XUNG QUANH CHUYỆN CHÚA CHẾT

Trần Chung Ngọc

18 tháng 3, 2008

Trong thế giới của Ki-Tô Giáo, ngày Thứ Sáu Tốt Đẹp (Good Friday) là ngày Chúa Chết. Các giáo hội Ki-Tô, nhất là Ca-Tô Giáo Rô-ma, đều dạy tín đồ phải hoan hỉ suy niệm và ăn mừng ngày Chúa Chết. Tôi không hiểu là Ngày “Good Friday” đó “good” đối với ai, nhưng nhất định đó không phải là một ngày “Good”, mà là một ngày đen tối, thê thảm nhất đối với Giê-su, Chúa của những người ăn mừng cái chết trên thập giá của Ngài, vì nhờ đó mà họ được làm lành với Chúa Cha, tội tổ tông của họ được chuộc bỏ, và thiên đường của Ca-Tô Giáo đang chờ họ đến ngày phán xét được Chúa bốc cả phần hồn lẫn phần xác, không biết đã chết tự bao giờ, lên trên đó, sống cuộc sống đời đời với Giê-su, hưởng nhan thánh Chúa v..v… Tín đồ Ca Tô bị giáo hội lừa dối, dạy rằng đó là ngày Giê-su chịu chết để chuộc cái tội tổ tông hoang đường của nhân loại. Nhờ cái chết đó mà tín đồ được Chúa Cha tha thứ và được lên thiên đường nếu chịu tin Chúa, hầu hạ việc Chúa v..v…. Nhưng trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, chúng ta đã biết, những giáo điều thần học về tội tổ tông, chuộc tội, cứu thế, cứu rỗi, thiên đường, hỏa ngục v..v.. chẳng qua chỉ là những huyền thoại của thời bán khai, như Linh Mục James Kavanaugh đã viết trong bài “Huyền Thoại Cứu Rỗi” (The Salvation Myth), và Giám Mục John Shelby Spong trong bài “Giê-su Như Là Đấng Cứu Thế: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ” (Jesus As Rescuer: An Image That Has To Go), vừa đăng trên sachhiem.net mới đây.

Giáo hội biết tín đồ không bao giờ đọc Thánh Kinh, và giới chăn chiên cũng không bao giờ giảng về tâm trạng của Giê-su trước khi chết dù Thánh Kinh đã viết rõ. Tâm trạng này trái ngược hẳn với những lời tuyên truyền sai sự thực của giới chăn chiên. Như vậy, bổn phận của chúng ta ngày nay là phải cứu những tín đồ Ki Tô Giáo ra khỏi cái ngục tù tâm linh mà giáo hội đã nhốt họ vào từ nhiều năm, cha truyền con nối. Bài viết này không ra ngoài mục đích trên và hi vọng sẽ có tín đồ có đủ khả năng và dũng cảm để “tự cứu” như Charlie Nguyễn.

Chuyện Chúa chết, và sống lại, theo nền thần học Ki Tô Giáo, được tóm tắt trong một câu trong Kinh Tin Kính của Ca-Tô Giáo Rô-Ma. Một Kinh mà các tín đồ bắt buộc phải tin tất cả những gì ở trong đó, không tin thì không được lên thiên đường của Ca-Tô Giáo Rô-ma. Có nhiều điều rất hoang đường trong đó, như tôi đã phân tích trong cuốn Đức Tin Công Giáo. Ở đây tôi chỉ phân tích chuyện Chúa Chết và Sống Lại. Câu trong Kinh Tin Kính như sau:

...[Giê-su] Chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đanh trên cây thánh giá, chết và táng xác, xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại, lên trời ngự bên hữu đức Chúa Cha phép tắc vô cùng; ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết..

(Jesus Christ) suffered under Pontitus Pilate, was crucified, dead (died), and (was) burried; he descended into hell (on) the third day he rose again [from the dead]; he ascended into heaven and sitteth (is seated) on (at) the right hand of [God] the Father [Almighty] from thence he shall (will) come (again) to judge the living and the dead.

Những phần để trong dấu ngoặc cong (..) là thuộc bản văn mới trong cuốn Catechism of the Catholic Church, xuất bản năm 1994, hoặc để thay một từ cũ, hoặc mới thêm vào. Còn những phần trong dấu ngoặc thẳng [..] là trong bản văn cũ được bỏ đi:

Trong lãnh vực học thuật ngày nay, phân tích bình luận câu trên với lôgíc hi vọng sẽ cho chúng ta thấy rõ vấn nạn thần học của Ki Tô Giáo. Vậy thì tôi xin cắt câu trên ra từng phần để mà phân tích và bình luận.

1. Giê-su chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô.

Thứ nhất, câu Chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô” chứng tỏ rằng không phải là Giê-su tình nguyện leo lên thập giá để cho người ta đóng đinh để rửa sạch tội lỗi của con người theo như lời thuyết giảng hoang đường của giáo hội.

Thật vậy, chúng ta có thể thấy rõ tính chất hoang đường của thuyết “chuộc tội” qua hai đoạn văn cực kỳ mâu thuẫn sau đây trong cuốn Trần Lục, viết bởi Đức Ông Trần Văn Khả, trang 273:

Núi này (núi Sọ) ghi lại việc Chúa Ki Tô chịu đóng đinh và chết trên cây thập tự.

Rồi tới trang 279, Đức Ông Khả viết:

Ở đây chúng ta nhận thấy có lòng sùng mộ đặc biệt đối với Phép Thánh Thể, với cuộc tử nạn của Chúa Giêsu Ki Tô.

Vậy thì Chúa Giêsu tự nguyện chịu đóng đinh hay là bị tử nạn? Chịu đóng đinh là bằng lòng leo lên thập giá để cho người ta đóng đinh lên mình. Còn tử nạn là vì tai nạn mà chết, ngoài ý muốn của mình. Điều mâu thuẫn trên thuộc loại "giáo hội dạy rằng", và tín đồ, kể cả Đức Ông, nhắc lại mà không suy nghĩ. Chúng ta thấy rằng, đầu óc của một Đức Ông mà còn như vậy, huống chi là đầu óc của những tín đồ trong tầng lớp thấp kém của xã hội.

Nhưng đọc Tân ước, chúng ta thấy rõ ràng là Giê-su đâu có tự nguyện chịu đóng đinh và chết trên cây thập tự? Những đoạn sau đây trong Tân ước viết rõ như vậy. Thật vậy, chúng ta hãy đọc vài đoạn trong cuốn kinh của Ki-Tô Giáo, Thánh kinh Hội Quốc Tế xuất bản, Văn phẩm Nguồn Sống phát hành, 1994, Mark 14; 33-36:

... Ngài cảm thấy hoang mang, sầu não vô cùng. Ngài bảo (các môn đồ. TCN): “Linh hồn ta buồn rầu cho đến khi chết” Chúa đi một quãng, rồi quỳ sấp dưới đất, cầu xin cho giờ phút khủng khiếp đừng đến với Ngài nếu có thể được. Ngài cầu nguyện: “Thưa Cha, Cha quyền phép vô cùng, xin cho con khỏi uống chén (đau khổ bị hành hình) này, nhưng xin theo ý Cha, chứ không theo ý con.”

