm như là một gái điếm, mà các người còn làm cho nó thành một sát nhân Đàn bà, được tạo nên để sinh sản, vì các ngươi mà trở thành công cụ của sát nhân.” [vì gái điếm dùng các phương pháp ngừa thai](You not only let a harlot be a harlot, you made her into a murderess….Woman, made for reproduction, becomes, because of you, a tool of murderer.)

Thánh Augustine (354-430) (cha đẻ của nền Thần học Ca Tô và được Ca-tô Rô-maGiáo tôn sùng, coi như là có trí tuệ "siêu việt", tác giả cuốn Đô Thị Thiên Chúa (City of God)):

a) "Nếu những đứa trẻ sơ sinh vô tội, không phải vì chúng thiếu ý chí làm hại mà chỉ vì chúng không đủ sức thôi."

(If babies are innocent, it is not for lack of will to do harm but for lack of strength.)

b) "Những kẻ thù như vậy (những người theo phái Tự Ngộ) , ta thật ghét chúng thậm tệ: Ôi, hãy giết chúng đi bằng gươm của ngươi."

(The enemies thereof, I hate vehemently: O that thou wouldest slay them with thy two-edged sword.)

c) "Không thể nào có chuyện có người ở phía bên kia của trái đất (không tin là trái đất có hình cầu), vì Thánh Kinh không ghi lại bất cứ giống người nào như vậy trong các hậu duệ của Adam."

(It is impossible there should be inhabitants on the opposite side of the earth, since no such race is recorded bt Scripture among the descendants of Adam.)

d) "Nếu dẹp bỏ hết gái điếm đi, thế giới sẽ bị rối loạn bởi sự ham muốn"

(Do away with harlots, and the world will be convulsed with lust.)

e) "Người đàn bà, khi xét cùng với chồng, là hình ảnh của Thượng đế.., nhưng khi xét riêng là đàn bà...thì không phải là hình ảnh của Thượng đế, nhưng đối với người đàn ông xét riêng, thì đó là hình ảnh của Thượng đế."

(The woman, together with her own husband, is the image of God..., but when she is referred to separately..the woman alone, then she is not the image of God, but as regards the man alone, he is the image of God.)

f) “Tôi không thấy người đàn bà đã được tạo ra để giúp cho đàn ông như thế nào, ngoài mục đích sinh sản. Nếu người đàn bà không giúp đàn ông để sinh con, thì họ có thể giúp được gì?“

(I don’t see what sort of help woman was created to provide man with, if one excludes the purpose of procreation. If woman is not given to man for help in bearing children, for what help could she be?)

Thánh Fulgentius (467-533):

"Những bào thai chết trong lòng mẹ, hoặc những trẻ mới sinh ra đã chết mà chưa chịu phép bí tích rửa tội ...phải chịu hình phạt đau đớn trong ngọn lửa không bao giờ tắt."

(Little children who have began to live in their mother's womb and have there died, or who, having just been born, have passed away from the world without the sacrament of holy baptism...must be punished by the eternal tortures of undying fire.)

Thánh Bernard (1090-1153):

"Những lính chiến Ki Tô "phải tiến hành cuộc chiến tranh của Chúa Ki Tô mà không sợ phạm tội giết kẻ thù hay sợ bị kẻ thù giết, vì khi họ giết hay bị giết, họ không phạm tội ác nào, vì tất cả là để cho sự vinh quang của họ. Nếu họ giết, đó là cho sự lợi lộc của Chúa; nếu họ chết, đó là cho sự lợi lộc của chính họ."

(Christian soldiers "are to wage the war of Christ their master without fearing that they sin in killing their enemies or of being lost if they are themselves killed, since when they give or receive the death blow, they are guilty of no crime, but all is to their glory. If they kill, it is to the profit of Christ, if they die, it is to their own.")

Thánh Anthony (1195-1231): "Khi các ngươi thấy một người đàn bà, hãy coi như là các ngươi đối diện với, không phải là một con người mà chính là một con quỷ. Tiếng nói của người đàn bà là tiếng phun phì phì của con rắn." (When you see a woman, consider that you face not a human being, but the devil himself. The woman's voice is the hiss of the snake.)

Thánh Thomas Aquinas (1225-1274): “Thiên Chúa đã phạm phải một sai lầm khi sáng tạo ra người đàn bà: không nên tạo ra cái gì thiếu sót hoặc hư hỏng [như đàn bà] khi sáng tạo ra những vật đầu tiên; do đó đàn bà không nên được tạo ra khi đó.” (God had made a mistake in creating woman: nothing (deficient) or defective should have been produced in the first establishment of things; so woman ought not to have been produced then.)

Thánh Ignatius of Loyola (1491-1536) (Người sáng lập dòng Tên):

"Chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng tin rằng trắng thực sự là đen, nếu hàng giáo phẩm trong Giáo hội quyết định như vậy." [Và than ôi, bây giờ đại học Loyola đã cắm chân trên đất nước Việt Nam]

(We should always be disposed to believe that which appears white is really black, if the hierarchy of the Church so decides.)

Xin chúc mừng các tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo được vinh hạnh ở trong một “hội thánh” gồm các “thánh” thượng phụ rất nổi tiếng như trên. Xin đừng quên các thánh “Việt gian” như André Phú Yên.

2. Hãnh Diện Vì Được Làm Nô Lệ Cho “Đức Thánh Cha”.

Rất có thể các tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo Việt Nam cảm thấy hãnh diện vì được ở trong một tôn giáo mà người chủ chăn của họ là “đại diện của Chúa trên trần” [Vicar of Christ], người mà họ thường gọi là ‘Đức Thánh Cha” vì họ tin rằng giáo hoàng đương nhiên phải là bậc thánh thiện (holy), vì giáo hội dạy rằng, giáo hoàng được chọn là do kết quả hướng dẫn của thánh linh cho các hồng y, những người có quyền chọn lựa, quyết định ai là giáo hoàng. Vả chăng Giáo hội cũng bắt các tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo nói chung, Ca-tô Rô-maGiáo Việt Nam nói riêng, phải tin rằng giáo hoàng là “đại diện của Chúa” (Vicar of Christ) trên trần, nắm trong tay chìa khóa của thiên đường (mù), có quyền cho họ lên thiên đường hay tuyệt thông họ. Tất cả những niềm tin cổ lỗ sĩ này, thuộc mánh mưu của giới chăn chiên để ngự trị trên đám con chiên thấp kém ở dưới, đều do các “bề trên” của họ cấy vào đầu óc từ khi còn nhỏ.

Tại sao họ có thể tin vào những điều lừa dối rất trắng trợn này. Trách nhiệm chính là do các “bề trên” của họ, những người đã nhốt họ vào vòng ngu muội, mê tín qua một chính sách nhồi sọ tinh vi để dễ bề ngự trị trên họ. Lời cầu nguyện để về quê thật với vua David trong Kinh Nhựt Khóa là một thí dụ điển hình, và còn rất nhiều nữa. Có thể nói rằng, các tín đồ tin là vì trong đầu óc họ hầu như có một cái “gen” để tin vào bất cứ điều gì, và lẽ dĩ nhiên, vì chính sách của giáo hội, họ không bao giờ được dạy hay được quyền biết gì về lịch sử các giáo hoàng trong giáo hội của họ. Lịch sử các giáo hoàng Ca Tô đã viết rõ: có những giáo hoàng do vua chúa chỉ định, có những giáo hoàng giết nhau để lên làm giáo hoàng, có những giáo hoàng do những cô gái điếm dựng lên, có những giáo hoàng là trẻ vị thành niên mới có 12 tuổi, có những giáo hoàng là con hoang của một giáo hoàng, hay là con của giáo hoàng loạn luân mà sinh ra, có giáo hoàng loạn luân cả với mẹ và con v..v.. Bởi vậy cho nên Tiến sĩ Arthur Frederick Ide đã có bài đề tặng các tín đồ Ca-tô như sau trong cuốn “Unzipped: The Popes Bare All”

- Những tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo thường đi xưng tội với các linh mục,
- Những người cũng phạm tội như họ và tuân phục một Giáo Hoàng,
- Người tự cho là không thể sai lầm, là nhất hạng, là tối cao
- Có quyền giữ trong tay Chìa khóa mở cửa thiên đường.
- Nhưng lịch sử đã chứng tỏ
- Thực sự chỉ mở những cánh cửa vào nhục dục, trụy lạc, và bạo lực.
[Dedicated To All Roman Catholics
- Who confess their sins to priests -Who do as they do, And
- Who believe in a Pope
- Who claims to be infallible Primary, and supreme
- Having the power to the keys to the kingdom of heaven
- Which hictory shows actually open the doors of sex, vice, and violence]

By Dr. Arthur Frederick Ide

In “Unzipped: The Popes Bare All”

Nếu đọc giả muốn biết một số không nhỏ giáo hoàng đã thực đi vào nhục dục, trụy lạc, và bạo lực như thế nào, xin hãy đọc bài ĐÂY !! NHỮNG ‘ĐỨC THÁNH CHA’ ĐẠI DIỆN CỦA CHÚA KI-TÔ [http://www.sachhiem.net/TCNtg/TCN20.php]

3. Hãnh Diện Vì Ca-tô Rô-maGiáo Là Đạo Bác Ái.

Rất có thể người Ca-tô Rô-maGiáo hãnh diện vì được nhồi sọ là đạo của họ là đạo bác ái, giầu lòng từ thiện, có nhiều cơ sở từ thiện để giúp người nghèo, trẻ mồ côi, người cùi v..v… Họ không biết gì về thực chất từ thiện của Ca-tô Rô-maGiáo. Bác ái và từ thiện không phải là những đức tính riêng của Ca-tô Rô-maGiáo mà là những đức tính phổ quát trong dân gian, hơn nữa người trong dân gian làm việc từ thiện với tấm lòng thành thực thương người. Nhưng phần lớn những công việc từ thiện của Ca-tô Rô-maGiáo chỉ để quảng cáo và kiếm lời. Chúng ta có nhiều trường hợp và tài liệu để chứng minh điều này.

