Tản Mạn Xung Quanh

Một Cái Bánh Vẽ Trên Trời

Trần Chung Ngọc

http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN134.php

08-Jan-2013

LTS: Có lẽ việc nghiên cứu liên quan đến Chúa có khả năng làm cho GS Trần Chung Ngọc thích thú không kém gì việc thưởng thức quang cảnh quanh chiếc du thuyền, cho nên ông vẫn sáng tác đều đặn trong thời gian nghỉ Đông. Ở nhiều công sở Mỹ có những bài trắc nghiệm để suy đoán tâm lý nhân viên trong đó có câu hỏi: Sau ngày làm việc mệt nhọc, bạn làm gì để thư giãn? và những chọn lựa như sau được đưa ra: a) tìm việc gì đó làm thêm; b) chơi một thứ thể thao nào đó; c) đi ngủ; d) nghe nhạc, giải trí; hay e) gì khác... Nếu hỏi câu này cho GS Ngọc, có thể ông sẽ trả lời: e) nghĩ về đạo Chúa. Bạn đọc có thể kiểm chứng câu giả sử này qua bài viết sau đây.

Đối với giáo dân theo Ca-tô Rô-ma giáo, các bạn cần biết tiền của các bạn được xử dụng như thế nào để có những cơ sở mang bộ mặt bác ái từ thiện của giáo hội. Bạn nên kiểm chứng trước khi nóng giận (SH)

 

Vài Lời Nói Đầu.

Trong bài trước, http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN130.php, tôi có hứa là sẽ viết tiếp bài “Chỉ Vì Một-Cái-Bánh-Vẽ-Trên-Trời”.  Bài viết này được thảo trên chiếc du thuyền Diamond của hãng Princess Cruise, đi từ Sydney Australia đến Auckland New Zealand trong 14 ngày, từ 14 đến 28 tháng 12, 2012.  Làm việc quanh năm cũng mệt nên cuối năm tôi cầu nguyện “xin-cho” với Chúa, xin Chúa cho phép tôi nghỉ xả hơi vài tuần cuối năm, để sang năm mới có sức tiếp tục chống Chúa.  Chúa OK liền và phán:  “Chúng nó nói láo về Ta rất nhiều, và tin nhảm tin nhí về Ta cũng rất nhiều, cho nên nhà ngươi phải cho chúng biết sự thật về Ta. Ta đã dạy chúng là đừng có tin nhảm nhí, phải dùng lý trí [Isaiah 1:18: Come now, let us reason together]; phải biết tìm hiểu Thánh Kinh xem những điều đó có đúng như vậy không [Acts 17:11: They searched scriptures daily, whether those things were so]; và phải thử nghiệm mọi điều, giữ những gì tốt đẹp [1Thes 5:21: Test all things, hold fast what is good.] Ta cũng đã dạy chúng là phải biết sự thật, vì sự thật sẽ giải thoát chúng (the truth will set you free), thế mà chẳng có đứa nào chịu nghe Ta.  Ta đã dạy chúng phải có sự hiểu biết: “dân tộc Ta bị phá hủy vì thiếu hiểu biết. Vì các người đã loại bỏ sự hiểu biết, Ta cũng sẽ loại bỏ các ngươi…” [Hosea 4: 6:My people are destroyed for lack of knowledge.  Because you have rejected knowledge, I also will rejected you…]”  nhưng chúng vẫn cứ u mê, tưởng rằng, dù không phải là người Do Thái nhưng cứ tin mà không cần hiểu biết thì sẽ được Ta cứu, dù rằng Ta đã nói rõ là Ta chỉ cứu đồng bào Do Thái của Ta mà thôi. Sự cuồng tín của chúng Ta cũng sợ luôn..Nhưng Ta thấy ngươi lại chẳng sợ chúng, nên Ta cho phép Ngươi nghỉ ba tuần lễ xả hơi để lấy lại sức, với điều kiện là ngươi phải hứa với Ta là ngươi sẽ tiếp tục giải hoặc chúng cho Ta.” Tôi lờ đi chuyện hứa, vì hứa mà nuốt lời thì đừng hứa còn hơn.  Chuyện tới đâu hay tới đó. 

Ngày 21/12, theo tiên tri thì đó là ngày tận thế, Chúa sẽ tái lâm, ngồi trên du thuyền, tôi chờ Chúa tới để “say Hello” và được Chúa cho đeo hỏa tiễn bốc lên thiên đường nhưng thất vọng, vì nghe tin chính phủ Putin của Nga ra thông cáo cho dân chúng Nga, khuyên đừng tin nhảm nhí vào ngày tận thế đã tiên đoán lần này đã là lần thứ n.  Từ xưa tới nay không biết đã có bao nhiêu lần, Ki Tô Giáo tính toán trên những điều mạc khải của Thiên Chúa không thể sai lầm trong Thánh Kinh, tính rất kỹ và tiên đoán về ngày tận thế nhưng chẳng bao giờ đúng.  Người ta đã khám phá ra rằng, hầu hết chỉ là trò lừa bịp những tín đồ ngu ngốc để vơ vét tài sản của họ, như một Mục sư Tin Lèo ở Nam Hàn trước đây.

Trên chiếc du thuyền tôi có đọc thêm vài tài liệu về lịch sử Ca-tô Rô-ma Giáo trong cuốn The Great Controversy của Ellen G. White, Pacific Press, 2011, Australia, có trong thư viện của du thuyền.  Đây là một cuốn sách viết từ cuối thế kỷ 19, năm 1888, nay xuất bản lại.  Vì là một cuốn sách viết vào thời đó, nên tác giả tin tuyệt đối vào sự hiện hữu của Satan, và những điều mê tín về Gót và Giê-su.  Tuy nhiên có nhiều sự kiện khá chính xác về lịch sử Ca-tô Rô-ma Giáo, với những Chương như: The Destruction of Jerusalem; Persecutions in the first centuries; An Era of spiritual darkness; About the Waldenses; About John Wycliffe; About John Hus and Jerôme; Luther’s separation from Rome; The Bible and the French Revolution v…v… Về Giáo hội Ca-tô bạo hành Wycliffe, Hus và Jerôme, tác giả viết rất chi tiết. Vì không mang theo Laptop nên tôi phải viết bằng tay, đến khi  về nhà mới sửa lại và đánh vào máy điện toán. 

Vài Câu Hỏi Chưa Có Trả Lời

Trên giaodiemonline.com và trên sachhiem.net, tôi đã nhiều lần đưa ra các câu hỏi:

Tại sao một giáo hội mà Ca-tô Rô-ma Giáo tự nhận là do chính Chúa thành lập, thường tự xưng là "thánh thiện", là "ánh sáng của nhân loại", là quán quân về "công bằng và bác ái", luôn luôn được "thánh linh hướng dẫn" v...v... lại có thể có một lịch sử tàn bạo đẫm máu và vô đạo đức như lịch sử đã viết rõ về những cuộc gọi là “thánh chiến”, những tòa hình án xử dị giáo, những cuộc săn lùng phù thủy, mang về tra tấn với những hình cụ khủng khiếp nhất rồi mang đi thiêu sống, làm cho cả trăm triệu người gồm già, trẻ lớn bé các phái nam nữ vô tội chết vì sự cuồng tín của Ca-tô Rô-ma Giáo? Nói tóm lại, tại sao Ca-tô Rô-ma Giáo lại có thể phạm những tội ác vô tiền khoáng hậu trong suốt 2000 năm nay đối với nhân loại đến độ không thể bưng bít được nữa, Giáo hoàng John Paul II và bộ Tham Mưu của ông ta đã phải lên tiếng xưng thú cùng thế giới về 7 núi tội ác của Giáo hội đối với nhân loại, ngày 12/3/2000. Tại sao trong giáo hội Ca-tô lại có những triều đại dâm loạn loạn luân, giết người của một số không ít Giáo hoàng, tự nhận là đại diện của Chúa trên trần? Tại sao Giáo hội do Chúa thành lập lại biến thành một  định chế độc tài buôn thần bán thánh?  Tại sao Vatican lại dính líu đến những vụ rửa tiền, buôn bán ma túy, vũ khí và liên hệ với tổ chức Mafia? Tại sao  Giáo hội lại liên kết của với các chế độ thực dân để đi truyền đạo ở các nước nghèo yếu? Tại sao đạo đức của giới chăn chiên lại suy sụp, điển hình là các vụ đồi bại như Linh mục alias “Chúa thứ hai” cưỡng bức tình dục một số nữ tu trong 27 quốc gia trên thế giới, rồi cưỡng bức một số đi phá thai? Tại sao một số không nhỏ Linh mục ở Mỹ, khoảng hơn 5000 “Chúa thứ hai” cưỡng bức tình dục trẻ em và nữ tín đồ, đến độ Giáo hội phải bỏ ra trên 2 tỷ đô-la để bồi thường cho các nạn nhân tình dục của các Linh mục loạn dâm? Tại sao cho tới ngày nay mà những người Ca-tô Việt Nam ngu ngơ vẫn luôn luôn mở miệng ra là ca tụng Ca-tô Rô-ma Giáo là một “hội thánh” và lên án vô thần, làm như vô thần đồng nghĩa với vô đạo đức, vô tôn giáo, trong khi, xét theo lịch sử,  chính cái tôn giáo của họ, Ca-tô Rô-ma Giáo,  là vô đạo đức và vô tôn giáo vào bậc nhất thiên hạ,  trong khi các đạo khác, thí dụ như đạo Phật, thường bị khoác lên mình cái nhãn hiệu vô thần, lại không hề làm đổ một giọt máu hoặc gây nên bất cứ một phương hại nào cho con người trong quá trình truyền bá trải dài hơn 2500 năm, từ trước Ki Tô Giáo hơn 500 năm

Tôi cũng đã đưa ra nhiều tài liệu về những sự thật về cuốn Thánh Kinh, một sản phẩm của những đầu óc ngu dốt tàn bạo của thời bán khai [Hãy đọc các sách Lê-vi, Dân số, Phục Truyền v…v… trong Thánh Kinh]; về Vatican, một ổ Mafia [Xin đọc The Vatican Mafia của Đức Ông Dr. Rafael Rodriguez Guillen]; và về Ca-tô Rô-ma giáo mà bản chất là một tà đạo, một đạo chích và một đạo bịp, với nhiều tài liệu chứng minh; và về giáo lý của Ca-tô Rô-ma, xảo thuật thần học của một tổ chức buôn thần bán thánh cầm đầu bởi những kẻ xảo quyệt nấp sau bộ mặt tôn giáo với những những giáo lý bịp bợm để lừa dối đám tín đồ không có mấy đầu óc ở dưới.  Bằng chứng ? Tài liệu lịch sử cho biết:

Nâng cao ly rượu, Giáo hoàng Leo phán lời chúc mừng sự thành công của Giáo hội khai thác sự mê tín của tín đồ để thu lợi [Raising a chalice of wine into the air, Pope Leo toasted]:

Chúng ta biết được bao nhiêu về những lợi nhuận mà sự mê tín vào cái chuyện hoang đường về đấng Ki-Tô đã mang lại cho chúng ta và các tiền nhân của chúng ta?

Và tôi cũng đã nói về vấn đề đạo đức của các bậc chăn chiên trong Ca-tô Rô-ma giáo:

Không có một tôn giáo nào trên thế gian mà có nhiều bậc chăn chiên vô đạo đức như Giáo hội Ca-tô Rô-ma. Trong giới giáo hoàng, mà các con chiên được dạy là những đại diện của Chúa trên trần, là những “đức thánh cha”, do đó họ phải tuyệt đối tuân phục các Giáo hoàng trong “đức vâng lời”,  thì nhiều Giáo hoàng, đã phạm đủ mọi thứ tội, từ giết người, hoang dâm vô độ, loạn luân với mẹ và con, ấu dâm, ăn cắp, đồng giống luyến ái… Xin đọc chi tiết trên: http://giaodiemonline.com/2007/06/duccha.htm

Còn trong giới linh mục, mà các con chiên được dạy là các “Chúa thứ hai”, do đó hoàn toàn nghe theo và thi hành theo mọi lời dạy của các bề trên, thì chúng ta đã biết là nhiều vị đã đồi bại như thế nào, trong số này có cả các linh mục Việt Nam.  Linh mục đã phạm tội hiếp dâm ngay cả chị em nữ tu của mình trên 27 quốc gia, và trên 5000 linh mục đã bị truy tố về tội cưỡng bức tình dục trẻ em.  Xin đọc: http://giaodiemonline.com/2010/05/loandam.htm và trên http://www.sachhiem.net/index.php?content=showrecipe&id=5236Giáo hội đả phải bỏ ra 3 tỷ đô-la để đền bù cho những nạn nhân tình dục của các “Chúa thứ hai”. 

Xin đọc thêm tài liệu của Hoa Long Vũ: http://sachhiem.net/TONGIAO/tgS/SH26_1.php về vấn nạn này trên thế giới.

Cho tới nay, tôi vẫn không thấy một lời giải thích nào, hoặc bất cứ lời phản biện nào, về phía những người Ca-tô Việt Nam, kể cả những bậc lãnh đạo và trí thức Ca-tô .  Như vậy, có phải im lặng là mặc nhiên thú nhận những gì tôi viết chỉ là sự thật không.  Nhưng những người Ca-tô không bao giờ chịu thú nhận là sự hiểu biết về “hội thánh” của mình rất kém cỏi, nên thường đưa ra những lý luận phản biện rất nực cười, thí dụ như:

- “Đọc Thánh Kinh mà không hiểu”, nhưng không bao giờ nói rõ là phải hiểu như thế nào; hoặc

-“Những điều đó đã được giải đáp cả rồi”, nhưng không bao giờ đưa ra những giải đáp đó là như thế nào; hoặc

-“Thừa sức trả lời nhưng không thèm hay không không đáng” kiểu “không đánh được mày, tha mày làm phúc.”

