Vài Nét Về VATICAN

Trần Chung Ngọc

http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN103.php

24 tháng 10, 2010
... Trên cương vị dân tộc, một nước Phật Giáo như Việt Nam có nên đón tiếp một người, với cương vị của một bậc lãnh đạo Công Giáo đứng hạng nhì sau Giáo Hoàng ở Vatican trước đây, đã dùng một loại danh từ rất thiếu văn hóa đối với Phật Giáo như trên hay không?

Đó là câu hỏi mà chúng tôi muốn đặt cho chính quyền cũng như quần chúng Việt Nam. Và quần chúng có nên biết rõ hơn về sách lược, âm mưu xâm lăng văn hóa và mục tiêu lật đổ chính quyền hiện thời ở Việt Nam để cho những nô lệ của Vatican nắm cơ hội lên cầm quyền hay không? Trong bài viết về Ratzinger khi ông ta mới được bầu làm Giáo hoàng, đăng trên Trang Nhà Giao Điểm, tháng 4, 2005, chúng tôi đã tiên đoán việc này và đề nghị: “Trừ phi Ratzinger chính thức xin lỗi thế giới Phật Giáo về những lời nói bậy của mình, Việt Nam cương quyết đừng bao giờ để cho ông ta bước chân lên đất nước Việt Nam, dù dưới bất cứ một áp lực nào. Thể diện quốc gia và truyền thống văn hóa dân tộc phải được đặt lên trên hết.” ... (TCN)

 

Gần đây, qua vụ Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt phải ra đi, có tin đồn là Nhà Nước Việt Nam và Vatican đã thỏa hiệp với nhau để tiến tới bang giao và mở đường cho Giáo hoàng Benedict XVI đến thăm Việt Nam. Chúng tôi nghĩ có lẽ cũng nên đóng góp thêm một chút tài liệu để Việt Nam biết rõ Vatican hơn, ngoài những điều Vatican trình diễn mà chắc chắn là không ít thì nhiều cũng có những hứa hẹn…

Trước hết, có thể nói Việt Nam là một nước Phật Giáo vì đa số người dân theo Phật Giáo, cũng như nước Mỹ vẫn tự coi là một nước Ki-tô Giáo (Christian country), vì đa số dân Mỹ (khoảng gần 80%) theo Ki-tô Giáo. Là một nước Phật Giáo, Việt Nam không nên quên rằng, Giáo Hoàng Benedict 16 hiện thời, trước là Hồng Y Joseph Ratzinger, và chính ông ta đã là người phê bình Phật Giáo một cách “rất phi đạo đức Công giáo”, nếu không muốn nói là “rất vô giáo dục Công Giáo”, là “A Sort Of Spiritual Auto-Eroticism”. Đó là thực chất con người của Giáo Hoàng đương nhiệm, người đã được thiên hạ tặng cho nhiều biệt danh không lấy gì làm vinh dự cho lắm: Hồng Y thiết giáp (Panzerkardinal), kẻ ép buộc (tín đồ phải tuân theo luật đã lỗi thời) của Vatican (The Vatican’s Enforcer), the God’s Rottweiler (Rottweiler là một giống chó giữ nhà rất hung tợn), Người canh chừng bảo vệ giáo lý chính thống (The Watchdog of orthodoxy) và Đại Phán Quan (The Grand Inquisitor). Do đó, tin rằng Vatican dưới quyền ông ta thật tình muốn giúp Việt Nam, một nước Phật Giáo, với những hứa hẹn bất cứ về vật chất hay về cái gì khác, thì cũng như là cô bé quàng khăn đỏ tin một con lang giả dạng thành một bà lão hiền hòa. Con Lang thì chỉ có một hàm răng lớn, nhọn, và chỉ ăn thịt một em bé quàng khăn đỏ, nhưng Vatican thì có tất cả những vòi của một con bạch tuộc (Octopus Dei) và có thể ôm chặt và nghiền nát cả một quốc gia. Lịch sử Công Giáo, hơn gì hết, đã chứng tỏ như vậy.

Rất có thể thế lực Công Giáo Việt Nam, dựa vào thế lực của Vatican, cộng với áp lực của Mỹ, sẽ vận động để cho Ratzinger, bây giờ là Giáo Hoàng Benedict 16, đến thăm Việt Nam, và khuyến dụ Việt Nam hãy chấp nhận để chứng tỏ là đã tiến bộ về vấn đề Tự Do Tôn Giáo trước thế giới, thỏa mãn yêu cầu của Mỹ, và do đó sẽ có lợi cho Việt Nam.. Nhưng đây chỉ là một bước của thế lực đen toa rập với thế lực tư bản nhằm phá đổ chế độ. Việt Nam không nên quên rằng, trong dịp Lễ Độc Lập của Mỹ mấy năm trước, Tòa Đại Sứ Mỹ ở Việt Nam đã mời một số những người chống đối chế độ đến tham dự. Lý do tại sao thật là quá dễ hiểu.

Trên cương vị dân tộc, một nước Phật Giáo như Việt Nam có nên đón tiếp một người, với cương vị của một bậc lãnh đạo Công Giáo đứng hạng nhì sau Giáo Hoàng ở Vatican trước đây, đã dùng một loại danh từ rất thiếu văn hóa đối với Phật Giáo như trên hay không? Đó là câu hỏi mà chúng tôi muốn đặt cho chính quyền cũng như quần chúng Việt Nam. Và quần chúng có nên biết rõ hơn về sách lược, âm mưu xâm lăng văn hóa và mục tiêu lật đổ chính quyền hiện thời ở Việt Nam để cho những nô lệ của Vatican nắm cơ hội lên cầm quyền hay không? Trong bài viết về Ratzinger khi ông ta mới được bầu làm Giáo hoàng, đăng trên Trang Nhà Giao Điểm, tháng 4, 2005, chúng tôi đã tiên đoán việc này và đề nghị: “Trừ phi Ratzinger chính thức xin lỗi thế giới Phật Giáo về những lời nói bậy của mình, Việt Nam cương quyết đừng bao giờ để cho ông ta bước chân lên đất nước Việt Nam, dù dưới bất cứ một áp lực nào. Thể diện quốc gia và truyền thống văn hóa dân tộc phải được đặt lên trên hết.”

Theo ý của chúng tôi thì chỉ xin lỗi Phật Giáo không không đủ, vì Phật Giáo dù sao cũng chỉ là một tôn giáo ở Việt Nam, dù chiếm đa số. Vấn đề ở đây là cả nước Việt Nam đã chịu nhiều khổ nạn vì sự truyền đạo của Công Giáo vào Việt Nam. Cho nên, theo ý chúng tôi, Việt Nam đừng bao giờ cho phép Ratzinger hay bất cứ Giáo hoàng nào được đặt chân lên đất nước Việt Nam trước khi ông ta lên tiếng, nhân danh Công Giáo, xin lỗi Việt Nam về những hoạt động của Công Giáo tiếp tay với thực dân Pháp để xâm chiếm Việt Nam trước đây, và sau đó Giáo hội Công Giáo đã toa rập với thực dân Pháp để cướp bóc đất đai, tài sản, chùa chiền của nhân dân Việt Nam, và thành thực sám hối qua những hành động cụ thể như hoàn trả lại cho nhân dân Việt Nam những tài sản đã chiếm hữu, và bồi thường cho Việt Nam những tác hại mà Công Giáo đã mang đến Việt Nam. Ngoài ra Giáo hội Công Giáo Việt Nam cũng phải bố cáo rộng rãi, lên tiếng xin lỗi tương tự nhân dân Việt Nam, bỏ đi những lời xúc phạm đến cả nước Việt Nam, đến Phật Giáo, trong Kinh Nhựt Khóa của họ, và hoàn trả những gì đã chiếm hữu của nhân dân Việt Nam từ trước tới nay.

Chúng tôi hi vọng khối Phật Giáo ở bên nhà, với tinh thần vô úy, hãy lên tiếng, đặt vấn đề trước Nhà Nước, và cùng Nhà Nước nghiên cứu những vấn nạn liên quan đến những diễn biến ngoại giao giữa Nhà Nước và Vatican. Bài viết này chỉ có mục đích giúp thêm thông tin về vài bộ mặt thật của Vatican cho những người Việt Nam yêu nước, và hi vọng Nhà Nước Việt Nam sẽ rất thận trọng, đắn đo, trước khi dấn thân vào con đường “đánh đu với tinh”, và có thể hoạch định một đường lối sáng suốt thích hợp để đối phó với âm mưu và sách lược của Vatican..

◄ ● ►

 

Vatican có hai mặt, vừa là một tôn giáo, vừa là một quốc gia có chủ quyền. Vì thế chính trị của Vatican cũng có hai mặt, lúc thì nhân danh là một tôn giáo, lúc thì nhân danh là một quốc gia. Vì vậy Vatican có liên hệ ngoại giao với nhiều quốc gia khác.

Mỹ và Mễ Tây Cơ đã có thời cắt đứt liên lạc ngoại giao với Vatican nhưng rồi lại tái thiết lập vì tình hình chính trị và vì cả hai nước đều có nhiều tín đồ Công Giáo, Ở Mỹ vào khoảng 22%, ở Mễ Tây Cơ hầu như toàn tòng. Mễ Tây Cơ có đạo luật cấm các tu sĩ Công Giáo không được mặc y phục Linh mục nơi công cộng, không được mở trường học v..v.. Ở Mỹ, đa số người dân vẫn không ưa Công Giáo. Hình ảnh những người dân Mỹ biểu tình phản đối cuộc viếng thăm trước đây của Giáo hoàng John Paul II, cầm biểu ngữ đòi: Chính phủ Mỹ chấm dứt công nhận Vatican (End US Gov’t Recognition Of The Vatican), Hãy đăng ký các giám mục như là những điệp viên ngoại quốc (Register Bishops As Foreign Agents), Ngưng nạn đói: Hãy bán đi Vatican (Stop Starvation: Sell The Vatican), Vatican chống dân chủ (The Vatican Is Anti-Democratic) v..v.. có lẽ đã nói lên phần nào thực chất của Vatican. Tất cả những hình ảnh này đều có trong phần cuối của cuốn Vatican: Thú Tội Và Xin Lỗi?, Nhiều tác giả, Giao Điểm, 2000.

Ở Á Đông, sau Philippines, Việt Nam là nước có đông tín đồ Công Giáo nhất, vào khoảng 5-7%, và đặc tính nổi bật nhất của Công Giáo Việt Nam là hoàn toàn tuân phục Vatican, nghe theo lệnh của Vatican, hay theo lời của một trí thức Công Giáo, Giáo sư Nguyễn Văn Trung: “Tòa Thánh có đánh rắm cũng khen thơm”. Số tín đồ đông đảo dễ bảo này là mối quan tâm hàng đầu của Vatican, và Vatican không ngừng tìm cách, có thể cả sách lược “khom mình để chinh phục” (stoop to conquer), để tái diễn tấn tuồng Ba Lan ở Việt Nam. Sự ngoan ngoãn của Công Giáo Việt Nam đối với Chính Quyền Việt Nam hiện nay, đồng thời đẩy mạnh bộ mặt thánh thiện từ thiện xã hội để tạo uy tín, len lỏi vào những cơ quan công quyền, mua chuộc nhân sự v..v.. đều nằm trong sách lược này. Nhưng có lẽ Việt Nam không bao giờ nên quên là Giáo dân hải ngoại đã từng lên tiếng gợi ý van xin Giáo Hoàng John Paul II: “Cha đã tiên phong góp phần giải phóng quê hương Cha [Ba Lan], và tiếp đến sẽ là quê hương chúng con [Việt Nam].” [Xin đọc cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng, Thăng Tiến, 1995, trang 11]. Giáo Hoàng John Paul II cũng đã ban Tông Huấn cho các giám mục địa phương phải cải đạo Á Châu, nghĩa là mang Á Châu vào vòng nô lệ của Vatican, trong thế kỷ 21. Thật vậy, Vatican không có tín đồ, chỉ có nô lệ, dù là nô lệ tâm linh, vì cấu trúc của Giáo hội Công Giáo là toàn trị tôn giáo. Việt Nam không phải là quê hương của tín đồ Công Giáo Việt Nam. Họ là công dân của “nước Chúa” và họ đã từng tuyên bố “Thà mất nước (Việt Nam) chứ chẳng thà mất Chúa”. Ngày ngày họ cũng còn cầu kinh Nhựt Khóa: “Xin Chúa làm cho tôi khinh dễ sự đời là chốn chim muông cầm thú, xin làm cho tôi đặng về quê thật làm một cùng vua David”. Ông Khuất Minh ở Hải Phòng, một tín đồ Tin Lành tân tòng, đã nhân danh một công dân của vương quốc Thiên Đàng của Đức Chúa Jésus Christ để viết một bức “Tâm Thư” gửi đến tờ báo An Ninh Thế Giới. Do đó, điều hiển nhiên là các tín đồ Ki-tô Giáo, Công Giáo cũng như Tin Lành Việt Nam, đã được cấy vào đầu óc: Việt Nam không phải là nước của họ mà nước thật của họ là nước Chúa, quê hương của họ không phải là Việt Nam, quê hương thật của họ là nơi họ mong ước được về với Vua David của Do Thái khi xưa, dù rằng, như Kinh Thánh đã viết rõ: David chỉ là một tên tướng cướp, một bạo chúa, hoang dâm vô độ, vô đạo đức và cuồng sát. [Xin đọc bài “Thánh David Là Ai? “ trong Phần Phụ Lục, cuốn “Chúa Giê-su Là Ai? Giảng Dạy Những Gì?” của Trần Chung Ngọc, Giao Điểm xuất bản, 2002.]