Luke (Lưu Ca) 22:44 còn mô tả cảnh Giê-su cầu nguyện như sau:

Trong lúc đau đớn thống khổ, Chúa cầu nguyện càng tha thiết, mồ hôi toát ra như những giọt máu nhỏ xuống đất.

Đó là tâm trạng của Giê-su trước khi biết mình sắp bị bắt và bị xử đóng đinh trên thập giá như nhiều tội phạm khác cùng thời. Như vậy có phải là ông ta tình nguyện leo lên thập giá, chịu cho người ta đóng đinh, để chuộc tội cho nhân loại như lời diễn giảng láo lếu của giáo hội hay không? Và chúng ta cũng đừng quên, trước khi thở hắt ra, Giê-su còn nói lên một câu đầy thất vọng: “Chúa tôi ơi! Chúa tôi ơi! Sao ngài lìa bỏ tôi?.. như được viết rõ trong phúc âm Matthew 27 và Mark 15. Hiển nhiên là Giê-su cũng sợ chết, không muốn chết, và còn thua xa nhiều nhân vật trong lịch sử như Socrates, Giordano Bruno, hay Trần Bình Trọng, rất thản nhiên trước cái chết. Mới sắp sửa bị bắt mà đã rên rỉ cầu nguyện Cha đẻ của mình đừng bắt mình phải chết, nhưng ông Cha này là Thiên Chúa không phải là người, nên có máu lạnh, vô tình vô nghĩa, tàn nhẫn nên cuối cùng vẫn bắt đứa con duy nhất của mình phải chịu cực hình trên cây thập giá. Cũng vì vậy mà G. W. Foote đã bình luận trong cuốn Những Chuyện Hư Cấu Trong Thánh Kinh về ngày chết của Giê-su như sau:

Cũng như ngày 25 tháng 12, được coi như là ngày sinh của Giê-su, là một chuyện giả tưởng hoàn mỹ mà giáo hội vay mượn từ dân gian cổ xưa, ngày Giê-su bị đóng đinh trên thập giá cũng có tính cách thuần túy tùy tiện. Nếu thực sự Giê-su chết thì ông ta cũng chỉ chết vào một ngày nào đó, và ngày này cố định trên lịch.. Ngày chết của ông ta bao giờ cũng rơi vào ngày thứ Sáu. Nhưng ngày thứ Sáu này khi thì trong tháng này, khi thì trong tháng khác, và không bao giờ giống nhau trong hai năm liên tiếp; điều này chứng tỏ chắc chắn là cái chết của “đấng cứu thế” là một chuyện xảy ra trong huyền thoại. Tại sao cái ngày chết của ông ta lại được quyết định bởi một sự tính toán thuộc môn thiên văn học? Tại sao nó phải là ngày thứ Sáu đầu tiên sau ngày trăng rằm và sau ngày xuân phân?

Mặt khác, chúng ta cần phải ghi nhận: “Ngày thứ Sáu tốt đẹp” là tên của ngày đã được xác định theo thiên văn. Đó thực ra là ngày mà tấn thảm kịch xảy ra trên Núi Calvary sau cơn khắc khoải và mồ hôi đổ ra như máu (của Giê-su) trong vườn Gethsemane. Cái con người than khóc: “Cha ơi, nếu có thể, xin đừng bắt con uống chén này” rồi khi cảm thấy cánh tay tử thần lạnh lẽo phủ lên người mình, còn than khóc cay đắng hơn nữa: “Chúa tôi ơi, Chúa tôi ơi, sao ngài lại lìa bỏ tôi?”, cái ngày đó mà gọi là “Ngày thứ Sáu tốt đẹp”. Đối với hắn ta (Giê-su), ngày đó là một ngày xấu hoặc một ngày đen tối. Vậy mà những tín đồ của hắn coi đó là ngày vui vẻ nhất trong lịch sử thế giới. Hắn chịu đau khổ để cho họ có thể vui mừng; hắn xuống địa ngục để cho họ có thể lên thiên đường; và họ đón chờ ngày tai họa đó với niềm vui và hân hoan. Con người thật là quá hão huyền và ích kỷ, và tôn giáo cũng thường vậy, tôn phong sự ích kỷ. Và trong những tôn giáo ích kỷ trên thế giới thì Ki Tô Giáo là tôn giáo ích kỷ nhất.

[Foote, G. W., Bible Romances, p. 203: Just as the twenty-fifth of December, as the birthday of Jesus, is a perfect fiction, having been borrowed by the Church from ancient Paganism, so the date of the Crucifixion is purely arbitrary. If Jesus died at all he died on a particular day, which should be a regular fixture in the calendar.. The anniversary of his death always falls on a Friday. But it is sometimes in one month; and sometimes in another, and is never on the same date two years running; which conclusively proves that the death of “the Saviour” is a mythological occurrence. Why else should its anniversary be determined by an astronomical calculation? Why should it be the first Friday after the first full moon after the spring equinox?

Another aspect of this matter should be noted. “Good Friday” is a singular name for this astronomically determined date. It is supposed to have been a day of tragedy on Mount Calvary after the agony and blood sweat of the Garden of Gethsemane. He who cried out “O my Father, if it is possible, let this cup pass from me,” cried out still more bitterly, as he felt the cold shadow of the wings of death hovering over him, “My God, my God, why hast thou forsaken me?” What a day to call Good Friday! To him it was Bad Friday or Black Friday. Yet his followers regard it as the happiest incident in the world’s history. He suffered that they might enjoy; he descended into hell in order that they might ascend into heaven; and they look upon this fatal day with gladness and rejoicing. So terribly vain and egoisticcal are human beings, and so generally is religion the consecration of selfishness! And of all the selfish religions in the world Christianity is the most selfish.]

Nền thần học của Giáo hội đã diễn giải tâm trạng sợ chết, không muốn chết của Giê-su như được viết rõ trong Tân ước thành tình nguyện chịu đóng đinh để cứu chuộc tội lỗi, đúng ra là cái tội tổ tông không hề có của nhân loại, và hứa hẹn sự cứu rỗi của Giê-su cho những ai tin, thực sự chỉ là một cái bánh vẽ trên trời. Đó là sự lắt léo của nền thần học Ki Tô Giáo, tùy tiện diễn giảng Kinh [Bible] để mê hoặc quần chúng. Chúng ta hãy đọc tiếp câu sau.