Để phản biện mà không phải là phản biện, họ thường đưa ra vài khuôn mặt xấu trong Phật Giáo, vài điều mê tín trong dân gian mà họ chụp lên đầu Phật Giáo, hoặc tố khổ CS, cho rằng như vậy thì có thể xóa bỏ được những sự thật lịch sử về Giáo hội Ca-tô Rô-ma của họ.  Vì thế chúng ta đừng hi vọng là có thể đối thoại nghiêm chỉnh trí thức với người Ca-tô, vì Linh Mục James Kavanaugh đã viết về các con chiên Ca-tô là không biết đối thoại, chỉ biết đưa ra những lập luận, thường là tránh né hay ngụy biện, đã được dạy để bảo vệ tôn giáo của họ.  

Ngày nay chúng ta còn biết trong Vatican, tổng hành dinh của giáo hội Ca-tô Rô-ma, lại có một nhà tù để giam người tiết lộ những chuyện thầm kín đồi bại trong cung đình giáo triều Vatican, mà kẻ tiết lộ lại chính là một cận thần của Giáo hoàng.  Vì vậy trên Internet có người hỏi: “những tài liệu kín đáo của Giáo hoàng”?? Có người nào đó hãy cho tôi biết tại sao một giáo hội lại cần phải có những tài liệu “mật” hoặc “kín đáo”? ["sensitive papal documents" ??? Can anyone tell me why a church would need to have secrets or "sensitive documents"?]  Vậy mà vào vài trang nhà của người Ca-tô Rô-ma giáo Việt Nam chúng thấy tràn ngập một điều “đức thánh cha”, hai điều “đức thánh cha”. Họ cũng còn gọi các Linh mục hiếp dâm là “Đức Cha”.  Thật là khó hiểu và cũng dễ hiểu, khó hiểu đối với người ngoài, nhưng dễ hiểu đối với các tín đồ Ca-tô Rô-ma giáo Việt Nam, vì họ tin rằng “đức thánh cha” đúng thực là “đức thánh cha”, “đức Cha” đúng thực là “đức Cha”, những người mà họ tin rằng đang nắm trong tay cái chìa khóa lên thiên đường (mù).

Có lẽ chúng ta cũng nên tìm hiểu tại sao một tổ chức dưới danh nghĩa là một tôn giáo lại có quá nhiều các bậc chăn chiên vô đạo đức như vậy, một tôn giáo mà những người Việt Nam theo Ca-tô Rô-ma Giáo tự xưng là “Công giáo”, hàm ý là tôn giáo chung cho mọi người.  Phải chăng họ nghĩ rằng mọi người trên thế giới đều phải tin theo cái tà đạo của họ hay sao?  Tôi gọi là tà đạo vì tất cả những bằng chứng hiện hữu đều chứng tỏ như vậy bất kể người Ca-tô tin đạo của họ ra sao.  Về vấn đề phi luân, vô đạo đức của các bậc chăn chiên thì các con chiên ngu ngơ cãi rằng, Giáo hoàng hay Linh mục cũng chỉ là những con người.  Cãi như vậy là không lương thiện, vì họ được nhồi vào đầu từ nhỏ: Giáo hoàng là “đại diện của Ki-tô” (Vicar of Christ) còn  Linh mục là “Ki-tô thứ hai” (Alter Christus), tất cả đều đã được Chúa Ba Ngôi ngự trong người và được Thánh Linh hướng dẫn trong mọi hành động suốt cuộc đời.. Hơn nữa, nếu họ chỉ là những con người thì những danh xưng như “đức thánh cha” hay “đức cha” đều hoàn toàn vô nghĩa.

Khi chúng ta viết về lịch sử ô nhục tàn bạo đẫm máu của Ca-tô Rô-ma Giáo thì có nhiều người bảo vệ Ca-tô Giáo bằng luận điệu:  Thật là bất công khi chúng ta phán xét Giáo hội Ca-tô ngày nay qua những hành động khủng khiếp và vô nghĩa mà Giáo hội đã dùng để thực thi quyền hành trong những thế kỷ ngu dốt và tối tăm trước đây.  Nhưng biện minh như vậy là không hiểu gì về bản chất của Ca-tô Rô-ma Giáo.  Tại sao ngày nay Giáo hội không thể thực thi được quyền hành như trong thời Trung Cổ.  John Remsburg đã viết trong cuốn False Claims, trang 24:

"Nhưng bây giờ giáo hội không còn giết nữa," hình như tôi nghe nhà bảo vệ tín lý KiTô nói.  Không, một con hổ yếu sắp chết càng ngày càng bớt dữ đi.  Bây giờ Giáo hội không giết được nữa vì không còn quyền lực để mà giết.  Bó củi (để thiêu sống người) và thanh gươm (để giết người) đã bị tước khỏi những bàn tay đẫm máu của giáo hội, và bây giờ giáo hội chỉ còn dùng được hai vũ khí, thù hận và vu khống."

("But the church does not kill now," methinks I hear the Christian apologist exclaim.  No; a tiger weakened by the pangs of death grows less and less ferocious.  The church does not kill now because it does not have the power to kill.  The fagot and the sword have been wrested from her bloody hands, and hatred and slander are the only weapons left her now.)

Nhưng có gì bảo đảm là Giáo hội sẽ lại không bạo hành và giết người ngoại đạo ở những nơi mà Giáo hội có đầy đủ quyền hành.  Trong thời cận đại, chính quyền Ca-tô ở Croatia đã giết 700 ngàn người Chính Thống giáo và Gypsies, và chính quyền Ca-tô của Ngô Đình Diệm đã giết 300 ngàn người khác đạo nấp sau bình phong chống Cộng.  Gần đây Ca-tô Giáo ở Nigeria còn thiêu sống người mà giáo dân cho là phù thủy.  Chúng ta hãy đọc vài tài liệu của các bậc thức giả, những người biết rõ về bản chất của Giáo hội Ca-tô Rô-ma.

Trong cuốn The Great Controversy, Ellen G. White viết, p. 364:

Trong thời đại Ca-tô Rô-ma Giáo nắm toàn quyền, có những hình cụ tra tấn để cưỡng bách con người phải chấp nhận giáo lý của Giáo hội.  Có cọc trói người để thiêu sống những ai không tin những điều Giáo hội giảng dạy.  Có những cuộc tàn sát ở mức độ không ai biết được cho đến khi bị phanh phui ra trong sự phán xét.

Những chức sắc trong giáo hội nghiên cứu để phát minh ra những cách tra tấn khủng khiếp nhất và không phải chỉ để giết chết nạn nhân.  Trong nhiều trường hợp, phương thức tra tấn tàn ác được lập đi lập lại  cho đến giới hạn chịu đựng cuối cùng của kẻ bị đau đớn, cho đến khi kẻ bị hành hạ mong được chết đi, coi đó như một sự giải thoát ngọt ngào.

Nếu chúng ta muốn hiểu sự độc ác cố ý của Satan, thể hiện rõ ràng trong nhiều trăm năm, không phải trong những người chưa bao giờ nghe biết đến Gót, mà ở ngay trong khắp thế giới Ki-tô, chúng ta chỉ cần nhìn vào lịch sử của Ca-tô Rô-ma Giáo.

Vì Ca-tô Rô-ma Giáo khẳng định là “Giáo hội không bao giờ sai lầm; và sẽ không bao giờ sai lầm, theo Thánh Kinh.”  Làm sao Giáo hội có thể từ bỏ những nguyên tắc đã chỉ đạo Giáo hội trong quá khứ.

Tất cả những gì Giáo hội làm trong sự bạo hành những người không chấp nhận những tín lý mà giáo hội cho rằng đúng, và giáo hội có lập lại cùng những hành động dó không một khi Giáo hội có cơ hội?  Giả thử những sự kiềm chế áp đặt bởi các chính quyền thế tục được bỏ đi và giáo hội lấy lại quyền hành trước, và ngay lập tức có sự sống lại của sự độc tài và bạo hành của giáo hội.

(In the days of Rome’s supremacy there were instruments of torture to compel assent to her doctrines.  There were the stake for those who would not concede to her claims.  There were massacres on a scale that will never be known until revealed in the judgment.

Dignitaires of the Church studied to invent means to cause the greatest possible torture and not the end of the victim.  In many cases the infernal process was repeated to the utmost limit of human endurance, until nature gave up the struggle and the sufferer hailed death as a sweet release.

If we desire to understand the determined cruelty of the Satan, manifested for hundreds years, not among those who have never heard of God, but in the very heart and throughout the extent of Christendom, we only have to look at the history of Romanism.

As Rome asserts that the “Church never erred; nor will it, according to the scriptures, ever err”, how can she renounce the principles which governed her course in past ages.

All that she has done in her persecution of those who reject her dogmas she hold to be right, and would she not repeat the same acts, should the opportunity be presented?  Let the restraints now imposed by secular governments be removed and Rome be reinstated in her former power, and there would be speedily be a revival of her tyranny and persecution.)

Độc giả nào  tò mò  muốn  thấy tận  mắt  một  số  những hình cụ mà các chức sắc Ca-tô Rô-ma Giáo phát minh ra để tra tấn con người thì tôi xin mời họ hãy đến thăm một bảo tàng viện có tên là "Medieval Dungeon" ở trên đường Jefferson, khu Fisherman Warf, thành phố San Francisco, Cali.  Trong bảo tàng viện này có trưng bày hơn 40 hình cụ mà các tòa hình án dùng để tra tấn những người bị tố cáo là dị giáo.  Ở ngoài cửa bảo tàng viện có đề:

"Trưng bày hơn 40 hình cụ man rợ để tra tấn và hủy diệt con người trong thời đại Trung Cổ ở Âu Châu.  Đằng sau những cánh cửa này là sự khủng khiếp thực sự của thời đại Trung Cổ ở Âu Châu.  Những ngày đen tối nhất của cái quá khứ nhơ nhớp của họ." 

(More than 40 barbaric exhibitions of torture and annhiliation from European Medieval days.  Beyond these doors lies the true horror of the European Medieval days.  The darkest days of its sordid past.)

Ngoài ra, Linh Mục Joseph Dunn cũng viết trong cuốn Đám Tín Đồ Ca-tô Chúng Tôi (The Rest of Us Catholics,  Templegate Publishers, 1994), trg. 184, như sau:

"Có một cuộc triển lãm thường xuyên những hình cụ tra tấn tại Amsterdam  -  Đã một  lần  tôi  đặc biệt  tới xem cuộc triển lãm này.  Tôi nghĩ rằng mọi cá nhân mới tuyển mộ cho Cơ Quan Truyền Bá Đức Tin (hay Văn Phòng Thánh, Holy Office, Nguyên là cơ quan chỉ đạo các tòa hình án. TCN) của Hồng Y Ratzinger đều phải đến xem cuộc triển lãm này và viết một bài nghiên cứu về nó.

Đây là những hình cụ tra tấn của những tòa hình án xử dị giáo mà Văn Phòng Thánh là cơ quan thừa kế.  Có những hình cụ nghiền nát đầu, nghiền nát ngón tay, giá thang để căng người, phanh ngực, chẻ đầu gối, hình cụ giống quả lê và làm nó nở ra dần dần sau khi đâm vào miệng, hậu môn, âm hộ, khuôn người bằng sắt, những cái chĩa dành cho dị giáo, và những con nhện Tây Ba Nha - kèm theo những bản khắc và tài liệu chỉ cách những hình cụ này đã được xử dụng như thế nào." 

[There is a permanent exhibition of torture instruments in Amsterdam - I once made a special point of going to see it.  I think that every new recruit to Cardinal Ratzinger's Congregation of the Doctrine of  the Faith (or Holy Office) should be required to visit the exhibition and write a study paper on it.

Here are the tools of the Inquisitions of which the Holy Office is the heir.  There are head crushers, thumbscrews, ladder racks, breast rippers, knee splitters, oral, rectal, and vaginal pears, iron maidens, heretic forks, and Spanish spiders - with woodcuts, engraving and documents to show how they were used.]

Về bản chất Ca-tô Rô-ma Giáo, Avro Manhattan cũng viết trong cuốn The Vatican Holocaust, Chapter 24:

Sức mạnh và sự yếu kém của giáo hội Ca-tô là niềm tin không lay chuyển của giáo hội, giáo hội là tổ chức duy nhất nắm trong tay sự thật; vì quyền của sự thật là diệt bỏ sự sai lầm, do đó bổn phận của giáo hội là phải diệt bỏ bất cứ những gì không đồng điệu với sự thật, sự thật của giáo hội.

Những điều tuyên xưng căn bản của Ca-tô giáo chưa từng thay đổi một ly nào.  Sự khẳng định của giáo hội Ca-tô về tính duy nhất của giáo hội vẫn từ xưa tới nay chắc như đá hoa cương.  Đó cũng là những khẳng định đã tạo nên những tòa hình án xử dị giáo, Croatia và chế độ độc tài Ca-tô ở Việt Nam.

Nếu có những cơ hội thuận tiện, giáo hội sẽ không ngần ngại tái diễn những điều trên ở bất cứ nơi nào trên thế giới, những nơi có tín đồ Ca-tô.  Và, vì tín đồ Ca-tô hầu như có trong mọi quốc gia, sự nguy hiểm về “thí nghiệm” ở Croatia và Việt Nam trong tương lai gần hay xa trở thành không chỉ là sự suy đoán lý thuyết, mà rất có thể xẩy ra.

Nếu quá khứ là một dấu chỉ cho những việc sắp tới và nếu có những cơ hội thuận tiện và tình hình chính trị thích hợp thì những tòa hình án xử dị giáo mới, những Croatia và Việt Nam mới sẽ lại được tạo ra dài dài.  Khi nào và như thế nào, chỉ có tương lai mới trả lời được.