Trong thế giới Tây phương, giới trí thức hiểu biết, ở trong cũng như ở ngoài giáo hội Công Giáo, đều biết rõ Công Giáo là một định chế có nhiều sắc thái chính trị và thế tục hơn là tôn giáo. Những sắc thái nổi bật nhất của Công Giáo, theo như nhận định của đa số học giả nghiên cứu về Công Giáo, là: nghèo nhất về vấn đề tâm linh, giầu nhất về tội ác, nhưng cũng giầu nhất về tiền bạc. B. S. Rajneesh đã viết một cuốn sách nhan đề “Linh Mục và Chính Trị Gia: Những Mafia của Linh Hồn” (Priests & Politicians: The Mafia of the Soul, The Rebel Publishing House, Cologne, Germany, 1987), và Linh Mục Joseph McCabe cũng đã viết một cuốn với nhan đề “Giáo Hội La Mã: Nghèo Nhất Về Văn Hóa, Giàu Nhất Về Tội Ác” (Rome Puts A Blight On Culture: The Roman Church The Poorest In Culture The Richest In Crime, Haldeman-Julius Publications, Kansas, 1942).

Nghèo nhất về tâm linh vì, như kết quả thăm dò ý kiến về tôn giáo vừa qua, kết quả là tín đồ Công giáo hiểu biết ít nhất về chính đạo của mình, cho nên đa số tín đồ ngày nay vẫn tiếp tục tin vào những điều “không thể tin được”, thí dụ như, Giê-su là đấng cứu thế, Thiên Chúa yêu thương mọi người, và hi vọng vào một cái bánh vẽ trên trời, thiên đường, mà chính Giáo hoàng John Paul II đã công khai phủ nhận sự hiện hữu v..v… Giầu nhất về tội ác của Giáo Hội La Mã thì cả thế giới đã đều biết qua lịch sử 2000 năm của Công Giáo, không cần phải chờ đến khi Giáo Hoàng John Paul II chính thức lên tiếng xưng thú 7 núi tội lỗi của Giáo hội đối với nhân loại. Nhưng còn vấn đề Giáo Hội giầu nhất về tiền bạc, tài sản, thì rất ít người biết đến nguồn gốc vì đây là vấn đề Giáo hội không những không bao giờ tiết lộ, mà còn hết sức dấu kín. Nhưng ở trên đời, muốn cho người khác không biết thì đừng có làm, do đó Giáo hội Công Giáo cũng không thể dấu kín hoàn toàn những vấn đề liên hệ đến nguồn tài chánh của Giáo hội từ xưa tới nay. Giáo hội có một lợi thế là, vì rất giầu về tiền bạc cho nên Giáo hội có thể dùng tiền của Giáo hội, bất kể là tiền bẩn hay tiền sạch, để đẩy mạnh những mưu đồ chính trị của mình, để bành trướng thế lực, để nuốt chửng những cô bé quàng khăn đỏ ngây thơ cả tin trên thế giới.

Như trên vừa nói, trong Công Giáo, vấn đề tâm linh và đạo đức không phải là chủ trương của Giáo hội, mà là vấn đề làm sao có thể vơ vét của cải, tích lũy tài sản, và dùng chúng để đẩy mạnh những mục tiêu thế tục, thống trị hoàn cầu mới là chính. Vậy chúng tôi nghĩ rằng cũng nên đào sâu vào vấn đề tài sản của Vatican từ đâu mà ra. Trrước khi nói về vấn đề tài chánh của Giáo hội, tưởng chúng ta cũng nên biết qua về thực chất của Giáo hội Công Giáo ngày nay trên thế giới ra sao? Ngoài mặt, thế lực của Vatican còn rất mạnh, nhưng thực chất thì Vatican đang khủng khoảng, ở trên đà suy thoái, và uy tín của Vatican đã giảm đi nhiều. Qua những xì-căng-đan mà cả thế giới đều biết, nhưng rất ít tín đồ Công Giáo biết, nhất là ở trong những ốc đảo ngu dốt (từ của Linh Mục Trần Tam Tĩnh) ở Phi Châu, Nam Mỹ và một vài nơi ở Á Châu, chiếm trên 70% số giáo dân trên thế giới, cộng với sự tiến bộ trí thức của nhân loại, thì Công Giáo đang ở trên đà suy sụp bất khả cứu vãn. Những sự kiện sau đây đã góp phần nào vào sự suy thoái của Công Giáo.

Giáo hội đã bắt buộc phải xưng thú 7 núi tội lỗi của Giáo hội đối với nhân loại qua những lời xin lỗi suông trên bờ môi mép lưỡi. Báo chí thế giới đã phanh phui ra những chuyện động trời trong giáo hội như: Linh mục hiếp dâm các nữ tu (sơ) trên 27 quốc gia và nếu ai mang thai thì cưỡng bách họ phải đi phá thai trong khi giáo lý chính thức của Giáo hội là cấm dùng thuốc ngừa thai hay phá thai; trong một viện mồ côi ở Canada, các “em hiền như ma sơ” mặc y phục xám (gray nuns) đã chọc thủng màng tai của một số trẻ mồ côi để lấy thêm tiền trợ cấp của chính quyền vì số tiền trợ cấp cho các em bị tàn tật thì nhiều hơn là cho các em bình thường; trong một viện mồ côi khác, các sơ đã đổ nước sôi vào tay trẻ mồ côi vì chúng bị để đói nên đi ăn cắp thức ăn của các sơ dùng để nuôi thỏ; vụ nổ ở bên Anh: các em bị cha mẹ bỏ rơi hay nhà quá nghèo khổ, được hứa hẹn mang đi nuôi, cho ăn học tử tế, rút cuộc đã phải vào làm lao động đầu tắt mặt tối trong một xưởng giặt ở nước ngoài của “hội Thánh”, trong mấy tháng trời không thấy ánh sáng mặt trời; và nhất là vụ Vatican bao che các linh mục can tội loạn dâm với các trẻ phụ tế và nữ tín đồ v..v.. Ngoài ra, ở phương trời Âu Mỹ, Linh mục và nữ tu bỏ đạo hàng loạt, nhiều nhà thờ, trường học Công Giáo phải đóng cửa và rao bán, số giáo dân đi lễ nhà thờ và đóng tiền cho nhà thờ giảm sút nhanh, khiến cho Giáo hội phải đi kiếm những vùng đất mới để cắm cây thánh giá và vơ vét tiền bạc, của cải. Vùng đất mới này không gì khác là Á Châu, vùng đất chưa bị ô nhiễm nhiều bởi Công Giáo.

Nhưng yếu tố quyết định sự suy thoái của Công Giáo không phải là những chuyện nhơ bẩn trên, vì tín đồ rất ít biết đến những sự thật trong nội tình Công Giáo, mà chính là sự tiến bộ và những khám phá của khoa học về vũ trụ và con người. Khoa học đã bắt buộc Giáo hoàng John Paul II phải lên tiếng, nhưng đa số tín đồ trong các ốc đảo không bao giờ nghe thấy, công nhận thuyết Big Bang (nguồn gốc vũ trụ), thuyết Tiến Hóa (nguồn gốc con người), và phủ nhận sự hiện hữu của Thiên đường (nơi linh hồn những người được Giê-su cứu rỗi tái nhập với thân xác và sống đời đời) và Hỏa Ngục (nơi Giê-su dùng ngọn lửa vĩnh hằng để thiêu đốt những người không tin ông ta). Như vậy, các tín lý của Giáo hội bày đặt ra trước đây, vừa để khuyến dụ vừa để hù dọa những đầu óc yếu kém, như “Tội tổ tông”, “Chúa Giê-su chịu chết trên thập giá để chuộc tội cho nhân loại”, “Giê-su sinh ra từ một Nữ Đồng Trinh”, “Maria đồng trinh suốt đời”, “Giê-su sống lại”, “Rửa Tội”, “Ai tin Giê-su thì được cứu rỗi”, “quan niệm về Thiên Đường, Hỏa Ngục”, và sự hoang đường của các “bí tích” v..v.. đã không còn một chút giá trị nào trong thế giới những người hiểu biết nữa. Cho nên tình trạng suy thoái của Công Giáo trên khắp thế giới, nhất là ở phương trời Âu Mỹ, nơi đây người dân thường xuyên được cập nhật hóa những thông tin về khoa học và tôn giáo v..v.., là một hiện tượng đã khá rõ rệt, và đã có nhiều nghiên cứu thống kê về tình trạng này. Hội Đồng Giám Mục Âu Châu cũng như chính Giáo hoàng Benedict XVI đã phải lên tiếng than phiền là “Âu Châu ngày nay đang sống như là không hề biết đến Thiên Chúa”. Vì vậy, Vatican đang cố gắng dùng mọi thủ đoạn để cải đạo Á Châu, nhiều nơi ở trên lục địa này người dân còn nghèo khổ, còn bị áp bức, ít hiểu biết, nên rất dễ ăn vào cái bả của Công Giáo.