Bộ mặt từ thiện và công việc từ thiện mà gần đây Ca-tô Rô-maGiáo quảng cáo và thổi phồng nhiều nhất là bộ mặt của bà Teresa với những công việc “từ thiện” của bà ta ở Calcutta, Ấn Độ.

Một trong những sách lược tuyên truyền, quảng cáo của Giáo hội là thổi phồng việc làm của vài cá nhân trong Giáo hội, đánh bóng hình ảnh của họ và đưa đến tâm cảnh tôn sùng cá nhân giữa đám tín đồ. Gần đây, điều mà giáo hội CaTô quảng cáo nhiều nhất và ồn ào nhất là những công tác từ thiện của Giáo hội. Bất cứ có một cơ hội nào là Giáo hội và các con chiên ngoan đạo Việt Nam lại mang Mẹ Teresa, người mà Giáo hội tôn là Thánh Mẹ (Holy Mother), ra làm bình phong từ thiện, lạc dẫn dư luận, làm như Mẹ là con người rất mực thánh thiện, và tất cả tín đồ CaTô đều như Mẹ Teresa cả.

Nghiên cứu tường tận về các công việc từ thiện của Giáo hội từ xưa tới nay, chúng ta rất ít thấy ở đâu là thuần túy từ thiện, mà mục đích chính của các công việc từ thiện là dùng vật chất để truyền đạo, và chúng ta phải công nhận đây là nguyên nhân chính về sự thành công của GiaTô giáo trong những thế kỷ qua. Mở đầu là Đại Đế Constantine, người đã dùng mọi cách và đã bỏ của cải ra mua toàn thể các tỉnh, các thị trấn để cho dân chúng đi theo đạo mới (Malachi Martin: "The Rise and Fall of The Roman Church", trg. 36: "True, Contanstine had used every one of these means to propagate Christianity. He even bought up whole towns and cities to ensure they accepted the new belief.") Và từ đó cho đến ngày nay, của cải vật chất với nhãn hiệu từ thiện đã là vũ khí hữu hiệu nhất của CaTô Rô-maGiáo để thu nhặt tín đồ. Kinh nghiệm Việt Nam cho thấy từ thời các giáo sĩ thừa sai đầu tiên xâm nhập Việt Nam cho tới thời Ngô Đình Diệm ở miền Nam, bả vật chất đã là một phương tiện hữu hiệu để truyền đạo và thu nhặt tín đồ của CaTô Rô-maGiáo. Dưới thời Ngô Đình Diệm, các Cha Việt Nam được toàn quyền xử dụng viện trợ từ thiện của Mỹ và dùng nó như một vũ khí để ép người vào đạo, khoan kể đến chuyện bắn pháo binh vào những làng không theo đạo để ép buộc dân trong làng theo đạo để đổi lấy sự an toàn của làng xóm. Người Việt Nam đâu đã có ai quên cái câu bất hủ được truyền tụng trong dân gian: "Theo đạo có gạo mà ăn." Cảnh này cũng lại tiếp diễn trong các trại tị nạn mà các Cha được sự viện trợ của các cơ quan từ thiện KiTô giáo, họ giữ chặt của viện trợ cho giáo dân và chỉ cho người ngoài khi bằng lòng theo đạo.

Tôi không nói là các việc từ thiện của CaTô Rô-maGiáo không có ích lợi gì, chúng góp phần rất nhiều để làm vơi bớt sự khó khăn mà con người gặp phải. Nhưng cái động cơ đằng sau những công việc từ thiện này và phương cách xử dụng thì chẳng thiện chút nào.

Trở lại trường hợp của Mẹ Teresa. Gần đây chúng ta thấy ở Ấn Độ có phong trào bài Ki Tô Giáo mạnh mẽ. Lý do là cả Tin Lành lẫn CaTô Rô-maGiáo đều vẫn tiếp tục lợi dụng sự nghèo khổ của đám dân thấp kém trong xã hội, tiếp tục dùng những thủ đoạn phi tôn giáo như bài bác Ấn Độ giáo, dùng bả vật chất để truyền đạo, và nhất là xử dụng vũ khí hữu hiệu nhất của CaTô Rô-maGiáo: bình phong “từ thiện” đi kèm với phương tiện truyền thông để tô hồng quảng cáo cho CaTô Rô-maGiáo trong khi thực chất của việc từ thiện là để thu nhặt tín đồ và khai thác lòng nhân từ của quần chúng để vơ vét tiền bạc cho Vatican. Trường hợp điển hình là việc thành lập dòng “Thừa sai bác ái” của bà Teresa mà cái tên của nó đã nói lên thực chất sử dụng “bác ái” làm một vũ khí truyền đạo. Giáo hội và con chiên đã không ngớt lời thổi phồng , ca tụng dòng “Thừa sai bác ái” của Mẹ Teresa.

Qua phương tiện truyền thông với những hình ảnh làm mủi lòng quần chúng, bà Teresa đã được thổi phồng lên như một thánh nhân, thực hiện chủ trương bác ái của giáo hội. Kết quả là tiền vào như nước nhưng chỉ có một phần nhỏ được chi dùng cho các hoạt động mang danh “từ thiện”. Những người đóng góp tin tưởng rằng tiền của mình đóng góp sẽ được dùng trong những công tác từ thiện vị tha của giáo hội. Nhưng sự thật đằng sau tổ chức “Thừa sai bác ái” để làm công việc “từ thiện” này ra sao, và thực chất con người của bà Teresa ra sao, ngày nay chúng ta đã biết rõ. Trong thế giới ngày nay, khó ai có thể che dấu được những việc mờ ám, nhất là khi người đó là một nhân vật nổi tiếng như bà Teresa. Muốn cho người khác không biết thì đừng có làm. Bà Teresa không ý thức được chân lý này nên kết quả là người ta đã phanh phui ra những chuyện động trời sau bức màn “Thừa sai bác ái” (sic) của bà Teresa. Một vài tài liệu nghiên cứu sau đây, trong số rất nhiều tài liệu đã được phanh phui, sẽ cho chúng ta thấy rõ vấn đề:

Tờ Newsweek, số ngày 13 tháng 11, 1995, David Gates có điểm cuốn sách Lập Trường Thừa Sai: Mẹ Teresa Trong Lý Thuyết Và Thực Hành (The Missionary Position: Mother Teresa in Theory and in Practice) của Christopher Hitchens viết về bà Teresa. Theo Hitchens thì "Mẹ Teresa là một kẻ "mị dân" chống phá thai và là kẻ "phục vụ cho những quyền lực thế gian.", thân thiện với hạng người không tin cậy được như tên lừa đảo Charles Keating ở Ngân Hàng Tiết Kiệm và Tín Dụng, mà nhân danh hắn Mẹ đã viết cho ông Tòa Lance Ito trong vụ xử hắn năm 1992. Trong một bức thư trả lời với đầy đủ lý lẽ , ông Phó Biện Lý của Tòa giải thích cho Mẹ Teresa biết bằng cách nào mà Keating đã ăn cắp món tiền mà hắn đã biếu cho Mẹ, và đề nghị Mẹ hoàn trả lại số tiền đó cho các "sở hữu chủ với đầy đủ pháp lý"; Mẹ đã không hề hồi âm.

Hitchens cũng ghi chú rằng Mẹ đã vào "điều trị ở một vài bệnh viện tốt nhất và đắt tiền nhất ở Tây phương." [với tiền của thiên hạ đóng góp để cho những dịch vụ từ thiện] Hitchens lý luận rằng "Mẹ làm công việc từ thiện không phải vì chính sự từ thiện mà chỉ để mong một ngày nào đó được kể như một vị Thánh thành lập một dòng tu mới trong giáo hội."

(Hitchens' Mother Teresa is an anti abortion "demagogue" and a "servant of earthly powers," cozying up to such a slime as S & L (Savings & Loans) swindler Charles Keating, on whose behalf she wrote to Judge Lance Ito during his 1992 trial. In a well-reasoned reply, a deputy D.A. explained to her how Keating stole the money he'd donated and suggested she return it to "its rightful owners"; she never answered.

...Hitchens notes, she herself has "checked into some of the finest and costliest clinics and hospitals in the West." She does charitable work, he argues, "not for its own sake but...so that she may one day be counted as the beatific founder of a new order and discipline within the Church itself.")

Ngoài ra, một học giả chuyên gia viết tiểu sử, Anne Sebba, đã sang tận Calcutta và nhiều nơi khác để quan sát những "cơ sở từ thiện" của bà Teresa và tìm hiểu sự thực về những "công cuộc từ thiện" của bà Teresa. Kết quả nghiên cứu trong nhiều năm được viết thành cuốn Mẹ Teresa: Ngoài Cái Hình Ảnh Được Tạo Nên (Mother Teresa: Beyond The Image), Doubleday, New york, 1997, trong đó tác giả đã dùng hơn nửa cuốn sách dày gần 300 trang để viết về một số những sự thực về cái gọi là "công cuộc từ thiện" của bà Teresa mà chính tác giả đã đích thân đến tận nơi quan sát, tìm hiểu cùng qua nhiều cuộc phỏng vấn những nhân vật có thẩm quyền như bác sĩ, nữ tu, những người đứng đầu các cơ quan từ thiện, những nhân viên thiện nguyện và cả những cựu nữ tu trong dòng "Thừa Sai Bác Ái" (Missionaries of Charity) của bà Teresa (I am full of questions and have put as many as I can to people qualified to answer them including doctors, nuns, heads of charities, volunteers and former Missionaries of Charity).