(The strength and the weakness of the Catholic Church is her unshakable belief that she is the ONLY repositor of Truth; since it is the right of truth to eliminate error, it follows that it is her duty to eliminate anything which is not consonant with Truth, namely with HER truth.

The basic Catholic claims have never changed one single iota. The Catholic Church's insistence about her own uniqueness has remained as granitically firm now, as it has always been. These are the same claims which produced the Inquisition, Croatia and the Catholic Dictatorship of Vietnam.

Given the favourable circumstances, she would not hesitate to repeat them anywhere in the world, wherever there are Catholics. And, since there are Catholics in practically every country, the risk of another Croatian or South Vietnamese "experiment" in the near or distant future, becomes not a theoretical speculation.  But a possibility.

If the past be an indication of the shape of things to come then, given the right opportunities and appropriate political climate, New Inquisitions, New Croatias and New Vietnams will be created again and again. When, where and how, only the future will tell.)

Chỉ Vì ”Một-Cái-Bánh-Vẽ-Tên-Trời”.

Với một cuốn Thánh Kinh như vậy, với một Vatican thế tục như vậy, với một giáo hội độc tôn như vậy, với một lịch sử tàn bạo đẫm máu, với những giáo lý dối trá, với đạo đức thấp kém của giới chăn chiên, từ giáo hoàng trở xuống, mà tại sao Ca-tô Rô-ma giáo vẫn có nhiều tín đồ, kể cả các bậc trí thức, vẫn cảm thấy vinh dự, tưởng rằng mình đang ở trong một “hội thánh”, cho nên không hề biết ngượng vì không biết rằng mình đang ở trong một tổ chức buôn thần bán thánh nấp sau bộ mặt tôn giáo.  Bởi vì không có một “hội thánh” nào lại phạm phải không biết bao nhiêu là tội ác thế gian, và phá sản về tâm linh cũng như đạo đức như Ca-tô Rô-ma giáo.

Tôi đã đưa ra câu trả lời là: 

Tất cả chỉ vì họ bị mê hoặc bởi “một-cái-bánh-vẽ-trên-trời”, bắt nguồn từ hai điều mê tín:

● Thứ nhất, họ được nhồi sọ để tin Giê-su là đấng Cứu thế, chịu khổ nạn để gánh hết tội lỗi cho họ, chuộc cái tội không hề có bắt nguồn từ huyền thoại về tội tổ tông của dân tộc Do Thái trong thời bán khai, để làm hòa với Cha ông ta v..v… 

● Thứ nhì, tin là đến ngày phán xét [không ai biết bao giờ mới có, nếu có] họ được Chúa Giê-su lấy phần hồn của họ đang được lưu trữ trong kho chứa, hợp lại với xác của họ [bất kể là đã chết từ bao giờ, hay đã hỏa táng, rải tro theo giòng nước, bay vào không trung] và cho họ lên thiên đường [không ai biết ở đâu] để được sống đời đời với Chúa của họ nơi đó.

Đã 2000 năm nay, dân Chúa chờ đợi ngày Chúa trở lại để cho họ lên thiên đường và họ vẫn cha truyền con nối kiên trì chờ đợi.  Họ tin như vậy bất kể là chính Giáo hoàng John Paul II và Giáo hoàng Benedict XVI đã chấp nhận thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ, thuyết Tiến Hóa về nguồn gốc con người, và cũng phủ nhận luôn cả sự hiện hữu của một thiên đường trên các tầng mây.  Như vậy làm gì còn có sự Sáng tạo của Gót ra vũ trụ trong 6 ngày, làm gì còn có cái gọi là “tội tổ tông”, và vai trò “cứu thế” cũng như “cứu rỗi” của Giê-su đã không còn giá trị trong thế giới ngày nay, ngoại trừ chỉ còn trong đầu óc của đám người không có mấy đầu óc.. Tôi nghĩ đa số tín đồ Ca-tô Việt Nam, kể cả các bậc trí thức, chưa bao giờ nghe đến những lời tuyên bố trước thế giới của giáo hoàng John Paul II, hoặc có nghe đến nhưng vì một “đức tin” thâm căn cố rễ đã ăn sâu trong đầu, nên Giáo hoàng nói thì mặc Giáo hoàng, ta tin thì cứ tin.  Cuộc sống đời đời cùng hai cha con Gót trên một thiên đường (mù) vì cho tới nay, không ai biết ở đâu và cũng không biết có thực là Gót và Giê-su có ở đó không, chính là cái mà Mục sư Ernie Bringas gọi là “Một-Cái-Bánh-Vẽ-Trên-Trời” (A-pie-in-the-sky) trong cuốn Theo đúng sách vở: Những thảm họa trong quá khứ và hiện tại do quyền lực của cuốn Thánh Kinh (Going By The Book: Past and Present Tragedies of Biblical Authority).

Tôi cũng nghĩ tuyệt đại đa số tín đồ Ki-tô chưa từng đọc đến Kinh Thánh và lẽ dĩ nhiên không có một kiến thức nào, dù là tối thiểu, về những tiến bộ của khoa học và đầu óc con người trên thế giới. 

Trong mấy thế kỷ nay, khoa học tiến tới đâu thì Gót của Ki Tô Giáo thu hẹp mình trong những khoảng trống (God of the gaps) đến đó. Gót trong Ca Tô Giáo mà các người Ca-tô Việt Nam gọi là Thiên Chúa thật ra chỉ là một vị Thần của một dân tộc hay một bộ lạc Do Thái, theo niềm  tin cổ xưa của họ, trong thời bán khai mà sự mê tín tràn ngập trên thế gian.  Ngày nay, trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, những huyền thoại về Gót đã không còn chỗ đứng trong giới hiểu biết.  Trong cuốn Những Phê Bình về Gót (Critiques of God), biên tập bởi Peter A. Angeles, trong đó có 16 tác giả phê bình về mọi lý luận thần học của Ki Tô Giáo, chúng ta có thể đọc đoạn sau đây, trang xiii:

Những niềm tin vào những đấng siêu nhiên đã biến khỏi nền văn hóa của chúng ta.  Bất cứ sự sùng tín đại cương nào về Gót cũng đang trở thành mờ nhạt trong nền văn hóa của chúng ta.  Gót đã mất đi trụ xứ trong không gian như là một nước trên Thiên đàng.  Ông ta cũng mất đi chỗ đứng trong vũ trụ như là đấng đã sáng tạo ra nó từ hư vô.  Không phải là Gót bị đẩy ra một vùng xa lắc xa lơ.  Không phải vì ông ta trở thành một trừu tượng vô thân thể (phi Nam phi Nữ).  Mà vì chúng ta nhận thức ra rằng chẳng làm gì có Gót để mà nói tới.

(Beliefs in supernatural beings have vanished from our culture.  Any general serious belief in God is fading in our culture.  God has lost his spatial location as a monarch in heaven.  He has lost his temporal precedence to the universe as its Creator ex nihilo.  It is not God is being relegated to a remote region.  It is not that God has become a bodiless abstraction (a sexist It).  It is the realization that there is no God to which to relate.)

Chuyện lừa bịp lớn lao nhất của Ca Tô Giáo là về vai trò “cứu thế” và “cứu rỗi” của Giê-su mà theo các học giả nghiên cứu trong vòng 200 năm nay, Giê-su chỉ là một người dân thường Do Thái sống với ảo tưởng mình là con của Gót của người Do Thái. Tất cả Thánh Kinh, Cựu Ước cũng như Tân Ước, với quan niệm một trái đất phẳng và dẹp, có bốn góc, đều viết về dân Do Thái và những dân quanh vùng Do Thái, không liên hệ đến bất cứ quốc gia nào khác.  Cho nên, chúng ta đã hiểu tại sao Giám Mục Tin Lành John Shelby Spong đã cho rằng vai trò “Cứu Thế” của Chúa Giê-su cần phải dẹp bỏ.  Xin đọc bài “Giê-su Như Là Đấng Cứu Thế: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ”, một bài dài của Giám mục Spong trong đó có câu sau đây:

Đôi khi, cái cây chết cần phải đào xới lên và vứt bỏ nó đi để lấy chỗ cho cây mới có cơ hội mọc lên.  Đối với câu chuyện về Giê-su, hành động trên (đào xới lên và vứt bỏ) thật là tối cần thiết và cấp bách (vital and urgent). 

Không có bất cứ một hình ảnh nào dùng để giải thích về nhân vật Giê-su đáng được tồn tại. Hình ảnh hiển nhiên nhất để loại bỏ trong đầu óc tôi có lẽ cũng là cái hình ảnh cổ xưa nhất về mọi diễn giải về Giê-su. Đó là cái hình ảnh của Giê-su như là “đấng thần linh cứu thế” (the divine rescuer).”.  [http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN37.php]

Và tại sao Linh mục James Kavanaugh lại viết bài “Huyền Thoại Cứu Rỗi” (The Salvation Myth), trong đó có đoạn:  

Nhưng đối với con người hiện đại, chuyện hi sinh của Giê-su chẳng có ý nghĩa gì mấy,  trừ khi hắn đã bị reo rắc sự sợ hãi và bị tẩy não từ khi mới sinh ra đời (But to modern man, it makes far less sense unless he has been suitably frightened and brainwashed from birth).  Đối với tôi (Linh mục James Kavanaugh), đó là một huyền thoại “cứu rỗi” của thời bán khai, miêu tả một người cha giận dữ, chỉ nguôi được cơn giận bằng cái chết đầy máu me của chính con mình.  Đó là một chuyện độc ác không thể tưởng tượng được của thời bán khai (It is a primitive tale of unbelievable cruelty).

Tôi chấp nhận sự kiện là Giê-su đã chết, và ngay cả đã bị đóng đinh trên thập giá.  Nhưng tôi không thể chấp nhận huyền thoại về cái chết của ông ta là để chuộc tội cho tôi.  Huyền thoại “cứu rỗi” trong Tân Ước chỉ là một cách diễn giải.  Đó là một huyền thoại của thời bán khai, bản chất của nó giống như những huyền thoại của các dân tộc bán khai ở khắp nơi, nhưng nó hoang đường và ác độc hơn hầu hết các huyền thoại khác (But it is more unbelievable and more cruel than most myths). [http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN36.php]

Vì bị mê hoặc bởi “Một-Cái-Bánh-Vẽ-Trên-Trời” và vì bị giam chặt trong sự đen tối trí thức của một ngục tù tâm linh cho nên các tín đồ Ca-tô Việt Nam bị đưa vào khuôn phép là phải tuyệt đối tôn sùng và vâng lời ”Đức Thánh Cha” mà họ được dạy là “Đại diện của Chúa Ki Tô” (Vicar of Christ)  và phải tuyệt đối tuân phục cấu trúc quyền lực của đạo Công Giáo, một loại quyền lực tự tạo bằng một nền thần học tinh vi để nắm giữ đầu óc đám tín đồ thấp kém, loại đầu óc đặc biệt của lớp người có cái “gen” di truyền để có thể tin bất cứ cái gì mà những người khác không thể tin được.  Quyền lực này nằm trong tay các “bề trên” của họ như Hồng Y, Tổng Giám mục, Giám mục, Linh mục ở các địa phương có người Ca-tô. 

Giáo hội dạy: "hãy quên mình trong vâng phục" và gần đây giáo hoàng Benedict XVI cũng đã dạy lại “Muốn đến với Chúa thì phải tuyệt đối thi hành 'đức vâng lời'”.  Như vậy ý chí tự do mà Gót ban cho con người còn đâu khi phải tuyệt đối vâng lời bề trên mà không thắc mắc.  Điều này cũng có nghĩa là đầu óc của con người là thừa, giống như những con chiên, người chăn chiên lùa đi đâu thì phải đi đó, người chăn chiên bảo nói cái gì thì nói cái đó, người chăn chiên dạy cái gì thì phải nhắc lại y chang cái đó.  Tín đồ Ca-tô giáo nhắm mắt tuân phục các bề trên dạy “đức vâng lời”. không biết rằng “đức vâng lời” chẳng qua chỉ là để nô lệ hóa đầu óc tín đồ.  Đám tín đồ thấp kém cũng không biết rằng “đức vâng lời” bắt nguồn từ một câu trong Tân Ước dạy các nô lệ thân xác khi xưa, Col.3:22,24:Những nô lệ, hãy vâng lời mọi điều mà chủ nhân của các ngươi trên trái đất bảo.. biết rằng như vậy các ngươi sẽ được Chúa ban cho phần thưởng” [Slaves, obey in everything those who are your earthly master.. knowing that from the Lord you will receive the inheritance as your reward].  Phần thưởng đó chính là  “Một-Cái-Bánh-Vẽ-Trên-Trời” (A-pie-in-the-sky).

Trong cuốn Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm, trang 73, người Ca-tô đạo gốc Charlie Nguyễn trích dẫn từ Kinh Nhật Khóa của Ca-tô Giáo lời cầu nguyện hàng ngày của giáo dân như sau: "Xin Chúa làm cho tôi khinh dễ sự đời là chốn chim muông cầm thú, xin làm cho tôi đặng về quê thật hiệp làm một cùng vua David." .  Lẽ dĩ nhiên, họ được bề trên dạy họ cầu nguyện như vậy, chứ họ có đọc Cựu ước đâu để biết rằng, David chỉ là một kẻ hầu gảy đàn cho Vua Saul, sau đó đi làm tướng cướp, dắt lâu la đi bắt địa những nhà giàu dưới hình thức là để bảo vệ tài sản của họ, và khi lên làm Vua của Do Thái thì hoang dâm vô độ, mưu giết tướng thuộc hạ để cướp vợ của thuộc hạ. 