Thực chất thì như vậy, nhưng Giáo hội có đủ phương tiện truyền thông để lái dư luận, để tiếp tục nhốt tín đồ trong vòng ngu dốt, đồng thời tiếp tục phô trương quyền lực giả tạo để lừa bịp những cô bé quàng khăn đỏ ngây thơ, cả tin. Sức mạnh của Vatican dựa trên một giáo hội có một tổ chức toàn trị rất chặt chẽ, có một số tín đồ đông đảo nhất, nằm vùng trong hầu hết các quốc gia trên thế giới, và sẵn sàng nhắm mắt nghe theo lệnh của Vatican xuyên qua các “bề trên” như các tổng giám mục, giám mục, linh mục địa phương. Trong cuốn The Vatican Empire, Nino Lo Bello viết, trang 167: “Các chiến thuật của Vatican đều dựa trên niềm tin là thật dễ cho Giáo hội duy trì sức mạnh ở những nơi mà sự nghèo khổ và ngu dốt được nuôi dưỡng.” (Vatican strategies are based on a belief that it is easier for the Church to maintain its strength where poverty, misery, and ignorance breed) [Cho nên chúng ta không lấy làm lạ khi đa số giáo dân Việt Nam được tập trung trong những “ốc đảo ngu dốt”, theo nhận định của Linh mục Trần Tam Tĩnh trong cuốn Thập Giá Và Lưỡi Gươm]. Thêm vào đó, Vatican là một tổ chức tôn giáo giầu vào bậc nhất, tài sản ước tính tối thiểu là trên 1000 tỷ đô-la. Nhưng Vatican cũng nổi tiếng trên thế giới là chỉ thu vào, không bỏ ra cho ai. Nino Lo Bello viết, Ibid., trang 153-154: “Đối với người Ý, đặc biệt là những người sống ở Rome, Vatican nổi tiếng là “rẻ tiền”, “thắt chặt hầu bao”, “keo kiệt”. Chẳng cần phải khiêu khích, người thường ở ngoài đường phố có thể nói với bạn : “Vatican thu vào nhưng chẳng cho ai đồng nào” (Among the Italians, particularly among the residents of Rome,, the Vatican has a reputation for being “cheap”, “tight,” “stingy”. Without much provocation, the ordinary man in the street is likely to tell you , Il Vaticano riceve – ma non da a nessuno (The Vatican receives – but gives to no one). Cho nên, chúng ta phải hiểu rằng, khi Vatican bỏ tiền ra là luôn luôn có mưu đồ đàng sau. Vatican đã bỏ ra hàng trăm triệu đô-la vào Ba Lan để lật đổ Cộng Sản ở Ba Lan. Khi cần, Vatican có thể “lấy tiền của kẻ nghèo để trả kẻ giầu” (rob Peter to pay Paul). Dòng “Thừa sai Bác Ái” của bà Teresa đã kiếm cho Giáo hội bao nhiêu triệu để trong các ngân hàng là một thí dụ điển hình. Giáo hoàng tới thăm đâu, giáo hội địa phương phải trang trải phí tổn cho chuyến “thăm giáo dân” của Ngài. Mỹ đã tốn trên 2 triệu đô-la cho một chuyến thăm Mỹ của John Paul II trước đây. Nghe nói vụ phong thánh ở Việt Nam, giáo hội Việt Nam cũng phải bỏ ra một số tiền lớn để chạy chọt. Thực chất trò phong thánh của Vatican chỉ là củng cố và đẩy mạnh sự cuồng tín của đám giáo dân thấp kém ở dưới. Và những thủ đoạn làm tiền của Giáo hội Công Giáo mà chúng tôi sẽ trình bày trong một phần sau là những bằng chứng rõ rệt nhất.

Tin vào sự viện trợ của Vatican hay bất cứ hứa hẹn vật chất nào của Vatican là niềm tin của Cô Bé Quàng Khăn Đỏ, chỉ thấy cái lợi trước mắt mà quên cái hại sau lưng. Chính sách của Vatican đã rõ rệt từ muôn đời: bỏ ra một, lấy lại 10 hay nhiều hơn. Họ dùng bả vật chất để chiêu dụ tín đồ, một khi tín đồ đã bị mê hoặc bởi một cái bánh vẽ trên trời rồi thì sẽ suốt đời tình nguyện đóng góp cho Giáo hội dù có nghèo đến đâu, quy luật của giáo hội là phải đóng 10% lợi tức. Ở Âu Châu trước đây, Giáo hội thu tiền của cả những người cùi, ăn mày, gái điếm và người chết như Avro Manhattan đã viết trong cuốn The Vatican Billions. Bất cứ ở đâu có chính quyền Công Giáo là tài sản quốc gia được vơ vét cho Vatican và cho giáo hội địa phương. Các giáo hội địa phương phải có bổn phận đóng góp hàng năm cho Vatican. Giáo hội Mỹ giật giải quán quân về mức đóng góp này. Những sự kiện lịch sử ở một số nước Phi Châu, Nam Mỹ và ở Nam Việt Nam dưới chính quyền Ngô Đình Diệm là những bằng chứng bất khả phủ bác. Đổi Thánh Kinh lấy tài sản là sách lược cố hữu của Công Giáo. Họ mang cuốn Kinh Thánh đến để mê hoặc lòng người, nhưng kết quả là đất đai thuộc về giáo hội như lời than tiêu biểu sau đây của một cô bé quàng khăn đỏ ở Phi Châu, Giám-mục Tutu:

"Chúng tôi có đất đai và họ tới với cuốn Thánh Kinh của họ. Chúng tôi tin họ, cầm cuốn Thánh Kinh trên tay, nhắm mắt cầu nguyện. Khi mở mắt ra, chúng tôi có cuốn Thánh Kinh và họ có đất đai của chúng tôi." ["We have our lands and they came here with their Bible. We believed in them and we pray with the Bible in our hands and our eyes closed. When we opened our eyes, we have the Bible and they have our lands."]

Đây là một kinh nghiệm để đời cho các dân tộc nghèo đang phát triển nhưng lại nghe lời đường mật của Vatican, và đặt niềm hi vọng vào những hứa hẹn giúp đỡ vật chất của Vatican. Sau đây là vài nét về nguồn gốc tài sản của Vatican và Vatican đã dùng tiền trong những mục đích gì.

Tài sản của Giáo hội từ đâu mà có. Lẽ dĩ nhiên Giáo hội không bao giờ nói ra. Nhưng không nói ra không có nghĩa là không ai biết. Sử sách đã ghi lại nhiều tài liệu về nguồn gốc tài sản của Giáo hội. Sau đây là vài tài liệu.

 

◄ ● ►

Trích vài đoạn trong cuốn Vatican: Thú Tội Và Xin Lỗi?, Nhiều tác giả, Giao Điểm, 2000, Mục 6, trong bài Những Tội Ác Của Giáo Hội La Mã Và Việc Cáo Thú Tội Ác Của Giáo Hoàng John Paul II Vào Ngày 12-3-2000 của Việt Án Anh Nguyễn Mạnh Quang, trang 248-266:

6. Tích Lũy của cải và đồ ăn cướp.-

Trong các phần trên, chúng tôi đã trình bày những thành tích của Giáo Hội La Mã đã dùng đủ mọi thủ đoạn gian manh để bịp bợm và lường gạt người đời song hành với chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ đi kèm theo với bạo lực trong các sách lược khủng bố, hành hạ, tra tấn và tàn sát nhân dân một cách vô cùng man rợ hầu củng cố nền thống trị và tiến hành sách lược nô lệ hóa nhân loại. Phần duới đây, chúng tôi xin trình bày những khối lượng tài sản khổng lồ mà Giáo Hội đã tích lũy được qua những việc làm bất chánh từ xưa cho tới nay. Thành tích bóc lột và ăn cướp mồ hôi nước mắt của nhân dân đã được sách sử ghi chép rõ ràng.

● Sách Living World History viết:

"Giáo Hội đã trở nên vô cùng giầu có. Lợi tức hàng năm của Giáo Hội còn nhiều hơn cả lợi tức của tất cả các nhà cầm quyền thế tục (Âu Châu) gom lại. Giáo Hội thường xuyên tiếp nhận nhũng khối tài sản lớn lao về đất đai (của các thế lực chính trị hay của các nhà giầu có dâng cúng). Ngoài ra, Giáo Hội còn thu thuế 10 phần trăm lợi tức của mỗi người dân bắt buộc phải đóng cho Giáo Hội."

● Bản Tuyên Cáo 6 của Học Hội Đức Giêsu Kitô Phục Sinh được công bố ngày 15-6-1999, trong đó có một đoạn viết như sau:

"Vào thế kỷ 15 và 16, không kể đất đai cát cứ, chỉ nguyên bất động sản thuộc loại kiến trúc của Giáo Hội trên khắp cõi Âu Châu và Địa Trung Hải, nếu đặt gần nhau, chiều dài bằng (hay) dài hơn "Vạn Lý Trường Thành" của nhà Tần bên Trung Quốc, nhưng bề dầy thì dầy hơn kiến trúc của nhà Tần gấp nhiều lần. Nông nô hay tá điền, lao nô hay công nhân phục vụ cho Giáo Hội có thời, có nơi lên đến 1/3 dân số đất nước của các vua chúa thời phong kiến. Ngoài ra, Giáo Hội còn thiết lập một hệ thống thuế vụ riêng, một hệ thống pháp đình riêng, cả hai độc lập, ngoài quyền kiểm soát của các ông hoàng đế và các ông vua. Khối lượng "mammom" (tài sản) của Giáo Hội là khối tài sản thủ đắc khổng lồ, vô địch thiên hạ cổ kim. Một Giáo Hội "kinh bang tế thế" thành công vẻ vang huy hoàng như thế, người ta không thể nói đến dân chủ."

● Tác giả sách Smokescreens dành cả chương 10 viết về sự giầu có của Giáo Hội La Mã. Chúng tôi xin rút gọn mấy nét chính như sau:

"Vatican có những phần hùn rất lớn trong Công Ty Rothschilds ở các nước Anh, Pháp và Mỹ Châu, có những phần hùn với Hambros Bank, Credit Suisse ở Luân Đôn và Zurich. Ở Hoa Kỳ, Vatican còn có phần hùn với the Morgan Bank, the Chase-Manhattan Bank, the First National Bank of New York, the Bankers Trust Company và nhiều nhà ngân hàng khác. Vatican lại còn có hàng tỷ cổ phần trong các đại công ty lớn hoạt động khắp nơi trên thế giới như các công ty Gulf Oil, Shell, General Motors, Bethlehem Steel, General Electric, International Business Machines, T.W.A., vân vân. Riêng ở Hoa Kỳ không thôi, số vốn của Vatican đầu tư vào các công ty hoạt động kinh doanh cũng lên đến trên 500 triệu Mỹ kim…”

"Tờ The United Nations World Magazine ước lượng trị giá kho tàng vàng khối của Tòa Thánh Vatican lên đến nhiều tỉ Mỹ kim. Phần lớn những số vàng khối là những vàng thỏi được cất giữ trong Nhà Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang Hoa Kỳ. Số còn lại thì được cất giữ ở các nhà ngân hàng ở Anh Quốc và Thụy Sĩ. Nhưng tất cả đây chỉ là một phần nhỏ của khối lượng tài sản khổng lồ của Tòa Thánh Vatican. Tài sản của Vatican ở Hoa Kỳ không thôi cũng đã lớn hơn tài sản của 5 đại công ty lớn nhất và giầu nhất ở Hoa Kỳ. Nếu tính chung tất cả các thứ tài sản như bất động sản, chứng khoán, cổ phần ở các nước khác nữa thì tài sản của Giáo Hội La Mã thật là ghê gớm lắm. Giáo Hội La Mã là một thế lực hùng mạnh nhất về tài chính… Giáo Hội thực sự là một thế lực giầu có nhất trong thế kỷ 20 và không ai có thể ước lượng được Giáo Hội có bao nhiều tiền của tính theo đơn vị là tỉ Mỹ kim."

Nhìn vào khối lượng tài sản vĩ đại của Giáo Hội hiện nay, chúng ta phải công nhận rằng Vatican là một thế lực giầu có nhất trên thế giới vào thế kỷ thứ 20 và cho tới ngày nay. Vấn đề đặt ra là Vatican là một quốc gia nhỏ bé, diện tích vỏn vẹn chỉ có chưa tới 1 dặm vuông với một dân số chỉ có 900 người mà hầu hết là tu sĩ cả, làm thế nào mà Vatican lại có thể tích lũy được khối lượng tài sản lớn như vậy và là một thế lực giầu có hơn cả bất kỳ thế lực tài chánh nào khác trên thế giới? Người Trung Hoa thường nói "Phi thương bất phú". Nhưng Tòa Thánh Vatican là một tổ chức tôn giáo với nhân số vỏn vẹn chỉ có 900 người, làm thế nào có thể lao vào các dịch vụ kinh doanh mà trở thành giầu có như vậy được?. Vả lại, theo các tài liệu lịch sử trên đây, Giáo Hội đã trở thành một thế lực giầu có nhất Âu Châu ngay từ thời Trung Cổ. Thời đó, công việc thương mại và kinh doanh chưa phát triền thì làm gì có chuyện buôn bán và kinh doanh để trở nên giầu có! Tới đây, người viết xin nhại lời nói "Phi thương bất phú" của người Trung Hoa mà nói là "Phi nhân bất phú". Thiết tưởng điều này rất chính xác với sự giầu có của Tòa Thánh Vatican. Dưới đây, chúng tôi xin trình bày một vài trường hợp nói về phương cách mà Giáo Hội đã thu vơ tiền bạc ở Việt Nam và một vài nơi khác để quý vị có thể suy ra xem câu nói "Phi nhân bất phú" áp dụng cho Giáo Hội La Mã đúng hay là sai. Trước hết xin nói về phương cách vơ vét tiền bạc của Giáo Hội tại Việt Nam. Sách Thập Giá và Lưỡi Gươm viết:

"Năm 1939, tài sản Nhà Chung thừa sai Pháp (tại Việt Nam) trị giá 50 triệu quan Pháp. trị giá đó là chính thức, nhưng theo các luật gia thuộc địa Caratini và Grandjean thì thấp hơn giá trị thực tế và không bao gồm tất cả tài sản của Giáo Hội, vì đã bỏ ra ngoài của cải của các xứ đạo và nhiều pháp nhân giáo hội khác vốn có quyền sở hữu. Tài sản các Nhà Dòng Đa Minh Tây Ban Nha cũng rất quan trọng… Nhà Chung được liệt vào hạng địa chủ lớn nhất của thời ấy."