2. Chịu đóng đanh trên cây thánh giá, chết và táng xác, xuống ngục tổ tông,

Trước hết, cái giá bằng gỗ hình chữ thập mà Giê-su bị đóng đinh trên đó không phải là “thánh giá” như bản văn tiếng Việt cố tình dịch sai để vinh danh Giê-su. Bởi vì, hình phạt đóng đinh trên giá gỗ hình chữ thập là một cực hình của đế quốc La Mã dành cho những kẻ nô lệ phạm tội, trộm cắp, giết người, phản loạn v..v.. Thánh Kinh viết rõ, (Luke 23: 32,33; Matthew 27: 38)) Giê-su bị xử đóng đinh trên giá gỗ hình chữ thập cùng lượt với hai tên tội phạm, trộm cướp (criminals, robbers) khác. Không có lý do gì để chúng ta tin rằng cái giá gỗ mà Giê-su bị đóng đinh trên đó khác với những giá gỗ cùng loại trong thời đó. Bản văn bằng tiếng Anh viết là Giê-su “was crucified” chứ không phải là “was nailed on the holy cross”. Mà “crucify” trong tự điển có nghĩa là: 1. Xử tử hình bằng cách đóng đinh hoặc trói trên một giá hình chữ thập (To put to death by nailing or binding to a cross) [not a holy cross. TCN]; 2. Đối xử một cách độc ác, hành hạ (To treat cruelly; torment). Cho nên, chẳng có gì có thể gọi là “thánh” ở đây cả. Ca Tô Giáo đã thánh hóa một vật thuộc một cực hình tàn nhẫn và dã man nhất của nhân loại. Người ta đã tôn sùng một biểu tượng của sự tàn ác, cố tình quên đi sự khủng khiếp kết hợp với cây thập giá. Thật vậy, chúng ta hãy đọc một đoạn nói về cực hình này của Russell Shorto trong cuốn Sự Thực Trong Phúc Âm:

Được đưa vào nghệ thuật Ki Tô qua nhiều thế kỷ, cực hình đóng đinh trên thập giá đã trở thành một kiểu trình bày ước lệ cao - đến độ như là một vật đẹp đẽ, làm cho ta khó mà có thể tưởng tượng được sự khủng khiếp thực sự của nó. Nhưng thực tế là một cái gì khác hẳn. Trước hết, chúng ta hãy xét đến ý nghĩa khủng khiếp của nó trong một xã hội mà nhân phẩm - ngay cả nhân phẩm của một nông dân - là đức tính cao nhất. Mang ra nơi công cộng - kết tội, phơi trần truồng (trên thập giá. TCN. Nghệ thuật Ki Tô thường đóng thêm cái khố vào cho Giê-su trên thập giá) và chết dần trong hấp hối - là hình phạt dã man hơn sự hành quyết nhiều.

Rồi có cả sự tra tấn. Thường là nạn nhân bị trói vào cột rồi bị quất, hoặc bằng một cây roi ngắn gồm có nhiều sợi dây da trên có đính những hạt bằng chì hay những mẩu xương, hoặc bằng gậy. Nạn nhân thường bị đóng lên giá hình chữ thập ở ngay dưới đất rồi giá được dựng thẳng đứng lên. Đinh thường được đóng qua bàn tay hay cổ tay và bàn chân..

[Russell Shorto, Gospel’s Truth, p. 198: Over centuries of incorporation into Christian art, crucifixion has become highly stylized - a thing of beauty, even - that it is difficult to imagine the true horror of it.. But the reality was something else. Consider, first, the horror it meant in a society where personal dignity - even a peasant’s dignity - was the highest virtue. To be made a public spectacle - convicted of a crime, exposed naked, and dying in agony - was punishment far beyond mere execution.

Then there is the torture. It generally included being bound to a post and flogged, either with a short whip consisting of several leather tongs beaded with lead or bone tips, or with sticks. The victim was usually mounted to the crossbar on the ground and it was then hoisted up and attached to the upright. Nails were usually driven through the hands or wrists, and the feet..]

Cây thập giá, tượng trưng cho một loại hình phạt man rợ và khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại, nay đã biến thành vật hàng triệu người tôn thờ. Tôi không biết người khác nghĩ sao chứ mỗi khi tôi nhìn thấy cây thập giá bất cứ ở đâu, trên nóc nhà thờ, trên bộ áo khoác, hay đeo trên cổ của bất cứ ai, là tôi lại nhớ đến cái cực hình đóng đinh trên thập giá của dân La Mã cổ xưa, đã từng gây ra sự đau đớn cùng cực của hàng trăm ngàn con người, và tôi nghĩ rằng không có cách nào có thể làm cho tôi tôn thờ một vật có một lịch sử dã man đẫm máu như vậy, dù đó là cái thập giá mà Giê-su hoặc bất cứ ai bị đóng đinh trên đó. Tín đồ Ki Tô Giáo thật là kỳ lạ, họ tôn vinh một vật mà Chúa của họ chịu cực hình trên đó. Họ hân hoan tin rằng sự đau khổ của Chúa chính là phương tiện giúp họ lên thiên đường. Họ chỉ nghĩ đến thiên đường và ghi ơn sự chịu cực hình của Chúa họ. Tôi nghĩ không có tôn giáo nào có thể nhồi vào đầu óc con người những ý tưởng vô cùng ích kỷ như là Ki Tô Giáo.

Vì ngày nay, những luận điệu thần học như tội tổ tông, cứu chuộc v..v.. đã không còn giá trị, cho nên nhiều học giả, ở trong cũng như ở ngoài giáo hội, đều đồng thuận ở điểm: “Trong Kinh Tin Kính của Ca-Tô Giáo, chỉ có câu trên là có tính chất xác thực lịch sử, nghĩa là, “đích thực Giê-su bị đóng đinh trên thập giá, chết, và táng xác. Chấm hết” (Historically verifiable that Jesus was crucified, died, and was buried. Period). Còn những huyền thoại về Giê-su trước khi bị xử tử, xung quanh cuộc hành quyết, và sau khi chết, thì không thể nào tin được đó là những sự kiện lịch sử (historical facts), và tuyệt đối không có một giá trị thuyết phục nào trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại.

Trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, Giáo hội Ca-Tô không còn có thể lừa dối con người bằng củ cà rốt Thiên Đường và cây gậy địa ngục được nữa. Cho nên, tháng 7, 1999, Giáo Hoàng Gion Pôn Hai đã phải thú nhận rằng không làm gì có thiên đường ở trên các tầng mây, mà cũng không làm gì có hỏa ngục ở dưới đất, tất cả đều do tâm con người tạo ra mà thôi. Điều thú nhận này đã làm cho hàng triệu tín đồ thất vọng, vì điều mà họ mơ ước được lên thiên đường hưởng nhan thánh Chúa rút cục đã thực sự trở thành cái bánh vẽ trên trời (A Pie-in-the-sky), đúng như nhận định của Mục sư Ernie Bringas. Mặt khác, “tội tổ tông” chỉ là một huyền thoại cho nên không làm gì có cái gọi là “ngục tổ tông” để mà Giê-su “xuống” sau khi chết. Trong mấy trăm năm nay, các tín đồ Ca-Tô được dạy để đọc Kinh Tin Kính hàng ngày mà không biết rằng đó chính là những lời lừa dối do chính giáo hội đặt ra để huyễn loặc làm mê mẩn đám tín đồ không có mấy đầu óc.

