Vài nhận định về cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng

Bước Qua Ngưỡng Cửa Vô Minh?

Trần Chung Ngọc

http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN157.php

09-Jul-2017

Trước hết, nếu có thể, tôi xin được tự ý đổi lại chủ đề của tuyển tập thành “Nhận Định về cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng Của John Paul II”, vì “Đối Thoại Với John Paul II” có thể nói là một điều rất khó thực hiện nếu không muốn nói là bất khả thực hiện. Có ít ra là 4 lý do để cho một cuộc đối thoại như trên không nên có, và không thể thực hiện được:

1. John Paul II là chủ chăn của 1 số tín đồ đông đảo. Ngài ở địa vị cao quý, sống trên nhung lụa, và Ngài còn phải để toàn thời gian (full time) để phục vụ dân nghèo theo như lời dạy của GiêSu Kitô (Giêsu Christ), cho nên Ngài không thể hạ mình để đối thoại với những cư sĩ Phật giáo nghèo khổ, địa vị thấp kém, coi vật chất như huyễn, không tiếng tăm như chúng ta.

2. Tâm cảnh (mind-set) của 1 cư sĩ Phật giáo bình thường, sống trước thềm một thiên niên kỷ mới, tự bao giờ vẫn đồng hành với nền văn minh nhân loại, ý thức được những tiến bộ của khoa học, không vướng mắc vào những chuyện huyền hoặc hoang đường, thật quả là bất khả tương hợp (incompatible) với một tâm cảnh của thời Trung Cổ.

3. Phật giáo chống đối vô minh nhưng không chống người bị màn vô minh che phủ, và Phật giáo quan niệm vô minh chỉ có thể phá vỡ bằng giáo dục và chuyển hóa chứ không thể phá vỡ bằng cách trực diện chống đối.

4. Phật Pháp vốn không tranh cải với các thế gian pháp.

Tuy không thể đối thoại, nhưng nếu chúng ta muốn có vài nhận định về cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng thì đây là điều chúng ta có thể làm được, và nên làm, vì đây là một quyền căn bản của chúng ta trong thế giới tự do. Thật ra thì Giáo Hoàng (GH) John Paul (JP) II đáng thương hơn là đáng trách. Thiền Sư Nhất Hạnh có nói rằng: “Có hiểu thì mới thương”, cho nên, vấn đề chính là chúng ta nên tìm hiểu những động cơ nào đã thúc đẩy John Paul II viết cuốn sách trên. Và khi hiểu rồi thì tình thương sẽ giải quyết tất cả, chúng ta sẽ không còn bận tâm về những chuyện không đáng để tâm nữa.

Để làm công việc tìm hiểu trên tôi đã đọc kỹ từ đầu tới cuối cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng của Giáo Hoàng John Paul II. Nhưng thay vì làm công việc “điểm sách”, trước hết, bỏ qua những lời “mẹ hát con khen hay” hoang tưởng, thiếu thực tế, thiếu suy nghĩ trong phần “Lời Cảm Tạ” và “Lời Giới Thiệu” ở đầu cuốn sách (bản Việt ngữ), tôi xin trích dẫn những lời John Paul II viết về Đức Phật và Phật giáo, rồi đi thẳng vào nhận xét về Giáo Hoàng John Paul II của vài trí thức, Gia-tô cũng như phi Gia-tô, sau đó sẽ khai triển và bình luận thêm về những nhận xét này.

Ở trang 43, John Paul II viết về Đức Phật như sau: “Đức Phật đúng khi ngài không thấy trong việc tạo dựng có thể có sự cứu rỗi, nhưng ngài lầm khi, vì lý do đó mà ngài phủ nhận việc tạo dựng có một giá trị nào cho nhân loại”. (Buddha is right when he does not see the possibility of human salvation in creation, but he is wrong when, for that reason, he denies that creation has any value for humanity).

Và ở trang 85 – 86, John Paul II viết về Phật giáo như sau: “Giáo lý về sự cứu rỗi của Phật giáo tạo thành điểm trọng yếu, hay đúng hơn, điểm duy nhất của hệ thống này. Tuy nhiên, truyền thống Phật giáo và những phương pháp dẫn xuất từ đó, cả hai đều có hầu như đơn độc một “thuyết cứu rỗi qua Chúa Kitô” (soteriology) tiêu cực. Sự “giác ngộ” chứng nghiệm bởi Đức Phật bắt nguồn từ điều xác tín rằng thế giới này là xấu xa, là cội nguồn xấu ác và đau khổ của nhân loại. Để giải phóng mình ra khỏi sự xấu ác này, con người phải tự giải thoát ra khỏi thế giới này, điều này cần thiết là phải đoạn tuyệt với những ràng buộc nối chúng ta với thực tế bên ngoài - những ràng buộc hiện hữu trong bản chất con người, trong tâm thức, trong thân thể chúng ta. Càng thoát khỏi những ràng buộc đó bao nhiêu, chúng ta càng thờ ơ với mọi thứ trong thế giới, và chúng ta càng thoát khỏi sự khổ, sự xấu ác mà cội nguồn là từ trong thế giới. Chúng ta có thể tới gần Thần Gia-tô (God) bằng con đường này không? Điều này không được kể tới trong sự “giác ngộ” mà Đức Phật đã thông tri.

Phật giáo đại để là một hệ thống “vô thần”. Con người không tự giải thoát khỏi cái xấu ác qua cái thiện từ nơi Thần Gia-tô; mà chỉ tự giải thoát qua sự cất bỏ ràng buộc với thế giới xấu xa. Sự vô chấp rốt ráo đó không phải là sự hiệp thông với Thần Gia-tô, mà gọi là Niết Bàn, một trạng thái thờ ơ toàn hảo đối với thế giới. Tự cứu có nghĩa là, trên hết, tự giải thoát khỏi sự xấu ác bằng cách trở thành thờ ơ với thế giới, nguồn gốc của sự xấu ác. Đây là tột điểm của quá trình tu tập tinh thần”.

(The Buddhist doctrine of Salvation constitutes the central point, or rather the only point, of this system. Nevertheless, both the Buddhist tradition and the methods deriving from it have an almost exclusively negative soteriology. The “enlightenment” experienced by Buddha comes down to the conviction that the world is bad, that it is the source of evil and of suffering for man. To liberate oneself from this evil, one must free oneself from this world, necessitating a break with the ties that join us to external reality – ties existing in our human nature, in our psyche, in our bodies. The more we are liberated from these ties, the more we become indifferent to what is in the world, and the more we are freed from suffering, from the evil that has its source in the world. Do we draw near to God in this way? This is not mentioned in the “enlightenment” conveyed by Buddha.

Buddhism is in large measure an “atheistic” system. We do not free ourselves from evil through the good which comes from God; we liberate ourselves only through detachment from the world, which is bad. The fullness of such a detachment is not union with God, but what is called Nirvana, a state of perfect indifference with regard to the world. To save oneself means, above all, to free oneself from evil by becoming indifferent to the world which is the source of evil. This is the culmination of the spiritual process).”

http://giaodiemonline.com/2013/09/images/vominh01.jpg

Giáo hoàng Gioan Phaolồ II (1920-2005), người đã thú nhận hơn 100 tội lỗi của Giáo hội Công giáo La Mã.

Link: https://vi.wikipedia.org/... ; http://vi.wikipedia.org/...

Chúng ta để ý rằng John Paul II đã cố ý dùng một số danh từ có ý nghĩa đặc thù trong Gia-tô Giáo, những danh từ rất xa lạ hoặc có nghĩa khác hẳn trong Phật giáo, để viết về Phật giáo, thí dụ như “Salvation = Cứu rỗi” ; và “Soteriology = Thuyết cứu rỗi qua Chúa Kitô” (Soteriology = the branch of theology concerned with the doctrine of salvation through Christ (theo tự điển) = Một ngành trong môn Thần Học nói về thuyết lý cứu rỗi qua Chúa Kitô; hoặc theo định nghĩa chính thức của Gia-tô trong cuốn Catholic Word Book do Catholic Information Service, Knights of Columbus ở New Haven, Connecticut xuất bản: Soteriology = The division of Theology which treats of the mission and work of Christ as Redeemer) để rồi hỏi một câu vô nghĩa, ít ra là đối với các Phật tử: “Chúng ta có thể tới gần Thần Gia-tô bằng con đường này không? Điều này không được nói tới trong sự “giác ngộ” mà Đức Phật đã thông tri”.

Trước khi Jesus Christ ra đời hơn 500 năm, Đức Phật đã giác ngộ và đưa ra con đường tự lực tự cường, dũng mãnh phá vỡ vô minh qua óc suy lý và thực hành Bồ Tát Đạo, cứu nhân độ thế. Vậy Phật tử không tin ở sự cứu rỗi của một Thần Gia-tô (để cho được chính danh, tôi đã dịch chữ God trong đạo Giatô là “Thần Gia-tô” vì John Paul II đã dùng danh từ “vô thần” để chỉ Phật giáo), vậy ai cần tới gần Thần Giatô? Và “giác ngộ” là một trạng thái tâm linh không thể nghĩ bàn, vượt qua mọi đối đãi nhị nguyên, Thánh phàm như một, Thần hay không cũng chẳng khác gì nhau, vậy nói tới việc tới gần Thần Gia-tô để làm gì? Hơn nữa, đã ở trạng thái vô chấp rốt ráo, nghĩa là đã “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” rồi thì còn hiệp thông với Thần làm cái gì? Nhưng thôi, chúng ta hãy đi vào nhận xét của một số trí thức về những lời phê bình trên của John Paul II:

Nalin de Silva, một thành viên của “Liên Minh các Hiệp Hội Phật giáo” tại Tích Lan, cho rằng “những nhận xét lắt léo với ác ý của Giáo Hoàng (về Phật giáo) có vẻ như là phản ứng trước sự bành trướng của Phật giáo và Hồi Giáo gần đây ở Âu Châu”. De Silva nói: “Ông ta đang cố gắng chống đỡ đức tin của ổng, Hồi Giáo và Phật giáo là 2 thách thức chính đối với Ki-tô Giáo”. (A Federation member, Nalin de Silva, said the Pope’s remarks were malicious and appeared to be a reaction to the recent spread of Buddhism and Islam in Europe. “He is trying to defend his faith,” de Silva said, “Islam and Buddhism are the main challenges to Christianity.”)

Ken Tanaka, một giáo sư của viện Phật Học ở Berkeley phát biểu rằng: “Rõ ràng là Giáo Hoàng đã không chịu làm bài tập” (nghĩa là không chịu tìm hiểu vấn đề cho cặn kẽ) và đã trình bày “một quan điểm quá đơn giản về Phật giáo”. Giáo sư Tanaka nói: “Cốt tủy của Phật giáo là thoát khỏi sự ràng buộc vào tham, sân, si chứ không phải là thoát khỏi thế giới. Nhờ đó mà con người ngộ được một trình độ tỉnh thức cao hơn”. (Rev. Ken Tanaka, a professor at the Instiute for Buddhist Studies in Berkeley, said it is clear that the Pope “hasn’t done his homework” and presents “a very simplistic view of Buddhism”. Essentially, Buddhism is about becoming detached from greed, hatred, and ignorance and not from the world,” Tanaka said. “That’s how one awakens to a higher level of awareness”.)

Thomas Hand, một linh mục Gia-tô, nói rằng ông ước mong Giáo Hoàng “có thể nói về Phật giáo dựa vào những kinh nghiệm bản thân. Ta không thể nói về bất cứ cái gì sâu sắc hiển nhiên như Phật giáo mà không tự mình đi vào trong đó”. (Rev. Thomas Hand, a Catholic priest, said he wished the pope “were able to speak about Buddhism from experience. You can’t speak about anything as obviously profound as Buddhism without getting into it.”)

Alan Senauke, một thiền sư, nói rằng những lời phê bình của Giáo Hoàng về Phật giáo chẳng hơn gì mấy cái chuyện “dựng lên những hình nộm, rồi quật chúng xuống”. Ông nói: “Dù là không biết hay cố ý, đó cũng là một sự trình bày sai lầm nghiêm trọng về Phật giáo.” (Alan Senauke, a Zen priest, said the pope’s comments on Buddhism were little more than “setting up straw men, then knocking them down.” “Whether through ignorance or intention, it is a serious misrepresentation of what Buddhism is all about,” he said.)

Lama Ole Nydahl không lấy gì làm ngạc nhiên về những lời phê bình của Giáo Hoàng. Người hỏi rằng: “Sao mà một người như Giáo Hoàng có thể đồng ý được với một tôn giáo như Phật giáo, một tôn giáo đưa con người vượt qua cảnh giới nhị nguyên và tạo ra một mối liên hệ lành mạnh với thân và ý?”. (Lama Ole Nydahl was not surprised with the pope’s comments. “How could a man like he possibly agree with a religion like Buddhism, which takes people beyond dualism and produces a healthy relationship with their bodies and minds?” he asked.)

Chúng ta thấy rằng những nhận xét của Ken Tanaka, Thomas Hand, và Alan Senauke cùng nói lên một điểm: Giáo Hoàng không đủ kiến thức để bình luận về Phật giáo nên đã đưa ra những nhận xét sai lầm nghiêm trọng về Phật giáo. Nhưng nhận xét của Tỳ Kheo Nalin de Silva và Lạt Ma Ole Nydahl mới thực sự đi vào nguồn gốc của vấn đề: tâm cảnh của Giáo Hoàng John Paul II không thể lĩnh hội được cái sâu sắc của Phật giáo, Giáo Hoàng đã viết về Phật giáo một cách lắt léo ác ý và lý do là để chống đỡ niềm tin của Giáo dân. Sau đây tôi sẽ phân tích vấn đề trên một cách rộng rãi hơn để làm sáng tỏ những uẩn hàm (implications) trong lời phê phán của de Silva và Ole Nydahl.