Mục sư Ernie Bringas viết trong cuốn sách trên, trang 25:

Những điều giảng dạy như vậy mục đích là điều kiện hóa tâm lý của các nô lệ để họ chịu đựng những sự khắc nghiệt và bất công trong hoàn cảnh của họ; cũng là điều kiện hóa chúng chú trọng vào một đời sau. Cái Bánh-Vẽ-Trên-Trời hứa hẹn một điều quá quen thuộc và ngay cả đi vào chế độ nô lệ ở Mỹ, ở đây cái Bánh-Vẽ-Trên-Trời đã dùng để khuất phục người da đen chấp nhận cuộc sống đáng thương của họ.  Một nhà viết nhạc viết: “Thế giới này không phải là nhà của tôi, tôi chỉ đi qua mà thôi”.  Điều nhấn mạnh ở đây là về phần thưởng trên thiên đường,

[Such teachings psychologically conditioned slaves to submit to the harshness and injustice of their situation; they also conditioned them to concentrate on the afterlife.  This pie-in-the-sky promise is an all-too-familiar theme that even found its ways into American slavery, where it subdued  Blacks into accepting their deplorable existence.  One song writer wrote: “This world is not my home, I’m just passing thru”.  The emphasis was on the reward in heaven.]

Giáo hội dạy tín đồ như vậy, nhưng Giáo hội không coi cuộc sống hiện tại là tạm bợ,  Giáo hội cũng không mong mau về quê thật với David, vì Giáo hội biết rõ đó chỉ là những thủ đoạn để điều kiện hóa đầu óc đám tín đồ thấp kém.  Trên thực tế, Giáo hội khắp nơi đều tìm cách, dùng mọi thủ đoạn để vơ vét tài sản thế gian, sống trong nhung lụa.  Giáo hoàng mặc quần áo lụa tía, đội mũ ba tầng, đi xe popemobile, uống sâm banh, ăn bít-tết, trong khi Chúa Giê-su của ông ta đi chân đất, không có cái gối để gối đầu.  Xin đọc Thập Giá và Lưỡi Gươm của Linh mục Trần Tam Tĩnh để biết về tài sản của giáo hội Ca-tô ở Việt Nam.

Sự đạo đức giả của Giáo hội Ca-tô đã vượt quá sức tưởng tượng của con người.  Giáo hội luôn luôn mang bộ mặt hòa bình, cấm tín đồ dùng thuốc ngừa thai, và trước đây Giáo hoàng John Paul II tuyên bố tín đồ nào bỏ thuốc lá một ngày sẽ được xóa hết tội.  Nhưng tài liệu mới phanh phui gần đây trên Carnal Nation http//s.tt/113ex cho biết, Pax-Bank, nhà ngân hàng và cơ quan từ thiện Caritas của Giáo hội đã phải thú nhận là đã đầu tư vào các xí nghiệp sản xuất vũ khí súng ống, thuốc ngừa thai và thuốc lá  (Pax-Bank, the bank of Church and Caritas (Latin: Charity), has found itself in the embarassing situation having to admit that it’s been investing in guns, birth-control pills, and tobacco.)

Quý độc giả nào muốn tìm hiểu thêm về các thủ đoạn, phương pháp làm tiền của Vatican, có thể tham khảo vài cuốn sách sau đây:

1) The Vatican Empire (Đế Quốc Vatican) của Nino Lo Bello, Trident Press, New York, 1968;

2) The Vatican Billions: Two Thousand Years Of Wealth Accumulation From St. Peter To The Space Age (Những Tỷ Đô-La Của Vatican: Hai Ngàn Năm Tích Lũy Của Cải Từ Thánh Phê-rô Đến Thời Đại Không Gian) của Avro Manhattan, Butler & Tanner Ltd, London, 1972;

3) In Banks We Trust (Chúng Ta Tin Cậy Vào Những Nhà Băng) của Penny Lernoux, Penguin Books, New York, 1986.  Quý độc giả cũng có thể đọc Mục 3: Khủng Khoảng Đạo Lý: Nhân Quả Của Đồng Tiền Tội Ác trong bài Nhìn Vào Trong Sự Khủng Khoảng Của Giáo Hội Gia Tô La Mã trong cuốnVatican Thú Tội Và Xin Lỗi?, Giao Điểm, 2000, để biết thêm xuất xứ của những đồng tiền tội ác của Vatican.

Cuốn The Vatican Empire nói nhiều về sự đầu tư của Vatican vào các công ty, kể cả các công ty liên hệ đến kỹ nghệ chiến tranh (war industries), ngân hàng, thị trường chứng khoán v..v...  Cuốn In Banks We Trust cho độc giả biết những sự liên hệ giữa các nhà băng lớn ở Mỹ với CIA, Mafia, những nhà độc tài và buôn ma phiến ở Châu Mỹ La-tinh (relationships between the banks and the CIA, Mafia, and Latin American dictators and drug dealers) và đi thẳng tới Vatican (all the way to Vatican), và Tổng Giám Mục Marcinkus, Giám đốc nhà băng Vatican, đưa Tòa Thánh vào trong kế hoạch tổ chức kinh tài của Phát-xít Ý, Mafia Sicile, và những đội hành quyết ở Mỹ La-tinh (Archbishop Marcinkus involves the Holy City in the schemes of Italian Fascists, the Silician Mafia, and Latin-American death squads). 

Cuốn The Vatican Billions của Avro Manhattan nói nhiều về những phương pháp tích lũy của cải của Vatican trong suốt dòng lịch sử của Ca-tô Rô-ma Giáo.  Cuốn này gồm 28 Chương. Không có cách nào chúng tôi có thể viết ra chi tiết nội dung của cuốn này trong một bài viết, cho nên sau đây chỉ là những điểm điển hình rải rác trong 28 chương sách:

  1. Giáo hội khẳng định có quyền sở hữu của mọi đất đai trong đế quốc La Mã (She claims the ownership of all the territories of the Roman Empire)
  2. Giáo hội ra lệnh cho các Lãnh Chúa phải đóng tiền cho Giáo hội – Giáo hội khẳng định có quyền sở hữu của mọi đất đai, với tất cả cư dân và của cải trong đó (The Church commands secular rulers to pay her – She claims the ownership of all lands, with all their inhabitants and riches)
  3. Giáo hội khẳng định có quyền sở hữu mọi hoang đảo và đất đai chưa khám phá ra (The Church claims the ownership of all isles and lands as yet undiscovered)
  4. Giáo hội tuyên bố Ngày Tận Thế vào năm 1000, gây khủng khoảng sợ hãi cho các tín đồ, tín đồ đưa hết của cải cho Giáo hội.  Giáo hội trở nên vô cùng giầu có.  Những người lạc đạo là một nguồn để vơ vét thêm của cải (Tịch thu).  Rút phép thông công (tuyệt thông)là cách moi tiền.  Tố cáo người lân cận để tịch thu tài sản.  Sự tham lam và đồi bại trong giới giáo sĩ. (The Church predicts the world would come to an end in the year A.D. 1000.  Reaction of a terrorized Christendom- Believers give all their possessions to the Church.  The Church becomes immensely rich.  Heretics as a source of more wealth – Anathemas and excommunications as means to extract money – Denounce your neighbor to seize his property. Greed and corruption of the clergy.)
  5. Lên Thiên đường qua ngả Rome (Vatican) .. nhưng hãy trả tiền trước (Go to heaven via Rome...but pay first)
  6. Tiền phạt khi xưng tội.  Tiền đóng cho Giáo hội 10% lợi tức.  Giáo hội khẳng định có quyền chiếm 33% tài sản của những “tín đồ Ki-tô chết”.  Thu tiền của những người cùi, ăn mày và gái điếm (Fines – in the confessional.  The tithes.  The Church claims 33% of personal riches of all “dead Christians”.  Collects money from lepers, beggars and prostitutes)
  7. Trả tiền để linh hồn được giải thoát.  Mua bằng tiền 1000 năm giải tội, để tránh khỏi Hỏa Ngục và được ngắn hạn trong Ngục Luyện Tội [Cách kiếm tiền vô liêm sỉ này đã đưa đến cuộc cải cách Thệ Phản của Martin Luther] (Pay for the release of a soul – Buy one million years of indulgences, to avoid Hell and shorten Purgatory with money)
  8. Giáo hội Công Giáo và tài sản khổng lồ của các thuộc địa Tây Ban Nha (The Catholic Church and the fabulous wealth of the Spanish colonies) [Thường là của cải ăn cướp ở các thuộc địa]
  9. Giáo hội khám phá ra cách làm tiền mới – Phát minh ra những “mề đay tạo phép lạ” – Sự đẩy mạnh “phép lạ lớn nhất trong thế kỷ 19 - Phép lạ ở Lộ Đức (The Church discovers new means to make money – The invention of “miraculous medal” – The promotion of the “greatest miracle” of the 19th century – Lourdes.)
  10. Giáo hội Ca-tô về phe với Phát –xít và Đức Quốc xã (The Catholic Church sides with Fascism and Nazism)
  11. Giáo hội Ca-tô đầu tư cả tỷ “lire” (tiền Ý) vào địa ốc, thị trường chứng khoán, cổ phần trong chế độ Phát-xít Ý – Tài trợ cho guồng máy kỹ nghệ chiến tranh để kiếm lời nhanh chóng – Đầu cơ đất đai ở Rome và các nơi khác. (The Catholic Church invests her billion lire in real estate, stocks, shares in Fascist Italy – She backs industrial war machinery to make quick profits – Land speculations in Rome and elsewhere)

Trên đây chỉ là một số phương pháp kiếm tiền điển hình của Giáo hội Ca-tô.  Những “hoạt động tôn giáo” như trên của Giáo hội Ca-tô khiến chúng ta phải gãi đầu phân vân, không biết đây là một tổ chức Mafia hay là một Tôn Giáo “thánh thiện, duy nhất, tông truyền, mạc khải”?   Thật là tội nghiệp cho gần một tỷ người đã sa vào lưới của Vatican vì tin rằng mình đang ở trong một “Hội Thánh”.  Họ luôn luôn được nhồi sọ bởi bộ máy tuyên truyền của Giáo hội về những hoạt động giúp đời như giáo dục, từ thiện v..v.., không hề biết đến thực chất những hoạt động này chỉ là những bình phong che đậy những hoạt động mà Vatican không muốn cho ai biết. Thực ra, mặt tôn giáo của Giáo hội Công Giáo La Mã chỉ là lớp sơn phết bên ngoài để mê hoặc đám tín đồ thấp kém nhưng cùng lúc lại nói lên rõ ràng hơn gì hết bộ mặt đạo đức giả của Giáo hội.  Giáo hội tuyên bố rằng Giê-su là người thành lập ra Giáo hội, nhưng những hoạt động vơ vét tiền bạc, tài sản v..v.. của giáo hội lại hoàn toàn trái ngược với những lời dạy của Giê-su.  Giê-su đã từng nói: “Những con cáo có hang ổ của chúng, những con chim có tổ của chúng, nhưng Ta không có chỗ nào để gối đầu”  (Foxes have holes, and the birds of the air have nests, but the Son of Man has nowhere to lay his head) và dạy các đệ tử: “Hãy đi bán những gì các ngươi có để cho người nghèo” (Go, sell whatever thou hast, and give to the poor).  Đó là những lời dạy của vị giáo chủ đã lập lên một giáo hội mà Ca-tô giáo kế thừa, một vị giáo chủ đã ra lệnh cho giáo hội không được tìm kiếm của cải trên cõi đời mà chỉ là của cải của Nước Chúa (These are the very words of her (the Church) Master, He commanded her (the Church) to seek, not the riches of this world but those of the Kingdom of God). 

Nhưng hiển nhiên là trong 2000 năm nay, Giáo hội Ca-tô đã làm ngược lại tất cả những lời dạy trên.  Tại sao?  Vì Giáo hội chỉ là một tổ chức thế tục, lập lên bởi những con người xảo quyệt, ham tiền bạc vật chất, và tất nhiên cũng không tin là có một Nước Chúa.  Nước Chúa chỉ là một cái bánh vẽ để nhử các tín đồ thấp kém, một chiêu bài để Giáo hội dựa vào đó mà vơ vét của cải thế gian. Thật đúng như Nino Lo Bello đã viết: Sức mạnh của Ca-tô Giáo được duy trì bởi sự nghèo khổ và ngu dốt của quần chúng.”

Cái Bánh-Vẽ-Trên-Trời đã tác hại trên đầu óc tín đồ như thế nào

Đối với những người Ki Tô Giáo mê hoặc bởi một-cái-bánh-vẽ-trên-trời, kinh nghiệm lịch sử cho thấy là bạo lực và đàn áp bách hại họ không thể phá bỏ được một niềm tin thuộc loại mê tín thâm căn cố rễ trong đầu óc họ được.  Chỉ có sự hiểu biết mới làm cho con người thức tỉnh và thay đổi niềm tin vô căn cứ như nhiều bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo đã thành công và viết sách để giải hoặc chính tín đồ của họ. 

Ngày nay, Âu Châu cũng đã thức tỉnh đưa đến sự suy thoái không phương cứu vãn của Ki Tô Giáo nói chung, Ca-tô Rô-ma Giáo nói riêng.  Giáo hội Ca-tô Rô-ma biết rõ như vậy nên cố duy trì chính sách “ngu dân dễ trị”, giữ cho tín đồ càng ít hiểu biết bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.  Điều này chúng ta thấy rõ ngay cả trong giới trí thức Ca-tô Việt Nam.  Họ có thể biết nhiều trong lãnh vực chuyên môn của họ, nhưng về chính Ca-tô Giáo và những diễn biến trong Giáo hội và ngoài đời liên quan đến Ca-tô Giáo họ hầu như đều có một điểm mù tôn giáo, một đầu óc với niềm tin cũ kỹ thuộc thế kỷ 17 (an astrolabe mind) như Mục sư Ernie Bringas đã nhận định chung về các tín đồ Ki-tô Giáo. 