Các tín đồ Ca-Tô ở những địa phương như Việt Nam, Phi Luật Tân, Phi Châu, Nam Mỹ v..v.. thường không biết rằng các bậc lãnh đạo trong Ca-Tô Giáo Rô-ma của họ đã từ bỏ những niềm tin về tội tổ tông, về quỷ Satan, và về nhiều giáo lý căn bản khác từ lâu rồi. Giáo hội sống còn là nhờ vào mớ quyền năng tự tạo cho giới chăn chiên, khai thác sự yếu kém tinh thần và trình độ hiểu biết của đa số giáo dân, và nhất là chủ trương “ngu dân dễ trị”, cho nên không bao giờ dám cho giáo dân biết những sự thực về Giáo hội, về nền thần học Ki Tô Giáo, về cuốn Kinh của Ki Tô Giáo (Bible). Ngày nay, mớ quyền năng đó đã trở thành những màn lừa dối để lùa những con người đầu óc thấp kém vào vòng mê tín nên, nhưng trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, ngay cả một số không nhỏ những tín đồ Ca-Tô bình thường cũng như những người trí thức trong giáo hội cũng không còn tin, trừ số tín đồ sống trong những ốc đảo ngu dốt trong các địa phương chậm tiến. Điều này thấy rõ hơn gì hết ở Âu Châu, cái nôi của Ca-Tô Giáo Rô-ma trước đây, một lục địa mà chính Giáo hoàng Benedict XVI cùng Hội Đồng Giám Mục Âu Châu đã phải thú nhận là sống không cần đến Thiên Chúa mà cũng chẳng cần đến ảo tưởng “cứu rỗi” của Giê-su.

Bất cứ ai quan tâm đến vấn nạn Ca-Tô Giáo Rô-ma cũng nên đọc cuốn The Decline and Fall of the Roman Church nếu họ muốn biết về lịch sử của Giáo hội Ca-Tô Rô-ma từ thời Peter (Phê-rô) đến thời Giáo hoàng John Paul II. Nơi trang 230, Malachi Martin, Giáo sư tại Viện Nghiên Cứu Kinh Thánh ở Rô-ma (a Jesuit Professor at the Pontifical Biblical Institute in Rome), đã phục vụ dưới triều Giáo hoàng John XXIII, viết:

Giáo Hoàng John XXIII, trong buổi khai mạc Công Đồng Vatican II ngày 11 tháng 10, 1962, nói rằng: "những giáo lý và quan niệm sai lầm vẫn còn tồn tại nhiều, nhưng ngày nay con người đã tự ý loại bỏ chúng... Nhưng nếu Roncalli (John XXIII) không thấy là điều giảng dạy mới của mình đi tới kết quả nào, thì hàng trăm nhà thần học và giám mục đã thấy. Trong những thập niên 1960-70, sau khi Roncalli chết, họ đã từ bỏ niềm tin về tội tổ tông, về quỷ Satan, và về nhiều giáo lý căn bản khác.

(Pope John XXIII told the opening session of his council on October 11, 1962, that "false doctrines and opinions still abound," but that "today men spontaneously reject" them... But if Roncalli did not see where his new teaching was leading, hundreds of theologians and bishops did. In the sixties and the seventies after Roncalli's death, they drew these conclusions and abandoned belief in original sin, in the Devil, and in many other fundamental doctrines.)

Tại sao các nhà thần học và giám mục lại từ bỏ thuyết thần học về tội tổ tông, về quỷ Satan và về nhiều giáo lý căn bản khác như “ơn cứu chuộc của Chúa”, “Chúa sống lại”, hay “Đức Mẹ đồng trinh” v..v..? Vì, như chính Giáo hoàng John XXIII đã nhận xét, đó là những giáo lý và quan niệm sai lầm nhưng trong một thời gian lâu dài nhiều thế kỷ đã làm chủ lực tinh thần của Ca-Tô Giáo Rô-ma, và nay vẫn còn tồn tại trong đám tín đồ thấp kém. Các nhà thần học và giám mục hiển nhiên là những người có trình độ, không như đám giáo dân ở dưới, cho nên ngày nay, những giáo lý có tính mê hoặc của giáo hội trước đây đã không còn phù hợp với trình độ hiểu biết tiến bộ của nhân loại, hơn nữa lại còn chứa những mâu thuẫn mà không nhà thần học nào có thể biện minh được. Do đó, họ bắt buộc phải từ bỏ nếu không muốn đặt mình vào vị thế của những kẻ lạc hậu về kiến thức, về tư duy. Nhưng điều đáng nói là, sự từ bỏ những giáo lý và quan niệm sai lầm của giáo hội chỉ thu hẹp trong giới trí thức Ca-Tô, chưa hề được truyền xuống giới giáo dân, vì tuy giới chăn chiên cũng đã nhận ra những giáo lý và quan niệm sai lầm này, nhưng họ vẫn giữ chặt, không dám cho đám con chiên biết, sợ rằng đức tin của con chiên bị chao đảo, kéo theo sự mất đi quyền lực tinh thần cũng như vật chất của họ. Đây là tình trạng thực sự của Giáo hội Ca-Tô Rô-ma ngày nay, giới chăn chiên sống trên sự ngu dốt của tín đồ mà họ kiên trì duy trì, cho nên, đúng như Russell Shorto đã nhận định, những tín đồ tiếp tục sống trong bóng tối là những tín đồ bình thường..

3. Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại, lên trời ngự bên hữu đức Chúa Cha phép tắc vô cùng.

Chuyện Chúa sống lại là một chuyện rất mâu thuẫn, có nhiều chi tiết rất tiếu lâm, nếu chúng ta đọc cuốn Kinh của Ki Tô Giáo với một đầu óc sáng sủa, phân tích, một loại đầu óc mà Giáo hội Ca-Tô ghét nhất. Chẳng thế mà đã có một thời Giáo hội cấm tín đồ đọc cuốn Kinh này vì e rằng tín đồ sẽ khám phá ra những lời diễn giảng Kinh sai lầm của Giáo hội. Nhưng từ khi cuốn Kinh được dịch ra những tiếng địa phương thì Ca-Tô Giáo nói riêng, Ki Tô Giáo nói chung, bắt đầu suy thoái.

Các học giả nghiên cứu Thánh Kinh đều đồng ý là trong bốn Phúc Âm thì Phúc Âm của Mark là cổ nhất, viết vào khoảng 40 năm sau khi Giê-su chết. Ba Phúc Âm kia, Matthew, Luke, John đều viết sau Phúc Âm của Mark nhiều năm, thí dụ Matthew viết vào khoảng cuối thế kỷ 1, sau Mark khoảng 20 năm. Trước hết chúng ta hãy đọc chuyện Chúa sống lại trong Mark 15 và 16.

Mark 15: 42-47; 16: 1 -8:

“Hôm đó, nhân ngày chuẩn bị lễ Vượt Qua. Đến chiều tối, Joseph, người Arimathea, một thành viên có uy tín trong Hội Đồng Quốc Gia, từng trông đợi Nước Trời, bạo dạn đến xin Philate cho lãnh xác Giê-su. Philate không tin Giê-su đã chết nên gọi tên đội trưởng đến hỏi xem Giê-su đã chết thật chưa. Khi viên đội trưởng xác nhận Giê-su đã chết, Philate cho phép Joseph lãnh xác Giê-su.