* * *

Thật vậy, nếu chúng ta đọc kỹ cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng của Giáo Hoàng John Paul II thì chúng ta có thể nhận ra hai điểm chính:

1. Giáo Hoàng lo sợ trước sự bành trướng của Phật giáo và Hồi Giáo trên thế giới nên đã đưa ra những nhận xét một chiều, kiêu căng, hoàn toàn dựa theo giáo lý Gia-tô, với mục đích hạ thấp các tôn giáo lớn khác, để giữ giáo dân.

2. Đây là một nỗ lực có mục đích củng cố quyền lực của Giáo Hoàng, Tòa Thánh, và giới giáo sĩ lãnh đạo Gia-tô để duy trì truyền thống “hệ thống chăn chiên theo cấu trúc Kim Tự Tháp” của Gia-tô Giáo. Cấu trúc này sẽ được sáng tỏ qua lời mô tả của Penny Lernoux trong một đoạn sau.

Với mục đích trên, Giáo Hoàng đã trích dẫn khá nhiều từ Thánh Kinh, nhắc lại một số tín điều và coi đó như là những chân lý bất biến mà giáo dân, những người không đọc Thánh Kinh hay chỉ đọc những đoạn các linh mục chọn lựa để giảng, phải tin.

Tất cả những toan tính trên đều có lý do. Nhưng trước hết tôi xin có một nhận xét tổng quát về cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng. Bỏ qua một phần nhỏ của cuốn sách nói về các tôn giáo khác, phần còn lại là về Gia-tô Giáo La Mã và ta có thể nói phần này trình bày mặt ngoài của một chiếc mề đay. Đối với mỗi điểm trên cái mặt ngoài này chúng ta có thể tìm ra một hay nhiều điểm đối nghịch trên mặt trái. Công việc chứng minh rất dễ dàng, nằm ngay trong Thánh Kinh và lịch sử gần 2000 năm của Giatô La Mã Giáo. Tuy nhiên, tạm thời chúng ta hãy để vấn đề này qua một bên và xét đến những lý do đưa đến việc Giáo Hoàng viết cuốn sách trên.

* * *

HAI LÝ DO VIẾT SÁCH

A. LÝ DO THỨ NHẤT khiến cho Giáo Hoàng John Paul II phải bận tâm là đà suy sụp của Gia-tô Giáo và quyền lực của Giáo Hoàng cùng tòa Thánh Vatican trên thế giới. Điều này thể hiện trong số lượng công du của ngài từ khi đăng quang, với mục đích vớt vát, duy trì niềm tin của giáo dân qua những tác phong khả ái của một vị lãnh tụ tôn giáo kiêm kịch sĩ nhà nghề. Thật vậy, trong một cuộc phỏng vấn của đài PBS năm 1977, Ngài thú nhận với J. Michener là Ngài "được huấn luyện để diễn xuất trên sân khấu khi còn trẻ. Đúng vậy, tôi muốn trở thành một kịch sĩ." ("I trained for the stage as a young man," he admitted to J. Michener of their PBS series in 1977: "Yes, I wanted to be an actor.")

Cho nên chúng ta không lấy làm lạ khi Ngài cố gắng nói trọ trẹ vài câu tiếng Việt để làm nức lòng giáo dân Việt Nam trong những cuộc tiếp xúc với người Gia-tô Việt Nam lưu vong. Điều này sẽ được sáng tỏ trong phần trình bày sau đây. Sự suy sụp của Giatô Giáo La Mã mà biểu tượng là hệ thống quyền lực Vatican, có rất nhiều nguyên nhân, sau đây tôi chỉ đưa ra vài nguyên nhân chính:

1. Nguyên nhân thứ nhất và chính yếu được trình bày trong nhận xét của Malachi Martin trong cuốn The Keys of This Blood :

Link: http://en.wikipedia.org/wiki/Malachi_Martin

"Trong hầu hết các nước ở Âu Châu, phong trào hiện thực sống đời thế tục hầu như đã hoàn toàn thắng. Trong vùng này, các tôn giáo có tổ chức - Giatô, Tin Lành và Do Thái - được coi như là giống nhau ở điểm cùng nhấn mạnh trên những tuyệt đối. Những tôn giáo này được coi là đóng góp rất ít hoặc không đóng góp gì cho đời sống chính trị, kinh tế và văn hóa hiện thời ở các nước Tây phương. Giáo Hoàng biết rất rõ rằng, trong thế kỷ tới, Gia-tô Giáo sẽ chỉ còn tồn tại ở các nước trong thế giới thứ ba. Từ bao giờ, Giatô Giáo chỉ nẩy nở trong đám dân chúng nghèo khổ và ít học. Tây phương phức tạp không còn tiếp nhận sự hẹp hòi của Gia-tô Giáo nữa. Giáo Hoàng biết rõ như vậy."

(In most European countries, secularism has already triumphed completely. In that region, organized religions – Catholic, Protestant and Jewish – are regarded as alike in their insistence to absolutes. They are considered to have little or nothing to contribute, therefore, to the current political, economic and cultural life of Western European countries… The Pope is well aware that, in the next century, catholicism has always flourised only in poor population of low educational quality. The sophisticated West can take Catholicism's narrowness no longer. The Pope realizes that.)

Malachi Martin là một nhà thần học sáng danh vào bậc nhất, đã từng là giáo sư của Viện Nghiên Cứu Thánh Kinh ngay tại Vatican, ắt hẳn không viết một cách vu vơ. Thực tế là, 70% số giáo dân Giatô hiện thời trên thế giới là dân ở Nam Mỹ, Châu Mỹ La Tinh, Châu Phi và Phi Luật Tân ở Á Châu. Mức sống kinh tế của số dân này ra sao, và trình độ học vấn ra sao, chắc chúng ta cũng đều đã biết.

Cho nên, chúng ta không lấy gì làm ngạc nhiên về phần lớn các cuộc công du của John Paul II là nhắm vào thế giới thứ ba, ve vuốt thú nhận một cách mơ hồ những lỗi lầm của Giáo hội trong quá khứ và tạ tội với một số dân tộc trong thế giới thứ ba, mong họ hãy quên đi quá khứ, hãy quên đi những bất hạnh mà Gia-tô giáo đã mang tới cho dân tộc họ, hãy quên đi chủ trương tiêu diệt nền văn hóa cổ truyền địa phương để thay vào đó bằng một nền văn hóa hẹp hòi tàn độc của một tôn giáo Tây phương. Và đặc biệt đối với Việt Nam, lợi dụng khối người Gia-tô chống cộng lưu vong, ngài đã "khuấy động" ảo tưởng về một viễn tưởng lật ngược thế cờ ở Việt Nam giống như ở Ba Lan, nơi mà 90% dân số theo Gia-tô Giáo, nhưng quên rằng hơn 90% dân Việt Nam là phi Gia-tô, và người Việt Nam vẫn chưa quên vai trò của người Gia-tô Việt Nam trong thời Pháp thuộc, trong thời kháng chiến, và dưới thời Ngô Đình Diệm ở miền Nam. Ngài không có hi vọng gì ở các nước văn minh tiến bộ, vì nơi đây dân trí cao, tín đồ không còn quỳ xuống hôn chân "Đức Thánh Cha" nữa mà trực diện chất vấn John Paul II về những giáo lý đi ngược thời gian, không phù hợp với thực trạng xã hội.

Đoạn sau đây trong cuốn Cry of the People của Penny Lernoux sẽ làm sáng tỏ phần nào quan điểm của Malachi Martin:

"Từ lúc đầu, xã hội Mỹ La Tinh được xây dựng giống như một Kim Tự Tháp, với vài người Âu Châu đến định cư và hưởng mọi quyền lợi của đế quốc, và quần chúng thổ dân, da đen, giai cấp thấp, không có một quyền nào. Cái tháp tồn tại được là vì khối nhân dân ở dưới đáy được nhắc nhở rằng họ ngu si, lười biếng, và thấp kém. Những nhà truyền giáo ngoại quốc góp phần nhồi vào óc dân bản xứ ý tưởng là họ nghèo và ngu dốt là do ý muốn của Thần Gia-tô. Như Tổng giám mục ở Lima bảo các thổ dân rằng: "Nghèo khổ là con đường chắc chắn nhất đi tới hạnh phúc." Người thổ dân nào hay dân Phi Châu nào mà liều lĩnh nghi ngờ điều dạy khôn ngoan đó bằng cách chống lại hệ thống đều bị giết ngay… Giáo hội Gia-tô phải gánh rất nhiều trách nhiệm về tình trạng này. Giống như những kẻ chiến thắng Tây Ban Nha trong thế kỷ 16, hầu hết các nhà truyền giáo Âu Châu tới Châu Mỹ La Tinh tự coi như là những kẻ mang những văn hóa cao hơn nền văn hóa của dân tộc bản xứ nhiều. Những nhà truyền giáo ít quan tâm đến việc hòa nhập với các thổ dân Phi Châu mà chỉ muốn thuần phục họ vào những cấu trúc của tôn giáo Âu Châu".

(From the beginning, Latin-American society was constructed like a pyramid, with a few Europeans settlers enjoying all the privileges of empire and a mass of Indians, blacks, and half-castes having no rights at all. The pyramid survived because the mass at the bottom was repeatedly told that it was stupid, lazy, and inferior. Foreign missionaries helped drum these ideas into the native's heads by claiming that it was God's will that they should be poor and ignorant. As the Archbishop of Lima told his Indians: "Poverty is the most certain road to felicity." Any Indian or African who had the temerity to doubt such wisdom by rebelling against the system was promtly put to death… The Catholic Church must accept a lot of the blame for this situation. Like the conquistadors, most of the European missionaries who came to Latin – America saw themselves as bearers of cultures vastly superior to those of the natives. The missionaries were less interested in integrating the Indians and Africans than on subjugating them to the European religious structures.)

Đọc đoạn trên không biết có đọc giả nào thấy nó khá quen thuộc với những việc đã xảy ra trong một giai đoạn lịch sử Việt Nam không nhỉ?

Và, sau đây là nhận xét của một số học giả và linh mục Gia-tô về cùng vấn đề: Trong cuốn Freedom's Foe – The Vatican (Vatican: Thù nghịch Của Tự Do), Adrian Pigott viết như sau:

"Những người theo đạo Giatô La Mã thực tình ngạc nhiên khi họ thấy rằng đồng bào của họ thường nghi ngờ họ. Có vẻ như họ không ý thức được rằng, nếu họ chọn để bước trong đoàn quân của Giáo Hoàng, họ phải chấp nhận những hậu quả. Những tướng lãnh của họ (các giám mục) và vị chỉ huy tối cao của họ (Giáo Hoàng), quan tâm thiết yếu đến sự an sinh của Vatican hơn là sự an sinh của nhân loại. Chẳng trách là những giáo dân Giatô La Mã không được biết đến trong số người thông minh và tiến bộ; họ không thể trở thành những công dân hạng nhất vì sự trung thành nước đôi này. Thật là không được công bằng khi ta trách cứ cá nhân Giatô La Mã là vô tình họ đã làm hại tới sự tiến bộ của nhân loại. Họ được nuôi nấng trong cái mà Tiến Sĩ Barnado gọi là "Bóng tối dày đặc của Ý thức hệ La Mã"… Thất học luôn luôn thịnh hành trong các nước theo Giatô La Mã giáo - nhờ đó mà tập đoàn Giáo sĩ có thể nảy nở."

(Roman Catholics are often genuinely surprised to find that they are frequently regarded with suspicion by their fellow citizens. They do not seem to realize that, if they elect to march in the papal army, they must expect to receive the consequences. Their Generals (the bishops) and their Commander-in-Chief (the pope), concentrate upon the welfare of the Vatican rather upon the welfare of mankind. No wonder that Romanists are unpopular with progressive and intelligent people; they cannot become first-class citizens owing to their dual allegiance… It is unfair to blame individual Roman Catholic for being (unconsciously) detrimental to human progress. They have been brought up in what Dr. Barnado called "The thick darkness of Romanism" .. Illiteracy is always prevalent in Romanist countries – to enable Priestcraft to flourish.)

Cha Joseph McCabe, trong cuốn Rome Puts a Blight on Culture (La Mã hủy hoại Văn Hóa) đã viết như sau:

"Nếu chúng ta đồng ý dân chủ là một dạng chính trị lý tưởng thì chúng ta cũng phải đồng ý là giáo dục quần chúng để họ suy nghĩ với óc phê phán và tìm hiểu một cách không hạn chế là con đường duy nhất để cho họ có những hành động thỏa đáng. Luật lệ của Giáo Hội Giatô trái ngược hẳn lại. Giáo dân không được tìm hiểu ngoài tín ngưỡng của mình và không được có đầu óc phê phán ngay cả trong phạm vi tín ngưỡng của họ".

(If we are agreed that democracy is the ideal political form, we agree also to teach all people to think critically and inquire without restriction is the only way to get it to work satisfactorily. The law of the Catholic Church is just the opposite. You must not inquire outside your own creed and you must not think critically even within its range.)

Cha McCabe đã để ra nguyên một chương để phân tích ảnh hưởng của Giatô Giáo La Mã trên các nền văn hóa, đưa ra rất nhiều thống kê ở nhiều nơi trên hoàn cầu và kết luận: "La Mã chỉ khoái những kẻ thất học. Họ bị thuyết phục quá dễ dàng để đi thiêu sống các kẻ "tà đạo" và hôn hít những thánh tích giả tạo." (Rome loves the illiterate. They are so easily persuaded to burn "heretics" and kiss bogus relics.)

Trong cuốn Crime and Immorality in the Catholic Church (Tội Ác và Vô Luân trong Giáo Hội Gia-tô) Cha Emmett McLoughlin cũng viết như sau:

"Với kinh nghiệm của tôi trong hệ thống giáo dục Giatô, với 15 năm làm linh mục, và 13 năm thường xuyên quan sát và tích cực nghiên cứu sau khi rời khỏi Giáo hội, lòng xác tín thành thật và quan niệm vững chắc của tôi là, ảnh hưởng của Giatô trên mọi nền văn minh thật quá nhiều xấu hơn là tốt. Về phương diện trí thức, Giáo Hội La Mã đã làm hết sức để bóp nghẹt đầu óc con người và làm nghẹt mọi sáng kiến. Giáo hội phải làm như vậy nếu muốn sống còn. Không một người nào có đầu óc suy nghĩ, thông minh, biết rõ về những sự kiện lịch sử, đặc biệt là một người Mỹ yêu tự do, lại có thể trở thành hoặc vẫn còn là tín đồ của Giatô La Mã."