● Vì mê mẩn về  một-cái-bánh-vẽ-trên-trời, cho mình là dân Chúa, coi cuộc sống hiện tại chỉ là tạm bợ chờ ngày Chúa bốc lên thiên đường, nên họ không có mấy tinh thần quốc gia, tinh thần dân tộc.  Đọc các trí thức Ca-tô Việt Nam chúng ta thấy rõ như vậy. 

Chúng ta hãy lấy một thí dụ điển hình qua bài Nhân Vụ Cầu Nguyện” của Tiến sĩ Nguyễn Anh Tuấn, tự nhận là một “khoa học gia về chính trị” (Political scientist),  trên Tiếng Nói Giáo Dân.  Đây là một bài giảng đạo thuộc trình độ mẫu giáo, thích hợp với các trẻ em trong nhà thờ sáng Chủ Nhật trong các lớp học Thánh Kinh hơn là cho những người ngoại đạo.  Không những thế ông Tuấn còn viết rất hỗn xược đối với cả xã hội và quốc gia Việt Nam.

Nguyễn Anh Tuấn viết:

Tất cả nhân loại có chung một người cha: Đấng Tạo Hóa, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thiên Chúa v..v…   Tâm hồn của chúng ta giống như một thế giới trong đó Chúa Ki-tô sống.  Thiên Chúa tạo nên con người để đồng hành trong việc sáng tạo.  Chúng ta là tạo vật của sự sáng tạo trong bàn tay đầy quyền năng của Thiên Chúa.

Viết như trên rõ ràng là Nguyễn Anh Tuấn không hiểu thế nào là Đấng Tạo Hóa hay Ngọc Hoàng Thượng Đế theo quan niệm của người Đông phương, hoàn toàn khác hẳn quan niệm về Thiên Chúa của Ca-tô Giáo.  Và rõ ràng là Nguyễn Anh Tuấn viết lên toàn những điều mê sảng về sáng tạo trong khi chính các giáo hoàng của ông ta, John Paul II cũng như Benedict XVI, đã phá bỏ hoàn toàn thuyết Thiên Chúa sáng tạo nên con người.  Chỉ có chung một người Cha, thế không có Mẹ hay sao.

Sau đây chúng ta hãy đọc một đoạn vô cùng láo xược của Nguyễn Anh Tuấn đối với Việt Nam:

Việt Nam ngày nay: một xã hội vô đạo đức, và một quốc gia mất lương tâm.  Việt Nam ngày nay có lẽ là một quốc gia tội lỗi nhất (the most sinful nation) trên trái đất này.  Hai tội lỗi lớn nhất của chế độ chính trị CS là nghịch Thiên.  Đây là tội đại bất kính với vũ trụ thiên nhiên và siêu nhiên của tạo hóa hay Thiên Chúa.  Kế đó là tước đoạt quyền sống của người dân Việt trong khi họ đều là con cái của Trời hay của Thiên Chúa.

Có vẻ như Nguyễn Anh Tuấn quên rằng trong cái xã hội và quốc gia mà ông ta cho rằng vô đạo đức, mất lương tâm, cũng có gần 10 triệu tín đồ Ca-tô.  Các tín đồ Ca-tô đã đánh mất lương tâm từ lâu khi hoàn toàn lệ thuộc Vatican và thường gây loạn trong xã hội như màn cầu nguyện hiệp thông ở Tòa Khâm Sứ.  Trong thế giới ngày nay có hơn 4 tỷ người nghịch Thiên, không thèm biết đến Thiên Chúa của Ki Tô Giáo là gì.  Việt Nam ngày nay có hơn 90 triệu dân, có mọi tầng lớp xã hội, phải chẳng đều vô đạo đức và mất lương tâm.  Viết ngu như vậy mà cũng mang danh là một Tiến sĩ, một khoa học gia về chính trị.  Phải chăng trình độ một Tiến sĩ Ca-tô Việt Nam chỉ có thế.

Nguyễn Anh Tuấn viết tiếp:

Sống trong xã hội và quốc gia ấy, con người đã mất đi ánh sáng, mất niềm tin an vui hạnh phúc, mất tình người, mất niềm tin, và có thể mất cả đời sống tinh thần và sức khỏe.  Trong xã hội và quốc gia đó, con người có tai không biết nghe, mắt có nhưng đã thành mù lòa tăm tối, chân bước đi vất vưởng không định hướng, miệng lưỡi xấu xa nói toàn lời gạt gẫm điêu ngoa, trí tuệ bị u trầm đọa lạc và tâm hồn u tối bấn loạn dầy đặc.  Đó là chỗ tai hại của con người đã tự nhận là những kẻ vô thần; đã vô thần thì sẽ sống vô tâm, vô tính vô tình, vô đạo va vô pháp.

Viết láo và vơ đũa cả nắm như trên, tôi nghĩ Nguyễn Anh Tuấn cũng như Tiếng Nói Giáo Dân nợ Việt Nam một lời xưng tội và xin lỗi.  Nhưng phân tích ra, tôi có cảm tưởng là Nguyễn Anh Tuấn đã lấy những đặc tính của xã hội Ca-tô và quốc gia Vatican chụp lên đầu xã hội và quốc gia Việt Nam.  Thật vậy, nếu chúng ta thay “xã hội và quốc gia đó” bằng “xã hội Ca-tô và quốc gia Vatican” thì thích hợp hơn nhiều, vì Việt Nam không hề có những đặc tính đó.  Này nhé, một khi con người đã vào tròng Ca-tô trở thành tín đồ Ca-tô và tuân phục vô điều kiện Vatican và các bề trên thì con người đã mất đi ánh sáng của trí tuệ, mất đi tình người vì chỉ là con chiên nên không có tình người.  Người Ca-tô có tai không biết nghe những tiếng nói trung thực về Ca-tô giáo của mình, có mắt nhưng trở thành mù lòa tăm tối vì mù lòa tin bướng tin càn, tin không cần biết, không cần hiểu, tin theo giáo lý gạt gẫm dối trá điêu ngoa giáo hội nhồi vào óc, tâm hồn u tối bấn loạn vì luôn luôn sợ sệt, chỉ biết cầu nguyện xin-cho dù chẳng bao giờ được đáp ứng.  Đó là tai hại của con người đã tự nhận là tôi tớ hầu hạ việc Chúa, trái với những kẻ vô thần thường là những người thông thái, trí tuệ, đạo đức với tinh thần vô úy.  Không có người vô thần nào đi giết người để cưỡng ép người khác cũng phải vô thần.  Không có người vô thần nào đi cưỡng bách tình dục các trẻ em như trên 5000 linh mục alias Chúa thứ hai của Ca-tô Giáo.  Không có người vô thần nào đi làm tay sai cho giặc ngoại xâm, đưa nước nhà vào vòng nô lệ ngoại nhân như người thờ Thần và Chúa của Do Thái ở Việt Nam.   

Xin tặng một bài học vỡ lòng cho Nguyễn Anh Tuấn cũng như những đồng đạo của ông, thường kết hợp vô thần với vô tâm, vô tính hay kết hợp vô thần với Cộng Sản.

Thế Nào Là Vô Thần?

Trước hết, James A. Haught viết trong cuốn “2000 Years of Disbelief: Famous people with the Courage to Doubt”, trang 11-14, về lịch trình phát triển “vô thần” ở Tây phương:

James HaughtNhững người thông minh, có học thức, thường không tin là có đấng siêu nhiên.  Cho nên chẳng lấy gì làm ngạc nhiên nếu chúng ta thấy một tỷ lệ cao những người nghi ngờ tôn giáo (Tây phương) trong số những tư tưởng gia, khoa học gia, văn gia, những nhà cải cách, học giả, tiền phong trong dân chủ, và những nhà thay đổi thế giới – những người thường được gọi là danh nhân.

Sự tiến triển của nền văn minh Tây phương đã là một phần của câu chuyện chiến thắng từ từ trên tôn giáo đàn áp (Ca Tô giáo).  Sự nổi giậy của thuyết nhân bản đã chuyển trọng tâm của xã hội ra khỏi sự tuân phục các giám mục và vua chúa để đi tới những quyền của  cá nhân và điều kiện sinh sống của con người.  Phần lớn sự tiến bộ này đã được thúc đẩy bởi những con người, nam cũng như nữ, không cầu nguyện(Thiên chúa), không quỳ trước bàn thờ (trong những nhà thờ), không đi hành hương (các thánh địa của Ca Tô Giáo), không đọc những Kinh Tin Kính.

Nền văn hóa Tây phương đã đi theo một hành trình thất thường.  Hi Lạp và La Mã cổ xưa đã đồng hành với sự tìm hiểu trí thức giữa quan niệm tôn giáo đa thần.  Thế rồi Thời Đại Đức Tin của Ca Tô Giáo đã mang lại sự tối tăm trong nhiều thế kỷ.  Thời đại Phục Sinh đã làm sống lại chủ thuyết cá nhân và quyền suy tư tự do, bay bổng lên trong Thời Đại Lý Trí và Thời Đại Khai Sáng.  Với sự nở rộ của khoa học trong thế kỷ 19, nhiều tư tưởng gia đã cho rằng tôn giáo huyền bí (tức Ki Tô Giáo) sẽ phải tan biến, và đại cương thì điều này đã xảy ra trong giới trí thức.

Dần dần, lối suy nghĩ khoa học tiến triển, và tôn giáo thoái lui,  quyền tự do không tin đã nhô lên ở Tây phương..

Cuối cùng, quyền không tin đã được thiết lập.  Tự do suy tư nở rộ trong giới trí thức Âu Châu và Mỹ,  đạt tới thời vàng son vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.  Những người không tin như Robert Ingersoll đã thực hiện những chuyến du thuyết thách đố chủ thuyết siêu nhiên (Ki Tô Giáo).  Những nhà báo như H. L. Mencken công khai tấn công “sự mê tín” (của Ki Tô Giáo).

Thật là một điều mâu thuẫn lạ lùng: một phần đáng kể dân chúng khắp thế giới vẫn còn thờ phụng những thiên chúa không ai nhìn thấy,  đôi khi còn giết người cho những thiên chúa này – trong khi hầu hết những tư tưởng gia, khoa học gia, văn gia, và những giới trí thức khác thường là đã loại bỏ đấng siêu nhiên.

Đối với bất cứ ai duyệt qua quá khứ và quan sát thế giới ngày nay, hầu như không thể nào tìm ra được một người có tiếng tăm – ngoại trừ đối với các giáo hoàng, tổng giám mục, vua chúa và các nhà cầm quyền đi kiếm hậu thuẫn của quần chúng -  lại có thể nói rằng mục đích của đời sống con người là được “cứu rỗi” bởi một Giê-su vô hình và lên một thiên đường vô hình.  Nhưng thật là dễ dàng tìm được rất nhiều người không tin cái tín lý căn bản này trong số những danh nhân.”

(Intelligent, educated people tend to doubt the supernatural.  So it is hardly surprising to find a high ratio of religious skeptics among major thinkers, scientists, writers, reformers, scholars, champions of democracy, and other world changers – people usually called great.

The advance of Western civilization has been partly a story of gradual victory over oppressive religion.  The rise of humanism slowly shifted society’s focus away from obedience to bishops and kings, onto individual rights and improved living conditions.  Much of the progress was impelled by men and women who didn’t pray (to God), didn’t kneel at altars (in churches), didn’t make pilgrimages (to holy places), didn’t recite creeds.

Western culture has traveled an erratic journey.  Ancient Greece and Rome teamed with intellectual inquiry, amid polytheism.  Then the Christian Age of Faith brought darkness for centuries.  The Renaissance revived individualism and free thingking, which soared in the Age of Reason and the Enlightenment.  With the flowering of science in the nineteenth century, many thinkers assumed that mystical religion would vanish.  Among intellectuals, it largely has done so..

Slowly, as scientific thinking grew and religion retreated, freedom of doubt emerged in the West..

Eventually, the right to disbelieve was established.  Freethought blossomed among intellectuals in Europe and America, reaching a heyday at the end of the nineteenth century and the beginning of the twentieth.  Doubters such as Robert Ingersoll conducted speaking tours to challenge supernaturalism.  Newspaper writer such as H. L. Mencken openly assailed “superstition”...

It is a strange contradiction:  A good part of people around the globe still still worship unseen gods, and sometimes even kill for them – yet most Western thinkers, scientists, witers, and other intellectuals generally reject the supernatural.

For anyone scanning the past and surveying the current world scene, it is nearly impossible to find any oustanding person – except for popes, archbishops, kings and other rulers seeking popular support – who says the purpose of life is to be saved by an invisible Jesus and to enter an invisible heaven.  But ist is easy to find many among the great who doubt this basic dogma...)

Phật Giáo là đạo của trí tuệ nên không mê tín đến độ có thể tin vào một Thiên Chúa sáng tạo ra muôn loài.  Đức Phật đã khẳng định như vậy.  Do đó Phật Giáo cũng vô thần.  Phật Giáo rất hãnh diện là một tôn giáo vô thần, vì vô thần phản ánh sự sáng suốt của trí tuệ. Kinh Kalama của Phật Giáo đã chứng tỏ như vậy hơn gì hết.  Những người ngày nay còn tiếp tục dùng từ “vô thần” để ám chỉ một điều xấu chỉ chứng tỏ một tâm cảnh cuồng tín của CaTô Giáo đã lỗi thời.  Ngoài ra nó còn chứng tỏ một trình độ hiểu biết thấp kém, vì đối với các giới trí thức trong những xã hội tân tiến Âu Mỹ, “Vô Thần” là một biểu hiện của tự hào, của danh dự (A badge of honor).  James A. Haught đã coi những người vô thần như thuộc đoàn thể của những vĩ nhân. (They are in the company of giants). 