Chỉ một mình Nhà Chung Công Giáo mà chiếm hết một phần tư đất trồng trọt ở Nam Kỳ. Phương thế chiếm hữu đất đai đó rất đơn giản: dùng tham nhũng, hối lộ và cưỡng ép. Đây là một vài ví dụ rõ ràng. Nhà Chung lợi dụng khi mất mùa để cho nông dân vay tiền. Tiền lời cho vay rất nặng, nên con nợ sẽ không thanh toán nổi khi tới ngày trả, và như thế là đất cầm trở thành đất Nhà Chung. Giáo Hội không từ một việc nào để nắm được những giấy tờ hệ lụy bí mật và nhờ đó dọa dẫm các quan chức, bắt họ phải làm theo muốn. Giáo Hội cũng liên minh với những tay tài phiệt để khai thác những vùng đất nhượng cho không và những thửa ruộng cướp được của nông dân. Giáo Hội có người của mình nắm những vai trò thế giá trong chính quyền thuộc địa…"

● …Paul Mené trong cuốn "Pháp và An Nam Giữa Hai Lằn Đạn” (Paris,1928)… viết "Hội Nhà Chung được tổ chức hùng mạnh ở Nam Kỳ. Nhà Chung rất giầu có, chiếm hữu nhiều vùng đất bao la và có nhiều bổng lộc quan trọng tại phần lớn các xí nghiệp địa phương, nhờ những khoản tiền vốn Nhà Chung bỏ vào đó, nhân danh Nhà Chung hoặc phần nhiều là qua trung gian người thứ ba. Trong thời gian Pháp xâm lăng Việt Nam, Nhà Chung đóng một vai trò quan trọng như ai cũng biết. Nhà Chung đã tổ chức một hệ thống tình báo hoàn bị, cung cấp tin tức cho biết tất cả những gì liên hệ tới con người, những công ty, những công cuộc, những hành động và phương án chính trị tại Đông Dương. Nhà Chung đã đặt được người thân tín của mình vào tất cả các cơ quan, vào hầu hết các xí nghiệp tại các trung tâm lớn cũng như tận cùng những tỉnh xa xôi."

"Trong một báo cáo mật gửi lên Toàn Quyền Đông Dương, viên Thống-sứ Nam Kỳ đã trình bày với quan thày rằng: "Không nên quên rằng những năm đầu của cuộc chiếm đóng của chúng ta, Nhà Chung đã quan tâm chiếm cho được tại Nam Kỳ những tài sản khổng lồ. Nhà Chung có tất cả 28.500 hecta ruộng, không kể đất đai ở thành thị cũng như bất động sản và của cải khác. Tại miền Tây Nam Kỳ, Nhà Chung làm chủ vùng đất lớn rộng tới ba bốn hoặc sáu ngàn hecta." (Saigon 14-12-1934).

"Người ta đọc thấy trong một báo cáo vào cuối tháng 5-1974 do một cơ quan viện trợ quốc tế biên soạn như sau: "Giáo Hội Công Giáo tại miền Nam có một ngân hàng lớn tại Sàigon (Đại Nam), những khách sạn lớn nhất (Caravelle), những nhà hàng (Kim Đô), những dãy nhà cho thuê (Lam Sơn, Building Tax), v.v… Tiền đầu tư của Giáo Hội vào trong các cơ sở kinh doanh kỹ nghệ từ việc mai táng cho tới nhà máy giấy (Cogido). Điều dân chúng thường nói cho thấy thực tế đó: Đất nước chúng tôi nằm trong Ba Tầu và Giáo Hội." .. "Tất cả các nhà quan sát có chú ý một tí, tất cả người dân Việt đều công nhận rằng "Giáo Hội là một hòn đảo trù phú ở giữa đại dương nghèo đói" của Nam Việt. Linh-mục Gheddo, chủ nhiệm tờ Mondo e Missione, đã phải viết trong một bản phúc trình bí mật gửi cho Vatican đề ngày 30-21-1973 như sau: "Thật là gương mù gương xấu, khi thấy Giáo Hội cứ tiếp tục xây cất những kiến trúc to lớn như nhà thờ, tòa giám mục, chủng viện, dòng tu… đang khi 80-85% dân chúng miền Nam hiện còn sống trong các lều tranh vách ván"… "Giáo Hội tại Việt Nam đặt nền tảng trên tiền bạc, trên chuyện xoay sở tiền bạc, trên chuyện đầu tư tiền bạc. Phải nói là Việt Nam là biển tham nhũng... Điều còn tệ hơn nữa là những trường hợp lừa đảo: Các tu sĩ Biển Đức tại Ban Mê Thuột có một xưởng cưa. Họ lường gạt dân miền núi khi mua rẻ cây cối dân Thượng chở tới, rồi lại đem bán với giá cao và lừa dối người mua cả về phẩm chất của cây gỗ. Các tu sĩ Xa Lê Diêng mua xi măng rẻ tiền tại Saigon, đem chở đi với hai linh mục áp tải để tránh thuế vụ (tại Viêt Nam, các linh mục tự do làm mưa làm gió) và bán lại giá cao tại Đà Lạt. Một viên đồn điền người Ý tại Ban Mê Thuột đã có tuổi và đáng tin cậy, đã khẳng định với tôi rằng, khắp đó đây tại Việt Nam, Giáo Hội bỏ tiền ra mua các vùng đất bị bỏ hoang vì chiến tranh: mua với giá rẻ mạt mà lại khỏi phải đóng thuế sang tên. Khi vùng này trở lại cuộc sống bình thường (hoặc nay mai sẽ bình thường), thì các đám đất ngon nhất đã nằm trong tay các giám mục, linh mục… Người ta có cảm giác rằng, Giáo Hội mắc phải chứng bệnh "xây cất và kiếm tiền" và có thể quả quyết rằng trong cảnh nghèo đói chung và cơn khủng hoảng kinh tế hiện nay, Giáo Hội là cơ quan duy nhất có tầm cỡ quốc gia, vẫn tiếp tục xây cât mở mang, có phương tiện lớn lao và những con người được chuẩn bị cho việc đó. Một linh mục (giám đốc tờ Nhật báo Thẳng Tiến) nói với tôi rằng đó là dấu hiệu phúc lành Chúa ban."

● Theo Sách Rơi Mặt Nạ thì Giáo Hội Gia Tô đã dựa vào thế lực chính quyền Bảo Hộ Pháp-Vatican và bạo quyền Ngô Đình Diệm để ăn cướp hay cưỡng chiếm những tài sản dưới đây:

1.- "Chùa Thiên Mụ bị Gia Tô đánh cướp 32 pho tượng vàng y.”

2.- Chùa Diệu Đế bị Gia-tô cướp đất: Năm 1885 lấy Cát Tường Tư Thất. Lấy Trí Tuệ Tịnh Xá. Năm 1887, một số căn nhà khác trong chùa bị triệt hạ Năm 1910 Đào Nguyên bị triệt hạ.

3.- Chùa Giác Hoàng bị đánh cướp vào năm 1885.

4.- Đất Nghĩa Trang Anh Hùng Văn Thân Và Cần Vương bị cướp để xây nhà thờ Gia-tô đối diện với Tòa Hành Chánh tỉnh Quảng Ngãi. Chuông nhà thờ Phát Diệm là một quả chuông đồng pha vàng do Trần Lục đem quân đi chiếm đoạt ở một ngôi chùa xa lắm.

5.- Nhà thờ Lớn ở Sàigòn hiện là Nhà Thờ Đức Bà được xây trên một ngồi chùa bị phá

6.- GM Nguyễn Văn Thuận ăn cướp đất ở bờ biển Hòn Chồng để xây Giáo Hoàng Chủng Viện.

7.- Giám-mục Ngô Đình Thục và Trần Lệ Xuân ăn cắp 18 tỷ đô la gửi vào ngân hành Vatican

8.- Linh-mục Đinh Xuân Hải lấn đất của một ngôi chùa ở Hóc Môn."

● Sách Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi viết:

"Theo hồi ký của Trần Văn Đôn cho biết, (Ngô Đình) Cẩn đã gởi được ra ngoại quốc 7 triệu đô la vào năm 1961. Vào tháng 10 năm 1963, hình như đã cảm thấy tình hình có thể nguy ngập cho chế độ và cho gia đình, cho nên Cẩn cho chuyển vào nhà thờ Dòng Cứu Thế 14 thùng vàng (thùng đạn quân đội), riêng Cẩn chỉ giữ lại một hộp hột xoàn, kim cương bên mình. Trưa ngày 1-11-1963, khi tiếng súng Cách Mạng bắt đầu nổ tại Sàigòn, Tướng Đỗ Cao Trí, lúc bấy giờ là Tư Lệnh Quân Đoàn I và là thuộc hạ thân tín của Tổng Thống Diệm, bèn ra lệnh cho Đại Tá Nguyễn Văn Mô (Tiểu Khu Trưởng Thừa Thiên) và Thiếu-tá Hiển (Chánh văn phòng của Tướng Trí) đem một trung đội đến bố trí quanh dinh thự của Cẩn, súng chĩa ra ngoài để "bảo vệ an ninh cho ông Cố Vấn (Cẩn)". Nhưng sáng mồng 2, khi nghe tin ông Diệm đã đầu hàng và đã xin hội đồng tướng lãnh để xuất ngoại, trung đội bảo vệ cho ông Cẩn lại được lệnh quay súng chĩa vào dinh thự của Cẩn. Sau vụ lật đổ chế độ Diệm, tôi vì quá bộn bề công việc chỉ nghe kể lại rằng hột xoàn kim cương của Cẩn được đổ đầy một mũ sắt nhà binh, và tất cả đồ lề quý giá trong dinh của Cẩn đều về tay Tướng Trí. Tướng Đỗ Cao Trí cũng lấy lại được 7 thùng vàng trong số 14 thùng sau mấy ngày thương lượng gay go với các bề trên Dòng Chúa Cứu Thế."

● Sách Việt Nam Nhân Chứng viết:

"Hai tháng sau ngày Chỉnh Lý, ông Khánh phái ông Lâm Văn Phát liên lạc qua bà Trần Trung Dung vào khám nói với ông Cẩn chuyển số tiền 6 triệu Mỹ kim (mà) ông Cẩn có trong ngân hàng Thụy Sĩ qua cho ông Khánh. Đổi lại, ông Khánh sẽ cho một chiếc phi cơ Dakota đưa ông Cẩn đi Singapore sống tự do. Bà Trần Trung Dung yêu cầu đừng thâu băng khi bà ấy vào khám hỏi ý ông Cẩn. Sau khi nghe bà Dung trình bày, Ông (Cẩn) hỏi bà Dung có cần lấy thì ông giao cho. Lúc đó, bà Dung sợ liên lụy nên không dám nhận. Mấy hôm sau, nhân dip một vị linh-mục ra vô làm lễ cho ông Cẩn, ông Cẩn ký giấy ủy quyền cho nhà Dòng Cứu Thế số tiền đó. Trong cuốn kinh sách, một giấy ủy quyền để sẵn cho ông Ngô Đình Cẩn ký tên tặng mấy triệu bạc. Sau đó, Ông Cẩn bị tuyên án tử hình."