Sau đây là vài điểm chính mà tác giả, Anne Sebba, đã khám phá ra:

* Công việc từ thiện của bà Teresa không bắt nguồn từ chính lòng từ thiện mà động cơ thúc đẩy chính là để làm sáng danh Chúa và để truyền đạo. Ngay cái tên của dòng "Thừa Sai Bác Ái" cũng đã nói lên rõ ràng mục đích truyền đạo của các thừa sai trong những thế kỷ qua. Bà Teresa biết rõ về lịch sử truyền đạo ở Ấn Độ và toan tính CaTô hóa quốc gia này trong 400 năm qua. Bà Teresa đã khẳng định rằng công việc bà làm là để phục vụ Chúa, không phải phục vụ con người, phục vụ Chúa bằng cách kiếm thêm nhiều tín đồ cho Chúa mà những sự đau khổ, bất hạnh của con người là những cơ hội để bà làm "việc thiện", chứng tỏ "lòng nhân từ" của Bà. Bà không phải là cứu tinh của nhân loại, những việc bà làm chỉ có tính cách tượng trưng bề ngoài.

* "đạo đức giả, ve vãn giới truyền thông, thân cận với một số lãnh tụ độc tài trên thế giới, bất minh về vấn đề tiền bạc, nhận tiền thụt két nhà băng của một tên lừa đảo (Charles Keating) và khi Tòa án viết thơ khuyên Bà nên trả lại số tiền đó thì lờ đi không trả lời, dùng tiền của thiên hạ đổ vào các tu viện thay vì nhà thương và để cho các cơ sở từ thiện rất thiếu thốn, mù quáng theo lệnh của Vatican chống mọi kế hoạch hóa gia đình v..v.."

Sau khi bà Teresa chết thì có một số sơ trước đây đã cộng tác với bà trong tổ chức "Thừa sai bác ái" đã tiết lộ nhiều chi tiết thuộc loại động trời. Thí dụ, sơ Susan Shields đã viết trong tờ Free Inquiry, số mùa đông 1998, tiết lộ rằng:

* “Một phần nhiệm vụ của sơ là giúp trong việc giữ sổ sách về số tiền, lên đến nhiều triệu đô la, do những người có từ tâm đóng góp để bà Teresa làm việc "từ thiện" vì tin ở những lời tuyên truyền quảng cáo của dòng tu "Thừa sai bác ái", nhưng hầu hết những số tiền đó lại để trong nhiều ngân hàng khác nhau mà không dùng gì đến, trong khi các sơ hàng ngày phải đi ăn xin (beg) thức ăn của các thương gia địa phương, vì bà Teresa chủ trương "nghèo khổ" là một đức tính. Ngày nào xin không đủ thì các em mồ côi hoặc các bệnh nhân dưới sự "săn sóc" của hội "thừa sai bác ái" phải ăn đói. Đó là từ thiện hay sao? Với hàng triệu đô la nằm ì trong các ngân hàng mà bà Teresa vẫn thường xuyên kêu gọi đóng góp thêm cho công cuộc từ thiện của bà, thật là hoàn toàn vô nghĩa.”

(Judith Hayes trong The Happy Heretic, p. 66-67: Shields revealed that part of her job was to help keep track of the millions of dollars donated to Teresa's "charity" work. Unfortunately, most of that money sat unused in various bank accounts while the sisters literally had to beg for food from local merchants, since "poverty" is supposedly a virtue. If the locals couldn't help out, the soup kitchens did without. This is charity? With millions sitting idle and Teresa constantly asking for more donations, it makes no sense at all.)

Trước những sự thực phũ phàng về bộ mặt "từ thiện" thật của bà Teresa ở trên, tác giả Judith Hayes, người đã từng nổi tiếng với tác phẩm Chúng Ta Tin Thiên Chúa! Nhưng Là Thiên Chúa Nào? (In God We Trust! But Which One?), và cũng là người mà qua những phương tiện truyền thông của Giáo hội đã một thời tin rằng bà Teresa là một vị Thánh sống, sau khi biết rõ sự thực đã vạch trần mặt trái của bà Teresa trong cuốn The Happy Heretic. Sau đây là một số đoạn trong chương 2, trang 62-69, mục Một Khoa Học Gia Và Một Thánh (A Scientist And A Saint), bình luận về giới truyền thông trước cái chết của Carl Sagan (1996) và Teresa (1997).

1. Khi được hỏi là bà có đồng ý là ở Ấn Độ có quá nhiều trẻ con hay không, bà Teresa đã trả lời: "Tôi không đồng ý vì Thiên Chúa bao giờ cũng cung cấp đầy đủ" (Ibid., p. 30: I do not agree because God always provides). Câu trả lời là một câu mạ lỵ những người có đầu óc và có tình thương thực sự. Thật vậy sao? Nếu thực sự là có một Thiên Chúa có thể cung cấp đầy đủ cho tất cả thì thực trạng thế giới đã chứng tỏ là Thiên Chúa không muốn làm như vậy. Bà Teresa không hề biết là trên thế giới mỗi ngày có khoảng 40 ngàn trẻ con dưới 5 tuổi chết đói. Nếu Thiên Chúa cung cấp đầy đủ cho tất cả thì tại sao ngay trên đất Ấn Độ mà bà làm công việc "từ thiện" cũng có 423 triệu người sống trong sự tuyệt đối nghèo khổ (living in absolute poverty), 73 triệu trẻ em dưới 5 tuổi thiếu dinh dưỡng, và 350 triệu mù chữ? Lẽ dĩ nhiên, đối với bà thì Thiên Chúa quả là đã cung cấp đầy đủ, quá đầy đủ, vì bà ngồi trên đống tiền của thiên hạ đóng góp để bà làm việc "từ thiện".

2. Bà Teresa huấn luyện những sơ dưới quyền bà hỏi những bệnh nhân sắp chết là có muốn một "vé lên thiên đường" hay không? Nếu họ trả lời muốn thì sẽ có ngay một lễ rửa tội cấp bách để kéo họ vào trong Ca Tô Giáo. [ Nếu chúng ta biết đến lời tuyên bố của giáo hoàng John Paul II là không làm gì có thiên đường ở trên các tầng mây thì thiên đường của bà Teresa đúng là một thiên đường mù. Đó không phải là thiên đường của những người mù mắt mà là của những người mù quáng tin vào một điều mà ngày nay đã không còn chỗ đứng trong thế giới tiến bộ. TCN]

3. Có một bệnh nhân bị bệnh ung thư đang ở thời kỳ cuối, đau quằn quại, sắp chết, nhưng bà Teresa lại nhất định không cho họ thuốc đủ mạnh (tại sao??). Bà đến an ủi họ: "Con nên nghĩ rằng con cũng đang đau đớn như Chúa Giê-su đang bị đóng đinh trên thập giá; Chúa hẳn là đang hôn con đó" Bệnh nhân đó trả lời: "Vậy xin mẹ nói với ông ta là đừng hôn con nữa." ("You are suffering like Christ on the cross. So Jesus must be kissing you." To which the patient replied, "Then please tell him to stop kissing me").

4. Một ác cảnh khác trong các nhà thương "từ thiện" của bà Teresa không thể chấp nhận được là những sơ và những người thiện nguyện làm việc cho bà phải dùng đi dùng lại những ống chích không được tẩy trùng để chích những thuốc vô hiệu lực và thuốc trụ sinh không đủ mạnh cho các bệnh nhân khiến cho họ càng đau đớn trong cơn hấp hối. (Her employees and volunteers used and reused unsterelized syringes to administer ineffective drugs and mild antibiotics to terminally ill people, who suffered the resulting agonies)

5. Cảnh xun xoe tán tụng Mẹ Teresa trên khắp thế giới là cơn ác mộng của một người theo chủ nghĩa nhân bản. Ký giả chen lấn nhau để giành lấy máy vi âm và tìm những danh từ quá mức để mô tả cái người gốc Macedonie (Teresa) không có gì nổi bật, đầu óc ở trên mây, với tâm cảnh thuộc thế kỷ thứ 9 này... Thật là một sự tôn sùng nồng nhiệt không nhằm chỗ.

6. Khi người ta phỏng đoán về việc phong Thánh cho bà Teresa, thì đối với những người theo chủ nghĩa nhân bản, chức vị Thánh thật chẵng có nghĩa gì. Riêng tôi, tôi không tìm thấy bất cứ cái gì trong đời sống hoặc ký ức của bà Teresa để mà tôn kính, xét đến sự đau khổ mà bà ta đã tạo ra cho hàng triệu người.

7. "Nhân danh Thiên Chúa" bà Teresa đã thu được hàng triệu đô la rồi vội vàng dấu kín nó đi như một con sóc để dành thức ăn cho mùa Đông. "Nhân danh Thiên Chúa", bà ta cũng cải đạo nhiều người trước khi họ tắt hơi... Tôi tự hỏi, trong cái tầm nhìn thô thiển của bà ta, có phải là bất cứ bà làm điều gì cho Thiên Chúa là để cho bà được điểm cao trong đời sau. Có lẽ đối với bà ta thế giới này không hề có một ý nghĩa nào, chẳng qua chỉ là cái mê hồn trận thách đố của Thiên Chúa để quyết định xem ai chiếm được mẩu tốt nhất trên thiên đường. Nếu thật là như vậy thì chúng ta có thể giải thích, vì không có gì khác có thể giải thích được, tại sao bà ta có thể nhẫn tâm ngồi trên nhiều triệu đô la như vậy trong khi trẻ con, ngay cả ở nơi bà hoạt động ở Ấn Độ, đang chết đói. Hiển nhiên là mục đích của bà ta là vơ vét tích tụ tiền bạc. Để làm gì, ai muốn đoán sao thì đoán..