Chúng ta hãy đọc thêm một đoạn đặc sắc trong bài thuyết trình của Emmett F. Fields.  Trong bài thuyết trình này, tác giả chủ yếu nói về Ki Tô Giáo nhưng khi thì dùng từ “tôn giáo” (religion) khi thì dùng từ Ki Tô Giáo (Christianity).   Đọc phần tiếng Anh chúng ta thấy rõ như vậy.  Cho nên tôi đã thay một số từ “tôn giáo” bằng Ki Tô Giáo, đúng hơn là Ca-tô giáo, để cho dễ hiểu. 

Bước đầu tiên trong việc tìm hiểu vô thần là phải loại bỏ những lời nói láo và tuyên truyền mà Ki Tô giáo truyền bá để chống vô thần.  Vô thần không chỉ là kiến thức về sự không hiện hữu của các thần mà còn hơn nữa, là kiến thức về sự sai lầm hay gian xảo của Ki Tô giáo.  Vô thần là một thái độ, một khung trí tuệ nhìn thế giới một cách khách quan, không sợ hãi, luôn luôn tìm hiểu mọi sự việc như là một phần của thiên nhiên.  Có thể nói rằng vô thần có một giáo lý là phải đặt nghi vấn và một tín lý là phải nghi ngờ.  Đó là trí tuệ con người trong môi trường thiên nhiên, không có gì là quá thánh thiện để không được tìm hiểu, không có gì là quá thiêng liêng để không được đặt nghi vấn.  Cuốn Thánh Kinh của người vô thần, có thể nói như vậy, chỉ có một từ: “HÃY SUY NGHĨ”.  Vô thần là sự giải thoát hoàn toàn của đầu óc con người khỏi những xiềng xích của sợ hãi và mê tín.

Vô thần tuyệt đối không có gì tiêu cực; sự thật không bao giờ có thể là tiêu cực.  Vô thần đòi hỏi chứng minh, hay ít nhất là những bằng chứng hợp lý, và chỉ bác bỏ những gì không đáp ứng được sự đòi hỏi của sự hiểu biết thông thường.  Trong suốt lịch sử, mọi tiến bộ trong xã hội có được là từ sự nghi ngờ và loại bỏ những ý tưởng, những tập quán, và những niềm tin cũ kỹ [vì không còn đúng].  Cái cây kiến thức nhân loại chết khi nó đang mọc lớn, với những cành lá mới mọc từ những phần đang chết, và thay thế những phần này với những niềm tin chân thật và tốt đẹp hơn.  Nhà Thần học là một con cú, đậu trên một cành cây đã chết của cái cây kiến thức nhân loại, và rúc lên cùng những tiếng  rúc cũ kỹ đã từng rúc lên trong nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhưng hắn chưa bao giờ phát ra một tiếng kêu rúc nào cho sự tiến bộ.

Về đạo đức, Vô thần ở ghế thượng phong trên Ki Tô giáo.  Sự thất bại lớn của đạo đức Ki Tô giáo bắt nguồn từ ảo tưởng của họ về một đạo đức đứng trên đúng hay sai [vì là đạo đức của Thiên Chúa].  Đầu óc của người theo Ki Tô giáo đã biết là tra tấn và giết người là sai lầm, bạo hành và thù hận là sai lầm, cưỡng bức người khác vào đạo là sai lầm.  Ki Tô giáo đã biết những điều đó là sai lầm, nhưng đầu óc của những người theo Ki Tô giáo trở nên tồi tệ vì cái ảo tưởng về một nền “đạo đức cao hơn”, và vì cái ảo tưởng này mà lịch sử nhân loại ngập máu những người vô tội.  Nhân danh “thiên chúa” và một nền “đạo đức cao hơn” của họ, những người Ki Tô Giáo đã tiến hành những cuộc thánh chiến để tiêu diệt, đã cướp bóc, tra tấn và tàn sát những người không thể đồng ý với họ,  hoặc chưa từng nghe đến tôn giáo của họ.  Nhân danh nền “đạo đức cao hơn” này, những người Ki Tô Giáo đã thù hận, săn lùng, bạo hành, và thiêu sống người “lạc đạo”, người “vô tín”, và người “vô thần”.

Và ngày nay, như đã từ bao giờ, khi tín đồ Ki Tô giáo làm những việc mà ngay hắn cũng biết là sai lầm và vô luân, nhưng cái ảo tưởng của hắn về một “quyền năng cao hơn” [của Thiên chúa] và một nền “đạo đức cao hơn” [của Ki Tô giáo] cho phép hắn trình diễn vài lễ tiết, xưng tội, hay cầu nguyện thì kỳ lạ thay, ngay lập tức, “tất cả tội lỗi của hắn đều được xóa bỏ”, và hắn lại không còn có thắc mắc gì về lương tâm hay hối hận.

Những ảo tưởng điên rồ như vậy không làm cho đầu óc người vô thần thoải mái.  Người vô thần biết rằng không có đạo đức nào đứng trên đúng và sai, và con người không thoát ra khỏi được sự cắn rứt của lương tâm và hối hận.  Giết người là giết người, ăn cướp là ăn cướp, thù hận và bạo hành là những tội ác chống nhân loại.  Về đạo đức, lịch sử cho chúng ta thấy, làm người vô thần thì tốt hơn là làm người Ki-Tô.

Ki Tô giáo cho rằng sự vô đạo đức nẩy ra là vì thiếu vắng Ki Tô giáo, nhưng những sự kiện đã chứng tỏ ngược lại.  Ki Tô Giáo chưa bao giờ mạnh như bây giờ, họ có nhà thờ trong mọi cộng đồng, độc quyền chiếm giờ trên đài phát thanh và đài truyền hình để tuyên truyền cho Ki Tô giáo, và họ đã cưỡng nhét Ki Tô giáo của họ vào chính quyền, luật pháp và trường học của chúng ta.  Họ đã làm những việc chống với Hiến Pháp của Mỹ, và chống những quyền căn bản và thiêng liêng nhất của mọi người Mỹ khác.  Họ đã len lỏi vào nhưng nơi họ không được vào, những nơi không có việc của họ, bịt miệng mọi chống đối, mọi quan điểm khác, bỏ thuốc độc vào cái giếng hiểu biết của chúng ta và làm nguy hại đến những gốc rễ của quốc gia chúng ta.

Ki Tô giáo ngày nay mạnh như vậy, nhưng chúng ta không đạt được một mức đạo đức nào đáng kể trong quốc gia này.  Không ở đâu khác cho thấy sự thất bại về đạo đức Ki-tô giáo rõ rệt như ở Mỹ.  Trong cùng một thời gian mà Ki Tô giáo trở nên mạnh hơn và giầu có hơn, trong 30 năm qua, vấn nạn dùng các loại ma túy đã trở thành một vấn nạn xấu xa của quốc gia,  số tội ác tăng gia nhanh chóng, tỷ lệ ly dị tăng vọt, và trong thời gian này quốc gia của chúng ta bị lôi cuốn vào nhiều cuộc chiến tranh và xung đột thế giới hơn bao giờ hết trong lịch sử.  Ngay bây giờ chúng ta có những tỷ lệ dùng ma túy, phạm tội ác, ly dị cao nhất cùng với “tỷ lệ theo Ki Tô giáo” cao nhất chưa từng có trong lịch sử quốc gia này.  Ki Tô Giáo có thể nói gì về những sự kiện này và làm sao để chữa chạy chúng.  Họ bảo chúng ta là chúng ta cần nhiều đến Ki Tô giáo hơn và cương quyết áp đặt Ki Tô giáo lên chúng ta.  Ki Tô Giáo cảm thấy quá mạnh ngày nay và họ đang đi vào chính trị để cưỡng đặt nền đạo đức thất bại của họ trên mọi người Mỹ qua sự Độc Tài của Ki Tô Giáo và một Thời Đại Tăm Tối mới.

Một khi thái độ vô thần đã đạt được, và đầu óc đã thoát khỏi những sự sợ hãi và niềm tin trong Ki Tô giáo đã được cấy vào chúng ta từ khi còn nhỏ; và một khi chúng ta có thể nhìn vào tôn giáo một cách khách quan không thiên vị,  thật hiển nhiên là Ki Tô giáo có tất cả những đặc tính của một dạng tâm linh điên rồ.  Tùy theo mức độ, người sùng tín Ki Tô giáo phải chấp nhận, và tin, vào một thế giới khác; một thế giới siêu nhiên hay khác thường, một thế giới có đầy những nhân vật tưởng tượng gọi là thiên chúa, quỷ, thánh v..v..  Người ta nói với những tạo vật tưởng tượng này, xin xỏ ân huệ, sự hướng dẫn, những “dấu hiệu”, hoặc phép lạ, và rồi hoặc quy trách hoặc tạ ơn những biến cố thiên nhiên sau đó xảy ra.  Nếu không phải là khoác bộ áo tôn giáo thì những niềm tin và những hành động như vậy phải coi là của một người điên, cần phải vào nhà thương điên để chữa trị.

Sự nghiên cứu lịch sử sẽ biện minh thêm cho thuyết Ki Tô giáo là một dạng tâm linh điên rồ.  Không có một đầu óc lành mạnh nào lại có thể gây ra những cuộc chiến tranh tôn giáo đẫm máu, những cuộc thập ác chinh mà những người bị chinh phục, đàn ông, đàn bà, trẻ con, và ngay cả con nít đều bị giết chỉ vì họ là những người “không tin”  hay “lạc đạo”.  Những tù ngục tối tăm và những phòng tra tấn của những tòa án thánh xử dị giáo không thể nào bị cai quản bởi những đầu óc lành mạnh.  Và phải là loại đầu óc điên rồ, đầu óc Ki Tô giáo, mới trói người phụ nữ vào cột, rồi chất củi thiêu sống vì cái tội không thể nào có là phù thủy.  Không có người nào tỉnh táo có thể đọc những chuyện khủng khiếp, hiếp dâm và giết người trong một cuốn sách man rợ mà người ta gọi cuốn sách đó là “Lời của Thiên Chúa”.  Và huyền thoại về Giê-su, về một thiên chúa phải xuống làm người và bị giết trước khi có thể tha thứ tội lỗi cho nhân loại, là chuyện điên rồ nhất trong những chuyện điên rồ.

Ngày nay, Ki Tô Giáo cố tình không biết đến, hay giấu kín và phủ nhận cái lịch sử đẫm máu của mình và tự tôn là nền tảng đạo đức của chúng ta, và là nền tảng ngay cả nền văn minh của chúng ta.  Ki Tô Giáo tự cho rằng là nguồn hi vọng duy nhất của chúng ta trong tương lai.  Nhìn vào lịch sử Ki Tô Giáo, những điều tự nhận như vậy, bản chất chỉ là những lời nói điên dại.

(The first step, then, in understanding Atheism is to disregard all the lies and propaganda that religion has spread against it. Atheism is more than just the knowledge that gods do not exist, and that religion is either a mistake or a fraud. Atheism is an attitude, a frame of mind that looks at the world objectively, fearlessly, always trying to understand all things as a part of nature. It could be said that Atheism has a doctrine to question and a dogma to doubt. It is the human mind in its natural environment, nothing is too holy to be investigated, nor too sacred to be questioned. The Atheist Bible, it could be said, has but one word: "THINK." Atheism is the complete emancipation of the human mind from the chains and fears of superstition.

There is absolutely nothing negative about Atheism; truth can never be negative. The Atheist demands proof, or at least reasonable evidence, and simply rejects whatever does not meet the basic requirements of common sense. Throughout history all progress in society has come from doubting and rejecting old ideas, old customs, and old beliefs. The tree of human knowledge dies as it grows, with new growth growing out of the dead and dying parts, and replacing it with better and truer beliefs. The Theologian is an owl, sitting on an old dead branch in the tree of human knowledge, and hooting the same old hoots that have been hooted for hundreds and thousands of years, but he has never given a hoot for progress.

Morally speaking, Atheism has a great advantage over religion. The great failure of religious morality comes from their illusion of a morality above right and wrong. The religious mind has always known it is wrong to murder and torture, wrong to persecute and hate, wrong to force its beliefs upon others. Religion has always known these things are wrong, but the religious mind suffers from the illusion of a "higher morality," and because of that illusion all history runs deep with innocent blood. In the name of their "god" and a "higher morality," Christians have waged holy wars of extermination, have plundered, tortured and murdered those who could not agree with their religion, or who had never even heard of it. In the name of this "higher morality"   Christians have hated, hunted, persecuted, and burned alive the "heretic," the "infidel" and the "atheist."

And today, as always, when the religious person does a thing that even he recognizes as being wrong and immoral, his illusion of a "higher power" and a "greater morality" allows him to perform some ritual, confession, or prayer, and presto, miraculously, "all his sins are taken away", and he is free again from all pains of conscience and regret.

Such foolish illusions do not comfort the Atheist mind. The Atheist knows there is no morality above right and wrong, and no escape from the pains of conscience and remorse. Murder is murder, and robbery, hate and persecution are all crimes against humanity. Morally speaking, then, history tells us it is better to be an Atheist than to be a Christian.

Religion claims that immorality always springs from a lack of religion, but the facts prove just the opposite. Christianity has never been stronger than it is today, Christians have churches in every community, they monopolize radio and television time with religious propaganda, they have forced their religion into our government, our laws, and into our schools. They have done these things against the Constitution of the United States, and against the most basic and sacred rights of all other Americans, rushed in where it was not supposed to be, where it has no business to be, silencing all opposition, all opposing views, poisoning the wells of our knowledge, and endangering the very roots of our nation.