● Sách Our Own Worst Enemy viết:

"Ngoài sự tăng lên rõ rệt về số vàng dự trữ của Saigon, theo các mật báo viên người Thụy Sĩ và người Trung Hoa của tôi, từ năm 1956, một số người Việt Nam quyền thếPRIVATE "TYPE=PICT;ALT=" đã chuyển 18 tỉ Mỹ kim vào các nhà ngân hàng ngoại quốc. Sau đó, không bao lâu, qua một người hùn vốn kín miệng, Bà Ngô Đình Nhu mua một nhà ngân hàng lớn hàng thứ nhì tại kinh thành Paris, trả bằng tiền mặt." ["In addition to the visible increase in Saigon’ gold reserve, approximately $ 18 billion, according to my Swiss and Chinese informants, had been sent to foreign banks by private Vietnamese individuals since 1956. Not long ago, Madame Nhu, through a silent partner, purchased outright the second largest private bank in Paris. For cash."]

● Sách Tường Trình Cùng Đồng Bào Trong Nước viết:

"Còn nhớ rằng khi chính quyền miền Nam Việt Nam còn ở trong tay những người Gia-tô, chỉ nguyên ở Việt Nam không thôi, Vatican đã thu được 19 tỉ đô la do Ngô Đình Diệm ăn cắp được ở Việt Nam gửi cho Tòa Thánh Vatican (19 tỉ đô là vào năm 1963 nay đã thành 50 tỉPRIVATE "TYPE=PICT;ALT=", đấy là chưa kể tiền giáo dân đóng góp. Con số này rất chính xác, đuợc vô tình tiết lộ bởi một nhân chứng sống, Trần Đình Tr., một giáo dân Gia-tô đạo gốc thuần thành, được một vị linh-mục ở Khu Tư viết một bức thư giới thiệu với Ngô Đình Diệm. Tr. cầm lá thư đó rồi vượt tuyến vào Nam năm 1957 và được Ngô Đính Diệm trọng dụng, giao cho Tr. làm nhiệm vụ kinh tài. Sau nhiều chuyến mang tiền sang gửi ở Vatican thành công, Diệm rất tin tưởng. Năm 1963, Tr. mang một số tiền lớn trên đường từ Saigon đi Vatican qua ngả Pháp, nhưng vừa đến Paris thì nghe tin Diệm-Nhu đã chết, Tr. bèn lấy luôn số tiền đó gửi ở ngân hàng ngoại quốc và trở thành một người Việt Nam giầu nhất thế giới…"

● Sách Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam ghi lại lời Courcy viết về vụ Liên Minh Pháp-Vatican ăn cướp kho tàng tại Huế vào đêm 4-7-1885 như sau:

" Giá trị số vàng bạc cất giấu trong các hầm, ước tính khoảng 9 triệu, ngoài ra, còn tìm được những ấn tín và cuốn sách bằng vàng, trị giá 1 triệu. Đã bắt đầu tập họp lại một cách khó khăn được một phần những kho tàng nghệ thuật. Cần gửi ngay 1 tầu thủy và nhiều chuyên viên giỏi để chuyển những kho tàng nghệ thuật này về cùng với các báu vật, bạc vàng."

Đồng thời, sách này cũng ghi lại lời nhân chứng P. Pène–Siefert kể lại:

"…Họ (người Việt Nam) làm cho chúng ta phải ngượng ngùng khó nghĩ khi họ kể với chúng ta rằng: với những bản mục lục tài sản đã có trước ngày 5/7 cầm tay, người Pháp đã lấy, ở nhà các đội thân binh, 113 lượng vàng, 742 lượng bạc, 2.727 quan tiền; tại cung bà Thái Hậu, mẹ vua Tự Đức, 228 viên kim cương, 266 đồ nữ trang nạm kim cương, ngọc trai và đá quý, 271 đồ dùng bằng vàng; tại các lăng Thiệu Trị, Minh Mạng, Gia Long, đầy ắp những đồ dùng của cá nhân các vua đó lúc sinh thời. Tất cả những thứ gì có thể lấy mang đi được: vương miện, đai lưng, đêm trải nhà, nệm giường, áo đại lễ, giường và bàn tròn chạm trổ… Tại các ngân khố hoàng gia, cướp đi một số vàng trị giá khoảng 24 triệu Francs.. Một vụ cướp phá trắng trợn như vậy, kéo dài hai tháng ròng, nổi tiếng một cách đáng buồn gấp nhiều lần hơn so với những vụ cướp phá cung điện mùa hè tại Bắc Kinh, và nó có thể làm bại hoại tinh thần người lính."

Trên đây là chuyện vơ vét tiền một cách bất chính ỏ Việt Nam, chuyện dưới đây là ở Peru thưộc Châu Mỹ La Tinh.

● Sách This Is America’s Story viết:

"Hàng ngàn quan quân xúm quanh mình, vua Atahualpa (bộ tộc Inca) chễm chệ ngồi trên chiếc ngai vàng bằng vàng thiệt… Người Tây Ban Nha bèn nẩy ra ý kiến biến cải vua Atahualpa thành tín đồ Gia-tô và thôi thúc ông ta tin nhận Chúa. Atahualpa lắng nghe lời vị linh-mục thuyết giảng, nhưng không một mảy may xiêu lòng. Ông ta chỉ lên mặt trời và nói rằng "Thượng Đế của ta còn đang ngự trị ở trên trời cao và đang thương mến nhìn xuống đàn con của Ngài ở dưới thế gian này." Rồi ông ta liệng cuốn Thánh Kinh mà vị linh-mục vừa mới trao cho ông ta. Thật là quá đáng đối với người Tây Ban Nha mộ đạo. Pizarro hạ lệnh khai hỏa. Vua Atahualpa kinh hoàng lặng nhìn người Tây Ban Nha ngoan đạo tàn sát hàng ngàn quần thần và quân sĩ của ông ta. Ngay khi đo, Pizarro bắt Atahualpa giam lại. Thấy người Tây Ban Nha ngoan đạo này ham muốn vàng hết sức, ông vua bị cầm tù quay ra mà cả với Pizarro để được tự do. Atahualpa đứng thẳng người vươn tay lên cao hết tầm tay của ông ta mà hứa rằng nếu được thả ra thì ông ta sẽ biếu Pizarro một số vàng có thể chứa đầy căn phòng này. Pizarro đồng ý. Những ngày kế tiếp, dân Da Đỏ lũ lượt khuân vác báu vật bằng vàng từ các lâu đài, miếu điện đem đến chất chứa cho đầy căn phòng. Số vàng bạc châu báu này trị giá vào khoảng 15 triệu Mỹ kim. Atahualpa đã thực hiện lời hứa, nhưng Pizarro lại không hề nghĩ tới việc giữ lời hứa. Đối với Pizarro, mà cả chỉ là một cách đơn giản để dễ dàng thâu tóm được vàng của bộ tộc Inca. Sau đó, ông tìm cách sát hại Atahualpa bằng cách hạ lệnh cho người bóp cổ cho chết…. Tuy nhiên, Pizarro lại không có cơ hội an hưởng của cải này… Có nhiều sự ganh ghét tị hiềm và âm mưu tranh giành chiến lợi phẩm (vàng bạc châu báu đã của ăn cướp được) trong những người Tây Ban Nha ngoan đạo này. Không bao lâu, Pizarro bị ngay chính những người Tây Ban Nha Gia-tô đã hết lòng Tin Chúa này sát hại…"

Đó là chuyện ăn cướp vàng ở Trung và Nam Mỹ. Dưới đây là chuyện ăn cướp tiền của và bạc vàng từ những người Serbs theo đạo Chính Thống và người Do Thái ở Croatia.

● Bản văn của Học Hội Đức Giêsu Kitô Phục Sinh công bố như sau:

"Từ xửa từ xưa ngàn năm, Giáo Hội Roma Latinh đã bỏ Thiên Chúa chạy theo tiền của. Vàng của Đức Quốc Xã là wealth! Hiển nhiên như một công lý, không còn lý luận! "Thấy vàng là tối mắt" như thời đêm đen Trung Cổ tại "Âu Châu Toàn Cầu Công Giáo", Vatican và Giáo Hoàng quá chủ quan. Từ 3 năm trước hãng tin Infoseek + Reuters ngày 3-8-1997 đã đưa lên www bản tin của ký giả Arthur Spiegelman nguyên văn như sau:

"Los Angeles, Aug 3 (Reuter)- New documents have been found in the U.S. National Archives implicating the Vatican’s bank in possibly illegal transactions with Nazi Germany and its Axis partners during the Second World War. U.S. Inelligence documents obtained by Reuters on Sunday said the Vatican bank known as the Institute For Religious Work, used Swiss banking middlemen in at least three cases to obtain money from the German Reichsbank or to transfer funds to a bank that was blacklisted by the Allies for its dealings with Nazi Germany. The documents come almost 2 weeks after a storm erupted over postwar U.S. Intelligence report that claimed the Vatican stored $130 million worth of gold coins and cash taken by the Croatian Nazi puppet state from Serbs and Jews.”

● Hai tờ USA Today và Washington Post những ngày 21,22, và 23 tháng 7 năm 1997 còn loan tải nhanh hơn nữa, và tất cả các thỏi vàng, tiền vàng của Nazi được tập trung ném vào Ngân Hàng Vatican. Trong khu vực tài chánh thời Thế Chiến Thứ Hai, Vatican đứng về "Phe Trục" Đức-Ý-Vatican. Đức Ý đánh nhau với đồng Minh Âu Châu, nhưng Vatican đi hàng hai trục lợi. Đồng Minh biết hết, gián điệp Hoa Kỳ và Đồng Minh Âu Châu biêt hết, biết tỏng cả.

Thế rồi mới năm ngoái vừa tròn một năm, Dow Jones News đánh dứ một đòn 2 tỉ dollars tiền lường gạt của tay gian hùng Martin Frankel chạy vào Ngân Hàng Vatican, vào túi Đức Giáo Hoàng. Tờ Time Magazine số July 5, 1999 có cả một bài phóng sự về vụ tai tiếng này. Giáo Hội rất ham tiền bất kể xuất xứ! Tiền sạch cũng như tiền bẩn, Giáo Hội vơ vào tuốt luốt. Cho dù Giáo Hội biết là tiền bẩn, vàng bẩn, Giáo Hội cũng đủ lực đủ tài hóa phép rửa tiền bẩn vàng bẩn ra tiền sạch vàng sạch… Giáo Hội đi đêm hoài có ngày gặp ma. Con ma Bồ Đào Nha phản Đức Giáo Hoàng! Một tuần trước ngày Đức Giáo Hoàng đến Fatima, ngày Đức Mẹ hiện ra liên tiếp từ 13 tháng 5 đến 13 tháng 10, đòn hiểm đống vàng bày ra, đạo binh truyền thông la toáng lên "Fatima là trung tâm thương mại buôn thần bán thánh giống hệt Mecca của Hồi Giáo"… Vàng Nazi và thương mại Fatima… Đức Quốc Xã là bọn ăn cướp vàng, Giáo Hội rửa vàng bẩn ra vàng sạch, bán vàng xây tượng đài Đức Mẹ nguy nga tráng lệ để làm thương mại, mỗi năm thu hút 6 triệu khách hành hương. Những thỏi vàng đều mang dấu hiệu của Đức Quốc Xã: "Ingots bearing the German Third Reich insigna."