(It is my contention and my sincere conviction, from my experience in the Catholic educational system, my life of 15 years in the pries thood, and 13 years of constant observation and intense study since leaving the Church, that its influence on all civilization has been far more evil than of good. Intellectually the Church of Rome has done its best to strangle the human mind and stiffle mental initiative. It must do this if it is to survive. No thinking, intelligent, historically studious person, especially a freedom-loving American, can become or remain a Roman Catholic.)

Cùng một ý tưởng, trong bài “Phật giáo và Người Việt Nam Hiện Đại”, Như Hạnh chuyển ngữ, Tiến Sĩ J.C.Cleary, tốt nghiệp đại học Harvard về Ngôn Ngữ và Văn Minh Đông Phương, cũng viết như sau:

“Người Việt Nam hẳn sẽ ngạc nhiên khi khám phá ra rằng đối với những người Tây Phương có đầu óc tiến bộ, chính Thiên Chúa Giáo mới là một mớ huyền thoại lỗi thời, mê tín dị đoan, và những nghi lễ vô nghĩa lý. Người Tây Phương thừa hiểu rằng, chẳng có mấy người đầu óc tiến bộ mà lại tin nơi Thiên Chúa Giáo. Những ai có kiến thức về lịch sử Âu Châu đều biết rằng, Giáo Hội Giatô La Mã đã làm đủ cách trong quyền lực của họ để ngăn chặn sự phát triển của khoa học cũng như lối sống và suy nghĩ mới. Ở Mỹ hiện nay, những tín đồ Thiên Chúa Giáo cực đoan là những kẻ đứng đầu trên giới tuyến chống lại các tạp quán mới và thế giới khoa học. Do đó trong tâm thức Tây Phương, Thiên Chúa Giáo được gắn liền với một thứ chủ nghĩa truyền thống lạc hậu, một thứ nuối tiếc thời đã qua. Ở Tây Phương, phần đông các tín đồ Thiên Chúa sùng tín thường là những kẻ ít học nhất, những thành phần thấp, kém kinh tế trong quần chúng, những kẻ chẳng còn có gì để trông ngóng nữa cả”.

Và, cách đây gần 100 năm, Toàn Quyền Đông Dương J.L.de Lanessan, trong cuốn Les Missions et leur Protectorat, trích dẫn bởi Patrick J.N.Tuck, cũng viết về thực trạng truyền giáo tại Á Đông như sau:

“Thật ra, trong hơn 2 thế kỷ mà các hội truyền giáo Giatô hoạt động ở Trung Hoa và bán đảo Đông Dương có lẽ họ không cải tạo được quá 10 học giả. Toàn thể giới cầm quyền có học của dân chúng đã tránh né sự truyền đạo của họ. Đại cương thì các nhà truyền giáo chỉ tuyển mộ được tín đồ trong những giai cấp thấp nhất, và phần lớn là những kẻ, vì lý do này hay lý do khác, đã bị xã hội An - Nam ruồng bỏ.”

(In fact during the two centuries and more that the Catholic Missions have been operating in China and the Indochinese peninsula they have probably not converted more than ten scholars in all. The entire educated and governing class of the population has evaded their proselytism. In general Catholic missionaries only recruit from among the lowest classes, and mainly among those who, for various reasons have been rejected by Annamese society.)

Trên đây chỉ là vài tài liệu để chứng minh rằng, nhận xét của nhà thần học Giatô lỗi lạc Malachi Martin không sai. Và bây giờ chúng ta đã hiểu là tại sao Tòa Thánh Vatican lại chống Hội Nghị về Dân Số vừa qua ở Ai Cập. Động cơ chống không nằm nơi đạo đức mà nằm nơi số con chiên ở các nước trong thế giới thứ ba và quyền lực áp đặt trên số này. Những người sống trên nhung lụa, ăn sung mặc sướng ở Vatican, làm sao có thể thông cảm được với những kẻ khốn cùng trong các xã hội nghèo khổ. Trong cuốn Vicars of Christ (Đại diện của Kitô), Peter de Rosa đã viết :

“Những người mặc quần áo lụa tía, sống trong lâu đài, ngồi trên ngai - thật khó có thể hành động như là những kẻ phục vụ cho những kẻ phục vụ Thần Giatô hoặc đại diện cho cái Người Nghèo ở Nazareth đối với những người nghèo đói trong thế giới.”

(Those who dress in purple silk, live in palaces, sit on thrones – it is not easy for them to act as servants of the servants of God or to represent the Poor Man of Nazareth to the poor and starving of the world.)

Những kẻ phục vụ Thần Giatô là tín đồ, và Người Nghèo ở Nazareth chính là Giêsu. Trong các xã hội này, sinh đẻ bừa bãi không hạn chế sẽ đưa đến cảnh cả triệu trẻ em chết về thiếu dinh dưỡng, bệnh tật v.v... Cái tội này ai ra đó mà gánh vác? Hay là quy cho ý muốn của Thần Giatô vì Thần có những hành động bí hiểm mà con người không thể hiểu được (God acts in a mysterious way that man cannot possibly understand) theo như niềm tin của một số người khuyết tật, trong óc thiếu hẳn một số lớn tế bào thần kinh (neurons)?

2. Nguyên nhân thứ nhì là, phong trào tranh đấu của các giáo hội Giatô địa phương để được độc lập, không chịu quyền thống trị tư tưởng cũng như vật chất của Vatican càng ngày càng lên cao. Phong trào này đã bắt đầu từ nhiều thế kỷ và bộc phát trong thập niên 1960 với phong trào “Thần Học Giải Phóng” xuất phát từ Châu Mỹ La Tinh và lan sang Phi Châu cùng Á Châu. Trong lịch sử Giáo Hội Giatô, ngay từ thế kỷ thứ 17 nhiều giáo hội Giatô địa phương đã phủ nhận quyền lực của Giáo Hoàng. Phong trào Ga-Li-can (Gallicanism) ở Pháp là một phong trào của những giáo sĩ Giatô Pháp đòi hỏi giới hạn quyền hành của Giáo Hoàng và các giáo hội địa phương được tự trị về hành chánh. Giáo hội Ga-Li-can Pháp là một giáo hội quốc gia (hay quốc doanh?) công nhận Giáo Hoàng nhưng phủ nhận tín điều “Giáo Hoàng không thể sai lầm” và quyền lực trung ương của Giatô La Mã. (French Gallicanism was a national church which acknow-ledged the pope but denied papal infallibility and central authority.)

Năm 1790, quốc hội Pháp bác bỏ đề nghị coi Giatô Giáo là Quốc Giáo dù hơn 80% dân Pháp theo Giatô Giáo. Trong cuốn The Papacy and the Modern World (Giáo Hoàng Triều và Thế Giới Hiện Đại), Karl Otmar von Aretin viết rằng: “Sự nổi lên của các giáo hội quốc gia là vấn đề đe dọa quyền lãnh đạo tinh thần tối cao của các Giáo Hoàng trong thế kỷ thứ 18. Ở La Mã không có gì bị chống đối một cách quyết liệt như là những khuynh hướng thành lập giáo hội quốc gia trong thế kỷ thứ 19, ngay cả tới ngày nay, La Mã coi khuynh hướng tự do như là kẻ thù lớn nhất của Giáo hội La Mã.” (The emergence of national churches was the problem threatening the spiritual of the popes in the eightenth century. In Rome nothing met with such relentlessly thorough opposition as the 19th century national church tendencies, while to this day liberalism is seen by Rome as the greatest enemy of the Catholic Church.)

Trong chương “What Catholicism Has Done To Catholics” (Giatô Giáo Đã Làm Những Gì Cho Người Giatô), Cha Emmett McLoughlin viết như sau:

“Trào lưu Cải Cách của Luther trong thế kỷ 16 chỉ là cao điểm thắng lợi của nhiều thế kỷ tranh đấu của hàng triệu người thực tình bất đồng ý với những đạo đức cũng như giáo lý của La Mã. Nếu hoàn cảnh chưa chín mùi để nổi dậy, phong trào cải cách của Luther và nhiều người khác không thể lan rộng một cách nhanh chóng như vậy trong các quốc gia cấp tiến ở Âu Châu. Tất cả các dân tộc này đều theo Giatô La Mã nhưng họ không chấp nhận tội ác và vô luân của La Mã, của Giáo Hoàng và giáo sĩ đoàn.

Không phải chỉ vì ngẫu nhiên mà những dân tộc Kitô Giáo đó, sau khi đã phủ nhận La Mã, đã trở thành và vẫn còn là những dân tộc đạo đức và tôn trọng luật pháp nhất trên thế giới: Na Uy, Thụy Điển, Ai Nhỉ Lan, Đan Mạch, Phần Lan, Anh Quốc, Tô Cách Lan và Thụy Sĩ, họ đã hiểu được là, hãy tin tưởng vào Thần Giatô, vào ý chí của chính họ, chứ không phải là tin tưởng vào sự xưng tội, luyện ngục, xá tội, tràng hạt, mề đay và các thứ tương tự”.

(Luther’s Reformation in the 16th century was merely the successful climax of centuries of struggle of sincere millions who disagreed as much with the morals of Rome as they did with its doctrine. If the soil were not ripe for revolt, the Reformation movement of Lutherans... and others could not have spread so rapidly through the most progressive nations of Europe. All of these peoples were Roman Catholics rejecting the crime and immorality of Rome, its pope and its clergy. It is more than a coincidence that the Christian peoples that rejected Rome became and still are the most moral and lawabiding in the world. Norway, Sweden, Iceland, Denmark, Finland, England, Scotland and Switzerland... They have learned to rely on God and their own will power, and not on confession, purgatory, indulgences, rosaries, medals and the like.)

Và, trong cuốn American Freedom and Catholic Power (Tự Do Của Hoa Kỳ và Quyền Lực Giatô), Paul Blanshard cũng cổ súy việc Giáo hội Giatô Mỹ độc lập với Vatican như sau:

“Điều quan trọng là phải phân biệt giữa những tín đồ Giatô Mỹ và những linh mục của họ bị La Mã kiểm soát. Người Giatô Mỹ chiến đấu và chết cho cùng một quan niệm về tự do như những người Mỹ khác; họ tin vào cùng những lý tưởng căn bản về dân chủ. Nếu họ có thể kiểm soát được giáo hội của họ, thì vấn đề Giatô sẽ biến đi ngay vì, trong bầu không khí tự do của Mỹ, họ sẽ điều chỉnh những đường lối của Giáo hội theo những thực tế của Mỹ. Bất hạnh thay, dân Giatô ở Hiệp Chủng Quốc không phải là những công dân mà là những “thuộc hạ” trong đoàn thể giáo dân của chính họ. Đường lối sống đạo và sống đời của giáo hội họ đều được quy định ở La Mã, một tổ chức xa lạ với họ về tinh thần và sự điều khiển. Người Giatô Mỹ không được quyền chọn lựa đại diện của họ, ở địa phương của chính họ hay là ở cấp lãnh đạo tại La Mã; và vì cấu trúc độc đoán của giáo hội, họ bị bắt buộc chấp nhận những chính sách về đạo cũng như đời áp đặt trên họ từ nước ngoài.”

(It is important, therefore, to distinguish between the American Catholic people and their Roman-controlled priests. The Catholic people of the United States fight and die for the same concept of freedom as do other true Americans; they believe in the same fundamental ideals of democracy. If they controlled their own Church, the Catholic problem would soon disappear because, in the atmosphere of American freedom, they would adjust their Church’s policies to American realities. Unfortunately, the Catholic people of the United States are not citizens but “subjects” in their own religious commonwealth. The secular as well as the religious policies of their Church are made in Rome by an organization that is alien in spirit and control. The American Catholic people themselves have no representatives of their own choosing either in their own local hierarchy or in the Roman high command; and thy are compelled by the very nature of their Church’s authoritarian structure to accept nonreligious as well as religious policies that have been imposed upon them from abroad.)

Paul Blanshard xuất bản cuốn sách trên năm 1949 và từ đó ý thức về một giáo hội quốc gia tại Mỹ càng ngày càng lên cao, và trong thực tế thì dân chúng Mỹ càng ngày càng bất chấp những lệnh của Vatican, công khai chống đối Vatican trên nhiều địa hạt. Điều này thể hiện trên những thống kê về phản ứng của dân Giatô Mỹ trước những giáo điều xuất phát từ Vatican và trước những biện pháp độc tài của Vatican đối với những vị lãnh đạo Giatô Mỹ. Điển hình là vụ Vatican trừng phạt Tổng Giám Mục Raymond Hunthausen ở giáo phận Seattle năm 1985 vì không đồng ý với Vatican, đã khiến trong số những giáo dân bày tỏ ý kiến về vụ này thì 99% ủng hộ Tổng Giám Mục Hunthausen, với 13.000 chữ ký phản đối sự bất công của Vatican, và 90% trong số 280 linh mục trong giáo phận Seattle làm kiến nghị phản đối Vatican làm cho Vatican phải phục quyền cho Tổng Giám Mục Hunthausen.

Vụ điển hình thứ hai là trường hợp Linh Mục Charles E. Curran, giáo sư thần học tại Đại Học Giatô Hoa Kỳ (Catholic University of American) đã bị Vatican cất chức năm 1967 vì không đồng ý với những giáo điều liên hệ tới vấn đề ngừa thai và nhiều vấn đề xã hội khác của Vatican. Sinh viên phản đối, và 400 trong số 418 đồng nghiệp của cha Curran bỏ phiếu đồng ý bãi khóa cho tới khi Cha Curran được phục chức. Cuộc bãi khóa kéo dài 3 ngày, nhà trường phải không những phục hồi mà còn hứa sẽ thăng chức cho Cha Curran lên giáo sư diễn giảng. Nhưng Vatican thù dai, tháng 8 năm 1976, nghĩa là 9 năm sau, Cha Curran không được phép dạy môn “thần học về đạo đức” (moral theology) tuy vẫn ở chức vụ giáo sư và được phép dạy môn khác nếu thích hợp. (Xin đọc cuốn The Pope and the Mavericks (Giáo Hoàng và những người lạc đạo) của Louis Baldwin). Có lẽ người Giatô Việt Nam nên học kinh nghiệm của các nước ở Bắc Âu và các nước tân tiến như Anh, Pháp, Mỹ về tinh thần quốc gia và độc lập, nếu muốn có một chỗ đứng vững vàng trong lòng đại khối dân tộc Việt Nam.