Christianity is that strong today, and yet we have not achieved any respectable amount of morality in this country. Nowhere is the failure of Christian morality more evident than in America. During the same time that Christianity has been growing ever stronger and ever richer, over the past thirty years or so, the use of harmful drugs has became a national scandal, the crime rate has been climbing ever higher and ever faster, the divorce rate has skyrocketed, and during that time our nation has been embroiled in more wars and international conflicts than in any other similar time period in its history.  Right to-day we have the highest narcotics abuse rate, the highest crime rate, the highest divorce rate, and the highest 'religion rate' that we have ever had in the history of this nation. What does Christianity say about these facts and how to cure them? They tell us we need more religion and they are determined to force it upon us. Christianity feels so strong today that it is moving into politics to try to force its failing morality upon every American through a Christian Dictatorship and a new Dark Age.

Once Atheism is achieved, and the mind has escaped entirely from the religious fears and beliefs that are put upon us from earliest childhood; and once we can look at religion objectively and impartially, it becomes entirely obvious that religion has all the characteristics of a form of insanity. To one degree or another the religious mind must accept, and believe in, another world; a supernatural or unnatural world, a world filled with all sorts of imaginary beings called gods, devils, angels, saints, demons, etc. These imaginary creatures are talked to, asked for favors, guidance, "signs," or miracles, and then blamed or thanked for natural events that follow. Except for the cloak of religion, such beliefs and actions would otherwise cause an individual to be judged insane, and committed to an institution for treatment.

The study of history will further justify the theory that religion is a form of insanity. No sane and healthy minds could have waged the bloody religious wars and crusades where the conquered were slaughtered, men, women, and children, even infants, all were put to the sword simply because they were "infidels" or "heretics." The dungeons and torture chambers of the Holy Inquisition could not have been run by sane and healthy minds. And it had to be the insane mind, the religious mind, that would tie a woman to a stake, pile wood and fagots around her and burn her alive for the impossible crime of being a witch. No sane person could read of the horrors, rape and slaughter in a savage book and call that book "the word of God." And the Jesus myth, about a god who must become a man and be murdered before he can forgive mankind, is the most insane of all.

Today, Christianity chooses to ignore, or to hide and deny, its own bloody history and to claim that it is the very foundation of our morals, and even of our civilization. Religion also claims to be our only hope and guide for the future. In view of Christian history these claims are, in themselves, sheer insanity.)

Nguyễn Anh Tuấn là một Tiến sĩ Ca-tô, nhưng ngoài những điều lếu láo được giáo hội dạy bậy về “vô thần” ông ta không biết gì về số người vô thần đang tăng nhanh trong các quốc gia Ki Tô Giáo trước đây, có nghĩa là có tai không biết nghe, có mắt nhưng mù lòa.  Ở Mỹ số người lên tiếng tự nhận là vô thần lên tới 16%, nghĩa là khoảng trên dưới 50 triệu.  Chúng ta hãy đọc một tài liệu điển hình về hiện trạng vô thần đang lên và Ca-tô Giáo đang suy thoái ở Pháp, cái nôi của Ca-tô Rô-ma Giáo trước đây: 

http://www.secularism.org.uk/numberofatheistsinfrancerisesata.html

Trong bài với đầu đề “Số người vô thần ở Pháp gia tăng với mức độ chưa từng thấy” (Number Of Atheists In France Rises At An Unprecedented Rate), tờ báo Pháp “Le Monde” đưa ra kết quả của một cuộc thăm dò ý kiến: “số người vô thần tăng từ 23% năm 1994 lên 31% ngày nay” (the number of people describing themselves as atheists has risen to 31 per cent – from 23 per cent in 1994), nghĩa là tăng thêm 5 triệu người vô thần trên dân số khoảng 62 triệu..  Kết quả thăm dò cũng cho biết chỉ có 51% dân Pháp còn cho mình là tín đồ Ca-tô, vào đầu thập niên 1980, con số này là 80%.  Tổng biên tập tờ “Le Monde”,  Frederic Lenoir, viết: “Trong định chế cũng như trong tâm tình tôn giáo của Ca-tô Giáo, Pháp không còn là một quốc gia Ca-tô” (“In its institutions, but also in its mentalities, France is no longer a Catholic country,” wrote Frederic Lenoir, editor in chief of Le Monde des Religions.)  Cuộc thăm dò cũng cho biết chỉ có 10% đi lễ nhà thờ đều đặn, phần lớn là ông già bà cả, và điều kỳ lạ là, 51% vẫn coi mình là người Ca-tô, nhưng chỉ có một nửa tin vào “Gót” (Extraordinarily, of the 51 per cent who still call themselves Catholics… only half said they believed in God.)  Nhiều người nhận mình là người Ca-tô vì đó là truyền thống gia đình (Many said they described themselves as Catholics because it was a family tradition).

Điều khó hiểu đối với tôi là trong bài “Bi Kịch Của Con NgườiNguyễn Anh Tuấn thú nhận, nguyên văn:

Giáo hoàng John Paul II đã đưa ra 94 lỗi lầm trong quá khứ của giáo hội và kêu gọi tất cả hãy tha thứ cho những lỗi lầm đó; từ những cuộc thánh chiến, sự chia rẽ trong giáo hội đến những vấn đề đối với người Do Thái, và vụ xử Galileo; từ những cuộc chiến tranh tôn giáo giữa Công giáo (Ca-tô) và Tin Lành (1618-1648) đến những cái chết kinh hoàng oan ức của những nhà cải cách tôn giáo (reformation) Tin Lành Cơ Đốc Giáo như John Hus, John Calvin, Ulrich Zwingli, Martin Luther (1517) đến các tòa án xử dị giáo (The Inquisition) và từ những vụ đàn áp dân Da Đỏ, Hồi Giáo, sự kỳ thị chủng tộc đến lịch sử Giáo hoàng.

Nguyễn Anh Tuấn bỏ qua ba mục quan trọng trong vụ xưng thú 7 núi tội ác của Giáo hội ngày 12/3/2000:

5.  Tội ác trong hành động với ý muốn thống trị kẻ khác, với thái độ thù nghịch đối với các tôn giáo khác, không tôn trọng truyền thống văn hóa và tôn giáo của các dân tộc nhỏ, kém phát triển.

6.   Tội lỗi về kỳ thị phái nữ, coi thường phẩm giá phụ nữ.

7.   Tội ác trong sự vi phạm những quyền căn bản của con người.

Như vậy rõ ràng Ca-tô Rô-ma Giáo không phải là một tôn giáo theo đúng nghĩa của tôn giáo, vì không có tôn giáo nào lại có một lịch sử tàn bạo với những tội ác như vậy.  Thú nhận như trên nhưng có lẽ Nguyễn Anh Tuấn không hề thắc mắc là tại sao một giáo hội được tuyên truyền là “thiên khải”, “thánh thiện”, “tông truyền”, “duy nhất” lại có một lịch sử  quá ác ôn như vậy.  Ông cũng không hề thắc mắc là có lý do gì mà một tiến sĩ có đầu óc như Nguyễn Anh Tuấn lại vẫn chịu ở trong một tổ chức thế tục nấp sau bộ mặt tôn giáo như vậy, hơn nữa còn phải theo “đức vâng lời” giáo hội dạy.  Có thể vì không hề thắc mắc và không cần tìm hiểu nên ông cũng lại còn cố gắng quảng bá những điều mê tín đã lỗi thời của giáo hội. 

Phải chăng cũng chỉ vì “một-cái-bánh-vẽ-trên-trời” ?  Và phải chăng ông không hề nghe biết đến những gì đã diễn tiến trong chính giáo hội qua nhiều năm nay?  Vài lời kết sau đây hi vọng có thể giúp Nguyễn Anh Tuấn cũng như những đồng đạo của ông vẫn còn ngu ngơ chưa thức tỉnh hiểu biết thêm về tình trạng Ca-tô Rô-ma Giáo trên thế giới ngày nay.

Vài Lời Kết

Sự suy thoái của Ca Tô Giáo trên thế giới, nhất là ở Âu Châu, cái nôi của Ca Tô Giáo trước đây, đã là một sự kiện.  Năm 1983, Malichi Martin, một linh mục dòng Tên, giáo sư tại Viện Nghiên Cứu Thánh Kinh của Giáo hoàng, tiến sĩ về khoa ngôn ngữ Do Thái, Khảo Cổ và Lịch Sử Đông Phương, đã viết trong cuốn Sự Suy Sụp Của Giáo Hội Ca-Tô Rô Ma[The Decline and Fall of the Roman Church], như sau, trang 1:

Malichi Martin“Tiến trình bất ngờ và làm cho người ta phân vân nhất trong 20 năm gần đây [nghĩa là từ thập niên 1960] là sự suy thoái đột nhiên của giáo hội Ca-Tô Rô-ma trong tổ chức giáo quyền và trong lý tưởng đồng nhất của giáo hội.

Với tình trạng ngày nay, có vẻ như không có một hi vọng hợp lý nào để cho sự suy thoái đó ngưng lại.. [Phù hợp với lời than của Benedict XVI ngày nay]

Những thống kê đáng tin cậy và những chi tiết khác thật là khủng khiếp cho đầu óc người Ca-Tô Rô-ma truyền thống.  Khi vẽ trên một biểu đồ từ năm 1965 đến năm 1980, số linh mục, nữ tu (các sơ), huynh trưởng trong đạo, học sinh trung học,  sinh viên đại học tư (của Ca Tô Giáo), số người rửa tội, vào đạo, lấy người cùng đạo, dự lễ ban thánh thể, xưng tội, thêm sức – mọi thống kê đáng kể hiện hữuđều mô tả  một sự suy giảm chúc đầu xuống không ngừng.  Thêm vào những yếu tố chính trên là số tín đồ Ca Tô Rô-ma dứt khoát bác bỏ hoàn toàn giáo lý của Rô-ma về ly dị, ngừa thai, phá thai, đồng giống luyến ái, và Cộng sản.

Hơn nữa còn có một số yếu tố vô hình nhưng không kém phần quan trọng.  Ví dụ, ngày nay không thể nào biết được là có bao nhiêu linh mục được phong một cách có giá trị [nghĩa là có đầy đủ giá trị về những quyền năng thần thánh mà nền thần học xảo quyệt của giáo hội đã tạo ra cho giới chăn chiên để nắm giữ đầu óc tín đồ, ví dụ như: có quyền gọi Thánh Linh bất cứ ở đâu đến phục vụ cho ông ta trong những màn pháp thuật được gọi là “bí tích”, có quyền rửa sạch cái tội tổ tông không hề có của một đứa bé mới sinh ra đời, có quyền tha tội cho ai thì người ấy được tha, có khả năng biến một mẩu bánh làm bằng bột thành thân thể thực sự của Chúa v..v..].  Vì chắc chắn là nhiều  giám mục phong chức linh mục cho các ứng viên không hề có ý định là tạo ra những linh mục với quyền năng thiêng liêng là ban thánh thể và tha tội cho những kẻ xưng tội, và nhiều ứng viên cũng không hề có ý định là sẽ nhận được những quyền năng như vậy.  Không có những quyền năng như vậy thì không có giới linh mục, không có lễ Mi-sa, và không có sự tha tội trong lễ xưng tội.  Thiếu những quyền năng như vậy, dù vô giá trị đối với người ngoại đạo, đối với đầu óc của người Ca-Tô Rô-ma, có nghĩa là cái chết của giáo hội.”

(Malachi Martin,  a Jesuit Professor at the Pontifical Biblical Institute in Rome, doctorate in Semitic languages, archeology and Oriental history, The Decline and Fall of the Roman Church, a Bantam Book, NY, 1983, p.1:  The most surprising and the most puzzling development in the last 20 years has been the sudden and undoubted decline of the Church of Rome in its ecclesiastical organization and ideological unity..

As things now stand, there appears to be no reasonable hope that this decline can be arrested…

The relevant statistics and other details are horrendous for the traditional Roman Catholic mind.  When plotted on a graph covering the years 1965-1980, the number of priests, nuns, religious brothers, junior and senior high school students, private college students, baptisms, conversions, inter-Catholic marriages, communions, confessions, confirmations – every significant statistics available – describes a plummeting, non-stop, downward drop.  Added to these key factors are the figures of those Roman Catholics who totally reject Roman teaching about divorce, contraception, abortion, homosexuality, and Communism.

There are, furthermore, some “invisible” but nonetheless potent factors.  For instance, it is now impossible to reckon how many validly ordained priests are available.  For, certainly, many bishops ordaining candidates for the priesthood have no intention of creating priests with the sacramental powers to offer the sacrifice of the Mass and to absolve penitents of sins, and many candidates do not have the intention of receiving such powers.  Without such powers, there is no priesthood, no Mass, no absolution in confession.  Such lack of validity, although unvalued outside the church, means the death of the church for the Roman Catholic mind.)

Malachi Martin viết không sai, giáo hội sống còn là nhờ vào mớ quyền năng tự tạo cho giới linh mục, khai thác sự yếu kém tinh thần và trình độ hiểu biết của đa số giáo dân.  Ngày nay, mớ quyền năng đó đã trở thành những màn bịp bợm mê tín nên ngay cả những tín đồ Ca-Tô bình thường cũng như những người trí thức trong giáo hội cũng không còn tin, trừ số tín đồ thấp kém ở dưới, hay bị nhốt trong ngục tù tâm linh, trong chính sách “ngu dân dễ trị” của giáo hội, nên trên thực tế, giáo hội đã chết. 

● Trong bài “Hãy giữ đức tin” (Keeping The Faith) trên tờ New York Times ngày 8 tháng 4, 2007, chúng ta có thể đọc được vài đoạn như sau:

Phong cảnh giáo hội ở Âu Châu – không chỉ là Giáo hội Ca Tô mà hầu như mọi hình thức tổ chức của Ki Tô Giáo – đang thay đổi nhanh như chớp.