8. Thật là lạ lùng, không có ai vạch trần những hoạt động đáng nghi ngờ của bà Teresa sớm hơn. Mà chúng ta ai cũng biết chuyện các linh mục hiếp dâm các trẻ em trai, có phải không - vậy tại sao mà những chuyện về bà Tewresa để quá lâu mới bị phanh phui? Câu trả lời thật là đơn giản, Giáo hội Ca-Tô Rô-MaGiáo có những quyền lực hăm dọa thật đáng sợ. Cho đến khi tác phẩm có tác dụng mở mắt con người của Christopher Hitchen xuất bản năm 1995, cuốn The Missionary Position, tôi không hề biết gì về những hoạt động trong những "nhà thương" của bà Teresa. Cũng như mọi người khác, tôi nghĩ rằng bà ta là một Thánh sống. Tôi đã lầm.

9. Bất kể động cơ hành động của người đàn bà ở Calcutta kia (Teresa) là như thế nào, tôi đã thấy quá đủ những sự đau khổ trong những người đã phải khủng khiếp trùn lại với tư tưởng của bà Teresa: đau khổ là một điều tốt. Đau khổ không bao giờ là một điều tốt. Nhất là ngày nay, khi chúng ta có khả năng làm giảm đi khá nhiều sự đau đớn, hình ảnh tâm thần của những người bất hạnh bị vào một "nhà thương" của bà Teresa thật là đáng buồn và đáng giận.

Với những tài liệu trên, chúng ta có thể kết luận gì về bà Teresa, chuẩn “thánh” của Ca-tô Rô-maGiáo, người mà giáo dân Việt nam đã hết lời tung hô ca tụng? Hình ảnh của bà Teresa mà họ thường tung hô không thánh thiện như giáo hội đã cấy vào đầu óc các tín đồ mà thực ra đó chỉ là một con người ngu đạo cộng với những đặc tính như: đạo đức giả, lừa bịp, gian dối, tàn nhẫn, cuồng tín, lạc hậu v..v... Nhưng thật là vô liêm sỉ, vì giáo hoàng vẫn ra Tông Huấn, mục 7, dạy các giáo hội Á Châu phải “tuyên dương Mẹ Têrêsa quá cố của thành phố Calcutta, người nổi tiếng trên khắp thế giới vì đã chăm sóc những người nghèo nhất với lòng yêu thương và vị tha". Điều này chứng tỏ Giáo hoàng bất chấp những sự thực đã được phơi bày về bộ mặt thực của bà Teresa, vẫn tiếp tục tô hồng đánh bóng bà Teresa không chút ngượng ngập và dạy các con chiên thường xuyên sống trong bóng tối của sự thiếu hiểu biết, do đó luôn luôn cúi đầu tuân phục những điều “đức thánh cha” dạy, phải tuyên dương ca tụng một nhân vật mà thực chất rất đáng khinh, không có gì đáng để ca tụng. Điều này cũng chứng tỏ là bất kể thực chất đạo đức của người Ca Tô như thế nào, chỉ cần người đó làm lợi cho giáo hội là giáo hội tuyên dương đánh bóng mà không cần đếm xỉa đến sự thật. Cũng vì vậy mà Vatican, xưởng sản xuất thánh, để đạt được những mục đích chính trị và mê tín tôn giáo, đã phong thánh bừa bãi cho các Hán gian, Việt gian v..v..dù rằng các thánh trong Ca Tô Giáo chẳng có ý nghĩa cao đẹp gì đối với tuyệt đại đa số nhân loại.

Đối với tôi, trong vụ này, không những bà Teresa là một con người cuồng tín mà còn là ngu đần, tàn nhẫn, và sống xa thực tế. Bà thừa biết rằng không một người nào trên thế gian này lại muốn chịu khổ hình đau đớn như Chúa Giê-su trên thập giá và dù Giê-su có đang hôn thật đi chăng nữa thì cũng không làm cho bệnh nhân bớt đau hay khỏi bệnh. Bởi vậy cho nên bệnh nhân đã từ chối cái hôn của Giê-su. Nhưng hành động như trên của bà thực ra chỉ là một thủ đoạn ru ngủ lừa dối và hết sức đạo đức giả. Vì khi chính bà đau ốm thì bà lại vào những nhà thương Tây phương đắt tiền nhất để chữa trị. Năm 1989 bà đã được gắn một máy để cho tim đập điều hòa (pacemaker). Năm 1993 bà đã được thông một mạch máu bị tắc. Tại sao bà không chịu đựng những sự bất thường đau đớn trong cơ thể bà như là Chúa Giê-su chịu đựng trên thập giá. Tại sao bà không nghĩ rằng những khi bà bị bệnh đó chính là Chúa đang hôn bà? Tại sao bà phải vào những nhà thương đắt tiền nhất, có nhiều phương tiện tối tân nhất, để chữa trị cho bà, trong khi bà không chịu chữa trị đúng mức cho những bệnh nhân trong những nhà thương "từ thiện" của chính bà? Nếu bà muốn thì bà sẽ có đủ phương tiện trong các nhà thương "từ thiện" của bà, vì nhiều triệu đô la do những người hảo tâm đóng góp để cho bà làm việc "từ thiện" còn nằm ì trong các ngân hàng. Chúng ta nên nhớ, theo định chế của Ca-tô Rô-maGiáo thì những chương mục này thuộc tài sản của Vatican. Chúng ta cũng đừng quên là Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng đã đệ đơn lên chính quyền Việt Nam đòi lại những cơ sở của Ca Tô Giáo ở Việt Nam (phần lớn là do toa rập với thực dân Pháp, chiếm đất Chùa trong thời đô hộ của thực dân Pháp, trong đó có đất của nhà thờ lớn Hà Nội, đất của nhà thờ Đức Bà ở Saigon, và đất của nhà thờ La Vang v..v.., và do thực dân Pháp trước kia và chính quyền Ca Tô Ngô Đình Diệm sau này ở Nam Việt Nam lạm dụng cường quyền cấp cho) với luận cứ đó là tài sản thuộc Vatican, một luận cứ đần độn, vong bản, phi lý, phản ánh tâm cảnh nô lệ của HĐGM Việt Nam. Với tâm cảnh này thì khi người Ca Tô lên cầm quyền ở Việt Nam tất nhiên mọi đất đai tài sản quốc gia sẽ đều thuộc Vatican hết.

Thực ra thì những hành động của bà Teresa được phanh phui ở trên cũng không lấy gì làm khó hiểu vì chúng nằm trong sách lược đi kiếm linh hồn cho Chúa và vơ vét của cải của Giáo hội trên khắp thế giới. Nếu chúng ta theo rõi những vụ kiện các cơ sở từ thiện, viện mồ côi của Ca Tô Giáo ở Canada, Mỹ, Ireland,và Úc Châu v..v.. thì chúng ta sẽ không lấy gì làm lạ trước những hành động "bác ái" của bà Teresa ở Calcutta. B. S. Rajneesh, tác giả cuốn Linh Mục và Chính Trị Gia: Những Mafia của Linh Hồn (Priests & Politicians: The Mafia of the Soul), đã viết như sau, trang 25:

Nếu con người nghèo đói, họ có thể dễ bị dụ vào Ki Tô Giáo, đặc biệt là Ca-tô Rô-maGiáo. Những trường học, nhà thương, và viện mồ côi của họ chẳng qua cũng chỉ là những xưởng để dụ người ta trở thành tín đồ Ca Tô (If people are poor and hungry, they can be easily converted to Christianity, particularly into the Catholic Church. Their schools, their hospitals, their orphanages are nothing but factories for converting people into Catholics).

Rajneesh đã không nhắc đến sự kiện là với những sự trợ cấp của chính phủ và sự đóng góp của những người có từ tâm, nhiều cơ sở "từ thiện" đã là những nguồn kinh tài cho giáo hội, vơ vét tiền bạc trên sự đau khổ của các trẻ em mồ côi và những người xấu số. Sơ Lê Thị Tríu ở Phi Luật Tân cũng đã hốt được 2 triệu đô-la để thành lập “làng Việt Nam ma” ở Phi Luật Tân, để nộp cho giáo hội.

Tưởng chúng ta cũng nên biết thêm một sự kiện về những tổ chức "từ thiện" của Vatican. Sách vở, báo chí và TV Âu Mỹ đã phanh phui ra vụ Vatican dùng những cơ quan từ thiện như Caritas International, Red Cross và một số tu viện làm những đường giây gọi là "Giây chuột" (Ratlines) với những dịch vụ như cấp căn cước giả, thông hành giả, tài chánh v..v.. cho nhiều tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã và Croatia ẩn náu trong các tu viện chờ cơ hội chuồn sang Nam Mỹ, phần lớn là sang Á Căn Đình (Argentina).

Nói tóm lại, những công cuộc “từ thiện” của Ki Tô Giáo, Ca Tô Giáo cũng như Tin Lành, chỉ là những sơn phết màu mè che dấu những âm mưu đen tối đàng sau. Tuy vậy, những lớp sơn phết này cũng lừa phỉnh được nhiều người, kể cả những chính quyền phi Ki-Tô không biết rõ bản chất “từ thiện” của Ki Tô Giáo.

Tới đây, hẳn chúng ta đã thấy thực chất những công việc "từ thiện" cỡ quốc tế của Tòa Thánh Vatican. Điều hiển nhiên là ở trên trái đất này không phải chỉ có Ca-tô Rô-maGiáo mới làm việc từ thiện. Bất cứ nơi nào có những cảnh khổ trong xã hội bất cứ vì lý do gì, thiên tai, lụt lội, đói kém, bệnh tật v..v.. lòng con người lại mở để góp phần làm vơi bớt những nỗi đau khổ của đồng loại. Trong hầu hết các xã hội khác, tôn giáo khác, việc từ thiện bao giờ cũng phát xuất từ những tấm lòng, thương người vị tha. Chỉ có Ca-tô Rô-maGiáo làm việc thiện cho những mục đích bất thiện: dùng bả vật chất để khuyên dụ người đi đạo, làm việc thiện để lấy tiếng, kiếm thêm tín đồ cho Chúa, hoặc với mục đích chính trị nhơ nhớp như vừa được trình bày ở trên. Ở đây tôi chỉ nói đến sách lược chung của Giáo hội chứ không nói đến cá nhân các tín đồ Ca Tô trong đó chắc chắn có nhiều người có lòng bác ái thuần túy không thua gì những người trong các tôn giáo khác.