Bây giờ chúng ta hãy trở lại đề tài “Thần Học Giải Phóng”. Cụm từ này làm cho nhiều người Giatô cũng như phi Giatô ngỡ ngàng. Người ta thường nói tới giải phóng nô lệ, giải phóng con người khỏi ách thống trị, khỏi cảnh áp bức độc tài, v.v... chứ ít ai nghe tới Thần Học Giải Phóng.

Trong Giatô Giáo La Mã, Thần Học là một môn học đặc thù thâu tóm một cách có hệ thống những suy tư, diễn giải về đức tin Thần Giatô và những uẩn hàm (implications) của đức tin này. Những người chuyên về ngành học này, thường là ở Âu Châu, được huấn luyện để trở thành những nhà thần học, những cán bộ chỉ đạo của Giatô giáo để luận về những chủ đề đặc thù của Giatô Giáo như Thần, Sự Sáng Tạo, Giêsu, Giáo Hội, Ân Sủng, Bí Tích, Tín Lý, v.v... Và theo truyền thống dân chủ tự do đặc biệt của Vatican thì bất cứ một sự diễn giải thần học nào mà không phù hợp 100% với sự diễn giải của Vatican thì đều bị cấm phổ biến, và tác giả sẽ phải chịu những biện pháp trừng phạt của Vatican để kéo họ trở lại “chánh đạo”. Vì vậy mới có thành ngữ “Roma locuta, causa finita” (La Mã đã nói lên ý kiến, vấn đề đã giải quyết). Nhưng thành ngữ cổ lỗ này đã trở thành lạc hậu và ngày nay không còn áp dụng được nữa. Vì ngày nay thần học không còn là đặc quyền của La Mã mà người ta thấy xuất hiện nào là “thần học giải phóng”, “thần học của phái nữ”, “thần học của dân da đen”, “thần học của Á Châu”, v.v...

Nhưng cụm từ “thần học giải phóng” có một ý nghĩa đặc biệt vì đó là một phong trào giải phóng con người khỏi những sự áp đặt một chiều và vô nghĩa lý của Vatican. Từ đâu nảy sinh ra phong trào “thần học giải phóng”? Như trên đã nói, thần học giải phóng phát xuất từ châu Mỹ La Tinh trong thập niên 1960 và lan sang Phi Châu và Á Châu. Có vài lý do chính như sau:

1. Từ khi bắt đầu xuất hiện ở Tân Thế Giới, Giáo hội Giatô La Mã đã giúp một phần trong việc chinh phục các thổ dân bằng nỗ lực của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, và áp đặt nên thuộc địa trên vùng đất này.

2. Giáo hội Giatô nói một đàng, làm một nẻo. Thánh kinh dạy phải phục vụ người nghèo nhưng giáo hội luôn luôn thi hành chính sách giành dân chiếm đất, vơ vét của cải. Điều này thật rõ ràng qua lời than vô cùng ý nhị của Mục sư Desmond Tutu, người đã đoạt giải Nobel về Hòa bình năm 1984:

“Chúng tôi có đất đai và họ tới với cuốn Thánh Kinh của họ. Chúng tôi tin họ, cầm cuốn Thánh Kinh trên tay, nhắm mắt cầu nguyện. Khi chúng tôi mở mắt ra thì chúng tôi có cuốn Thánh Kinh và họ có đất đai của chúng tôi.” (We have our lands and they came with their Bible. We believed in them and we pray with the Bible in our hands and our eyes closed. When we open our eyes, we have the Bible and they have our lands.)

3. Giáo hội Giatô là một tổ chức dựa vào luật lệ tôn giáo, chuyên chế, độc quyền giải thích Thánh Kinh, đặt ra những luật lệ không phù hợp với dân tộc tính địa phương và áp đặt những luật lệ này trên khối tín đồ thiếu hiểu biết.

Vì những lý do chính yếu trên mà phong trào thần học giải phóng ra đời. Danh từ giải phóng nói lên ý nghĩa của mục đích giải phóng con người khỏi những bất công của xã hội, khỏi những áp bức của khối thống trị, về tư tưởng cũng như về vật chất, khỏi những ảnh hưởng của ngoại lai. Cho nên, thần học giải phóng là cách diễn giải đức tin Thần Giatô theo kinh nghiệm của dân nghèo, tìm hiểu Thánh Kinh và các giáo lý Giatô theo quan điểm của dân nghèo. Con người sinh ra không phải ngẫu nhiên nghèo hay vì thần Giatô muốn vậy, mà phần lớn vì tổ chức xã hội. Do đó thần học giải phóng lên án cái cấu trúc kinh tế ở Châu Mỹ La Tinh dung dưỡng một thiểu số đi máy bay sang Miami hay Luân Đôn sắm đồ trong khi đa số dân chúng không có đủ nước lành để uống. “Đặc biệt là những nhà thần học giải phóng lên án ý thức hệ tôn giáo dung dưỡng những sự bất công biểu hiện bởi những hành động khủng bố, tra tấn dân lành của các nhà độc tài quân phiệt với lý do bảo vệ cái mà họ thường ưa thích gọi là “Nền Văn Minh Kitô Giáo Tây phương”.

“Những dân nghèo, không phải là da trắng, và phái nữ đang tìm thấy ý nghĩa mới trong niềm tin Kitô và cùng lúc phơi bày những sự thiếu sót trong cách trình bày đức tin này của những người da trắng Tây phương. Thần học giải phóng là một tuyên ngôn khẳng định sự độc lập về văn hóa và tri thức”. (The poor, nonwhites, and women are finding new meaning in Christian faith as revealing the short comings of interpretation made by Western males. Liberation theology is a kind of declaration of Cultural and Intellectual Independence. ‘Ibid.’)

Tương tự trong cuốn A Vision of Hope: The Churches and Change in Latin America (Một Viễn Tượng của Hy Vọng: Giáo hội và Sự thay đổi ở Châu Mỹ - La Tinh), Trevor Beeson & Jenny Pearce cũng viết như sau:

“ Đó không phải là một môn thần học mới, mà là cách mới để khảo sát về thần học trong phạm trù Châu Mỹ La Tinh – nghĩa là trong phạm trù tranh đấu giải phóng. Sự kiện chính yếu là trong phạm trù tranh đấu giải phóng. Sự kiện chính yếu là trên khắp lục địa ngày càng có nhiều người Kitô Giáo tham gia cuộc đấu tranh cho sự giải phóng chính trị, xã hội, kinh tế, văn hoá và tinh thần dân tộc họ.” (It is not “a new theology” which has been discovered, but “a new way of doing theology” in the Latin America context – in the context, that is, of the struggle for liberation. The primary fact is growing number in the struggle for the political, social, economic, cultural and spiritual liberation of their people).

Trong phong trào THGP có những bộ óc thượng thặng Giatô như Gustavo Gutíerrez, Juan Luis Segundo, Leonardo Boff … và những thần học nổi tiếng đã góp phần tích cực trong Cộng Đồng Vatican II như Karl Rahner, Edward Schilebeeckx, Hans Kueng … Trong số này thì Hans Kueng và Leonardo Boff nổi tiếng hơn cả, nổi tiếng vì Vatican đã dùng mọi quyền lực để tìm cách “khoá miệng” hai vị này. Đại cương thì luận cứ của Hans Kueng, một giáo sư thần học người Đức nổi tiếng ở Châu Âu, như sau :

http://giaodiemonline.com/2013/09/images/vominh04.jpg

Hans Küng, link: http://en.wikipedia.org/wiki/Hans_K%C3%BCng

Đọc Tân Ước, người ta thấy rõ ràng là chính Giêsu không có thành lập một giáo hội, nhưng đời sống và cái chết của Người đã đưa tới một phong trào mà theo thời gian đã trở thành một tổ chức đầy luật lệ (giáo hội). Nếu sự tổ chức giáo hội ngày nay, với những chức sắc như giám mục và linh mục, không được dẫn xuất từ chính ý của chúa Giêsu, thì có thể có nhiều hình thức khác nhau. Thí dụ, việc loại phái nữ ra khỏi những chức quyền trong giáo hội không có một căn bản nào từ Thánh Kinh. Ngoài ra, Hans Kung và nhiều nhà thần học khác, thí dụ như Edward Schillebeeckx, đã chỉ trích giáo điều “bất khả sai lầm” (infaillibility) của Giáo Hoàng, cho rằng giáo điều này không dựa trên bất cứ căn bản nào ở trong Thánh Kinh và chỉ được xây dựng trên một sự hiểu biết thiếu sót về chân lý. Hans Kueng đặt vấn đề: ngừa thai có phải là một chủ đề thích hợp để đưa ra một giáo điều không? Giáo Hoàng có đủ tư cách xứng đáng (competent) để diễn giải một định luật thiên nhiên (natural law) hay không? GH thật sự có quyền đơn phương đưa ra một giáo điều mà không cần sự đồng ý của hội đồng giám mục không?” và Kueng đưa ra kết luận “Giáo hội càng tỏ ra quyền hành bao nhiêu thì càng đưa tới sự chia rẽ nội bộ bấy nhiêu”.

Những tư tưởng này dĩ nhiên đe dọa quyền của toàn thể hệ thống giáo hội La Mã, ít nhất là trên quan điểm của La Mã. Cho nên chúng ta không lấy làm lạ khi Vantican tuyên bố là Hans Kung không được dạy giáo lý Giatô nữa và cấm các trường Giatô mời ông làm giáo sư. Tuy nhiên, rất nhiều nhà thần học thần học đang dạy trong các đại học Giatô đồng ý với Hans Kung. (Xin đọc Liberation Theology của Philip Berryman và The Pope and the Maverichkas của Louis Baldwin).

Nhà thần học Ba Tây, Leonardo Boff, có viết về một cuốn sách nhan đề “Church: Charisma and Power” nổi tiếng hoàn cầu. Nổi tiếng vì không những Cha Boff quan niệm giáo hội phải là giáo hội của dân nghèo, mà ngài còn chỉ trích cái cấu trúc độc đoán của Vatican, và nhất là, ngài đưa ra vấn đề nhân quyền ngay trong nội bộ giáo hội. Boff đã viết một đoạn dài để so sánh từng điểm một giữa kiểu cai trị của điện Cẩm Linh (Kremlin) và Vatican, so sánh GH với Tổng Thư Ký đảng Cộng sản, cơ quan hành chánh Trung Ương La Mã với bộ chính trị của Liên Bang Sô Viết. Lẽ dĩ nhiên, Vatican cũng tìm cách khoá miệng Leonardo Boff và cấm Cha Boff không được phát biểu ý kiến, không được viết sách …. Nhưng trứơc sự đồng lòng phản đối của giới lãnh đạo Giatô trên thế giới, nhất là ở Ba Tây, sau một thời gian ngắn Vatican đành phải huỷ bỏ cái lệnh mang tính chất Trung Cổ kia đi (Xin đọc The Silencing of Leonardo Boff (Bịt miệng Leonardo Boff) của Harvey Cox).

Có lẽ chúng ta cũng nên biết tổ chức quyền hành của giáo hội Giatô La Mã ra sao. Tổ chức này được Cha Leonardo Boff mô tả khá kỹ như sau :

http://giaodiemonline.com/2013/09/images/vominh05.jpg

Leonardo Boff, link: http://en.wikipedia.org/wiki/Leonardo_Boff

“Cấu trúc quyền lực trong giáo hội ngày nay là vay mượn từ những khuôn mẫu của nhiều thế kỷ trước, và có hai khuôn mẫu đặc biệt đáng nói tới: kinh nghiệm đối với quyền lực La Mã và cấu trúc phong kiến. Tuy nhiên quyền lực La Mã trong giáo hội ngày nay là một trong những nguồn xung đột chính với sự thức tỉnh của tâm thức con người về vấn đề nhân quyền.

Đặc tính quyền lực phong kiến La Mã là, thứ nhất, một hệ thống bao cấp riêng biệt; thứ nhì, bản chất hệ thống này là phục vụ cá nhân. Người nào ở trong địa vị quyền hành thì ở đó suốt đời; ý muốn của họ là luật trong cấp của họ nhưng luôn luôn bị ràng buộc bởi sự tuân phục của cấp trên. Thứ ba, đó là một hệ thống thiêng liêng mênh mông. Nói cách khác, tính hợp pháp của hệ thống này không do từ dưới mà là từ trên xuống, từ ý muốn của Thần Giatô. Trong hệ thống này, người nào càng ở cấp cao bao nhiêu thì càng gần Thần Giatô bấy nhiêu và càng được Thần chia xẻ cho nhiều Thần quyền bấy nhiêu. Tuân phục cấp trên có nghĩa là tuân phục Thần, do đó sự tuân phục là một giáo luật. Thứ tư, chế độ quyền lực này bất khả xâm phạm và không cho phép một sự chỉ trích nội bộ nào. Chỉ có cấp trên mới có quyền chỉ trích. Một thắc mắt của cấp dưới được coi như là tương đương với một cuộc cách mạng trong vũ trụ. Do đó, bất cứ ý kiến đề nghị thay đổi nào cũng được coi như là một hình thức đả phá Thần Giatô, tác giả của hệ thống và của cấu trúc quyền lực thiêng liêng.”