 

Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang đã dựa trên những cơ sở nào để viết lên đoạn trên? Là một giáo sư sử học trong ngành giáo dục Mỹ, tất cả những điều Giáo sư Quang viết đều có dẫn chứng tài liệu và xuất xứ của tài liệu. Đọc những cuốn sách đã xuất bản của ông, chúng ta có thể kiểm chứng rất dễ dàng và có thể thấy rõ là ông không hề viết vu vơ. Lẽ dĩ nhiên, Giáo sư Quang chỉ có thể đưa ra một số tài liệu điển hình chứ không thể đưa ra hết những tài liệu về cách làm tiền của Vatican. Quý độc giả nào muốn tìm hiểu thêm về các thủ đoạn, phương pháp làm tiền của Vatican, có thể tham khảo vài cuốn sách sau đây: 1) The Vatican Empire (Đế Quốc Vatican) của Nino Lo Bello, Trident Press, New York, 1968; 2) The Vatican Billions: Two Thousand Years Of Wealth Accumulation From St. Peter To The Space Age (Những Tỷ Đô-La Của Vatican: Hai Ngàn Năm Tích Lũy Của Cải Từ Thánh Phê-rô Đến Thời Đại Không Gian) của Avro Manhattan, Butler & Tanner Ltd, London, 1972; 3) In Banks We Trust (Chúng Ta Tin Cậy Vào Những Nhà Băng) của Penny Lernoux, Penguin Books, New York, 1986. Quý độc giả cũng có thể đọc Mục 3: Khủng Khoảng Đạo Lí: Nhân Quả Của Đồng Tiền Tội Ác trong bài Nhìn Vào Trong Sự Khủng Khoảng Của Giáo Hội Gia Tô La Mã trong cuốn Vatican Thú Tội Và Xin Lỗi?, Giao Điểm, 2000, của Nguyễn Văn Hóa để biết thêm xuất xứ của những đồng tiền tội ác của Vatican .

Cuốn The Vatican Empire nói nhiều về sự đầu tư của Vatican vào các công ty, kể cả các công ty liên hệ đến kỹ nghệ chiến tranh (war industries), ngân hàng, thị trường chứng khoán v..v... Cuốn In Banks We Trust cho độc giả biết những sự liên hệ giữa các nhà băng lớn ở Mỹ với CIA, Mafia, những nhà độc tài và buôn ma phiến ở Châu Mỹ La-tinh (relationships between the banks and the CIA, Mafia, and Latin American dictators and drug dealers) và đi thẳng tới Vatican (all the way to Vatican), và Tổng Giám Mục Marcinkus, Giám đốc nhà băng Vatican, đưa Tòa Thánh vào trong kế hoạch tổ chức kinh tài của Phát-xít Ý, Mafia Sicile, và những đội hành quyết ở Mỹ La-tinh (Archbishop Marcinkus involves the Holy City in the schemes of Italian Fascists, the Silician Mafia, and Latin-American death squads). Cuốn The Vatican Billions của Avro Manhattan nói nhiều về những phương pháp tích lũy của cải của Vatican trong suốt dòng lịch sử của Công Giáo. Cuốn này gồm 28 Chương. Không có cách nào chúng tôi có thể viết ra chi tiết nội dung của cuốn này trong một bài viết, cho nên sau đây chỉ là những điểm điển hình rải rác trong 28 chương sách:

- Giáo hội khẳng định có quyền sở hữu của mọi đất đai trong đế quốc La Mã (She claims the ownership of all the territories of the Roman Empire)

- Giáo hội ra lệnh cho các Lãnh Chúa phải đóng tiền cho Giáo hội – Giáo hội khẳng định có quyền sở hữu của mọi đất đai, với tất cả cư dân và của cải trong đó (The Church commands secular rulers to pay her – She claims the ownership of all lands, with all their inhabitants and riches)

- Giáo hội khẳng định có quyền sở hữu mọi hoang đảo và đất đai chưa khám phá ra (The Church claims the ownership of all isles and lands as yet undiscovered)

- Giáo hội tuyên bố Ngày Tận Thế vào năm 1000, gây khủng khoảng sợ hãi cho các tín đồ, tín đồ đưa hết của cải cho Giáo hội. Giáo hội trở nên vô cùng giầu có. Những người lạc đạo là một nguồn để vơ vét thêm của cải (Tịch thu). Rút phép thông công là cách moi tiền. Tố cáo người lân cận để tịch thu tài sản. Sự tham lam và đồi bại trong giới giáo sĩ. (The Church predicts the world would come to an end in the year A.D. 1000. Reaction of a terrorized Christendom- Believers give all their possessions to the Church. The Church becomes immensely rich. Heretics as a source of more wealth – Anathemas and excommunications as means to extract money – Denounce your neighbor to seize his property. Greed and corruption of the clergy.)

- Lên Thiên đường qua ngả Rome (Vatican) .. nhưng hãy trả tiền trước (Go to heaven via Rome...but pay first)

- Tiền phạt khi xưng tội. Tiền đóng cho Giáo hội 10% lợi tức. Giáo hội khẳng định có quyền chiếm 33% tài sản của những “tín đồ Ki-tô chết”. Thu tiền của những người cùi, ăn mày và gái điếm (Fines – in the confessional. The tithes. The Church claims 33% of personal riches of all “dead Christians”. Collects money from lepers, beggars and prostitutes)

- Trả tiền để linh hồn được giải thoát. Mua bằng tiền 1000 năm giải tội, để tránh khỏi Hỏa Ngục và được ngắn hạn trong Ngục Luyện Tội [Cách kiếm tiền vô liêm sỉ này đã đưa đến cuộc cải cách Thệ Phản của Martin Luther] (Pay for the release of a soul – Buy one million years of indulgences, to avoid Hell and shorten Purgatory with money)

- Giáo hội Công Giáo và tài sản khổng lồ của các thuộc địa Tây Ban Nha (The Catholic Church and the fabulous wealth of the Spanish colonies) [Thường là của cải ăn cướp ở các thuộc địa]

- Giáo hội khám phá ra cách làm tiền mới – Phát minh ra những “mề đay tạo phép lạ” – Sự đẩy mạnh “phép lạ lớn nhất trong thế kỷ 19- Phép lạ ở Lộ Đức (The Church discovers new means to make money – The invention of “miraculous medal” – The promotion of the “greatest miracle” of the 19th century – Lourdes.)

- Giáo hội Công Giáo về phe với Phát –xít và Đức Quốc xã (The Catholic Church sides with Fascism and Nazism)

- Giáo hội Công Giáo đầu tư cả tỷ “lire” (tiền Ý) vào địa ốc, thị trường chứng khoán, cổ phần trong chế độ Phát-xít Ý – Tài trợ cho guồng máy kỹ nghệ chiến tranh để kiếm lời nhanh chóng – Đầu cơ đất đai ở Rome và các nơi khác. (The Catholic Church invests her billion lire in real estate, stocks, shares in Fascist Italy – She backs industrial war machinery to make quick profits – Land speculations in Rome and elsewhere)

Trên đây chỉ là một số phương pháp kiếm tiền điển hình của Giáo hội Công Giáo. Những “hoạt động tôn giáo” như trên của Giáo hội Công Giáo khiến chúng ta phải gãi đầu phân vân, không biết đây là Mafia hay là một Tôn Giáo “thánh thiện, duy nhất, tông truyền, mạc khải”? Thật là tội nghiệp cho gần một tỷ người đã sa vào lưới của Vatican vì tin rằng mình đang ở trong một “Hội Thánh”. Họ luôn luôn được nhồi sọ bởi bộ máy tuyên truyền của Giáo hội về những hoạt động giúp đời như giáo dục, từ thiện v..v.., không hề biết đến thực chất những hoạt động này chỉ là những bình phong che đậy những hoạt động mà Vatican không muốn cho ai biết. Thực ra, mặt tôn giáo của Giáo hội Công Giáo La Mã chỉ là lớp sơn phết bên ngoài để mê hoặc đám tín đồ thấp kém nhưng cùng lúc lại nói lên rõ ràng hơn gì hết bộ mặt đạo đức giả của Giáo hội. Giáo hội tuyên bố rằng Giê-su là người thành lập ra Giáo hội, nhưng những hoạt động vơ vét tiền bạc, tài sản v..v.. của giáo hội lại hoàn toàn trái ngược với những lời dạy của Giê-su. Giê-su đã từng nói: “Những con cáo có hang ổ của chúng, những con chim có tổ của chúng, nhưng Ta không có chỗ nào để gối đầu” (Foxes have holes, and the birds of the air have nests, but the Son of Man has nowhere to lay his head) và dạy các đệ tử: “Hãy đi bán những gì các ngươi có để cho người nghèo” (Go, sell whatever thou hast, and give to the poor). Đó là những lời dạy của vị giáo chủ đã lập lên một giáo hội mà Công giáo kế thừa, một vị giáo chủ đã ra lệnh cho giáo hội không được tìm kiếm của cải trên cõi đời mà chỉ là của cải của Nước Chúa (These are the very words of her (the Church) Master, He commanded her (the Church) to seek, not the riches of this world but those of the Kingdom of God). Nhưng hiển nhiên là trong 2000 năm nay, Giáo hội Công Giáo đã làm ngược lại tất cả những lời dạy trên. Tại sao? Vì Giáo hội chỉ là một tổ chức thế tục, lập lên bởi những con người xảo quyệt, ham tiền bạc vật chất, và tất nhiên cũng không tin là có một Nước Chúa. Nước Chúa chỉ là một cái bánh vẽ để nhử các tín đồ thấp kém, một chiêu bài để Giáo hội dựa vào đó mà vơ vét của cải thế gian. Thật đúng như Nino Lo Bello đã viết: “Sức mạnh của Công Giáo được duy trì bởi sự nghèo khổ và ngu dốt của quần chúng.”

trên, chúng ta đã đọc bản tin của ký giả Arthur Spiegelman mà Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang đã trích dẫn, nói về những hoạt động rửa tiền của Vatican, biến tiền bẩn của Đức Quốc Xã, Phát-xít Ý, và Công Giáo Croatia thành tiền sạch qua trung gian nhà băng Vatican. Tin tức mới nhất trên báo chí Mỹ đã chứng thực sự kiện này.

Tin tức báo chí Mỹ ngày 6 tháng 7, 2005, loan tin: William Dorich, giám đốc một nhà xuất bản sách (book publisher) ở Los Angeles, cùng với các luật sư của ông, đã đệ đơn lên một Tòa Án Liên Bang (Federal Court) ở California, nhân danh tập thể kiện (class-action lawsuit) Ngân Hàng Vatican và Dòng Tu Franciscan (Phan-xi-cô) về tội đã giấu các tội phạm chiến tranh của chế độ Công Giáo bạo tàn ở Croatia và giúp cho họ trốn thoát sang Nam Mỹ, đồng thời rửa [có nghĩa là gửi nhưng số tiền bẩn vào trong các nhà ngân hàng chính thức để làm cho chúng trở thành sạch] nhiều triệu đô la ăn cướp tài sản, gồm cả vàng và đồ nữ trang của các tù nhân từ các trại tập trung. Theo Dorich và các luật sư của ông ta thì, ngay sau Đệ Nhị Thế Chiến, nhà băng Vatican, cánh tay kinh tài của Giáo Hội Công Giáo La Mã, đã dùng những tiền trên để giúp cho những tên đao phủ ở Âu Châu trốn sang Nam Mỹ vào năm 1945 và sau đó. Đơn kiện cũng kiện luôn Dòng Tu Franciscan là đã liên minh với chế độ Ustashe ở Croatia để tàn sát người Serbs (theo Chính Thống Giáo)

(Filed in a federal court in California, the class-action lawsuit alleges that immediately after World War II the Vatican bank – the financial arm of the Roman Catholic Church – helped fleeing members of a brutal, pro-Nazi regime in Croatia hide and launder millions of dollars worth of loot, including gold and jewelry taken from concentration camp prisoners. According to Dorich and his lawyers, those riches were used to help the pro-Nazi henchmen slip out of Europe and escape to South America in 1945 and after.