Joseph mua một cây vải gai, gỡ xác Giê-su xuống khâm liệm, rồi đặt xác Giê-su trong một nấm mồ đục bên sườn núi đá, rồi lăn một tảng đá lớn chặn trước cửa mồ. [Cửa mồ lớn bao nhiêu để Joseph có thể mang xác Giê-su vào trong đó. Và tảng đá phải lớn bao nhiêu, nặng bao nhiêu để Joseph có thể lăn nó che lấp của mồ?. TCN]

Và Mary Magdalene và Mary, Mẹ của Joses nhận biết nơi đặt xác Giê-su..

..Ngày thứ Bảy qua, Mary Magdalene, Mary, mẹ của James và Salome đi mua hương liệu để ướp xác Giê-su. Sáng sớm Chủ Nhật, lúc mặt trời mọc, họ cùng nhau đi tới mộ Giê-su, hỏi nhau không biết nhờ ai lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ. [Nghĩa là tảng đá rất nặng, ba người họ họp sức cũng không thể lăn nổi. TCN]

Nhưng khi tới nơi thì tảng đá lớn đã được lăn ra khỏi cửa mộ rồi. Vào trong nhà mồ, họ thấy một thanh niên mặc áo dài trắng ngồi ở phía bên phải làm cho họ hoảng sợ.

Nhưng người thanh niên nói: "Đừng sợ! Các ngươi đến tìm Giê-su ở Nazareth, người đã bị đóng đinh trên thập giá. Ông ta sống lại rồi. Ông ta không có ở đây. Vào mà coi chỗ người ta đặt xác ông. Hãy đi báo cho các môn đệ của ông - và Peter (Phê-rô) - rằng Giê-su đã đi đến xứ Galilee trước họ rồi, và họ sẽ thấy Giê-su ở đó, như ông đã dặn trước. [Người thanh niên này là ai, là người hay là ma, không thấy Tân ước nói. TCN]

Ba người bèn chạy nhanh ra khỏi mộ vì họ run sợ và thấy kỳ lạ. Và họ không nói với ai lời nào vì sợ." [Vấn đề ở đây là Mark viết Phúc Âm Mark vào khoảng 40 năm sau khi Chúa Chết. Mark không thể có mặt ở ngôi mộ Giê-su để mà tả lại những chi tiết như vậy. Chắc chắn là hoặc Mark bịa ra chuyện này, hoặc nghe người khác kể lại. Ai là kẻ kể lại, có đáng tin không? Chi tiết này cũng không thấy Mark viết. TCN]

Nhưng chúng ta hãy so sánh chuyện Chúa sống lại của Mark với chuyện Chúa sống lại trong Matthew 27: 57-66 và Matthew 28: 1-8:

Đến tối (thứ Sáu), Joseph, một người giàu có ở vùng Amarithea, cũng là một môn đệ của Giê-su, đến xin Philate cho lãnh xác Giê-su. Philate ra lệnh trao xác Giê-su cho ông. Khi Joseph hạ thi hài Giê-su xuống, ông gói xác trong một tấm vải gai sạch, rồi đặt xác Giê-su trong một hầm mộ ông đục trên sườn núi đá. Joseph lăn một tảng đá lớn chặn trước của mộ rồi bỏ đi. Mary Magdalene và bà Mary kia vẫn ngồi trước mộ.

Hôm sau, kế ngày chuẩn bị lễ Vượt Qua, các thầy trưởng tế và Pharisees đến gặp Philate và thưa rằng: "Thưa Ngài, chúng tôi nhớ rằng khi còn sống, tên lừa bịp này (Giê-su) đã nói: "Sau ba ngày ta sẽ sống lại". Để phòng mưu gian, xin Tổng Trấn ra lệnh canh gác kỹ mộ nó suốt ba ngày, như thế các môn đệ của nó không thể đánh cắp xác của nó rồi phao tin rằng nó sống lại.

Sự lừa bịp này còn tai hại hơn là sự lừa bịp trước." Philate nói: "Các ngươi có lính gác, cứ việc canh gác cho cẩn mật." Họ liền niêm phong tảng đá và đặt lính canh gác trước cửa mộ..

..Sáng Chủ Nhật, trời mới rạng đông, Mary Magdalene và bà Mary kia tới thăm ngôi mộ. Bỗng nhiên có một trận động đất lớn vì một Thiên sứ từ trên trời bay xuống, lăn tảng đá lớn ra khỏi cửa mộ rồi ngồi lên trên đó., mặt sáng như chớp nhoáng, áo trắng như tuyết. Bọn lính gác khiếp sợ, đứng sững như xác chết. Nhưng Thiên sứ nói với hai người đàn bà: "Đừng sợ! Ta biết các ngươi đến tìm Giê-su, người đã bị đóng đinh trên thập giá. Ông ta không có ở đây, vì ông ta đã sống lại. Hãy vào mà coi chỗ người ta đặt xác Chúa.

Hãy đi lẹ và loan báo cho các môn đệ của ông ta rằng ông ta đã sống lại, và thật vậy, ông ta đã đi tới Galilee trước và các ngươi sẽ thấy ông ta ở đó. Hãy nhớ những lời ta nói. Hai người đàn bà vừa sợ vừa mừng, chạy vội ra khỏi mộ và đi báo tin cho các môn đệ của Giê-su.

Chúng ta thấy rằng chuyện Chúa sống lại trong Phúc Âm Mark và Phúc Âm Matthew hoàn toàn khác biệt nhau. Vậy chúng ta nên tin chuyện nào và căn cứ vào đâu mà tin chuyện đó. Nếu Mark đúng thì Matthew phải sai và ngược lại. Vấn đề là chúng ta không thể biết ai đúng ai sai. Nếu dùng lý trí để xét đoán một vấn đề thì khi chúng ta không thể căn cứ vào đâu để mà tin một trong hai chuyện Chúa sống lại kia thì chúng ta phải loại bỏ cả hai, vì ngày nay ai cũng biết chuyện Chúa sống lại chỉ là chuyện phịa.. Nhưng trong lãnh vực học thuật, các chuyên gia nghiên cứu Kinh của Ki Tô Giáo đã tìm ra nhiều điều thú vị trong chuyện Chúa sống lại trong Kinh này.

Thứ nhất, Matthew 12: 40 kể lời Giê-su “tiên tri” về sự sống lại của ông ta như sau:

“Chúa Giê-su đáp: “Như Giô-na (Jonah) đã nằm trong bụng cá 3 ngày 3 đêm, ta sẽ vào lòng đất 3 ngày 3 đêm..”

Nhưng thực ra, không phải là Chúa sống lại, nếu thực sự sống lại, sau 3 ngày 3 đêm mà sau chỉ có 1 ngày rưỡi và 2 đêm: từ 3 giờ chiều ngày thứ Sáu đến sáng sớm Chủ Nhật. Như vậy là lời tiên tri của Chúa có một sai số là 50%. Trong khoa học, một dữ kiện có sai số 50% kể như là vứt đi, không thể sài được.

Thứ nhì, trong Matthew, khi hai bà Mary đến nơi mộ Chúa thì tảng đá chặn cửa mộ vẫn còn đó. Rồi một Thiên sứ từ trên trời bay xuống và lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ. Ngôi mộ trống không. Vậy xác Chúa ra khỏi mộ bằng cách nào? Cho rằng linh hồn có thể đi qua kẽ đá được, nhưng xác thì đi qua tảng đá bằng cách nào?