Trong khi ở các nước văn minh tiến bộ, hệ thống quyền lực mô tả ở trên không còn đất dụng võ, thì bất hạnh thay ở một số quốc gia chậm tiến thề giới thứ ba, hệ thống quyền lực trên vẫn đươc duy trì vì dân trí nơi đây chưa được phát triển, vẫn còn tin ở chuyện hoang đường, thí dụ như chỉ có GH và Tòa thánh Vatican mới có quyền cho phép con người hiệp thông thần với Thần Giatô, vì đó là những người ở gần Thần nhất, được sự mặc khải của Thần, và được quyền thay Thần để quyết định ai được lên Thiêng Đàng, ai không.

Nói tóm lại, phong trào giáo hội quốc gia độc lập và phong trào THGP đã nói lên điểm chính yếu: không có lý do nào mà các dân tộc ở Châu Mỹ La Tinh, ở Trung Mỹ, ở Châu Phi và ở Á Châu phải chấp nhận giáo quyền của Vatican có thực sự thông minh và đạo đức hơn những người ở trong thế giới thứ ba không, nếu chúng ta xét tới lịch sử của giáo hội Giatô, của các Giáo Hoàng, với những cuộc thánh chiến, với những Tòa án xử dị giáo, và với sự kiện là sự kiện Tòa Thánh phải mất 359 năm để thú nhận sai lầm về vụ xử oan Galileo? Mỗi nền văn hoá đều khá nhau. Không có một lý do nào mà các nền văn hoá Châu Mỹ La Tinh, Châu Phi và Á Châu phải rập theo khuôn của nền văn hoá Tây phương (Á châu). Chấp nhận sự lệ thuộc vào văn hoá Tây Phương, bất kể dưới hình thức nào, cũng là biểu lộ óc nô lệ, thiếu tự tin của những người bản xứ thiếu tinh thần quốc gia nếu không muốn nói là phản bội quốc gia. Ý thức dân chủ càng ngày càng lên cao ở các quốc gia trong thế giới thứ ba, và ý thức dân chủ này cũng được áp dụng trong lãnh vực tôn giáo, không chỉ thu hẹp trong phạm vi xã hội. Những ý thức hợp lý này đã đe doạ hệ thống quyền lực tôn giáo ở Vatican, nên Giáo Hoàng cần phải có phản ứng.

3. Nguyên nhân thứ ba là ngày càng có nhiều linh mục và giáo dân rời giáo hội Giatô La Mã. Nhìn vào số thống kê giáo dân của giáo hội thì người ta không thấy gì vì giáo hội chỉ tính những người rửa tội mà không tính những người bỏ đạo. Giáo hội quan niệm rằng “một khi đã là dân Giatô thì sẽ mãi mãi là dân Giatô” (One a Catholic, always a Catholic). Tuy nhiên, kết quả khảo cứu của các nhà xã hội học Giatô qua phương pháp thâu thập dữ kiện, phân tích và dự phóng khoa học, đã đưa ra những con số rất đáng lo ngại đối với Vatican.

Một thí dụ điển hình là trong cuốn Full Pews and Empty Altars ( Nhà thờ đầy bục giảng và trống trơn), kết quả công trình nghiên cứu trong 6 năm của hai học giả xã hội học Richard Schonherr và Lawrence Young của đại học Wisconsin Madison, tác giả khuyến cáo đạo Giatô là: “Sự thiếu hụt linh mục ở Mỹ đang làm cho nền tảng của giáo hội Giatô La Mã sụp đổ” (The shortage of priests in the US is crumbling the foundation of the Roman Catholic Church) và đưa con số dự phóng: “từ năm 1966 tới năm 2005, con số linh mục sẽ giảm 40%, từ 35.000 xuống còn 21.000 trong khi GH vẫn giữ vững lập trường không cho phái nữ làm linh mục.”

Điểm đặc biệt trong vụ này là, nguồn tài trợ cuộc nghiên cứu từ năm 1984 này lại do chính một cơ sở Giatô đài thọ, hãng dược phẩm Lilly. Nhưng năm 1990 khi các tác giả đưa ra kết quả của cuộc nghiên cứu thì lập tức phần tài trợ cuối cùng bị cắt. Lý do?

Hồng y Tổng giám mục Los Angeles tuyên bố: “Chúng ta là đệ tử của Giêsu Kitô, chúng ta sống do ân huệ của Thần Giatô, và tương lai của chúng ta được xếp đặt bởi sự chỉ định của Thần cho giáo hội, chứ không bởi các nhà xã hội học”. Cardinal Archbishop Roger Mahony of Los Angeles said at the time: “we are disciples of Giêsu Christ, we live by God’s grace, and our furute is shaped by God’s design for his Church – not by sociologists”. Đó là tâm cảnh của một vị Hồng Y Giatô Mỹ, và đó cũng là thái độ của Giatô đối với khoa học hiện nay, trứơc ngưỡng cửa thế kỷ 21.

Thật ra vì kết quả nghiên cứu trên cũng không có gì đặc biệt vì sự kiện các linh mục bỏ đạo đã trở nên trầm trọng từ lâu. Giáo Hoàng đã biết vậy và đang tìm cách lật ngược chiều hướng này bằng sự tuyển mộ và cầu nguyện (Pope JP II is trying to reverse thies trend primarily through recruitment and prayer). Trong cuốn Shattered Vows: Priests Who Leave (Lời nguyện bị tan vỡ: Những linh mục Mỹ bỏ đi). Tác giả David Rice là một ông Cha dòng Đô – MI – Níc và ngài đã đi khắp nơi tổng cộng 38.000 miles để phỏng vấn và tìm hiểu đời sống của các linh mục sau khi bỏ giáo hội, đã viết như sau:

“100.000 linh mục Giatô đã rời bỏ giáo hội trong 20 năm qua – cứ mỗi 2 giờ đồng hồ lại có hơn 1 linh mục ra đi. Hầu như phân nữa số linh mục Mỹ sẽ bỏ đi – thường là để lập gia đình – chưa tới 25 năm sau khi được tấn phong. Vatican không nói tới cuộc di dân này, nhưng đó chính là cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất mà giáo hội phải đối diện, kể từ khi có cuộc Cải Cách Tin Lành”

(100.000 Roman Catholic Priests have walked out in the last 20 year – more than one than one every two hours. Almost half of all American priests will leave – most often, to marry – before the 25th anniversary of their ordination. The Vatican won’t told about this exodus, yet it is the most grievous crisis to face the Church since the Protestant Reformation.)

4. Nguyên nhân thứ tư là hình ảnh xì – căng – đan vang dội thế giới. Từ sự ký kết những thoả hiệp với Hitler và Mussolini trong thế chiến II cho tới những vụ tiền bạc thâm lạm ở nhà băng dính líu với Mafia, bao che tội phạm trong Vatican, làm thông hành giả cho tội phạm trong Vatican, làm thông hành giả cho tội phạm chiến tranh dùng đường dây chuột (ratlines) qua ngã Caritas ..v..v.. tất cả đã làm cho Giáo hội Giatô mất đi tính cách tôn giáo mà nặng nề về chính trị hoạt đầu. (Xin đọc The Vatican’s Holocaust (Lò Sát Sinh của Vatican) của Avro Manhattan. Genocide in Satellite Croatia, 1941- 1945 (Chính Sách Diệt Chủng ở Chư Hầu Croatia) của Edmond Paris. The Vatican Empire (Đế Quốc Vatican) của Nino Lo Bello, The Vatican Connection (Sự Dính Líu Của Vatican) của Richard Hammer, và Priests and Politicians (Linh Mục và Chính Trị Gia) của B.S.Rajneesh.)

Với chủ trương “cứu cánh biện minh cho phương tiện”, chỉ lo sự tồn vong của Vatican bất kể đạo đức và sự an sinh của nhân loại, giáo hội Giatô đang đi trên con đường tự hủy diệt. Trong thế giới tự do, với quyền báo chí hiện nay, với các phương tiện truyền thông tân kỳ, giáo hội Giatô không có cách gì che đậy hay dấu diếm những hoạt động của giáo hội. Ngoài ra, về phương diện đạo đức, vụ kiện 1,2 tỷ đô la (1.2 billion dollar lawsuit) liên hệ đến những lạm dụng phi luân trong một cô nhi viện ở Canada, trong đó các “sơ mặc áo xám” (graynuns) hành hạ trẻ em cho đến chết, và cố ý làm cho một số em bị tật nguyền (disabled), thí dụ như chọc thủng màng tai, để lãnh của chính phủ $2.50 thay vì 75 xu một ngày cho mỗi em khỏe mạnh bình thường, được phanh phui trong chương trình Prime Time trên TV, và mới đây cuốn phim “The Boys of St.Vincent” (Những Em Nhỏ ở Cô Nhi Viện St. Vincent) nói về các vụ hành hạ và hiếp dâm các trẻ em trong cô nhi viện St. Vincent ở Newfoundland bên Canada đã làm cho quần chúng ghê tởm những hành động phi luân của các giáo sĩ và nhất là sự bao che của giáo hội cho những kẻ phạm pháp.

Nhưng mang tiếng hơn cả là hơn 400 linh mục phạm tội hiếp dâm nữ tín đồ và trẻ em được giáo hội bỏ ra hơn 400 triệu đô la để dàn xếp ngoài tòa cho mọi sự được ếm nhẹm, và dùng tiền bạc thuê luật sư để tố ngược lại cha mẹ nạn nhân với lý do không săn sóc con cái. Về những vụ này, trong cuốn A Gospel of Shame: Children, Sex Abuse and the Catholic Church (Một phúc âm nhục nhã: Vấn đề lạm dụng tình dục và trẻ em trong Giáo Hội Giatô) Elinor Burkett và Frank Bruni, mô tả như sau:

“Cuốn sách dùng những cuộc phỏng vấn các nạn nhân để khảo sát vị trí dễ bị lạm dụng duy nhất của trẻ em trước các linh mục, và các linh mục phạm pháp để tìm hiểu về đời sống cô độc nguy hiểm của họ. Cuốn sách đưa ra những tài liệu về sự bất lực của công tố viên, quan tòa, tâm lý gia và ký giả trong việc theo dõi kiểm soát các giám mục, những người đã dùng cả triệu đô la để bảo vệ tiếng tăm của giáo hội hơn là bảo vệ các tín đồ.”

(The book uses interviews with victims to examine children’s unique vulnerability to priests and with priests abusers to explore their dangerous isolation. It documents the failure of prosecutors, judges, psychologists and reporters to monitor bishops, who spend million of dollars to protect the church’s image rather than its believers.)

Cùng một đề tài nghiên cứu, trong cuốn Lead Us Not into Temptation: Catholic Priests and the Sexual Abuse of Children (Xin Đừng Dẫn Chúng Con Vào Sự Cám Dỗ: Các Linh Mục Công Giáo và Vấn Đề Hiếp Dâm các Em Nhỏ), Jason Berry đã đưa ra kết quả của 1 cuộc nghiên cứu là:

“Ở Bắc Mỹ, từ 1984 tới 1992, 400 linh mục Giatô đã bị tố cáo là hiếp dâm trẻ con. Cho tới nay (1992) Berry ước tính là Giáo Hội đã bỏ ra 400 triệu đô la để giải quyết những vụ trên. Một sự nghiên cứu dự phòng là Giáo hội sẽ phải tiêu 1 tỷ đô la trước khi thế kỷ này chấm dứt.”

(In fact, between 1984 and 1992, 400 Catholic priests in North America have been reported for molesting children. To date, Berry estimates, $400 million has been paid by the Church to resolve these cases. One source projects that $1 billion may be paid by century’s end).

Nhận định về cuốn sách này, Cha Andrew M. Greeley, giáo sự tại đại học Chicago, viết rằng:

“Tôi biết nhiều vụ và tình trạng mà Jason Berry viết. Tôi có thể bảo đảm với độc giả là, theo sự hiểu biết của tôi, những gì Berry đưa ra là chính xác và dè dặt, nếu không muốn nói là quá thận trọng. Ấn tượng vững chắc của tôi là tình trạng thực sự tệ hơn là những điều viết trong sách. Tôi cho rằng, khi đọc qua những trang sách này, chúng ta sẽ cảm thấy thật là giận, không hẳn chỉ là giận những kẻ gây ra tội lỗi vì chính họ cũng thường, nếu không muốn nói là luôn luôn, là nạn nhân khi còn nhỏ tuổi, mà là giai cấp lãnh đạo Giatô. Các Giám Mục có vẻ như được đào luyện giống nhau để cùng dấu diếm, che chở, hối lộ, lạnh lùng, và thường là lại bổ nhiệm trở lại giáo phận những người mà họ biết là mối nguy hại cho đám tín đồ.”

(I am familiar with many of the cases and situations about which Jason Berrt writes. I can assure the reader that to the best of my knowledge his reporting is accurate and restrained, indeed if anything almost too conservative. It is my strong impression that the situation is actually much worse than it appears in this book. One will become very angry, I suspect, as one reads through its pages, not so much at the victimizers, who themselves were often, if not always, victims when thay were children, but at Catholic leadership. Bishops have with that seems like programmed consistency tried to hide, cover up, bribe, stonewall, often they have sent back into parishes men whom they knew to be a danger of the faithful.)

Bốn nguyên nhân chính ở trên đã tạo nên đà suy sụp bất khả nghịch chiều (irreversible) của giáo hội La mã trên thế giới và đó cũng là lý do chính thúc đẩy John Paul II viết cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng.

* * *

B. LÝ DO THỨ NHÌsự bành trướng của Phật giáo và Hồi Giáo ở Âu Châu và Mỹ Châu. Tôi không biết gì về Hồi Giáo, nhưng về Phật giáo thì tôi thấy rõ sự phát triển của tôn giáo này ở Âu Mỹ. Cách đây 25 năm, khi còn đang học ở Mỹ, tôi chỉ thấy lơ thơ vài cuốn sách về Phật giáo như bộ Thiền Luận của Daisetz T. Suzuki, cuốn A Buddhist Bidle của Dwight Goddard, cuốn Zen Keys của Thích Nhất Hạnh, và một số sách của vài tác giả quen thuộc như Edward Conze, Christmas Humpfreys, Sir Edwin Arnold, Theodore Stcherbatsky, Alan Watts, Charles Luk, Sangharakshita, John Blofeld và Philip Kapleau. Nhưng ngày nay, ra 1 tiệm sách lớn thì ta thấy cả một rừng sách về Phật giáo. Năm 1993, cuốn The Miracle of Mindfulness (Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức) của Thích Nhất Hạnh là một trong những cuốn bán chạy nhất (best sellers). Sách về Phật giáo Tây Tạng ra cũng nhiều và càng ngày càng có nhiều người đọc, nhất là từ sau khi Đức Dalai Lama được trao tặng giải thưởng Nobel về Hòa Bình.