The lawsuit alleges that members of the Franciscan Order were allied with the Ustashe and participated in attacks on Serbs)

Thật ra, đây không phải là một tin mới lạ mà là một biến cố mới lạ: một cá nhân cùng các luật sư, nhân danh tập thể, đã đệ đơn kiện Ngân Hàng Vatican [đã được ngụy trang sau danh xưng Viện Tôn Giáo Vụ (Intitute of Religious Works) về các vụ rửa tiền bẩn và dùng tiền đó để cứu những tội phạm chiến tranh, và Dòng Tu Franciscan của Công Giáo vì đã liên hiệp với chế độ Công Giáo Ustashe ở Croatia để tàn sát dân Serbs.. Có lẽ chúng ta cũng nên biết chút ít về chế độ Ustashe và sự việc ở Croatia trong kỳ Đệ Nhị Thế Chiến.

Nam Tư là một nước trong đó dân Serbs đa số theo Chính Thống Giáo (Orthodox Christianity), thiểu số là dân Croatians theo Công Giáo. Theo sách lược của Vatican ủng hộ Đức Quốc Xã, người Công Giáo là lực lượng nằm vùng, là đội quân thứ Năm của Hitler, đã giúp Hitler thanh toán Nam Tư mau lẹ. Đức chiếm Nam Tư, Pavelic, với sự trợ giúp của Giáo Hoàng Pius XII, đứng ra lập chế độ Ustashe Công Giáo Croat, tuyên bố Công Giáo là quốc giáo, và bắt đầu thi hành chính sách cố hữu của Công Giáo: ra luật bắt tất cả dân Serbs phải cải đạo vào Công Giáo, đốt nhà thờ Chính Thống, và giết những người Chính Thống không chịu cải đạo. Kết quả, trên 700000 (bảy trăm ngàn) dân Serbs bị tàn sát: phanh thây, móc tim, cắt cổ, chôn sống, dồn nhốt nhiều dân Serbs vào nhà thờ Chính Thống rồi đốt nhà thờ v..v... Đặc biệt là trong vụ tàn sát vô tiền khoáng hậu này, có nhiều Linh Mục, Giám Mục Công Giáo nhúng tay vào. Linh mục làm trưởng trại giam, đích thân cắt cổ, chôn sống, thiêu sống v..v..tàn sát dân Serbs. Khi Đức Quốc Xã sắp thua vào cuối năm 1944 đầu năm 1945, một số chức sắc cao cấp trong chế độ Ustashe đã chạy trốn, cũng như nhiều tội phạm chiến tranh Đức Quốc Xã, được Vatican dùng các cơ quan từ thiện như Cariatas International, Red Cross làm căn cước giả, cấp thông hành giả, ẩn náu trong các tu viện Công Giáo, và chờ dịp chuồn sang Nam Mỹ theo “đường giây chuột cống” (Ratlines) của Vatican. Vì vậy mới có vụ kiện Ngân Hàng Vatican và Dòng Franciscan ngày nay.

Sự tàn sát hơn 700.000 (7 trăm ngàn) dân Serbs bởi chế độ Công Giáo Ustashe đã được Avro Manhattan viết rõ trong cuốn The Vatican’s Holocaust, Ozark Books, Springfield, MO., 1986, dày hơn 200 trang, với rất nhiều hình ảnh về những tội ác của Ustashe. Những tội ác của chế độ Công Giáo Ustashe thật quá dã man, ngoài sức tưởng tượng của con người. Chúng ta không thể tưởng tượng là những con cái Chúa, được Chúa dạy phải thương yêu người lân cận như chính mình lại có thể độc ác đến mức như vậy. Sau đây là một số lời ghi dưới những hình ảnh dùng làm tài liệu trong cuốn The Vatican’s Holocaust của Avro Manhattan về sự liên hệ của Giáo hội Công Giáo với chế độ Công Giáo Ustashe và những tội ác của chế độ này ở Croatia:

Hình ở trang 21 -TGM Stepinac, bên cạnh Quân Đội của chế độ Ustashe

Hình ở trang 26 - Tổng Giám Mục Stepinac chụp chung với Tướng Roata

Hình ở trang 27 - Ante Pavelic

- Trang 21: Hình Tổng Giám Mục Stepinac, đại diện của Tòa Thánh bên cạnh Quân Đội của chế độ Ustashe, đứng đầu hội đồng giám mục Croatian và Ủy Ban thi hành chính sách cưỡng bức cải đạo (Stepinac was not only the Head of the Council of Croatian Bishops and of the Committee which carried out a policy of forcible conversions, he was none other than the Supreme Military Apostolic Vicar of the Ustashe Army)

- Trang 23: Ngày 28 tháng 4, 1941, Stepinac ban lệnh cho giới linh mục Croatian ủng hộ quốc gia mới Ustashe, và cảm tạ thiên chúa toàn năng vì đã thiết lập được chế độ độc tài Ustashe (On April 28, 1941, Stepinac issued a Pastoral Letter ordering the Croatian clergy support the new Ustashe State, and thanks to the Almighty for the establishment of the Ustashe dictatorship)

- Trang 26: Hình Tổng Giám Mục Stepinac chụp chung với Tướng Roata, chỉ huy lực lượng phát-xít chiếm đóng Nam Tư, Tướng Slavko Kvaternik, Chỉ Huy quân đội Ustashe, và vị Tổng Chỉ Huy lực lượng Đức chiếm đóng Nam Tư (From right to left: Archbishop Stepinac; General Roata, Commander of the Fascist forces of occupation in Yugoslavia; Field Marshal Slavko Kvaternik; and the Commander of the German forces of occupation in Croatia)

- Trang 27: Hình Ante Pavelic, người lập lên quốc gia Công giáo Croat và thi hành chính sách khủng bố, chính trị cực đoan, và cuồng tín tôn giáo. Được sự bao che của Giáo Hoàng Pius XII, người đã giúp hắn ta tài chánh qua đường lối ngoại giao để hắn thực hiện mục tiêu. Khi chế độ Ustashe sụp đổ, Pavelic trốn trong Vatican rồi giả dạng làm một linh mục, chuồn sang Á Căn Đình (Ante Pavelic, the creator and leader of the independent Catholic State of Croatia. He employed terrorism, political extremism and religious fanaticism.. He enjoyed the protection of Pope Pius XII, who helped him via diplomatic and monetary to achieve his ultimate objective. When Ustashe Croatia collapsed, Pavelic hid at the Vatican, then, disguised as a priest, fled to the Argentine)

- Trang 34: Hình bản sao tài liệu gốc về luật của Bộ Tư Pháp và Tôn Giáo Croat, bắt buộc mọi viên chức chính phủ theo Chính Thống phải cải đạo sang Công Giáo. Từ chối sẽ bị cất chức ngay, tài sản bị tịch thu, hoặc bị bắt giữ. Thường là bị cả ba. (A copy of the original document dealing with the conversion to the Catholic Church of all Orthodox persons employed by the Government, issued in Zagreb by the Ministry of Justice and Religion. Everyone had to be or to become a Catholic. Refusal meant instant dismissal, loss of property, or arrest. And, very often, all three.)

Hình ở trang 34 - tài liệu bắt buộc mọi viên chức chính phủ theo Chính Thống phải cải đạo sang Công Giáo

Hình ở trang 35 - cuộc hành quyết tập thể ở Brode bởi Ustashe

Hình ở trang 38: Một người Serb bị ném sống xuống hố chôn tập thể ở tại tập trung Jasenovac

- Trang 35: Hình một cuộc hành quyết tập thể ở Brode bởi Ustashe, đầu năm 1941, dưới sự chứng kiến của binh sĩ Nazi (A mass execution carried out by the Ustashe at Brode, early in 1941. Nazi troops looking at the victims)

- Trang 38: Hình một người Serb bị ném sống xuống hố chôn tập thể ở tại tập trung Jasenovac. Trong thời dưới quyền của một linh mục dòng Franciscan, Linh mục Filipovic, những sự khủng khiếp trong trại này thì tương đương với trại tập trung Dachau (của Nazi). (An Orthodox Serb being thrown alive into a mass grave in the notorious concentration camp of Jasenovac, in 1942. The camp, when run by the Franciscan Monk, Father Filipovic, equalled in horrors Dachau Concentration Camp)

- Trang 39: Hình thây những đứa trẻ chết đói trong trại Jasenovac dưới quyền của linh mục Filipovic. Theo sự cố vấn của Linh mục D. Juric, Linh mục Filipovic đã để cho trên 2000 (2 ngàn) trẻ em Chính Thống chết đói dưới sự cai quản của ông ta (Corpses of children starved to death in the notorious concentration camp of Jasenovac, whose Commandant was a Franciscan monk, Father Filipovic. Father Filipovic, following the advice of Father D. Juric, let more than 2000 other Orthodox children die while the camp was still under his rule)

- Trang 46: Hình Ustashe cắt cổ một trong số nạn nhân Serb theo Chính Thống. Hãy để ý có một Ustashi khác cầm cái bát hứng máu để cho máu khỏi bắn ra làm nhơ quân phục. Tội ác tàn bạo này – một trong nhiều tội ác khác – xảy ra gần Cajnice, năm 1943 (Ustashi cutting the throat of one of their Serbisn Orthodox victims. Notice a Ustashi is holding a vessel to collect the first spurt of blood and thus prevent their uniform from being blood stained. The brutal crime – one of many – took place near Cajnice in 1943.)

Hình ở trang 39: Hình thây những đứa trẻ chết đói trong trại Jasenovac dưới quyền của linh mục Filipovic

Hình ở trang 46: Hình Ustashe cắt cổ một nạn nhân Serb theo Chính Thống

Hình ở trang 50 - những người Serbs bị Ustashi treo cổ tập thể.

- Trang 50, 51, và 53: Hình những người Serbs bị Ustashi treo cổ tập thể.

- Trang 67, 68, và 69: Hình các linh mục làm lễ cải đạo đám đông dân Serbs. Avro Manhattan viết: Các linh mục Công Giáo không ngần ngại thủ tiêu những người chống lại lệnh cải đạo. Linh mục Dragutin Kamber, một linh mục dòng Tên, ralệnh giết 300 người Serbs Orthodox ở Doboj. Linh mục Branimir Zupanic, ra lệnh giết hơn 400 người trong một làng: Ragolje. Linh mục Srecko Peric, hô hào giết người tập thể như sau: ‘Hãy giết hết dân Serbs. Và khi giết xong hãy tới đây, vào nhà thờ, Ta sẽ nghe lời xưng tội và tha tội cho cho các con” Vì những lời này mà trên 5600 dân Serbs Orthodox bị giết ở quận Livno. (Father Dragutin Kamber, a Jesuit priest, ordered the killing of 300 Orthodox Serbs in Doboj. Father Branimir Zupanic, had more than 400 people killed in one village alone: Ragolje. Father Srecko Peric advocated mass murder with the following words: “Kill all Serbs. And when you finish come here, to the Church, and I will confess you and free you from sin”. This resulted in a massacre, on August 10, 1941, during which over 5600 Orthodox Serbs in the district of Livno lost their lives)

Hình ở trang 53 - Cảnh khác, những người Serbs bị Ustashi treo cổ tập thể.

Hình ở trang 67, 68 - linh mục làm lễ cải đạo đám đông dân Serbs

Trên đây chỉ là một phần những hình ảnh điển hình trong 7 chương đầu của cuốn The Vatican’s Holocaust, gồm tất cả 24 chương. Trong cuốn sách còn có rất nhiều hình ảnh khác về sự liên hệ của Vatican với chế độ Ustashe và về những tội ác của những người Công Giáo Croat, gồm cả các giám mục và linh mục, những hình ảnh rùng rợn không thể tưởng tượng được. Đặc biệt là Avro Manhattan viết chương 23 với đầu đề:

VIETNAM: THE CROATIA OF ASIA.