Thứ Ba, cùng một chuyện Chúa sống lại mà bốn Phúc Âm mô tả khác nhau, nhiều khi đối nghịch hẳn nhau với nhiều chi tiết rất mâu thuẫn, vậy nếu dùng lý trí để hỗ trợ đức tin thì chúng ta phải tin như thế nào đây. Và nếu tin rồi, nghĩa là không cần biết đến những mâu thuẫn trong Kinh về chuyện Chúa sống lại, thì vai trò của lý trí đứng chỗ nào trong đức tin đó. Nếu chuyện Giê-su sống lại trong cả 4 phúc âm đều giống nhau thì chưa chắc điều này đã đúng như sự thực, vì rất có thể đó là niềm tin của một số người cùng nghe lại một truyền thuyết. Nhưng chi tiết trong 4 phúc âm về chuyện Giê-su sống lại có quá nhiều mâu thuẫn đối ngược hẳn nhau, điều này chứng tỏ cả 4 phúc âm chẳng qua chỉ là tác phẩm của 4 người diễn giải sự việc theo lời đồn đại khác nhau trong dân gian và theo niềm tin riêng của mình. Nhiều học giả nghiên cứu cuốn Kinh của Ki Tô Giáo đã khám phá ra rằng mỗi tác giả của 4 phúc âm đều có mục đích riêng khi viết chuyện giả tưởng về sự sống lại của Giê-su.

Những cuốn phân tích kỹ lưỡng nhất về những vấn đề ai là tác giả 4 phúc âm, viết với ý định gì, tài liệu lấy từ đâu và lấy như thế nào v..v.., có thể nói là những cuốn Ai Viết Những Phúc Âm? (Who Wrote The Gospels?) của Randel McGraw Helms Giáo sư đại học Arizona State University, Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ Con (Putting Away Childish Things) của Giáo sư Thần học Uta Ranke-Heinemann, Hãy Cứu cuốn Thánh Kinh Khỏi Phái Bảo Thủ (Rescuing The Bible From Fundamentalism) của Giám mục John Shelby Spong, và Năm Phúc Âm: Đích Thực Giê-su Nói Gì? (The Five Gospels: What Did Jesus Really Say?) của The Jesus Seminar. Học hội Giê-su kể luôn Phúc Âm Thomas nên mới là năm. Nhưng đây không phải là nơi bàn luận chi tiết về vấn đề này.

"Giáo hội dạy rằng": Giê-su sống lại 3 ngày sau khi chết, và 40 ngày sau thì "thăng thiên", nghĩa là cả hồn lẫn xác tự nhiên bốc lên trời, và hiện nay đang ngồi bên phải Chúa Cha ở trên Thiên Đường. Người nào tin ở Chúa, chỉ cần tin thôi, thì sau khi chết sẽ được lên Thiên Đường ở cùng Chúa. Nhưng vì Giáo Hoàng là "đại diện của Chúa", là người kế thừa Thánh Phê-rô giữ chìa khóa mở cửa Thiên Đường, nên các tín đồ Ca Tô phải tuyệt đối phục tùng và tuân lệnh Giáo Hoàng, nếu không, Giáo Hoàng hay Tòa Thánh Vatican ở Rô-Ma sẽ tuyệt thông, nghĩa là không cho phép tín đồ hưởng các "bí tích" để hiệp thông với Chúa trên Thiên Đường. Đây là những tín lý căn bản của Ca-Tô Giáo Rô-Ma mà các tín đồ bắt buộc phải tin, không tin thì không được chấp nhận là Ca-Tô hữu.

Nhưng đây chỉ là những lời giáo hội bày đặt ra để nắm giữ đầu óc đám tín đồ thấp kém, vì như chúng ta đã biết, không làm gì có chuyện Giê-su “xuống ngục tổ tông” mà cũng không làm gì có chuyện xác Giê-su bay lên trời. Thánh Phao Lồ (Paul) đã viết rõ trong I Cổ-Linh (Corinthians) 15: 50:

Thưa anh em. Tôi xin nói rõ thân thể bằng xương bằng thịt và máu không thể hưởng được nước Thượng Đế, vì thân thể hư nát không thể hưởng sự sống bất diệt.

Giê-su vẫn tự nhận một lúc 2 vai: Con của Thiên Chúa và Con của người (Son of Man). Con của Thiên Chúa thì chỉ có phần hồn, còn Con của Người thì phải có xác phàm bằng xương bằng thịt. Do đó Giê-su không thể nào bay lên trời ngự bên phải Thiên Chúa theo như sự bày đặt của vài tín đồ sùng tín tưởng tượng ra để thần thánh hóa Giê-su.

Tuy nhiên, dù Giáo Hoàng John Paul II đã chính thức tuyên bố cùng thế giới là không làm gì có thiên đường hay địa ngục như giáo hội vẫn thường dạy con chiên, nhưng tôi tin chắc đa số tín đồ Ca-Tô trên thế giới, nhất là những tín đồ Ca-Tô A-na-mít nhà ta, không hề biết đến chuyện này. Những lời tuyên bố công nhận sự thực khoa học của Giáo hội chỉ để chỉnh trang bộ mặt của giáo hội trước dư luận trí thức thế giới chứ không phải để cho các tín đồ biết. Đây là sách lược ngu dân dễ trị của giáo hội từ xưa tới nay. Lẽ dĩ nhiên đám tín đồ thấp kém vẫn còn hi vọng lên thiên đường cùng Chúa sau khi chết. Vậy thì thiên đường của Chúa mà giáo hội đã nhét vào đầu óc tín đồ trong mấy ngàn năm nay là như thế nào, và ở đâu?

Thiên Đường của Chúa ở trên một "Vòm" (vault) gọi là "Trời" (Heaven) mà Thượng Đế tạo ra trong ngày thứ nhì của 6 ngày "Sáng Thế". Muốn hiểu vòm Trời trên có hình dạng ra sao, chúng ta hãy đọc lời giải thích của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thọ, một tín đồ Ca-Tô trong khoảng 30 năm hồi thiếu thời, viết trong bài "Ít Nhiều Nhận Định về Thiên Chúa Giáo", đăng trong cuốn Tại Sao Không Theo Đạo Chúa, Tập I, trang 16:

"The New Jerusalem Bible của Công Giáo dịch là Vault (vòm), và chú rằng người dân Semites xưa coi cái vòm trời đó cứng chắc, có thể giữ nước ở phía trên, không cho rơi xuống trần gian. Nó hình nửa vòng cầu, hoặc như cái chảo úp, như ta thường trông thấy. Nó chắc chắn là phải hết sức cứng vì có thể chứa được một số nước khổng lồ bên trên. Vòm trời đó, theo Job, đã được đúc bằng "đồng thau" (Job 37:18). Vòm đó có những cửa. Khi muốn có Hồng Thủy, những "cửa trời" đó sẽ được mở ra cho nước trên trời tuôn xuống (Gen 7:11)...Cung đình Chúa và tòa ngôi ngài đặt trên vòm trời đó (Psalm 11:4), vì Sáng Thế Ký đã định nghĩa cái vòm đó là "trời" (Gen 1:8).