4. Hãnh Diện Vì Ca-tô Rô-maGiáo Là Giáo Hội Tạo Nên Nền Văn Minh Âu Mỹ.

Khi các Thừa Sai thực dân Pháp, Bồ Đào Nha xâm nhập Việt Nam, chiêu bài mục đích truyền đạo của họ là để “văn minh hóa” những dân tộc mọi rợ, vì các đạo trong dân gian chỉ là đạo thờ ma quỷ.. Thời Ngô Đình Diệm, đảng Cần Lao cũng đã có sách lược “tiêu diệt Phật Giáo ma quỷ” Và từ xưa giáo dân Việt Nam cũng tự coi mình là thuộc một dân tộc mọi rợ, và cho rằng khi theo đạo họ trở nên những người văn minh hơn đồng loại. Không gì rõ hơn là trong Kinh Nhựt Khóa của Tổng Giáo Phận Saigon in năm 1971 do TGM Nguyễn Văn Bình duyệt y ngày 19-3-1971, để cho giáo dân đọc tụng hàng ngày, trong đó Kinh cầu ông Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e (Francis Xavier) có những câu mang nặng tính chất kích động tiêu diệt đạo Phật và các tôn giáo khác như; “Ông Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e phá tan đạo Bụt Thần”“Ông Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e là lịnh rao truyền tiếng Đức Chúa Thánh Thần cho những dân mọi rợ”. Họ được nhồi sọ như vậy mà không ngờ rằng khi họ từ bỏ đạo của tổ tiên để theo đạo Ca-tô họ đã thực sự họ đã từ bỏ một gia sản tâm linh cao cả nhất của nhân loại để bước vào ngục tù tâm linh của một đạo buôn thần bán thánh, vô cùng tàn bạo và mọi rợ như lịch sử đã chứng minh. Vụ Giáo hoàng John Paul II và bộ tham mưu của ông, trong đó có TGM Nguyễn Văn Thuận, xưng thú cùng thế giới 7 núi tội ác của Ca-tô Rô-maGiáo ngày 12.3.2000 đã hơn gì hết nói rõ bản chất của Ca-tô Rô-maGiáo. Phật Giáo ra đời trước Ca-tô Giáo cả hơn 500 năm, nhưng trong lịch sử truyền đạo không hề làm đổ một giọt máu của nhân loại. Vậy thì đạo nào văn minh và đạo nào mọi rợ? Hỏi tức là đã trả lời.

Tính cách bịp bợm dư luận của Ca-tô Rô-maGiáo đã nằm trong sách lược của Ca-tô Rô-maGiáo cả hơn 1000 năm. Giáo hoàng và giáo hội luôn luôn nhập nhằng lấy cái nền văn minh Âu Mỹ làm nền văn minh KiTô. Giáo hoàng John Paul II phát biểu là "Một nền văn minh xứng đáng với con người phải là nền văn minh KiTô." Hồng Y Spellman khi sang Việt Nam ủy lạo binh sĩ Mỹ cũng khẳng định họ "đang chiến đấu để bảo vệ nền văn minh KiTô Tây phương." Nhưng nền văn minh Ki-Tô căn bản là cấu trúc hệ thống giai cấp toàn trị và nô lệ hóa đám con chiên thấp kém ở dưới trong tín lý đức tin mù quáng, quên mình trong vâng phục.

Qua lịch sử, chúng ta đã biết những chính sách đốt sách vở của Ca-tô Rô-maGiáo, chính sách tiêu diệt các nền văn hóa địa phương, giết người ngoại đạo, bách hại dân Do Thái, và đàn áp các khoa học gia vì những khám phá của họ ngược với Thánh Kinh v..v.. Vậy nền văn minh KiTô là nền văn minh nào, có phải là nền văn minh hiện thời không? Có bao nhiêu khoa học gia, tư tưởng gia, triết gia tuyệt đối tin vào KiTô giáo đã đóng góp cho nền văn minh hiện đại và đóng góp những gì? Hay là nền văn minh hiện đại bắt nguồn từ Galilei rồi phát triển qua những khoa học gia, tư tưởng gia mà giáo hội đã không còn quyền hành để thiêu sống hay bắt giam nữa.

Chúng ta cũng đã biết, khi Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo nắm quyền thống trị ở Âu Châu thì đã kéo bức màn "man rợ và đen tối trí thức" phủ lên Âu Châu trong 10 thế kỷ. Sau thời đại hắc ám này, chúng ta thấy xuất hiện ở Âu Châu những thời đại Phục hưng (Renaissance), thời đại Khai sáng (the age of Enlightenment), thời đại lý trí (the age of reason), thời đại cách mạng khoa học (the age of scientific revolution), thời đại phân tích (the age of analysis), thời đại kỹ nghệ (the industrial age) v...v... Tất cả những thời đại này lập thành nền văn minh hiện nay của Tây phương, và lịch sử đã chứng minh rằng, Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo đã hết sức ngăn chặn sự phát triển trí thức của nhân loại này nhưng đã hoàn toàn thất bại. Các đại tư tưởng gia Tây phương như Voltaire, Montesquieu, Rousseau, Victor Hugo, Thomas Paine v...v.. là những người đi tiên phong trong vấn đề cải cách xã hội, đề xướng quyền tự do và nhân quyền của con người. Tác phẩm của họ đều bị Giáo hội giam chặt trong cái gọi là "danh sách những tác phẩm cấm tín đồ đọc" (Index of banned books). Những khoa học gia tiên phong của cuộc cách mạng khoa học như Copernicus, Kepler, Bruno, Galileo v...v... đều bị Giáo hội dùng "bạo quyền thắng sự thật" giam cầm hoặc thiêu sống. Vậy, có thể tin được chăng, nền văn minh Tây phương là nền văn minh Ki Tô? Có lẽ chúng ta nên duyệt qua vài tài liệu lịch sử để thấy thực chất của Ca-tô Rô-maGiáo trong nền văn minh Tây phương như thế nào.

Trước hết, chúng ta cần biết là nền văn minh Âu Mỹ được xây dựng trên những tư tưởng khai phóng về những quyền tự do căn bản của con người như tự do tín ngưỡng, tự do suy tư v..v.., những quyền mà giáo hội luôn luôn chống đối, và những thành quả khoa học với kết quả làm tăng mức sống thoải mái của con người. Giáo hội đã góp được những phần nào trong sự tiến bộ của con người qua các thời đại? Hàng giáo phẩm Ca Tô, với nhiệm vụ chăn dắt tín đồ, đã làm những gì để mở mang đầu óc của những tín đồ ngoài một số tác phẩm về Thần học mà mục đích chỉ để bảo vệ các tín lý giáo hội đưa ra, giữ tín đồ trong vòng mê tín, ngu muội. Sau đây là một thí dụ điển hình về sự đào tạo linh mục.

Linh Mục Emmett McLoughlin mô tả thực chất giáo dục Ca Tô trong việc đào tạo Linh mục như sau, trong cuốn Văn Hóa Mỹ và các Trường Học Ca Tô (American Culture and Catholic Schools, trg. 36 -37):

"Tôi không được học để suy nghĩ. Từ những năm của thời thơ ấu qua thời kỳ thiếu niên bối rối (trong nhà Dòng) cho đến khi thành người lớn, đầu óc tôi bị đúc trong một mô thức trí thức cũng như là được đúc trong bê tông.

Sự tiếp cận khoa học của tôi trong 21 năm là một cua về vật lý sơ đẳng. Trong 12 năm, tôi chẳng học được gì về văn học nổi tiếng của hoàn cầu. Những ánh sáng trí thức này được giam chặt trong Danh Sách Những Cuốn Sách Cấm Đọc của Giáo hội.

Nói ngắn gọn - tôi không được giáo dục - tôi chỉ bị tẩy não. Tôi đã đạt đến trình độ khô cứng của sự hiểu biết trí thức xoàng xĩnh.

Tôi đã trở nên một người máy, một linh mục với những lễ nghi thiêng liêng không rõ ràng, vô nghĩa ở sự hiệu quả của chúng cũng như là những bài ca của các thầy Pháp Haiti.

Tôi là một kỹ thuật viên của giáo hội được huấn luyện để đúc nặn những bộ óc trẻ, dễ uốn nắn... "

(I did not learn to think. As the years of childhood slipped through a frustrated adolescence (in the seminary) into the days that were supposed to be those of manhood, my mind was molded in an intellectual pattern as effectively as though it had been cast in concrete.

The closest approach to science that I experienced in those 21 years was that a non-laboratory course in elemental physics...Of the world's really great literature, in 12 years I learned practically nothing. Its greatest lights were locked in the prison of the Index of Forbidden Books.

In short, I was not educated. I was merely endoctrinated. I had achieved the level of the rigor mortis of intellectual mediocrity.

I had become an automaton, a priest of sacred, half known rites as meaningless in the efficacy as the chants of a Puerto Rican woodoo priest.

I was an ecclesiastical technician trained to mold other young, pliable minds...)