Có những ông giám mục Âu Châu cảm thấy rằng họ không còn có thể nói về một Âu Châu Ki Tô Giáo mà không cảm thấy mình đang mạ lỵ sự thông minh của quần chúng.

"The landscape of the church in Europe — and not just the Catholic Church but nearly all forms of organized Christianity – is changing at a lightning pace.

There are European bishops who feel you can’t talk about a Christian Europe anymore without insulting people’s intelligence.”

Điều này có nghĩa là đối với những người có đôi chút thông minh, Ki Tô Giáo chẳng còn ý nghĩa gì.  Ki Tô Giáo gồm có hai hạng người.  Tuyệt đại đa số kém thông minh và một thiểu số thông minh hành nghề “buôn thần bán thánh”.  Cũng có một số người thông minh đã sinh ra trong truyền thống Ki Tô Giáo, nhưng với sự hiểu biết và lương thiện trí thức nên đã bỏ Ki Tô Giáo.  Còn một số người thông minh như Nguyễn Anh Tuấn, nhưng vì một đức tin thâm căn cố rễ cha truyền con nối trong đầu nên vẫn chưa thức tỉnh.

Ở Mỹ, tình trạng Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô Giáo Rô-ma nói riêng, cũng không sáng sủa gì hơn.  Đức tin Ca-tô càng ngày càng suy giảm, linh mục và giáo dân bỏ đạo hàng loạt, các “bí tích” trở thành mất ý nghĩa, do đó giáo dân không chịu đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật.  Trong nhà thờ ngày chủ nhật chúng ta thấy phần lớn là những bộ mặt già nua và những giáo dân Mít, Mễ, và gốc Phi Châu.  60% tín đồ của hệ phái Tin Lành lớn nhất United Methodist trên 50 tuổi. Một số nhà thờ, Ca-tô cũng như Tin Lành, được rao bán để người mua muốn sử dụng làm gì thì làm, có nhiều trường hợp nhà thờ nay biến thành chùa. Người Ca-tô VN Vũ Linh Châu viết bậy về TT Thích Viên Lý mua lại nhà thờ để làm Chùa là “cướp nhà thờ để làm Chùa” để đối lại chuyện  Ca-tô Giáo trước đây cướp Chùa để xây nhà thờ.  Nhiều trường học Ca-tô ở các địa phương đóng cửa vì không có học trò và không đủ tài chánh để tiếp tục hoạt động. 

● Năm 1990, linh mục David Rice dòng Đô-Mi-Nic xuất bản cuốn Lời Nguyện Tan Vỡ: Linh Mục Bỏ Đạo (Shattered Vows: Priests Who Leave), đưa ra kết quả nghiên cứu của ông sau khi đi khắp nơi tổng cộng 38 ngàn dặm (khoảng 60 ngàn cây số) để phỏng vấn và tìm hiểu đời sống của các linh mục bỏ đạo:

Một trăm ngàn (100000 ) linh mục Ca-tô Rô-ma đã bỏ đạo trong 20 năm qua – cứ mỗi 2 giờ đồng hồ lại có hơn một linh mục ra đi.  Hầu như phân nửa số linh mục Mỹ sẽ bỏ đạo – thường là để lập gia đình – chưa tới 25 năm sau khi được tấn phong.   Vatican không nói tới cuộc di dân này, nhưng đó chính là cuộc khủng khoảng nghiêm trọng nhất mà giáo hội phải đối diện, kể từ khi có cuộc Cải Cách tin Lành.

(100000 Roman Catholic priests have walked out in the last 20 years – more than one every two hours.  Almost half of all American priests will leave – most often, to marry – before the 25th anniversary of their ordination.  The Vatican won’t talk about this exodus, yet it is the most grievous crisis to face the Church since the Protestant Reformation)

● Năm 2001, John Cornwell, một tín đồ Ca Tô Giáo và cũng là một chuyên gia về Ca Tô Giáo Rô-ma và Vatican, tác giả 2 cuốn sách nổi tiếng về Vatican: A Thief in the NightHitler’s Pope, đã xuất bản một tác phẩm về Ca Tô Giáo nhan đề Từ Bỏ Đức Tin: Giáo Hoàng, Giáo Dân, và Số Phận của Ca Tô Giáo (Breaking Faith: The Pope, The People, and The Fate of Catholicism), trong đó chương đầu viết về Một Thời Đại Đen Tối Của Ca Tô Giáo (A Catholic Dark Age).  Trong chương này, tác giả John Cornwell đưa ra tình trạng suy thoái trầm trọng của Ca Tô Giáo ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Anh, Mỹ, và Pháp như sau:

-  Số tín đồ mang con đi rửa tội giảm sút, vì ngày nay người ta nhận thức được rằng chẳng làm gì có tội ở đâu mà phải đi rửa; [Rửa tội là một “bí tích” Giáo hội đặt ra để tạo quyền lực thần thánh cho linh mục]

-  Đám cưới tổ chức không cần đến  linh mục,  vì hôn phối có thể hợp thức hóa ngoài nhà thờ và bí tích hôn phối đã mất hết ý nghĩa; [Không mấy người còn tin là trong bí tích hôn phối ông linh mục có thể thay Chúa kết hợp cho lứa đôi.  Ở Mỹ, tới 50% lứa đôi được các linh mục gọi  Chúa đến kết hợp đã đi đến ly dị]

-  Giới trẻ không buồn đến nhà thờ, vì chẳng thấy gì hấp dẫn trong những lời giảng đi ngược thời gian của các linh mục; [Những chuyện hoang đường cổ xưa như Thượng đế sáng tạo ra vũ trụ trong 6 ngày, Chúa sinh ra từ một nữ trinh, chết rồi lại sống lại bay lên trời, Thiên Chúa là tình yêu v..v.. ngày nay đã không còn chỗ trong đầu óc giới trẻ quen thuộc với vũ trụ học, sinh học, thuyết tiến hóa v..v.. hiện đại, và trước những cảnh khổ ải của nhân loại rất hiển nhiên trên thế giới]

-  Số từ bỏ đức tin gia tăng, vì người ta không còn chịu chấp nhận một đức tin mù quáng;

-  Từ 1958 đến nay, số vào nghề linh mục giảm đi 2/3 v..v..  

-  Tình trạng ở Châu Âu, trước đây là cái nôi của Ca Tô giáo,  thật là thê thảm. 

-  Ở Tây Âu (Western Europe), từ 30 đến 50% các giáo xứ không có linh mục.

-  Ở Ý, 90% theo Ca Tô Giáo nhưng chỉ có 25% đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật, giảm 10% kể từ đầu thập niên 1980, số người vào học trường Dòng giảm một nửa.

-  Ở Ái Nhĩ Lan (Ireland), xứ Ca Tô giáo , số người cảm thấy mình được ơn kêu gọi tụt xuống từ 750 năm 1970 còn 91 năm 1999, số linh mục được tấn phong từ 259 xuống 43 trong cùng thời gian.

- Ở Nam Mỹ, tình trạng cũng không khá hơn.  7000 tín đồ mới có một linh mục.  Chỉ có 15% giáo dân đi xem lễ ngày chủ nhật.  

- Theo một hội nghị quốc gia của các giám mục Ba Tây thì mỗi năm có khoảng sáu trăm ngàn tín đồ bỏ đạo (according to the National Conference of Brazilian Bishops, some 600000 Catholics leave the Church each year.)

Âu Châu và nhiều nơi khác trên thế giới, trên thực tế, đã trở thành “vô thần”.  Đây là một hiện tượng bất khả đảo ngược vì nó phù hợp với sự tiến bộ trí thức của nhân loại nằm trong luật Tiến Hóa của vũ trụ.

Sự suy sụp của Ca Tô Giáo ở Âu Châu đã khiến cho:

Trong một hội nghị đặc biệt vào năm 1999, các giám mục Âu Châu tuyên bố rằng các dân tộc trong toàn lục địa Âu Châu đã quyết định sống “như là Gót không hề hiện hữu”

(John Cornwell, At a special synod in 1999, the bishops of Europe declared that the peoples of the entire continent had decided to live “as though God did not exist”.)  

Tín đồ Ki Tô trên khắp thế giới đang dần dần từ bỏ niềm tin vào một Gót không tưởng cũng như vai trò cứu thế của Giê-su. Giáo hoàng đương nhiệm Benedict XVI đã nhiều lần thú nhận về sự suy thoái không cơ cứu vãn của Ca-tô giáo và Tin Lành ở Tây phương.  Theo những tin tức trên báo chí trên thế giới và cả trên tờ thông tin chính thức của Vatican, tờ L’Osservatore Romano, vào những ngày 27, 28 tháng 7, 2005, thì Benedict XVI đã lên tiếng phàn nàn như sau:

Những tôn giáo chủ đạo ở Tây Phương [Ki Tô Giáo] có vẻ đang chết dần vì các xã hội càng ngày càng trở nên thế tục và không còn cần đến Gót nữa.  

Nhận xét của Ngài có vẻ bi quan và rầu rĩ  hơn GH tiền nhiệm là  John Paul II, người đã than phiền về sự suy thoái của đức tin trong các quốc gia phát triển và nói rằng điều này giải thích sự vật lộn của Giáo Hội Ca-tô đối với vấn đề  số người đi nhà thờ giảm rất nhiều trong những năm gần đây.”

(ROME (Reuters, July 27, 2005) - Mainstream churches in the West appear to be dying as societies that are increasingly secular see less need for God, Pope Benedict said in comments published on Wednesday.

His outlook was even glummer than that of his predecessor John Paul, who lamented the decline of faith in the developed world and said it explained the Catholic Church's struggle with falling attendance in the West in recent years.)

Cũng theo tin hãng Reuters ở Rome thì Giáo hoàng Benedict XVI đã phải đau lòng mà chấp nhận một sự thực:

Thật là khác lạ trong thế giới Tây Phương, một thế giới mệt nhọc với chính văn hoá của mình, một thế giới ở thời điểm mà không có bằng chứng nào là con người còn cần đến Gót nữa, và còn cần ít hơn đến Chúa Ki Tô.  Những Giáo Hội gọi là 'truyền thống' xem ra như đang chết dần.”

Theo một phúc trình mới đây của Vatican thì trong một số nước phát triển, Giáo dân đi dự lễ ngày Chủ Nhật chỉ còn khoảng 5%. Ngài nói thêm: Tuy nhiên không phải chỉ có đạo Ca-tô bị như vậy mà Giáo Hội Tin Lành cũng bị ảnh hưởng nặng hơn nữa trong thời điểm lịch sử này. Không thấy có giải pháp nào mau chóng và thần diệu cả để cứu vãn giúp Giáo Hội chúng ta cả.

(It is different in the Western world, a world which is tired of its own culture, a world which is at the point where there’s no longer evidence for a need of God, even less of Christ," he told a meeting of clergy in the Italian Alps.

"The so-called traditional churches look like they are dying," he said, according to a text published by Vatican daily L’osservatore Romano.

Participation at Sunday Mass in some developed countries was as low as 5 percent, a recent Vatican report said.

"The Catholic Church is not doing as badly as the big Protestant Churches but naturally it shares the problem of this moment in historỵ"  "There’s no system for a rapid change.”)  

Ngày 9 tháng 4, 2007, Giáo hoàng Benedict XVI lại cảnh báo là:

“Âu Châu có vẻ như sẽ mất đức tin trong tương lai, và gọi những người Âu Châu chỉ muốn có ít con là theo “chủ nghĩa cá nhân nguy hiểm” [trong khi cả thế giới đang lo nạn nhân mãn và cổ súy hạn chế sinh đẻ]  Giáo hoàng nói:  Bất hạnh thay, chúng ta phải ghi nhận là Âu Châu có vẻ như đang tuột  xuống một con đường có thể đưa Âu Châu đến sự giã từ lịch sử[CaTô Giáo vẫn cho rằng lịch sử Âu Châu là lịch sử Ca Tô Giáo]

(Time, April 9, 2007: “One must unfortunately note that Europe seems to be going down a road which could lead it to take its leave from history”  Pope Benedict XVI, warning that Europe appears to be losing faith in its future, calling some Europeans’ desire to have fewer children “dangerous individualism”.)

Đó là những lời thú nhận của vị chủ chăn Ca-tô Rô-ma Giáo, của Hội Đồng Giám Mục Âu Châu về sự suy sụp của Ca-tô Giáo ở Tây phương, chứ không phải là sự bịa đặt của Trần Chung Ngọc, Nguyễn Mạnh Quang hay nhiều tác giả khác trên sachhiem.net hay giaodiemonline.com để “chống đạo, bôi nhọ đạo, phá đạo theo sách lược của CS”. 

Trong khi đó, bất hạnh thay, Việt Nam vẫn còn một số đông tín đồ Ki Tô Giáo nói chung, Ca-tô cũng như Tin Lành, hết sức cuồng tín, u mê chưa chịu thức tỉnh.  Đây chính là một vấn nạn của xã hội.  Như trên đã nói, chỉ có sự hiểu biết mới có thể làm con người thức tỉnh và thay đổi tư duy.  Vậy chúng ta, những người cảm thấy có trách nhiệm với tương lai dân tộc, hãy kiên trì tiến bước trên con đường mở mang dân trí.  Và chúng tôi xin kêu gọi giới trẻ, với tinh thần vô úy,  vì tương lai lành mạnh và hòa bình của quốc gia, vì truyền thống văn hóa nhân bản cao đẹp của Việt Nam, hãy tiếp tay với chúng tôi trên mặt trận văn hóa để giải hoặc Ki-tô Giáo này, giúp cho họ trở về với quốc gia, dân tộc.

 

Trần Chung Ngọc

Viết xong ngày 1/1/2013

 


Trang Tôn Giáo