So sánh chế độ Ngô Đình Diệm ở Nam Việt Nam với chế độ Ustashe ở Croatia là một sự so sánh quá mức. Nhưng tác giả chỉ muốn nói lên một điều là bất cứ ở đâu mà Công Giáo lên cầm quyền thì ở đó sẽ xảy ra chuyện kỳ thị tôn giáo và cưỡng bách cải đạo. Chính quyền Ngô Đình Diệm không đến nỗi tàn bạo như chế độ Ustashi, nhưng trong 9 năm dưới triều Công Giáo Ngô Đình Diệm, không phải là không có chuyện ép buộc cải đạo, giết người ngoại đạo, tổng số nạn nhân lên tới 300000 [3 trăm ngàn] người, vu khống là Việt Cộng để chiếm đoạt tài sản, và các tổng giám mục, giám mục, linh mục Công Giáo tự tung tự tác, tác oai tác quái, cướp đất của dân, độc quyền kinh tế v..v...

Về vấn đề Vatican giúp các tội phạm chiến tranh Đức và Croatians, dùng các cơ quan từ thiện Caritas International và Red Cross để làm căn cước giả, thông hành giả, và cho các tội phạm này ẩn náu trong các tu viện Công Giáo và ngay trong Vatican thì Chính Phủ Mỹ đã biết từ lâu, nhưng có vẻ như Mỹ cũng dính líu chút ít vào những vụ này cho nên không làm to chuyện. Nhưng John Loftus, môt luật sư của Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ, chuyên viên truy tầm các tội phạm chiến tranh trong Đệ Nhị Thế Chiến, đã khai quật một chút những tài liệu được xếp vào loại bảo mật này.

Kết quả điều tra của John Loftus và Mark Aarons là cuốn Ba Ngôi Tội Lỗi (Unholy Trinity), xuất bản năm 1990, đưa ra nhiều chi tiết về những hoạt động hậu chiến của Vatican để giúp những tội phạm chiến tranh đào thoát. Sau đây là một đoạn trong cuốn Công Giáo Chính Sử, Giao Điểm, 1999, trang 274-279, của Trần Chung Ngọc, dựa vào tài liệu trong cuốn Unholy Trinity:

Tưởng chúng ta cũng nên biết thêm một sự kiện về những tổ chức "từ thiện" của Vatican. Báo chí và TV Âu Mỹ đã phanh phui ra vụ Vatican dùng những cơ quan từ thiện như Caritas International, Red Cross và một số tu viện làm những đường giây gọi là "Giây chuột" (Ratlines) với những dịch vụ như cấp căn cước giả, thông hành giả cho nhiều tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã ẩn náu trong các tu viện chờ cơ hội chuồn sang Nam Mỹ, phần lớn là sang Á Căn Đình (Argentina).

Theo tài liệu trong cuốn Ba Ngôi Tội Lỗi (Unholy Trinity) của Mark Aarons và John Loftus thì trong số những tội phạm chiến tranh này chúng ta có thể kể Franz D. Paul Stangl, chỉ huy trưởng trại thủ tiêu tập thể Treblinka, trong đó tới 900000 người, phần lớn là Do Thái, bị giết bằng hơi độc; Gustav Wagner, chỉ huy trưởng trại diệt chủng khác, trại Sobibor ở Ba Lan; Aloi Brunner, một sĩ quan cao cấp tàn ác nhất trong chương trình "đem đi dầy và thủ tiêu" dân Do Thái; và nhất là Adolf Eichmann, người đứng đầu "một giải pháp cho dân Do Thái" (a solution for the Jews), nghĩa là, tận diệt dân Do Thái (extermination of Jews), cấp chỉ huy của Stangl, Wagner, và Brunner. Người đứng đầu tổ chức những đường "giây chuột" này mới đầu là Giám mục Alois Hudal ở Rô Ma (Rome), sau được tiếp nối bởi Linh mục Krunoslav Draganovic, có trụ sở ở Rome.. Franz Stangl bị Simon Wiesenthal săn lùng và cuối cùng bị bắt ở Ba Tây (Brazil) năm 1967. Ra tòa, Stangl khai rằng:

"Trong thời gian chúng tôi ở trại tập trung (của quân đội đồng minh), chúng tôi đã biết là phải đi tới Rome...Những tín đồ Gia Tô phải liên lạc với Giám mục Hudal, người sẽ cho chúng tôi một thẻ căn cước của cơ quan Hồng Thập Tự quốc tế và rồi một giấy nhập cảnh.

... Sau nhiều tuần, Hudal gọi tôi tới và cho tôi một sổ thông hành mới - một sổ thông hành của cơ quan Hồng Thập Tự...ông kiếm cho tôi một giấy nhập cảnh vào Syria và một công việc trong một hãng dệt ở Damascus.."

(During the time we were in the internment camps we knew that we should go to Rome... Catholics should go to Bishop Hudal who would give us an International Red Cross Identity card and then a visa.

...After several weeks, Hudal called me in and gave me my new passport - a Red Cross Passport...he got me an entrance visa to Syria and a job in a textike mill in Damascus..)

Wiesenthal tin rằng Eichmann được Hudal làm cho một căn cước giả, dẫn đi chui tới Genoa, ở trong một tu viện của Tổng Giám mục Siri, và rối trốn sang Nam Mỹ. Nhưng rồi Eichmann cũng bị tình báo Do Thái truy lùng và kiếm ra nơi ẩn náu. Hắn bị Do Thái bắt cóc ở Argentina, mang ra xử và bị hành quyết tại Jerusalem năm 1962. Điều làm cho Wiesenthal giận dữ là một cơ quan cứu trợ từ thiện Công Giáo, Caritas, "đã đài thọ mọi phí tổn để Eichmann đi chui tới Nam Mỹ." (What angers Wiesental is that a Catholic relief organization, Caritas, "paid all of the expenses for Eichmann" to reach South America.)

Quý độc giả nào muốn biết thêm chi tiết về những cơ quan "từ thiện" của Gia Tô giáo xin đọc cuốn sách trên, một cuốn sách dày 372 trang mô tả chi tiết về những hoạt động của Vatican trong kế hoạch "từ thiện, bác ái" để "cứu" những phạm nhân chiến tranh Đức Quốc xã và các viên chức cao cấp trong chế độ Ustashe.

Trong phần kết luận, hai tác giả Aarons và Loftus đã lên án Vatican phạm bốn tội đối với nhân loại, trg. 280-285:

1) Những tội ác chống hòa bình (Crimes Against Peace); 2) Ngăn Cản Sự Thực Thi Công Lý (Obstruction of Justice); 3) Thu nhận những đồ ăn cắp (Receiving Stolen Goods); và 4) Lạm dụng đặc quyền ngoại giao (Abuse of Diplomat privileges).

Sau đây là một đoạn ngắn dưới đề mục 2): Ngăn Cản Sự Thực Thi Công Lý, trg. 282:

"Những gì mà Giáo hoàng làm sau cuộc chiến còn tệ hơn là không làm gì cả. Thay vì đưa những người Do Thái vô gia cư sang Á Căn Đình, thì những “đường giây chuột cống” lại đưa lén Eichmann, Pavelic, Stangl và nhiều tội phạm khác sang đó. Thay vì tố cáo Giám mục Hudal thì Vatican lại thay thế ông bằng Linh mục Draganovic, một nhân vật ít bị người ta chú ý tới, nhưng lại hoạt động hữu hiệu hơn...

Những gì mà Vatican làm sau Đệ Nhị Thế Chiến là một tội ác. Bằng chứng rõ rệt cho thấy: Tòa Thánh đã giúp những tội phạm chiến tranh trốn khỏi công lý quốc tế. Những “đường giây chuột cống” đã được cố ý tạo ra để giúp đỡ và tiếp tay cho những tội phạm chiến tranh Đức quốc xã đang bị truy lùng trốn thoát. Người ta đã biết từ lâu, trước năm 1945, là Hudal ủng hộ Đức Quốc xã, nhưng hắn vẫn ở tại vị thế có nhiều ảnh hưởng rất lâu sau khi bị công luận phanh phui. Người kế vị Hudal, Linh mục Draganovic, được nhiều cơ sở tôn giáo giúp đỡ, in những thẻ căn cước giả, dùng sổ thông hành của Hội Hồng Thập Tự với những lý do gian dối, và cung cấp phương tiện di chuyển dưới những tên giả. Những việc trên không phải là những hoạt động từ thiện Ki Tô. Sự đưa lén những tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã đi trốn là sự lạm dụng vô luân những cơ quan từ thiện hợp pháp của Giáo hội."

(What the Pope did after the war was worse than doing nothing. Instead of smuggling homeless Jews to Argentina, the Ratlines smuggled Eichmann, Pavelic, Stangl, among many others. Instead of denouncing Bishop Hudal, the Vatican replaced him with a less conspicuous, but far more efficient and effective operative in the form of Father Draganovic.

What the Vatican did after World War II was a crime. The evidence is unequivocal: the Holy See aided the flight of fugitives from international justice. The Rat lines were intentionally created to aid and abet the escape of wanted Nazi war criminals. Hudal was known for his Nazi affinitieslong before 1945, yet retained his influential position long after he was publicly exposed. His successor, Father Draganovic, was assisted by several religious orders which printed false identity cards, procured Red Cross passports under false pretences, and provided transport under false names. These were not acts of Christian charity. The clandestine Nazi-smuggling immorally misused the Church's legitimate charitable organizations.)

 

◄ ● ►

 

Qua những tài liệu vừa trình bày ở trên, chúng ta có thể rút tỉa ra những điều gì? Theo chúng tôi thì:

1. Thực chất Giáo hội Công Giáo La Mã không phải là một tôn giáo mà nặng về chính trị và thế tục. Sức mạnh của Công Giáo nằm trong đống tài sản khổng lồ của Vatican và nằm trong tuyệt đại đa số tín đồ được nuôi dưỡng trong vòng ngu dốt.

2. Thực lực thực sự của Vatican không như người ta thường tưởng. Trong vụ phong Thánh, Trung Quốc mới lên tiếng, Vatican đã vội vàng phải xin lỗi.

3. Vatican đang suy thoái ở phương trời Âu Mỹ và đang có kế hoạch cải đạo Á Châu để kiếm tín đồ và từ đó thu lợi vật chất. Hai quốc gia Vatican nhắm tới hiện nay là Trung Quốc với hơn một tỷ dân, và Việt Nam trong đó đã có sẵn 7% giáo dân nằm vùng sẵn sàng hành động theo kế hoạch của Vatican.

4. Vatican luôn luôn chủ trương không đội trời chung với Cộng Sản và luôn luôn mưu đồ để phá đổ Cộng Sản với mọi thủ đoạn, kể cả các thủ đoạn nhân nhượng, khép mình, và ve vuốt.

5. Một khi Công Giáo nắm được chính quyền rồi thì các lực lượng phi Công Giáo sẽ khốn khổ với Công Giáo, khoan kể đến Cộng Sản sẽ đương nhiên bị diệt tận gốc.

6. Với tài sản hiện nay của Vatican, Vatican có thể bỏ ra vài trăm triệu hay cả tỷ đô la không khó khăn gì để chiêu dụ qua những hứa hẹn viện trợ, giúp đỡ giáo dục, mở trường học v..v.. Nhưng mưu đồ chính của Vatican là mở rộng các vòi bạch tuộc để nắm giữ quần chúng và chính quyền. Báo chí Mỹ cho biết Giáo hội Công Giáo đã bỏ ra từ 2 đến 3 tỷ đô-la để bồi thường cho các nạn nhân bị các linh mục loạn dâm.

7. Cách hữu hiệu nhất để chống lại những âm mưu của Vatican là mở mang dân trí. Những tài liệu nghiên cứu về lịch sử và những hoạt động buôn thần bán thánh của Vatican phải được phổ biến rộng rãi trong quần chúng.

8. Quần chúng phải được dạy về những hiểm họa của Ki-tô Giáo nói chung.

9. Quần chúng phải được dạy về những khám phá khoa học và những sự kiện khoa học khám phá ra về vũ trụ và nhân sinh.

10. Quần chúng phải được dạy về chủ trương nhân chủ và nhân bản của Tam Giáo.

11. Hãy hết sức thận trọng, đắn đo trong toan tính “đánh đu với tinh”.

 

Trần Chung Ngọc

10/2010