Những kiến thức bên ngoài là do các linh mục tự tìm hiểu chứ không có trong chương trình đào tạo các linh mục. Và vì vậy ngày nay có rất nhiều vị, khi tìm hiểu những kiến thức bên ngoài, đã viết lên những tác phẩm nghiên cứu về thực chất của giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo. Những tác phẩm của Tổng Giám Mục Peter de Rosa, của Giám Mục John Shelby Spong, của các Linh mục Jean Mesnier, Joseph McCabe, Emmett McLoughlin, James Kavanaugh, Andrew M. Greeley, David Rice, Leonardo Boff, Ernie Bringas, Georges Las Vergnas, Charles Davis v...v... cũng đủ để cho chúng ta biết khá tường tận về đạo Gia Tô, khoan kể đến những tác phẩm nghiên cứu của các nhà Thần học Hans Kung, Edwards Schillebeeckx, Uta Ranke-Heinemann v...v..., và của hàng trăm học giả, giáo sư đại học, chuyên gia nghiên cứu về tôn giáo.

Chúng ta thấy rằng, mục đích đào tạo các linh mục là biến họ thành những cái loa phóng thanh của Tòa Thánh Vatican, chứ không phải để mở mang đầu óc con người, mà trái lại để tẩy não, gò bó đầu óc con người theo một chiều hướng nhất định và do đó, những linh mục sau khi tốt nghiệp cũng giống như những con ngựa bị che mắt, chỉ biết đi theo một hướng nhất định. Cái hướng nhất định này là dùng mọi thủ đoạn để thu nhặt tín đồ, vơ vét của cải thế gian, và bảo vệ những tín lý của Ca-tô Rô-maGiáo qua những luận cứ Thần học mập mờ, ngoài khả năng phán đoán của đa số tín đồ ít học. Với phương cách giáo dục như vậy, các linh mục khó có thể rời bỏ giáo hội vì kiến thức của họ không thể dùng được ở ngoài đời. Địa vị, uy tín, và đời sống thoải mái về vật chất trong sự kính trọng, qụy lụy của giáo dân cũng là những yếu tố quan trọng để ngăn linh mục bỏ giáo hội. Phương cách huấn luyện và nắm giữ linh mục như trên đã tạo ra một mẫu người nô lệ giáo điều, giáo hoàng và tòa Thánh một cách hết sức mù quáng. Và chính giới linh mục này đã góp phần không nhỏ trong việc uốn nắn đầu óc tín đồ theo chủ trương của giáo hội. Đọc Phan Phát Huồn, Nguyễn Văn Thuận, Trần Văn Khả, Vũ Đức, Cao Phương Kỷ, Đinh Xuân Minh v…v… chúng ta thấy rõ như vậy.

Đã đành rằng, trong hàng giáo phẩm Ca Tô cũng có những vị đóng góp cho nền văn minh Âu Mỹ qua những công cuộc khảo cứu về khoa học và xã hội nhưng số này quả thật hiếm hoi, và Giáo hội đã hoặc khai trừ họ, hoặc thiêu sống họ (Bruno), vì những đóng góp của họ không phù hợp với những giáo điều Ca Tô, cho nên phải nói rằng, nền văn minh Âu Mỹ không phải là nền văn minh Ki Tô như Giáo hội thường nhập nhằng tự nhận, không có một nền văn minh nào xứng đáng với danh từ văn minh mà có thể gọi là nền văn minh KiTô.

Sự nhập nhằng vơ nền văn minh Tây phương vào làm nền văn minh KiTô là sách lược quen thuộc của GiaTô giáo để khuyên dụ những người kém hiểu biết trong những quốc gia nghèo khổ, những người không hề biết gì về lịch sử cũng như bản chất của GiaTô LaMã giáo. Để có một nhận định chính xác hơn về mối tương quan giữa nền văn minh Âu Mỹ và KiTô giáo, chúng ta hãy đọc đoạn sau đây của John E. Remsburg trong cuốn "Những lời tự nhận sai sự thực" ("False Claims", trg. 16-17 ):

"KiTô giáo có liên quan gì tới nền văn minh của dân tộc này? Chắc chắn là không; và nếu không có đám mây thiên kiến trước mắt họ, những tín đồ KiTô sẽ thấy rõ rằng KiTô giáo không tạo nên nền văn minh của chúng ta. Họ sẽ thấy rằng thay vì giáo hội văn minh hóa thế giới, chính cái thế giới duy lý trong nhiều thế kỷ đã từ từ văn minh hóa giáo hội.

Chính ngay cái bản chất của KiTô giáo đã loại bỏ cái khả năng tiến bộ như là một nguyên lý tự hữu của tôn giáo này; và bất cứ có sự tiến bộ nào, ở trong hay ở ngoài giáo hội, đều do những nguyên nhân mà giáo hội không kiểm soát được. Giáo hội tự cho là nắm giữ chân lý, chân lý toàn diện, chỉ là chân lý. Mọi đề nghị thay đổi, mọi khám phá mới, đối với giáo hội là sai sự thực, và, do đó, giáo hội chống đối. Giả thử giáo hội thành một đế quốc trên toàn thế giới, mọi tiến bộ sẽ phải ngưng ngay lập tức. Những Huxley và Haeckels của chúng ta sẽ bị diệt trừ thẳng cánh, ngọn đuốc Lý Trí sẽ bị tắt ngấm, và cái lòng tin mù quáng sẽ là sự chỉ đạo duy nhất của chúng ta. Giáo hội đã cho ta những bằng chứng quyết định về sự thực này. Trong nhiều thế kỷ, quyền lực của giáo hội ở Âu Châu là cao nhất, nhưng ngay cả những văn sĩ KiTô cũng phải gọi những thế kỷ đó là thời đại đen tối.

Chỉ khi chủ thuyết duy lý khai sinh, khi khoa học bắt đầu phát triển, và KiTô giáo bắt đầu suy thoái, nền văn minh hiện đại mới ló dạng. Lecky nói rằng: "Trong hơn 3 thế kỷ, sự suy thoái của những ảnh hưởng thần học là một trong những dấu hiệu không thể chối cãi để đo sự tiến bộ của chúng ta." Carlyle nói rằng: "Kiến thức càng tăng, lòng tin càng giảm." Strauss nói rằng: "Thời Trung Cổ tín ngưỡng tôn giáo thì tỷ lệ thuận với sự ngu tối và man rợ. Tôn giáo và văn minh không ở cùng vị thế mà trái ngược đối với nhau, cho nên với sự văn minh tiến bộ, Ki Tô giáo phải lui."

(Now did Christianity have aught to do with the civilization of this people ? Certainly not; and were it not for the cloud of prejudice before his eyes, the Christians would clearly see that it did not produce our civilization. He would see that instead of the church having civilized the world, the Rationalistic world has for centuries been slowly civilizing the church.

The very nature of Christianity--I mean orthodox Christianity - precludes the possibility of progression as an inherent principle of itself; and whatever progress has been made, either in the church or outside of it, must be attributed to causes over which she has had no control. The church claims to have the truth, the whole truth, and nothing but the truth. Every proposed change, every new discovery, is to her a perversion of truth, and, hence, she opposes it. Were the church to sweep to universal empire, all progress would at once cease. Our Huxleys and Haeckels would be summarily disposed of, the torch of Reason would be extinguished, and the ignis-fatuus of Faith would become our only guide. Of the truth of this she has herself given conclusive evidence. For centuries her power in Europe was supreme, and even Christian writers denommate these centuries the Dark Ages.

Not until Rationalism was born, not until science commenced her career, and Christianity began to decay, did our modern civilization dawn. "For more than three centuries, " says Lecky, "the decadence of theological influence has been one of the most invariable signs and measures of our progress." Says Carlyle, "Just in the ratio that knowledge increases, faith diminishes." "The Middle Ages were more religious than ours," says Strauss, "in proportion to their ignorance and barbarism. Religion and civilization accordingly occupy, not an equal, but an inverted position regarding each other, so that with the progress of civilization, religion retreats.")

Để rọi thêm một tia sáng vào cái gọi là văn minh KiTô, chúng ta hãy đọc tiếp đoạn sau đây của Lloyd M. Graham (Ibid., trg. 448-449) về trí tuệ của các Thánh Kitô trong việc "mở mang đầu óc" và "văn minh hóa" con người:

"Bất cứ người nào bị thống trị bởi tư tưởng tôn giáo đều bị đặt dưới ảnh hưởng của cái năng lực lý luận sai lầm. Đó chính là những nhà lập giáo KiTô lầm lẫn. Ngày nay chúng ta vinh danh những kẻ không xứng đáng về lòng dũng cảm của họ mà không ý thức được cái tội ác mà họ đã phạm phải -- sự phá hủy hoàn toàn khoa học và triết lý cổ xưa. Điều này đưa đến 1500 năm đen tối, trong thời gian này dân KiTô không biết ngay cả quả đất tròn.