Chúa Giêsu cũng xác quyết Chúa Cha ở trên đó, khi Ngài dạy cầu xin: Lạy Cha chúng tôi ở trên trời (Mat. 6:9). Thánh Joan dạy rằng lúc thế mạt vòm trời đó sẽ bị cuộn lại, cuốn đi, như một trang sách (Rev 6:14). Chúng ta cũng nên nhớ rằng vòm trời đó có nhiều cột chống đỡ (Job 27:11); và trái đất cũng có nhiều cột chống đỡ (Job 9:6). Đất đã được Chúa đặt vững trên mặt nước (Psalm 136:6). Đất muôn đời đứng yên một chỗ (terra in aeternum stabat, Vulgate, Eccl. 1:4)."

Theo đức tin Ca-Tô Giáo thì cuốn Kinh của Ki Tô Giáo là những lời "mặc khải" của Thiên Chúa toàn năng sáng tạo ra vũ trụ và muôn loài nên không thể sai lầm. Chỉ có điều, trí tuệ của Thiên Chúa khi đó không hơn gì trí tuệ của những người bán khai là bao nhiêu cho nên mới "mặc khải" cho các "Thánh Tiên Tri" những lời trong cuốn Kinh mà trí tuệ của con người ngày nay đã hoàn toàn bác bỏ vì những lời "mặc khải" đó quá sai lầm, không đúng với thực tại.

Vào đầu thập niên 1920, các chuyên gia khảo cứu vũ trụ, qua những kính thiên văn tân kỳ, khám phá ra rằng giải Ngân Hà (Milky Way) mà Thái Dương Hệ (hệ thống mặt trời và các hành tinh xoay quanh mặt trời) của chúng ta nằm trong đó, có thể có tới cả trăm tỷ ngôi sao, mỗi ngôi tương tự như mặt trời trong Thái Dương Hệ, thật ra chỉ là một ốc đảo, một Thiên Hà (galaxy), trong vũ trụ. Các khoa học gia đã ước tính rằng trong vũ trụ có khoảng 50 tỷ thiên hà tương tự như giải Ngân Hà. Trong vũ trụ học, vì phải kể đến những khoảng cách vô cùng lớn nên người ta thường dùng đơn vị đo chiều dài là 1 năm ánh sáng, hoặc đơn vị parsec bằng hơn ba năm ánh sáng một chút (3.2616). Chúng ta đều biết, ánh sáng truyền trong không gian với vận tốc khoảng 300000 cây số trong một giây đồng hồ. Chúng ta cũng biết một phút có 60 giây, một giờ có 60 phút, một ngày có 24 giờ, và một năm có khoảng 365 ngày. Do đó, chúng ta có thể tính ra khoảng cách của một năm ánh sáng. Khoảng cách này vào khoảng 9460800000000 (9 ngàn 4 trăm 60 tỷ 8 trăm triệu) cây số, hoặc gần 6 ngàn tỷ miles.

Giải Ngân Hà có đường kính khoảng 100000 năm ánh sáng, và Thái Dương Hệ nằm cách xa tâm của giải Ngân Hà khoảng 30000 (ba mươi ngàn) năm ánh sáng. Chúa Giê-su mới "thăng thiên" cách đây khoảng 2000 năm, và dù cho chúng ta chấp nhận Chúa thăng thiên với vận tốc của ánh sáng, một vận tốc giới hạn của mọi vật chất, thì Thiên Đường của Chúa cũng chỉ quanh quẩn đâu đó cách đây nhiều nhất là 2000 năm ánh sáng. Chỉ phiền có một điều, điểm đặc biệt trong những khám phá mới về vũ trụ là các kính thiên văn tối tân nhất hiện nay đã quét khắp vòm trời, đến tận những thiên hà cách xa trái đất cả hơn 10 tỷ năm ánh sáng, mà không thấy bóng dáng của Thiên Đường ở đâu. Nếu cho rằng Thiên Đường ở xa hơn nữa, ngoài tầm khảo sát của các kính thiên văn, thì lại đưa đến một vấn đề: cũng phải ít nhất là 10 tỷ năm nữa Chúa Giê-su mới lên tới Thiên Đường. Các tín đồ Ca-Tô tin tưởng rằng sẽ được lên Thiên Đường cùng Chúa sau khi chết nên chuẩn bị một thời gian ít ra là 10 tỷ năm trước khi có thể thấy dung nhan Chúa trên Thiên Đường. Dù vậy cũng chưa chắc, vì vũ trụ đang ngày càng nở rộng, và trong 10 tỷ năm nữa thì vũ trụ nở rộng đến cỡ nào, chưa ai có thể biết trước được. Khi đó, có thể mặt trời và trái đất sẽ không còn nữa vì các khoa học gia ước tính trái đất và mặt trời chỉ có thể tồn tại nhiều nhất là 5 tỷ năm nữa.

Đó là chuyện Chúa bay lên trời, hiện ngồi bên hữu Thiên Chúa. Nhưng trời là cái gì? Giám Mục John Shelby đã đặt vấn đề như sau:

Trời là cái gì? Đâu là trời? Điều rõ ràng là trong cái thế giới cổ xưa này, trời mà Thiên Chúa dựng nên được nghĩ là nơi ăn chốn ở của Thiên Chúa, và nó ở trên quá vòm trời. Nhưng chúng ta trong thế hệ này biết rõ rằng vòm trời không phải là mái của thế giới mà cũng chẳng phải sàn nhà của cõi trời. Vậy chúng ta muốn nói gì khi chúng ta khẳng định là Thiên Chúa toàn năng toàn trí đã dựng nên trời? Phải chăng chúng ta muốn nói đến một vũ trụ vô biên mà trong thời Thánh Kinh được viết ra, không một người nào hiểu gì về cái vũ trụ đó như thế nào?

[John Shelby Spong, Why Christianity Must Change or Die, p. 10: What is heaven? Where is heaven? It is clear that in this ancient world the heaven that God created was thought of as God's home, and it was located beyond the sky. But those of us in this generation know that the sky is neither the roof of the world nor the floor of heaven. So what are we referring to when we assert that this almighty God created heaven? Are we talking about that almost infinite universe that no one living knew anything about when the Bible was written?]

4. Ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết..

Đây là niềm tin của những người sùng tín Giê-su về một chuyện trong tương lai, cho nên không có một căn bản khả tín nào. Trong 2000 năm qua, giáo hội Gia Tô và nhiều hệ phái Ki-Tô khác đã nhiều lần tiên đoán ngày phán xét, nhưng ngày đó không hề xảy ra, và sẽ không bao giờ có thể xảy ra cho đến khi trái đất không còn tồn tại nữa. Tại sao? Bởi vì những huyền thoại do một số người sùng tín Giê-su bày đặt ra theo niềm tin riêng của mình thì không bao giờ có thể trở thành sự thực. Chứng minh?