Ảnh hưởng của Phật giáo và những xã hội Âu Mỹ đã được phát triển trên ba phương diện bởi ba nhân vật điển hình có tên tuổi: Daisetz T. Suzuki với Thiền Tông, Đức Dalai Lama với Mật Tông, và Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh với quan niệm “Phật giáo Nhập Thế” và dòng “Tiếp Hiện”, lẽ dĩ nhiên với sự góp sức của rất nhiều Tăng Sĩ và Cư sĩ Phật giáo khác. Gần đây chương trình “60 Minutes” của đài truyền hình CBS có cho biết là hiện nay ở Hoa Kỳ có hơn 2 triệu người Mỹ theo Phật giáo hay chịu ảnh hưởng của Phật giáo, chưa kể tới những người gốc Á Châu như Nhật Bản, Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn v.v... Đài truyền hình NBC cũng cho biết riêng ở Los Angeles có khoảng 300 trung tâm Phật giáo (Buddhist Centers), Boston có khoảng 50, v.v... Trong cuốn How The Swans Came To The Lake, Rick Fields viết về lịch sử phát triển Phật giáo ở Hoa Kỳ với những sự đóng góp của Đức Dalai Lama, Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh trong nhiều cộng đồng. Muốn biết sự phát triển của Phật giáo ở Âu Châu, xin đọc Buddhism in Europe của Kosho Yamamoto, Zen Comes West của Christmas Humphreys.

Tenzin Gyatso

http://giaodiemonline.com/2013/09/images/vominh06.jpg

Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 năm 2012, http://vi.wikipedia.org/wiki/Tenzin_Gyatso

Ảnh hưởng của Đức Dalai Lama càng ngày càng lên cao, nhất là từ ngày Ngài được giải thưởng Nobel về hòa bình, đã khiến cho Giáo Hoàng John Paul II phải lo ngại và viết như sau, trang 104: “Ngài đem Phật giáo đến với những người Kitô Giáo Tây phương, “khuấy động” (stirring up) sự quan thiết (interest) về cả đường hướng tu đức lẫn những phương páp cầu nguyện của Phật giáo” và sau đó “lưu ý các Kitô Hữu phải thận trọng trong việc nồng nhiệt đón nhận một vài tư tưởng đến từ những truyền thống truyền giáo của Viễn Đông” (trang 108). Ở đây, chúng ta nên nhận rõ hai điều: thứ nhất, sự phát triển của Phật giáo trên thế giới từ xưa tới nay luôn luôn nằm trong tinh thần từ bi bác ái và hòa bình, chưa hề làm đổ một giọt máu, cho nên dù có “khuấy độﮧ” thì cũng chẳng có phương hại gì tới bất cứ ai; thứ nhì, lịch sử Giatô trong 2000 năm qua đã chứng minh rằng, bất cứ nơi nào mà Giatô Giáo đến “khuấy động” là nơi đó có máu đổ, có sự chia rẽ, có sự đối nghịch với nền văn hóa địa phương, và thường các giáo sĩ thừa sai Giatô là đoàn quân tiên phong đến lập một đoàn quân thứ năm của người bản xứ để hỗ trợ cho đoàn quân thực dân kéo tới sau.

Và, để cho tín đồ Giatô khỏi bị khuấy động bởi Phật giáo, John Paul II đã phê bình Phật giáo là một hệ thống “vô thần”. Chính câu này đã làm cho Tỳ Kheo Nalin de Silva cho rằng đó là những lời nhận xét lắt léo với ác ý (malicious remarks). Lý do? Trong nhiều năm qua, Giatô Giáo đối nghịch với Cộng Sản và luôn luôn kết hợp CS với vô thần để khích động lòng căm thù của giáo dân đối với CS. Tín đồ Kitô và những người phi Cộng Sản không hiểu rằng, CS là một ý thức hệ chính trị, kinh tế, và xã hội; trong khi Vô Thần là một lập trường tâm linh đối với tôn giáo.

Vô thần đã có từ cả mấy ngàn năm nay, trong khi CS mới xuất hiện chưa đầy 100 năm. Tuyệt đại đa số dân Nga theo Chính Thống Giáo, cũng như tuyệt đại đa số dân các nước Âu Châu theo Giatô La Mã. Chủ nghĩa CS được phát động và phát triển ở những nơi này chính vì sự liên kết của tôn giáo và chính quyền để bóc lột dân nghèo, và những người CS chống tôn giáo là vì tôn giáo đã hiệp với quyền hành thế gian, dung dưỡng những bất công trong xã hội.

Ý Đại Lợi là nước ngoan đạo nhất và đoàn quân của Garibaldi tiến vào La Mã tước bỏ các lãnh thổ của Giáo Hoàng, thu hẹp lãnh thổ này trong phạm vi thị trấn nhỏ Vatican, đều là tín đồ Giatô. Cuộc cách mạng 1789 của Pháp tước đoạt quyền hành của các giám mục, đưa một số linh mục lên máy chém cũng là do dân Giatô thực hiện. Các thể chế CS ở Đông Âu cũng do dân Giatô lãnh đạo, họ tin ở Thần Giatô và Giêsu Kitô nhưng không chấp nhận những lạm dụng quyền hành của tôn giáo. Vậy họ chống những kẻ lợi dụng tôn giáo để mưu đồ quyền lợi cá nhân nhưng không phải họ là vô thần.

Cộng Sản Việt Nam không nhìn ra điều này, nhắm mắt nhắm mũi áp dụng chính sách chống tôn giáo của Nga Sô và các nước Cộng Sản Đông Âu mà không hiểu rằng suốt trong dòng lịch sử Việt Nam, các tôn giáo dân tộc, nhất là Phật giáo, là linh hồn của dân tộc mà chưa bao giờ Phật giáo đứng về phe chính quyền để bóc lột dân nghèo. Chỉ có giai cấp có quyền hành, thực dân Pháp và tay sai mới bóc lột giai cấp công nông, chứ Phật giáo không chủ trương bám víu vào của cải quyền lực thế gian thì làm sao có thể bóc lột bất cứ ai. Ngoài ra, ở các nước Giatô, giáo dân được ru ngủ để cho giới giáo sĩ được nảy nở, nắm giữ quyền hành, nhất là ở các thuộc địa, chứ ở Việt Nam Phật giáo luôn luôn đứng đầu trong việc xây dựng nước và chống ngoại xâm, cho nên bảo rằng Phật giáo là thuốc phiện ru ngủ dân chúng để mà đàn áp cũng lại là một kiểu nhắm mắt nhắm mũi theo một ý thức hệ ngoại lai mà không biết đến những bối cảnh lịch của dân tộc. Đó là chính sách sai lầm nghiêm trọng của Cộng Sản Việt Nam và của giới lãnh đạo già nua trong óc đã hao hụt nhiều tế bào thần kinh (neurons).

Trở lại câu phê bình của GH John Paul II mà Tỳ Kheo de Silva gọi là lắt léo. Thật vậy, John Paul II là người đã tham dự và tích cực đóng góp cho cộng đoàn Vatican II. Trong bản tuyên ngôn về liên hệ giữa Giáo Hội và các tôn giáo phi Kitô (Declaration on the Relationship of the Church to Non-Christian Religions) có một đoạn nói về Phật giáo như sau:

“Phật giáo, trong những dạng khác nhau, nhận biết sự thiếu sót của thế giới hằng chuyển này. Phật giáo dạy một con đường theo đó con người, với một tinh thần tin tưởng và nhiệt tâm, có thể hoặc đạt tới một trạng thái tự do tuyệt dối hoặc hoàn toàn giác ngộ, do chính sự tinh tấn của mình hay với trợ lực của đấng cao hơn.”

(Buddhism in its multiple forms acknowledges the radical insufficiency of this shifting world. It teaches a path by which men, in a devout and confident spirit, can either reach a state of absolute freedom or attain supreme enlightenment by their own efforts or by higher assistance.) (The Documents of Vatican II by Walter M. Abbott, General Editor).

Đó là một sự mô tả Phật giáo tương đối đúng, và John Paul II chắc chắn đã đọc đoạn này. Nhưng ngài vẫn cố ý viết về một “thuyết cứu rỗi” tưởng tượng của Phật giáo, phê bình Đức Phật sai lầm vì phủ nhận giá trị của việc “tạo dựng”, và Phật giáo là một hệ thống “vô thần”, ngầm kết hợp Phật giáo với Cộng Sản để khai thác lòng thù hận CS mà giáo hội đã reo rắc vào tâm hồn giáo dân từ bao lâu nay. Nếu chúng ta theo dõi tình hình hải ngoại thì đây cũng là luận điệu của nhóm Giatô Cần Lao bấy lâu nay trên diễn đàn báo chí và điện tử ở ngoại quốc. Trên những diễn đàn hải ngoại, bất cứ người nào viết về Giatô Giáo, tuy là sự thực, cũng bị chụp lên đầu cái mũ thân Cộng, hay nằm trong chính sách phá Giatô Giáo, gây chia rẽ tôn giáo của Cộng Sản Việt Nam. Những kẻ buôn nón cối này (hat dealers) không chịu đọc sách nên không hiểu rằng những tác giả viết về Giatô Giáo đều là những học giả, giáo sư đại học, và những ông Cha Giatô, những nhà thần học Giatô, hoàn toàn không dính dáng gì tới Cộng Sản.

Người Việt Nam, sau hơn 80 năm dưới sự đô hộ của người Pháp, không nhiều thì ít cũng quen thuộc với sử Pháp. Chúng ta khó có thể quên Léon Gambetta, một chính trị gia lỗi lạc của Pháp, trong cuộc hô hào đoàn kết quốc gia, đã hét lên “một lời tuyên chiến: Giáo Sĩ đoàn đặc quyền, đó chính là kẻ thù” (Un cri de guerre: Le Cléricalisme, voilà l’ennemi!), và Emile Combes, một nghị sĩ đã phát biểu giữa nghị trường Pháp như sau:

“Không phải là chúng ta tấn công tôn giáo mà là những giáo sĩ, những người muốn dùng tôn giáo làm một công cụ thống trị.” (Ce n’est pas à la religion que nous nous attaquons, c’est à ses ministres, qui veulent s’en faire un instrument de domination.)

Chúng ta cũng khó có thể quên Jean Bossu, khi tranh đấu cho nền dân chủ của Pháp đã tuyên bố : “Chống giáo sĩ đoàn đặc quyền là nền tảng căn bản của tinh thần dân chủ. Đối với chúng ta, giáo sĩ đoàn đặc quyền, chính là Giáo hội, chính là Giatô Giáo mà từ trước tới nay luôn luôn là kẻ đối nghịch của mọi thứ tự do.” (L’anticléricalisme est la base fondamentale de l’esprit démocratique... Pour nous, le cléricalisme, c’est l’Église, c’est la Catholicisme, qui a toujours été l’adversaire de toute liberté.)

Các nhà trí trức Pháp đã nhận thấy sự quan trọng của một nền giáo dục Giatô trên nhiều phương diện, và họ đã thành công trong việc giật con em họ ra khỏi vòng tay “giáo dục” của các giáo sĩ Giatô, và vạch trần những đạo đức giả của Giáo hội (Arraché l’enfant au moine, dévoilé les hypocrisies de l’Église.) So với nền giáo dục khai phóng, Giáo dục Giatô là loại giáo dục mà những nhà trí thức Pháp coi như là chống lại tổ quốc và tiến bộ, như Bộ Trưởng Giáo Dục Pháp Charles Dupuy đã phát biểu:

"Chúng ta xác quyết rất thẳng thắn là, đối với chúng ta thật là điều không thể nhân nhượng được trong chiều hướng giáo dục tự do, bất cứ người nào lại có thể dạy dỗ trẻ con để chống lại tổ quốc của chúng và cản sự tiến bộ của chúng."

(Nous le déclerons très franchement, il nous parait intolérable qu’à la faveur de la liberté d’enseignement, qui que ce soit puisse élever des enfants contre leur pays et contre leur temps.)

Và, Gustave Tery, sáng lập viên nhật báo L’Oeuvre cũng đưa ra một đường lối hành động như sau : "Tôi đã hiểu rằng không chiến đấu chống Giáo hội Giatô chính là phục vụ cho Giáo hội, và rằng im lặng là hèn nhát. Tôi hiểu rằng chỉ không để cho bị lừa bịp thì chẳng đủ chút nào, mà còn phải luôn luôn tố cáo sự dối trá." (J’ai compris que ne pas combattre l’Église, c’est la servir, et que le silence est lâche. J’ai compris qu’il ne suffit point de ne pas être dupe, mais qu’il faut à toute heure dénoncer le mensonge.)

Nhưng rõ ràng hơn cả là 2 nhận định sau đây của đại văn hào Victor Hugo :

1. "Chỉ có hai tội phạm, Xê-Da và Phê-Rô ; Xê-Da thì giết người (hủy diệt thân xác), Phê-Rô thì nói láo (hủy diệt tinh thần)... Người linh mục đã, hoặc có thể, bị thuyết phục và thành thật. Chúng ta có nên trách họ không? Không. Chúng ta có nên chống họ không? Nên." (Il n’y a que deux coupables, César et Pierre ; César qui tue, Pierre qui ment... Le prêtre est, ou peut être, convaincu et sincère. Doit-on le blâmer? Non. Doit-on le combattre? Oui.)