Trong thời đại đen tối, sự tối tăm có tính cách toàn diện - một ảnh hưởng khó hiểu của cái gọi là "ánh sáng của thế giới." (CaTô giáo vẫn tự cho là ánh sáng của thế giới; TCN)

Bây giờ chúng ta hãy so sánh những khoa học gia Hi Lạp (Tác giả muốn nói đến Pythagoras (thuyết trái đất tròn và quay xung quanh mặt trời, thế kỷ - 6 (6 thế kỷ trước thời đại này)), Aristarchus (thuyết mặt trời là trung tâm vũ trụ, thế kỷ -3, mà 19 thế kỷ sau Copernicus khám phá ra), Eratosthenes (đo chu vi trái đất, thế kỷ -3), Hipparchus (kinh tuyến và vĩ tuyến, thế kỷ -2), Democritus và Leucippus (thuyết nguyên tử của vật chất, thế kỷ 5) với các Thánh KiTô. Đối với vài khoa học gia còn sống sót người ta nói như sau: "cái tên điên này muốn đảo ngược cả hệ thống thiên văn, nhưng Thánh kinh thiêng liêng dạy chúng ta rằng Joshua ra lệnh cho mặt trời đứng yên lại chứ không phải là trái đất." - và 1300 năm sau một giáo hoàng cũng ra sắc lệnh với cùng ý như vậy. Một luận cứ nổi tiếng khác là "trong ngày phán xét những người ở phía bên kia của trái đất không thể thấy được Chúa từ trên không xuống." Về sự chuyển động của trái đất, Thánh Augustine (cha đẻ của nền thần học GiaTô và được GiaTô giáo tôn sùng coi như là có trí tuệ siêu việt) nói như sau: "Không thể nào có chuyện có người ở phía bên kia của trái đất, vì Thánh kinh không ghi lại bất cứ một giống người nào như vậy trong các hậu duệ của Adam" (Như vậy là Thánh kinh không biết tới dân Việt Nam và lẽ dĩ nhiên không làm gì có chuyện cứu rỗi dân Việt Nam. TCN) Và linh mục Incholer nói như sau: "Quan miệm về sự chuyển động của trái đất là quan niệm tồi tệ nhất, nguy hại nhất, xúc phạm nhất trong những quan niệm dị giáo; sự bất động của trái đất là điều thiêng liêng gấp ba lần." Và Lactantius kết luận: "Không thể có chuyện con người tin một cách vô lý đến độ cho rằng mùa màng và cây cỏ ở phía bên kia của trái đất lại mọc chổng đầu xuống và con người lại có chân cao hơn đầu." Làm sao chúng ta có thể áp dụng những lời trên vào con người đã thốt ra những lời đó. Ngày nay, chúng ta biết họ sai lầm về khoa học, nhưng chúng ta vẫn không biết họ sai lầm về thần học."

(Anyone dominated by religious thought is under the influence of a reason-perverting power. Such were Christianity's Confounding Fathers. Today we honor these misbegotten for their courage without realizing the crime they committed--the complete destruction of ancient science and philosophy. This resulted in fifteen hundred years of darkness, in which the Christian people did not even know the earth is round.

In the Dark Ages the 'blackout" was complete--a curious effect for "the light of the world."

Now let us compare Greek scientists with Christian saints. Against some scientists still surviving one had this to say: " this fool wishes to reverse the entire system of astronomy; but sacred scripture tells us that Joshua commanded the sun to stand still and not the earth"--and some thirteen hundred years later a pope issued a bull to the same effect. Another famous argument was that "in the day of judgment men on the other side of a globe could not see the Lord descending through the air." Concerning the earth's motion, St. Augustine had this to say: "It is impossible there should be inhabitants on the opposite side of the earth, since no such race is recorded by Scripture among the descendants of Adam." And Father Inchofer: "The opinion of the earth's motion is of all heresies the most abominable, the most pernicious, the most scandalous; the immobility of the earth is thrice sacred." And Lactantius concluded, "It is impossible that men can be so absurd as to believe that the crops and trees on the other side of the earth hang downward and that men have their feet higher than their heads." How peculiarly applicable are these words to those who uttered them. We know now these men were wrong scientifically, but we still do not know they were wrong theologically.)

Chúng ta có thể kết luận như thế nào về các niềm hãnh diện của người Ca-tô Rô-maGiáo về cái mà họ gọi là “hội Thánh” của họ?

- Lịch sử Ca-tô Rô-maGiáo đã chứng tỏ đó là một tôn giáo không phục vụ con người mà mục đích chính là phục vụ cho những quyền năng thế tục của giới chăn chiên và vơ vét của cải thế gian.

- Đó cũng là một lịch sử ô nhục đẫm máu mà chính Giáo hội đã phải xưng thú cùng thế giới 7 núi tội ác của giáo hội đối với nhân loại. Thật là tức cười, trong khi Stephen Courtois thổi phồng quá lố lên con số nạn nhân của CS trên khắp thế giới là 100 triệu trong một cuốn sách thuộc loại “chống Cộng cho Chúa”, mà chính các đồng tác giả của Courtois trong cuốn sách đã bác bỏ con số này, thì một mình Ki Tô Giáo, phần lớn là do Ca-tô Rô-maGiáo cho đến thế kỷ 16, rồi sau đó có cả Tin Lành, đã giết khoảng 200 triệu người trong đó có cả những phụ nữ và trẻ con. [ Lloyd M. Graham in “Deceptions and Myths In The Bible” p.463: “Wars, tyranny and oppression of Christian nations since the day of Constantine have caused the death of more than 200 million people”]

- Đó cũng là một tôn giáo mà một số không nhỏ các chủ chăn mà các tín đồ gọi là “đức thánh cha” đã phạm đủ các tội, từ giết người cho đến loạn luân, loạn dâm, ấu dâm, gian dối, ngụy tạo v…v….

- Đó cũng là một tôn giáo mà trong đó cho tới ngày nay đã có trên 5000 giới chăn chiên mà tín đồ gọi là “linh mục” can tội loạn dâm, ấu dâm, mà giáo hội đã phải bỏ ra trên 2 tỷ đô la để bồi thường cho các nạn nhân tình dục của các “Chúa thứ hai”.

- Đó cũng là giáo hội mà các “Chúa thứ hai” tự do hiếp dâm các chị em tâm linh của họ (sơ) trên 27 quốc gia.

- Đó cũng là giáo hội mà trong đó các sơ quản trị các viện mồ côi ở Gia Nã Đại, Úc, Ái Nhĩ Lan đã hành hạ, bóc lột sức lao động của các trẻ mồ côi xấu số.

- Đó cũng là giáo hội đã toa rập với Phát xít Đức và Ý, và sau khi chiến tranh chấm dứt đã chuồn các tội phạm chiến tranh ra ngoại quốc qua đường giây chuột (Rat Lines) của những cơ sở từ thiện bác ái và các tu viện của Ca-tô Rô-maGiáo.

- Đó cũng là giáo hội đã làm tiên phong và đồng hành với các thế lực thực dân Âu Châu để đi “văn minh hóa” [sic] các dân tộc kém mở mang.

- Riêng đối với Việt Nam, đó cũng là giáo hội đã thành công tẩy não tín đồ để cho họ không còn tuân phục luật pháp quốc gia, phản bội dân tộc, giúp thực dân Pháp thực hiện được nền đô hộ trên đất nước Việt Nam, và đặt giáo luật lên trên luật pháp quốc gia.

- Và sau cùng, Giáo hội Ca-tô Rô-maGIáo bản chất là một tổ chức buôn thần bán thánh, khai thác lòng mê tín của quần chúng thấp kém ở dưới để kiếm lợi nhuận. Chúng ta hãy đọc lời thú nhận của Giáo hoàng Leo X trong một bữa tiệc. Nâng cao ly rượu, Giáo hoàng Leo phán lời chúc mừng [Raising a chalice of wine into the air, Pope Leo toasted]:

Chúng ta biết được bao nhiêu về những lợi nhuận mà sự mê tín vào cái chuyện hoang đường về đấng Ki-Tô đã mang lại cho chúng ta và các tiền nhân của chúng ta?

Đây là những sự kiện lịch sử với đầy đủ tài liệu. Ai không đồng ý xin mời lên tiếng.

Với những sự kiện lịch sử như trên, tôi nghĩ rằng điều rất khó hiểu đối với tôi trước niềm hãnh diện của những tín đồ Ca-tô về Ca-tô Rô-maGiáo của họ là rất có căn bản. Từ những sự kiện lịch sử trên tôi có một đề nghị về câu nói của Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt: “cảm thấy nhục nhã khi mang hộ chiếu Việt Nam”: xin hãy thay cụm từ “hộ chiếu Việt Nam” bằng “quốc tịch Vatican và cây thập ác trên ngực” thì chính xác hơn nhiều. Tôi xin giải thích tại sao lại là “thập ác” mà không phải là “thánh giá”.

Nếu chúng ta đọc lịch sử Ki-Tô Giáo thì chúng ta phải biết rằng, giáo dân Ca-Tô, theo lời khích động của giáo hoàng trong thời Trung Cổ, đã vác cây Thập Ác này đi giết người, gồm cả già trẻ lớn bé, trong 9 cuộc Thập Ác Chinh mà họ gọi là “thánh chiến”. Cây Thập Ác cũng được các linh mục dùng làm biểu tượng cứu vớt linh hồn trong các cuộc tra tấn dã man những người mà họ cho là lạc đạo. Cây Thập Ác cũng được dùng trong những cuộc thiêu sống phù thủy, giơ lên trước mặt nạn nhân làm biểu tượng cứu vớt linh hồn của họ, vì ngọn lửa thường không nóng bằng những ngọn lửa vĩnh hằng của Chúa Giê-su dưới hỏa ngục. Ở tân thế giới (Mỹ) thổ dân không chịu cải đạo cũng bị thiêu sống trước cây Thập Ác. Giết người cho một Thiên Chúa, theo lời dạy của chính Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đó thực chất là một quỷ dữ, không phải là một Thiên Chúa. Giết người vì một biểu tượng thì biểu tượng đó không thể nào có thuộc tính “thánh” được. Một học giả nghiên cứu cổ sử Do Thái đã viết “Cây thập ác là biểu tượng của một cách hành hình man rợ, không phải là biểu tượng của cứu rỗi” [The cross is a symbol of barbarous torture, not salvation]

Chúng ta đã biết, huyền thoại “cứu rỗi” dính liền với nền thần học về cây thập giá (The theology of the cross) mà Giê-su bị đóng đinh trên đó và các tín đồ Ki Tô Giáo thường gọi là “thánh giá”, cho đó là biểu tượng của “cứu chuộc” và “cứu rỗi”. Nhưng ngày nay, vai trò “cứu chuộc”, “cứu rỗi” hay “cứu thế” của Giê-su đã không còn ý nghĩa trước những nghiên cứu của chính những bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo cho nên từ “thánh giá” cũng không còn ý nghĩa. Thật vậy, Linh Mục James Kavanaugh đã viết bài “Huyền Thoại Cứu Rỗi” (The Salvation Myth) và Giám mục Tin lành, John Shelby Spong, đã viết bài “Giê-su Như Là Đấng Cứu Thế: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ” (Jesus As Rescuer: An Image That Has To Go). Cả hai bài này đã được đăng trên trang nhà Giao Điểm trước đây, và mới được đăng lại trên sachhiem.net.. [Xin mời độc giả đọc toàn phần hai bài này trên sachhiem.net]

Chúng cũng ta đã biết, trong cuộc tiếp xúc với các khoa học gia tại Vatican năm 1981, Giáo hoàng John Paul II đã công nhận thuyết Big Bang là nguồn gốc vũ trụ. (Stephen Hawking, A Brief History of Time, p. 116)

Rồi, trước những khám phá khoa học liên hệ đến thuyết Tiến Hóa bất khả phủ bác trong nhiều bộ môn của khoa học, năm 1996, Giáo hoàng John Paul II đã thú nhận trước thế giới là “thân xác con người có thể không phải là một sự sáng tạo tức thời của Thượng đế, mà là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần”. Ngài nói: những kiến thức mới nhất dẫn đến việc phải chấp nhận thuyết tiến hóa hơn là một giả thuyết”. (Pope John Paul II has put the teaching authority of the Roman Catholic Church firmly behind the view that “the human body may not have been the immediate creation of God, but is the product of a gradual process of evolution.. The pope said that “fresh knowledge leads to recognition of the theory of evolution as more than just a hypothesis).