Đọc Thánh kinh, chúng ta thấy rõ ràng là những người viết Tân Ước đều tin rằng Giê-su sẽ trở lại trần gian trong một tương lai rất gần (Matthew 16: 27-28: Ta sẽ trở lại với các thiên sứ trong vinh quang của Cha ta để thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm. Ta cho các con biết: một vài người đang đứng đây sẽ còn sống cho đến khi nhìn thấy ta vào trong nước ta; Mark 9: 1: Chúa bảo các môn đệ: “Ta cho các con biết, một vài người đang đứng đây sẽ còn sống cho đến khi nhìn thấy nước trời thiết lập với uy quyền vĩ đại; Mark 13:30: Ta quả quyết, thế hệ này chưa qua đi thì các biến cố đó (các biến cố xung quanh sự trở lại của Giê-su. TCN) đã xảy ra rồi; Luke 21: 27, 30: Bấy giờ nhân loại sẽ thấy ta giáng xuống trong mây trời với vinh quang và uy quyền tuyệt đối.. Ta quả quyết: thế hệ này chưa qua đi, các biến cố ấy đã xảy ra rồi; John 14: 21: Ta đi chuẩn bị chỗ ở cho các con. Khi chuẩn bị xong, ta sẽ trở lại đón các con về với ta để các con ở cùng ta mãi mãi)

Nhưng Giê-su, với những lời hứa hẹn hão huyền đầy tính chất tự tôn, tự cao, tự đại trên, đã cho các môn đệ ăn bánh vẽ vì ông ta đã ra đi và không hề trở lại. 2000 năm qua, những người tin là Giê-su có quyền phép “cứu rỗi” họ và cho họ lên thiên đường ở cùng ông đã dài cổ ra ngóng chờ “ngày trở về” của Giê-su, nhưng năm này qua năm khác, thế hệ này qua thế hệ khác, thiên niên kỷ này qua thiên niên kỷ khác, Giê-su vẫn biệt tăm. Làm sao ông ta có thể trở về được khi ông ta đã bị đóng đinh trên thập giá, chết, và táng xác? Lời hứa hẹn vô trách nhiệm đầy tính cách lừa dối những kẻ nhẹ dạ như trên có giá trị gì khi những điều ông hứa không hề mảy may thực hiện được đã 2000 năm nay. Hiện giờ ông ta ở đâu? Không ai biết. Nhưng chắc chắn là không phải ở trên trời, vì Giáo hoàng John Paul II, đại diện của ông trên cõi trần, đã khẳng định không làm gì có thiên đường trên các tầng mây. Và điều này cũng phù hợp với những khám phá của khoa học trong môn vũ trụ học. Không ở trên trời thì chỉ có thể ở dưới đất, sâu ba thước. Nhưng ở đâu? Ở Jerusalem.

Vì sự tình cờ trong công tác ủi đất để xây cất, một toán công nhân đã khám phá thấy những tiểu quách trong khu mồ Talpiot, được biết là “Mồ của 10 Tiểu Quách” (Tomb of Ten Ossuaries). Công tác được ngưng ngay và chính quyền Do Thái cũng như các nhà khảo cổ đã đến nơi xem xét. Người ta thấy trong khu mồ đó có 10 cái tiểu quách, một cái trong đó chứa “bộ xương cứu thế” của Giê-su, còn vài cái khác chứa xương của gia đình Giê-su gồm vợ, con, bố, mẹ và em Giê-su. [Five of the 10 discovered boxes in the Talpiot tomb were inscribed with names believed to be associated with key figures in the New Testament: Jesus, Mary, Matthew, Joseph and Mary Magdalene. A sixth inscription, written in Aramaic, translates to "Judah Son of Jesus."]

Các học giả ngày nay biết rằng từ năm 30 trước thời đại này cho đến năm 70 trong thời đại này, nhiều người ở Jerusalem đã dùng vải gai quấn những xác chết rồi mang xác chết để trong những tấm mồ đẽo trong hốc đó. Ở đó xác chết sẽ thối rữa trong một năm rồi bộ xương được để vào một tiểu quách. [Scholars know that from 30 B.C. to 70 A.D., many people in Jerusalem would first wrap bodies in shrouds after death. The bodies were then placed in carved rock tombs, where they decomposed for a year before the bones were placed in an ossuary.]

Những cuộc thử nghiệm DNA chứng tỏ những nhân vật trong các tiểu quách trên đó có viết những tên bằng tiếng Aramaic như “Giê-su Con của Joseph” (Jesus Son of Joseph), “Judah con của Giê-su” (Judah son of Jesus), và bằng tiếng Hebrew như “Maria” [tiếng Latin là Miriam, tiếng Anh là Mary], và một tiểu quách trên có ghi tiếng Hi Lạp "Mariamene e Mara," được dịch là “Mary được biết là Thầy (Cô) Dạy”, có liên hệ gia đình với nhau. Ngoài ra cũng còn tiểu quách trên có viết tên “Matia” [Matthew] và “Joseph”. Francois Bovon, Giáo sư sử và tôn giáo tại đại học Harvard cho rằng "Mariamene” hay Mariamene, có thể chính là tên của Mary Magdalene, vợ của Giê-su]

Phối hợp kết quả thử nghiệm DNA với những thống kê về tên để tránh sự trùng hợp tên, Andrey Feuerverger, Giáo sư Thống Kê và Toán tại đại học Toronto [Andrey Feuerverger, professor of statistics and mathematics at the University of Toronto] đã đưa tới kết luận là khu mồ ở Talpiot có xác suất là 600 trên 1, nghĩa là hầu như là chắc chắn, chính là khu mồ của gia đình Giê-su [The study concludes that the odds are at least 600 to 1 in favor of the Talpiot Tomb being the Jesus Family Tomb. In other words, the conclusion works 599 times out of 600.]

Và đài truyền hình Discovery Channel đã trình chiếu cuốn phim "The Lost Tomb of Jesus" ngày 4 tháng 3, năm 2007 để trình bày một cách khoa học về kết quả này. Độc giả cũng có thể tìm hiểu chi tiết về vấn đề này trên các trang nhà như sau: www.jesusfamilytomb.com và dsc.discovery.com/news/

Lẽ dĩ nhiên Ki Tô Giáo không lấy gì làm thích thú trước những khám phá này. Và chúng ta đã thấy một vài trang nhà Ki Tô Giáo lên tiếng cho rằng những chữ viết trên các tiểu quách chỉ là ngụy tạo. Nhưng cũng lẽ dĩ nhiên họ không hề giải thích là ai ngụy tạo, ngụy tạo để làm gì, và các tín đồ thấp kém, từ con nít đến người già ở Việt Nam, vẫn tiếp tục tin vào “bộ xương cứu thế’ của Giê-su, nghe lời xúi bậy của TGM Ngô Quang Kiệt, đi cầu nguyện ngoài đường với búa, kìm, xà beng, và với hi vọng là “bộ xương cứu thế’ này sẽ giúp họ đòi lại được Tòa Khâm Sứ, đất mà thực dân Pháp toa rập cùng Giám mục Ca-Tô Puginier và Tổng Đốc tay sai Nguyễn Hữu Độ, ăn cướp của Chùa Báo Thiên, xây nhà thờ để vinh danh Chúa Do Thái của họ..

Thật là tội nghiệp.


Các bài về tôn giáo cùng tác giả

Trang Trần Chung Ngọc