2. "Nền văn minh, ánh sáng này, có thể bị tắt đị bởi hai cách bị chìm đắm; hai sự xâm lăng nguy hiểm đối với nền văn minh, sự xâm lăng của các quân lính và sự xâm lăng của các linh mục Giatô. Sự xâm lăng của các linh mục đe dọa con chúng ta, tương lai." (Le civilisstion, cette lumière, peut être éteinte par deux modes de submersion ; deux invasions lui sont dangereuses, l’invasion des soldats et l’invasion des prêtres. L’une menace notre mère, la patrie ; l’autre menace nos enfants, l’avenir).

Victor Hugo

http://giaodiemonline.com/2013/09/images/vominh07.jpg

Link: http://vi.wikipedia.org/wiki/Victor_Hugo

Không phải là bây giờ hay gần đây con người mới ý thức được những sự dối trá của giáo đoàn đặc quyền Giatô và ý thức được sự cần thiết của tự do tư tưởng, song song với sự tiến bộ của văn minh nhân loại, mà trong suốt bao nhiêu thế kỷ, cái khát vọng tự do này của con người đã phát lộ khắp nơi trên thế giới. Tìm hiều về những nhân vật nổi danh trên thế giới như : Asimov, Beethoven, Berthelot, Charles Bradlaugh, Brahms, Einstein, Anatole France, Jules Ferry, Sigmund Freud, Galileo, Victor Hugo, Thomas Huxley, Robert Ingersoll, Thomas Jefferson, Lafayette, Mozart, Lincoln, Nietzche, Thomas Paine, Bertrand Russel, Sir Walter Scott, Mark Twain, Voltaire, H.G.Wells v.v... chúng ta sẽ thấy họ đều là những nhà tự do tư tưởng (freethinkers) và cùng chung một hướng đi: tranh đấu cho tự do tư tưởng của con người và chống đối những huyền thoại dối trá phản tiến hóa của Giáo hội Giatô mà biểu tượng là Vatican. Cho nên, chụp mũ những người viết về sự thực của Giatô Giáo hay Vatican là thân Cộng, là tay sai của Cộng Sản, là dùng sách lược chống Giatô của Cộng sản, là chia rẽ tôn giáo để giảm tiềm năng chống Cộng v.v... là luận điệu của những người không chịu tìm hiểu, không đọc sách, không đọc lịch sử khách quan của Giáo hội Công giáo cũng như lịch sử thế giới, mang Cộng sản ra làm cái bung xung để khai thác lòng thù hận của những người đối nghịch với Cộng sản, bẻ quẹo vấn đề, không đủ khả năng thảo luận, không đủ can đảm để nhận những sự thực lịch sử, và thiếu tính lương thiện và sĩ khí của những người trí thức.

* * *

Bình luận về vài điểm trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng của GH John Paul II.

Sau đây, tôi xin sang phần bình luận về vài điểm trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng của GH John Paul II. Thật tình thì tôi chẳng muốn đi vào tín ngưỡng của bất cứ ai, vì tín ngưỡng là quyền tự do của con người, kể cả niềm tin thuộc loại mê tín dị đoan. Nhưng Giáo Hoàng, với cương vị của lãnh tụ tối cao một tôn giáo lớn mà lại dựa vào niềm tin của mình để phê bình sai lầm về một tôn giáo khác hay về Giáo Chủ của một tôn giáo khác là một điều khó có thể chấp nhận. Do đó sau đây tôi sẽ luận về lời phê bình Đức Phật của John Paul II: "Đức Phật đúng khi Ngài không thấy sự cứu rỗi trong việc tạo dựng, nhưng Ngài đã lầm khi, vì lý do đó mà Ngài phủ nhận sự tạo dựng có một giá trị nào cho nhân loại."

Điểm then chốt ở đây là thuyết "tạo dựng" trong Giatô Giáo, một thuyết mà Phật giáo không bao giờ để ý tới. Có thể tham cứu kinh “Khởi thế nhân bổn”, Trường bộ kinh số 27 do HT Minh Châu dịch, có nói khá rõ về cách hình thành loài người và thế giới, không phải do một đấng Thượng đế Toàn năng nào tạo dựng ra (link: http://buddhanet.net/budsas/uni/u-kinh-truongbo/truong27.htm ). Hơn nữa, quan niệm về "thế giới thành tựu" trong Kinh Hoa Nghiêm khác hẳn với thuyết tạo dựng của Giatô. Thật vậy, trong Kinh Hoa Nghiêm, phẩm "Thế Giới Thành Tựu", Bồ Tát Phổ Hiền tuyên thuyết về 10 đặc tính của các thế giới như Nhân duyên khởi, hình trạng v.v... không có chỗ nào nói về việc tạo dựng thế giới do một siêu nhân. Đặc biệt là Phật giáo quan niệm có hằng hà sa số thế giới có hình trạng khác nhau như trong đoạn kinh văn sau đây:

"Lúc đó Phổ Hiền Bồ Tát bảo đại chúng rằng: Chư Phật tử! Thế giới hải có nhiều hình tướng sai khác, hoặc tròn hoặc như nước xoáy... hoặc hình như hoa... có vi trần số hình sai khác như vậy", khác hẳn Giatô Giáo quan niệm thế giới chúng ta đang sống là thế giới duy nhất do Thần Giatô tạo ra, và trái đất là trung tâm của thế giới này, mặt trời và các hành tinh khác đều do các thiên thần xoay vần xung quanh trái đất. Quan niệm Giatô này, dựa trên Thánh Kinh được coi như là những lời của Thần Giatô nên không thể sai lầm, đã đưa Giordano Bruno lên dàn hỏa thiêu sống, và biệt giam Galileo tại gia nhiều năm cho đến khi chết, chỉ vì những khoa học gia này, dựa vào thực nghiệm, đưa ra thuyết trái đất và các hành tinh xoay xung quanh mặt trời, và ngoài thế giới chúng ta đang sống còn có nhiều thế giới khác nữa.

Bức tranh Galileo đối mặt với Toà án dị giáo La Mã năm 1857 của Cristiano Banti. Link: http://vi.wikipedia.org/wiki/Galileo_Galilei

Chúng ta cũng không nên quên là phải mất 359 năm, tới năm 1992, tòa Thánh Vatican mới công nhận là sai lầm về vụ xử Galileo. Cho nên, người ta đã đặt câu hỏi: nếu Thánh Kinh đã có những điều sai lầm thì có gì bảo đảm là thuyết tạo dựng trong Thánh Kinh không sai lầm? Và nếu phải mất hơn 3 thế kỷ rưỡi mới công khai nhận lầm về một sự thật hiển nhiên, thì làm sao bây giờ họ có thể nhận ra được những tội ác cũng rất hiển nhiên của họ trong gần 100 năm vừa qua trên các dân tộc Á-Phi-Mỹ La Tinh?

Chúng ta biết rằng thuyết tạo dựng của Giatô Giáo dẫn đến quan niệm Adam và Eve là tổ tông của loài người, rồi vì cưỡng lời Thần ăn đại một trái táo nên Adam sa ngã và kết quả là đời đời kiếp kiếp con cháu về sau phải bị đày ải với tất cả những khổ đau ở trên đời vì mang tội tổ tông, rồi đến Thần Giatô sai người con duy nhất của ngài xuống trần để chuộc tội tổ tông cho thế gian, và con người muốn giữ một chỗ trên Thiên Đàng sau khi chết chỉ cần đặt hết lòng tin vào Thần Giatô thì sẽ được cứu rỗi.

Và sau đây là vài điểm trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng liên hệ tới việc "tạo dựng" mà tôi muốn phân tích, hoàn toàn dựa vào những lý luận thông thường mà tôi cho rằng bất cứ người nào có một trình độ học vấn tối thiểu cũng có thể hiểu được:

1.) "Khi đức KiTô nói về tình yêu mà Chúa Cha đã ban cho nhân loại, ngài muốn làm vang vọng lời xác quyết đầu tiên trong sách Sáng Thế Kỷ nói về việc tạo dựng "Chúa thấy nó tuyệt hảo – Ngài thấy nó rất tốt đẹp, Gen: 1:12-31" (Trang 77). Câu trên nói về việc tạo dựng mà Thần Giatô cho là "tuyệt hảo", "rất tốt đẹp" và tình yêu Thần đã ban cho nhân loại.

Chúng ta hãy đi thẳng vào chương Sáng Thế Kỷ (Genesis) trong Cựu Ước trong "The New King James Version" :

http://giaodiemonline.com/2013/09/images/vominh09.jpg

Kinh thánh Do thái Tanakh, Link: http://vi.wikipedia.org/wiki/Tanakh; http://vi.wikipedia.org/ (Cựu Ước)

1. Thoạt kỳ thủy Thần Giatô tạo dựng nên trời đất.

2. Trái đất thì không có hình dạng và trống không; và bóng tối ở trên mặt vũng sâu. Và Thần thức lơ lửng trên mặt các vùng nước.

3. Và Thần nói: “Hãy có ánh sáng”, và ánh sáng có liền.

4. Thần trông thấy ánh sáng và thấy nó tốt đẹp; và Thần chia ánh sáng ra khỏi bóng tối.

5. Thần gọi ánh sáng là Ngày, và bóng tối là Đêm. Đó là ngày thứ nhất với buổi chiều và buổi sáng.

(1. In the beginning God created the heavens and earth. 2. The earth was without form, and void; and darkness was on the face of the deep. And the Spirit of God was hovering the face of the waters. 3. The God said, “Let there be light”; and there was light. 4. And God saw the light, that it was good; and God divided the light from the darkness. 5. God called the light Day, and the darkness He called Night. So the evening and the morning were the first day.)

Trái đất không có hình dạng và trống không thì nước được giữ ở đâu mà Thần thức lơ lửng trên các vùng nước. Khi đó chỉ có mình Thần vậy thì ai ở đó mà nghe “Thần nói” để mà viết lại trong Thánh Kinh là “Và Thần nói:” như vậy? Ánh sáng là các sóng điện từ, có màu sắc khác nhau là do tần số dao động khác nhau, và bóng tối là không có ánh sáng chứ làm sao có thể chia ánh sáng ra thành sáng và tối được. Một trẻ em tiểu học ngày nay cũng hiểu rằng có ngày có đêm là do sự chuyển vận của trái đất xung quanh mặt trời.”Ngày thứ nhất” chưa tạo ra mặt trời thì lấy đâu ra ngày và đêm?

Bỏ qua những đoạn nói về lịch sử tạo dựng mà nhiều khoa học gia ngày nay đã chứng minh rằng thứ tự tạo dựng các sinh vật hoàn toàn trái ngược với thực tế, ta hãy đi vào chuyện của Adam và Eve:

“Sau khi bất tuân thượng lệnh ăn đại một trái trên “cây hiểu biết” (để khỏi bị vĩnh viễn ngu đần) Adam và Eve bị đày ra khỏi vườn Eden và sinh được 2 người con trai là Cain và Abel. Cain chuyên về trồng trọt và Abel chuyên về chăn nuôi. Cain mang phần hoa mầu dâng lên Thần nhưng Thần chê, ngược lại Thần tán thưởng phần thịt mỡ béo bổ mà Abel dâng lên Thần. Cain bực mình vì bị đối xử không công bằng, rủ em vào rừng rồi giết tốt người em ruột. Sau đó Cain ngủ với vợ và sinh ra Enoch. Rồi Adam và Eve lại sanh ra một đứa con trai là Seth, quà của Thần tặng để thay thế Abel. Con của Seth là Enosh...” (Gen. 3: -4:)

Đọc Kinh Thánh tôi vẫn nghĩ không ra ai là vợ của Cain và Seth? Lúc bấy giờ trên thế gian chỉ có người đàn bà duy nhất là Eve. Chẳng có lẻ Cain và Seth ngủ với mẹ ? Cũng có thể lắm vì trong Cựu Ước còn có chuyện 2 người con gái của Lot phục rượu cho cha say và ngủ với cha và sau đó sinh con (Gen. 19:30 -38).

Tạo dựng ra một thế giới gồm những sinh vật cắn xé nhau để ăn thịt lẫn nhau, những cảnh cá lớn nuốt cá bé, những con rắn rết, những vi trùng và siêu vi trùng có tác dụng làm cả ngàn người chết trong những trận dịch tả, dịch hạch, v.v... , và riêng về loài người thì thế hệ đầu tiên đã không tuân lời (Adam), thế hệ thứ hai là sát nhân (Cain) và loạn luân (Cain, Seth) mà Thần Giatô thấy nó “tuyệt hảo” và “rất tốt đẹp” thì quả thật quan niệm về tốt đẹp và tuyệt hảo của Giatô Giáo phải khác thường. Nhưng phiền một cái là hơn 4 phần 5 dân số trên thế giới, nghĩa là vào khoảng 4 tỷ rưỡi người, lại nhất định không cho là việc tạo dựng trên là tuyệt hảo, là tốt đẹp và vẫn bướng bỉnh không chịu tin là Thần Giatô đã tạo dựng ra thế giới này, dù bị tra tấn, thiêu sống hay giết hại như lịch sử 8 cuộc Thánh Chiến và 400 năm xử dị giáo của Giatô đã chứng minh. Vậy mà John Paul II lại phê bình Đức Phật là sai lầm vì phủ nhận giá trị của sự “tạo dựng”. Đức Phật đâu có để ý đến thuyết “tạo dựng”, cho nên làm gì có chuyện công nhận hay phủ nhận giá trị của thuyết này?

2.) “Thế gian mà con người tìm thấy khi mặc lấy xác phàm, xứng đáng với sự trừng phạt, vì tội lỗi đã thống trị toàn bộ lịch sử, bắt nguồn từ sự sa ngã của nguyên tổ” (trang 78).

Đây là nói về tội tổ tông: chỉ vì một trái táo mà nhân loại bị đày ải với tất cả những khổ đau ở trên đời. Thế mới biết tình yêu của Chúa Cha đã ban cho nhân loại là như thế nào. Luận về tổ tông thì có vài vấn đề cần được sáng tỏ: Thứ nhất, theo di truyền học thì các giống người khác nhau là do di truyền. Không ai có thể thấy một cặp vợ chồng người da trắng lại sinh ra một đứa con đen kịt. Dù ông chồng xấu số có ông hàng xóm đen kịt đi chăng nữa thì đứa con sinh ra cũng lờ lờ chứ không thể đen kịt. Vậy thì, Adam và Eve là tổ tông của giống người nào? Da trắng? Da đen? Da vàng? Da đỏ v.v... ? Nếu có là tổ tông thì chỉ có thể là tổ tông của một giống người chứ không thể là tổ tông của cả loài người.