Còn nữa, tháng 7 năm 1999, trước những khám phá xác tín nhất của khoa vũ trụ học, và trước những hiểu biết của con người ngày nay về cấu trúc của trái đất, Giáo Hoàng đã bắt buộc phải tuyên bố: “thiên đường không phải là một nơi trừu tượng mà cũng chẳng phải là một nơi cụ thể ở trên các tầng mây” (Heaven is neither an abstraction nor a physical place in the clouds), và “Hỏa ngục không phải là sự trừng phạt áp đặt từ bên ngoài bởi Thượng đế, mà là trạng thái hậu quả của những thái độ và hành động mà con người đã làm trong đời này” (Hell is not a punishment imposed externally by God, but the condition resulting from attitudes and actions which people adopt in this life).

Chấp nhận thuyết Big Bang, thuyết tiến hóa, chấp nhận con người không phải là do Thượng đế tạo ra tức thời mà chính là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần và lâu dài, thú nhận không làm gì có thiên đường (một cái bánh vẽ trên trời để dụ những người đầu óc mê mẩn, yếu kém), và hỏa ngục (một nơi để hù dọa những người không tin Chúa), Giáo hoàng đã chính thức bác bỏ thuyết “sáng tạo” của Ki Tô Giáo, phá tan huyền thoại về Adam và Eve là tổ tông loài người do Thượng đế tạo dựng từ đất sét, và kéo theo không làm gì có chuyện Adam và Eve sa ngã tạo thành tội tổ tông. Do đó, vai trò “chuộc tội” và “cứu rỗi”của Giê-su chỉ là những luận điệu thần học lừa dối của giới giáo sĩ Ki Tô Giáo khi xưa, được tiếp tục đưa ra không ngoài mục đích khai thác lòng mê tín của một số người, huyễn hoặc và khuyến dụ họ tin vào những điều không thực. Do đó, danh từ “thánh giá”, biểu tượng của “chuộc tội” và “cứu rỗi”, đã không còn ý nghĩa và trở lại nguyên vị là một cây thập ác dùng để hành quyết một cách vô cùng dã man các tội phạm dân sự. Những tín đồ Ca-tô cảm thấy hãnh diện khi đeo cây thập ác trên ngực nhưng không hề biết là người ngoài đạo đã nhìn cây thập ác đó như thế nào, và cảm thấy thực sự tội nghiệp cho người đeo như thế nào.

Thảm cảnh của các tín đồ Ki Tô Giáo, phần lớn là những người dân thường kém hiểu biết nên rất dễ bị huyễn hoặc, là họ tiếp tục bị nhốt trong những ốc đảo ngu dốt [từ của Linh mục Trần Tam Tĩnh], không hề biết đến những tiến bộ kiến thức của nhân loại mà Giáo hội đã phải chấp nhận qua những phát biểu của Giáo hoàng ở trên. Bởi vì, họ chưa bao giờ được nghe các linh mục, mục sư cho biết những điều này trong nhà thờ, dù có thể những vị này cũng đã biết nhưng vẫn dấu kín trước đám tín đồ thấp kém ở dưới, cho rằng để giữ đức tin của tín đồ không bị chao đảo nhưng thực ra chỉ để duy trì những quyền lợi thế tục trên đám tín đồ thấp kém ở dưới..

Tôn giáo là một phần của xã hội, có ảnh hưởng đến mọi mặt của xã hội, và không có lý do gì có thể đứng trên xã hội, ngoài vòng kiểm soát của chính quyền. Chính quyền có bổn phận phải kiểm soát tôn giáo, không phải kiểm soát về phương diện tín ngưỡng, thờ phụng, giáo lý v…v…, mà là kiểm soát về những hoạt động xã hội có ảnh hưởng đến mọi tầng lớp dân chúng và tín ngưỡng khác nhau trong xã hội, đến sự ổn định, an sinh và bình an của dân chúng. Chính quyền nên phối hợp với tôn giáo trong việc kiểm soát về những hành vi của các nhân sự trong tôn giáo. Mặt khác, tôn giáo cũng nên dựa vào chánh quyền để thanh lọc những thành phần bất xứng trong tôn giáo, những thành phần nấp sau bộ mặt tôn giáo nhưng không xứng đáng vì tư cách và đạo đức cá nhân không phù hợp với những tiêu chuẩn của tôn giáo. Nước Mỹ là nước tuyệt đối tôn trọng tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo, nhưng vẫn không dung dưỡng cho hệ phái tôn giáo của David Koresh ở Waco, Texas, với kết quả là toàn bộ hệ phái này gồm cả phụ nữ và trẻ con bị chết cháy trong một tai nạn do cuộc tấn công của chính quyền vào cứ điểm của Koresh bằng xe tăng. Chính quyền cũng không dung dưỡng cho trên 5000 linh mục can tội loạn dâm, dù rằng giáo hội Ca-tô đã cố tình bưng bít, che dấu và khẳng định một luật xưa của giáo hội, khi giáo hội đứng trên thế quyền, rằng chuyện của các linh mục là chuyện nội bộ, phải do giáo hội xét xử, chính quyền không có quyền can thiệp.

Bài viết này là một bài nghiên cứu trí thức trong lãnh vực học thuật (scholarship), dựa trên những tài liệu của các bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo và những bậc trí thức, học giả trong các xã hội Âu Mỹ, không phải là ý kiến của người viết bài này. Đây là một trong loạt bài giải hoặc Ca-tô Rô-maGiáo để người Ca-tô Giáo cũng như người ngoài đạo biết rõ về Ca-tô Rô-maGiáo. Điều rõ ràng qua những vụ như ở Tòa Khâm Sứ, Ấp Thái Hòa, Tam Tòa v..v.. là người Ca-tô Rô-maGiáo chưa được hiểu biết đúng mức về chính tôn giáo của họ, cho nên vẫn còn hung hăng cuồng tín và coi thường luật pháp quốc gia.

Chính quyền cần phải giáo dục họ, và người dân trí thức trong nước cũng cần tiếp tay với chính quyền trong nhiệm vụ này. Cách giáo dục tốt nhất là, vì tương lai quốc gia, hãy cho phổ biến trong quần chúng và nhất là trong những cộng đồng Ca-tô Rô-maGiáo ở Việt Nam những tài liệu nghiên cứu nghiêm chỉnh về Ca-tô Rô-maGiáo, tổ chức những cuộc hội thảo tỷ giảo về mọi tôn giáo trong lãnh vực học thuật. Người ngoại đạo cần biết rõ thực chất của Ca-tô Rô-maGiáo để khỏi rơi vào cái thòng lọng của Ca-tô Rô-maGiáo, và hi vọng, đối với các tín đồ Ca-tô, một khi họ biết rõ về chính tôn giáo của họ thì họ sẽ được cất bỏ được gánh nặng của cái gông trên vai họ, hay cái vòng kim cô đang xiết chặt trên đầu họ, đúng như lời của Giê-su trong Tân ước: “Sự thật sẽ giải thoát các ngươi.”

Lẽ dĩ nhiên, giới chăn chiên sẽ cố hết sức ngăn chận việc phổ biến các tài liệu nghiên cứu này, hoặc ở trên Internet, trên những trang nhà có nhiều bài nghiên cứu về Ki Tô Giáo như giaodiemonline hay sachhiem, và cấm không cho các con chiên đọc những tài liệu thuộc loại này đã được in thành sách, vì giáo hội rất sợ sự thật đến tai các con chiên. Sách lược giam giữ tín đồ trong bóng tối trí thức này, giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo ở Âu Châu đã từng làm trong nhiều thế kỷ, với những sách lược như cấm tín đồ không được tự đọc thánh kinh, cấm tín đồ không được đọc những tác phẩm nằm trong danh sách các cuốn sách cấm đọc của giáo hội, nhưng đã hoàn toàn thất bại trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại. Vì một khi các tài liệu đã được phổ biến rộng rãi như trong phương trời Âu Mỹ, thì không có cách nào mà giáo hội có thể tiếp tục giam hãm tín đồ trong vòng đen tối trí thức và tâm linh. Cho nên đầu óc của tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo ở Âu Mỹ không còn ngu dốt, hung hăng, cuồng tín như các tín đồ ở một số địa phương lạc hậu. Kinh nghiệm này đã quá rõ ràng ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là ở Âu Mỹ.

Tôi xin đón nhận mọi phê bình, hay phản bác, trong lãnh vực học thuật, những sự kiện lịch sử trong bài này.

Trần Chung Ngọc


Các bài tôn giáo cùng tác giả