Thứ nhì, chúng ta đã biết Giêsu là người Do Thái, và trong Tân Ước (Luke 3: 23-38) tất cả những thế hệ tiếp nối Adam cho tới Giêsu toàn là tên Do Thái, không hề thấy một tên Congo hay tên Việt nào, vậy thì nếu Adam là tổ tông thì chỉ có thể là tổ tông của dân Do Thái, hay cùng lắm là tổ tông của các sắc dân quanh vùng Do Thái chứ không thể là tổ tông của cả nhân loại. Đã không phải là tổ tông của loài người thì làm gì có tội tổ tông. Không có tội tổ tông thì cần gì ai chuộc tội hay cứu tội? Vai trò của Giêsu trở thành thừa thãi và khôi hài. Nói tóm lại, điều chắc là Adam không thể là tổ tông của người Việt, vậy thì có lý do gì người Việt phải chịu tội của một người mà không phải là tổ tông của nòi giống Việt. Cho nên, chuyện tổ tông, nếu có, của những dân da trắng mũi lõ tóc quăn thì cứ để họ lo với nhau, người Việt chẳng nên dính dáng vào những huyền hoặc hoang đường mà nên quay về với Tổ Hùng Vương, vừa đẹp, vừa hợp dân tộc tính, hợp tình, hợp cảnh, hợp lý hợp với đại khối dân tộc, khỏi phải sống trong khu riêng (ghetto) như người ngoại quốc trên đất nước của mình.

3.) “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nổi ban con duy nhất của Ngài, để những ai tin vào Người sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời đời.” (trang 76)

Chúng ta đã biết Thần Giatô thương yêu thế gian như thế nào qua việc đầy ải loài người, nhất là khi Ngài trừng phạt đàn bà phải chịu sự đau đẻ và làm nô lệ cho đàn ông (Khoa học và sự văn minh tiến bộ của loài người ngày nay đã phủ quyết lời nguyền rủa (curse) của Thần Giatô đối với phái nữ: khi sinh đẻ có thuốc chích cho khỏi đau và đàn bà thường lại ở địa vị “nhất vợ nhì Trời”, Trời ở đây cần hiểu là theo nghĩa rộng), và tạo nên lụt cả để giết vô số chúng sinh, vậy tôi xin miễn bàn thêm.

Nhưng không biết John Paul II có đọc Thánh Kinh hay không chứ thực tình tôi không hiểu ngài nói con duy nhất là con nào, vì trong Thánh Kinh có tới hai Giêsu khác hẳn nhau, một Giêsu trong Matthew và một Giêsu trong Luke. Matthew và Luke đều nói Giêsu là giòng dõi Vua David (thực sự không cần thiết vì Giêsu là con của Thánh Ma (Holy Ghost) thì đâu cần phải kể giòng họ cao sang làm chi). Tuy Matthew kể ngược 42 thế hệ tới Abraham và Luke kể ngược 76 thế hệ tới tận Thần Giatô, người tạo ra Adam, nhưng chúng ta chỉ cần đi ngược lại tới Vua David tới Giêsu như sau:

“David Solomon, Rehoboam, Abijah, Asa, Jehoshaphat, Jehoram, Uzziah, Jotham, Ahaz, Hezekiah, Manasseh, Amon, Josiah, Jeconiah, Shealtiel, Zerubbabel, Abiud, Eliakim, Azor, Zadok, Akim, Eliud, Eleazar, Matthan, Jacob, Joseph, Giêsu”. Tất cả là 27 thế hệ. Nhưng theo Luke 3:23-38 thì các thế hệ tiếp nối từ Vua David tới Giêsu như sau:

“David, Nathan, Matthata, Menna, Melea, Eliakim, Jonam, Joseph, Judah, Simeon, Levi, Matthat, Jorim, Eliezer, Joshua, Er, Elmadam, Cosam, Addi, Melki, Neri, Shealtiel, Zerubbabel, Rhesa, Joanan, Joda, Josech, Semein, Matthathias, Maath, Naggai, Esli, Nahum, Amos, Matthathias, Joses, Jannai, Melki, Leci, Matthat, Eli, Joseph, Giêsu”. Tất cả là 42 thế hệ.

Trong 2 danh sách trên nói về nguồn gốc gia phả Giêsu chỉ có vài tên giống nhau còn hoàn toàn khác nhau, vậy thì khi John Paul II nói tới đứa con duy nhất của Thần Giatô sai xuống trần thì ngài muốn nói đứa con nào? Con trong Matthew hay con trong Luke. Và, vấn đề được đặt ra là, Matthew đúng hay là Luke đúng, hay là cả Matthew và Luke đều sai, hay là cả Matthew và Luke đều đúng? Cái gì bảo đảm là ai đúng ai sai và nếu vấn đề này sai thì có gì bảo đảm là những chuyện khác trong Kinh Thánh không sai?

Trên đây tôi chỉ bình luận vài điểm trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng của Giáo Hoàng John Paul II liên hệ tới lời phê bình của ngài về Đức Phật. Thật ra, muốn phê bình cả cuốn sách trên chúng ta cần ít ra là một cuốn dày gấp ba cuốn đó, nhưng tôi nghĩ không có ai dại dột đi làm cái chuyện điên rồ tốn thời giờ vô ích này. Có một điều là, không hiểu Giáo Hoàng John Paul II viết cuốn sách trên để cho ai đọc, vì tôi không nghĩ giới tín đồ thông thường và ngay cả giới trí thức Giatô có thể hiểu đuợc những điều Giáo Hoàng viết trong cuốn sách đó, ngoài những điều Giáo Hoàng nhắc lại những tín lý Giatô. Nhưng đây lại không phải là chuyện hiểu mà chỉ là chuyện tin, tin mà không cần hiểu. Vì trong cuốn sách này, Giáo Hoàng đã tránh né không trả lời trực tiếp những câu hỏi của nhà báo Vittorio Messori như: “Nếu Thiên Chúa là tình yêu, tại sao lại có quá nhiều sự dữ trong thế giới”, “Tại sao Thiên Chúa lại dung túng đau khổ”, “Tại sao nhân loại cần được cứu rỗi”, v.v...

Mỗi câu trả lời là một khẳng định dựa trên một niềm tin, và như vậy bặt hết lý luận. Thí dụ như: “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban con duy nhất của ngài, để những người tin vào người sẽ không bị luận phạt, được sống đời đời, “ “Thánh Phao Lồ ý thức thâm sâu rằng Chúa KiTô là căn nguyên, là tuyệt đối” và “Chúa Kitô là bí tích của Thiên Chúa vô hình”, “Giáo Hoàng là một bí nhiệm”, “Điều mặc khải này dứt khoát, con người chỉ còn có thể hoặc chấp nhận, hoặc chối bỏ”. Một khi đã khẳng định những điều không thể giải thích được thế nào cho suông sẻ là bí tích và bí nhiệm và dứt khoát thì vấn đề hiểu trở nên thừa thãi. Đó chính là “Phúc cho những kẻ nào không thấy (hiểu) mà tin”.

Ngoài những điều khẳng dịnh mà tín đồ phải tin, không cần hiểu, Giáo Hoàng còn nhắc tới, chỉ nhắc qua thôi, thần học và triết lý của các thánh Augustine, Aquina và các triết như Descartes, Kant, Hegel, Aristote, Plato, Pascal, Husserl, Heidegger v.v... (lẽ dĩ nhiên là không nhắc tới thánh Francis, người chủ trương phục vụ dân nghèo, hay Voltaire, Diderot, Nietzche, Khổng tử, Lão Tử v.v... ) nhưng không hiểu có bao nhiêu linh mục và tín đồ nắm vững được các môn thần học và triết lý của các nhân vật kể trên.

Thật vậy, Cha James Kavanaugh, trong cuốn A Modern Priest Looks at His Outdated Church (Một linh mục hiện đại nhận xét về Giáo hội lỗi thời) có kể về sự huấn luyện các linh mục như sau:

http://giaodiemonline.com/2013/09/images/vominh10.jpg

“Trong học trình của tôi, rất hiếm khi bàn đến những nghi vấn hay quan niệm mà thường là hoặc trắng hoặc đen. Thí dụ như, trong môn triết học, chúng tôi học qua Berkeley, Hume, và Kant chỉ trong vòng 1 tuần lễ... Đó là một nền giáo dục không có sự đồng tình, một sự huấn luyện không có sự giúp đỡ. Tôi nghe những gì họ muốn tôi nghe, và nói những gì ban giám đốc mong muốn tôi nói như vậy. Người nào chống đối thì bị gạt ra ngoài. Chỉ có những người phục tùng luật lệ, hay những kẻ ngây thơ, tiêu cực mới tồn tại. Sáng kiến không được khuyến khích trừ phi đi theo đường lối đã được chấp nhận. “Tà đạo” là danh từ để chấm dứt mọi luận cứ, và “Giáo hội dạy rằng” là nghị trình nhỏ hẹp của mọi tranh luận. Tôi không được giáo dục mà được nặn thành. Tôi không được khuyến khích suy nghĩ mà chỉ được huấn luyện để chống đỡ. Người ta không muốn tôi suy tư mà chỉ muốn tôi học thuộc lòng”

(My studies spoke seldom of doubts or opinions and most frequently of blacks and whites... In philosophy, for example, we could handle Berkeley, Hume, and Kant in a single week... It was an education without sympathy, a training without recourse. I heard what I was supposed to hear, and said what the administration expected me to say. Rebels were weeded out. Only the strong and legal-minded, or the naive and passive, could last. Creativity was discouraged unless it pursued the accepted patterns wich cautious minds approved. “Heresy” was a word which ended every argument, and “the Church teaches” was the narrow outline of every debate. I was not educated, I was formed. I was not encouraged to think, but trained to defend. I was not asked to reflect, but to memorize.)

Cho nên, đã có một ký giả phê bình như sau:

“ Cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng của Giáo Hoàng John Paul II chắc chắn sẽ là một cuốn sách bán chạy nhất (best seller) vì tín đồ sẽ được khuyến khích để mua. Có thể mỗi nhà tín đồ Giatô đều có cuốn sách này. Nhưng cũng như cuốn Thánh Kinh mà nhà nào cũng có, nó sẽ chỉ được dùng như là một vật trang trí để hứng bụi (dust collector) vì rằng không có ai đọc nó cả.”

Về cuốn Thánh Kinh thì Ira Cardiff đã viết như sau : “Hầu như là không có ai thực sự đọc cuốn Thánh Kinh. Họ chắc chắn là có một cuốn Thánh Kinh, có lẽ là cuốn sách duy nhất mà họ có, nhưng họ không bao giờ đọc nó – đừng nói là đọc cả cuốn. Một người có nhiệt tâm tôn giáo sẽ đọc đầy đủ các lời cầu nguyện trong Thánh Kinh, không đọc với óc phê phán, chỉ hiểu theo tất cả những gì mà các cha xứ muốn họ hiểu. Nếu một người thông minh đọc cả cuốn Thánh Kinh với một óc phê phán thì chắc chắn họ sẽ vứt bỏ nó đi.” (Virtually no one really reads the Bible. The above mentioned individual doubtless has a Bible, perhaps the only book he owns, but he never reads it – much less reads all of it. A devout religious individual will read his Bible prayer-fully, not critically, and it will mean whatever he has heard the cleric say it shoud mean. If an intelligent man should critically read it all, he would certainly reject it.)

Và Robert Ingersoll, một nhà hùng biện Mỹ nổi danh ở cuối thế kỷ 19, sau khi đọc hết và đọc kỹ cuốn Thánh Kinh, đã đưa ra một lời thách thức: ông ta sẽ tặng $1,000 (năm 1890) cho bất cứ vị linh mục nào dám lên bục giảng ở nhà thờ để giảng những đoạn trong Thánh Kinh mà chính Ingersoll chọn lựa. Trong nhiều năm, không có một người nào dám nhận lời. Có lẽ chúng ta đã đoán ra trong Thánh Kinh có những đoạn như thế nào.

Tuy nhiên, Giáo Hoàng John Paul II đã trích dẫn những đoạn chọn lọc trong Thánh Kinh, những đoạn đòi hỏi một niềm tin không cần suy luận. Lẽ dĩ nhiên, điều này cần thiết cho một số người yếu đuối, không thể tự mình bước đi những bước vững vàng trên mặt đất, không thể tự mình suy nghĩ, chỉ còn có thể trông ngóng vào những quyền lực siêu nhiên cũng như những quyền lực giả tạo trên thế gian.

  Lời kết:

Con người thường sống trong ảo tưởng, các ảo tưởng cứ chồng chất lên nhau bất tận. Nguồn gốc của mọi ảo tưởng chính là vô minh, cho giả làm thật. Bị bao phủ bởi bức màn vô minh nhưng con người lại xây dựng hi vọng trên ảo tưởng là có thể bước qua ngưỡng cửa hi vọng bằng một niềm tin không suy luận. Làm người ai cũng có hi vọng, nhưng nếu đã đựơc đào luyện và đang sống trong bóng tối dầy đặc của vô minh thì trước hết con người cần phải bước qua ngưỡng cửa vô minh trước khi tiến tới ngưỡng cửa hi vọng.

Chưa bước qua được ngưỡng cửa vô hình thì bước qua ngưỡng cửa hy vọng chỉ là chuyện “mò trăng đáy nước” hay “hái hoa trong kính”. Chân lý giản dị như vậy nhưng bởi căn trí bất đồng cho nên không phải ai cũng hiểu được điều này. Do đó có người quả là đáng thương hơn là đáng trách.                

Trần Chung Ngọc

Nguồn http://www.giaodiemonline.com/2013/09/vominh.htm