| ngày 18 tháng 1, 2009 |
Toàn bài: 1 2 3 4 5
Bàn về Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân Quyền
Sau đây tôi sẽ điểm qua vài điều trong bài của ông Chu Tấn.
Ông Chu Tấn viết:
Hiện nay “Độc Tài Cộng Sản” và “Khủng Bố” là 2 “quốc tế
nạn” của chung nhân loại, trong dó có các tôn giáo, thường là nạn nhân trực
tiếp, nên hơn lúc nào hết các tôn giáo trên thế giới cần hòa đồng, hiệp thông để
cùng tranh đấu cho quyền Tự Do Tôn Giáo và tranh đấu Nhân Quyền cho tất cả mọi
người như bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền mà Liên Hiệp Quốc đã đã long trọng
công bố và ban hành năm 1948.
Tôi cho rằng đây là câu chống Cộng hơi rẻ tiền. Ông Chu
Tấn nên vắt tay lên trán suy nghĩ xem Giáo hội Công Giáo La Mã có phải là một
định chế độc tài phi dân chủ phi nhân quyền hay không trước khi nói đến Cộng sản
song song với khủng bố. Nếu Cộng sản là “quốc tế nạn” thì tại sao các nước khác
trên thế giới, Mỹ và rất nhiều nước khác trong thế giới Tây phương, đều có liên
lạc ngoại giao với Cộng sản Tàu và hàng hóa sản xuất từ Tàu tràn nhập nước Mỹ.
Đối với “Cộng sản” (sic) Việt Nam thì ngay chính Vatican cũng xun xoe muốn thiết
lập ngoại giao với “Cộng sản” (sic) Việt Nam, và đã mấy lần bị Việt Nam từ
chối. Riêng ở Việt Nam, vì cái khúc mắc lịch sử của Công giáo đối với dân tộc,
không làm gì có chuyện các tôn giáo khác hòa đồng, hiệp thông với Công giáo để
tranh đấu cho Tự Do Tôn Giáo và Nhân Quyền theo cái hiểu rất hẹp hòi và đạo đức
giả của Công giáo.
Trong vụ Tòa Khâm Sứ Hà Nội và Giáo xứ Thái hà gần đây có
thấy tôn giáo nào khác hòa đồng và hiệp thông với Công giáo để tranh đấu cho
những hành động phi luật pháp của Công giáo dưới mỹ danh tranh đấu cho tự do tôn
giáo và nhân quyền, tự do tôn giáo của một ông Linh mục có những hành động côn
đồ và chửi tục trong Tòa như Nguyễn Văn Lý, hay tự do tôn giáo của TGM Ngô Quang
Kiệt xúi bậy giáo dân vác búa, kìm, và xà beng đi cầu nguyện ở Tòa Khâm sứ?
Trái lại, chỉ thấy người dân lên tiếng than phiền, chê trách những hành động vô
lối đượm nhiều tính cách phi dân tộc của Công giáo.
Nếu ông Chu Tấn đã nhắc đến bản Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân
Quyền của Liên Hiệp Quốc thì ông phải biết rằng:
Điều 18 trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền quy định
quyền tự do tôn giáo, nghĩa là quyền tin vào giáo lý, sự thực hành, thờ phụng
và lễ tiết (belief in teaching, practice, worship and observance) của con
người. Quyền tự do tôn giáo, quy định như trên, và quyền tự do chửi lộn trong
Tòa hay tự do cầu nguyện ở những nơi công cộng với búa, kìm, và xà beng là hai
quyền khác nhau.
Tôi xin hỏi, ở Việt Nam có ai cấm người dân đi lễ nhà thờ
hay đi lễ Chùa hay không? Vậy tự do tôn giáo là của ai, của mấy ông Linh mục
hay ông sư làm chính trị phá rối xã hội, nhiều khi dưới sự chỉ đạo từ ngoại
quốc? Mặt khác, ông Chu Tấn cũng không hiểu là bản Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân
Quyền mà Liên Hiệp Quốc công bố năm 1948 có giá trị phổ quát hay không, và thực
chất giá trị của nó trong cộng đồng thế giới là như thế nào.
Nhưng thực chất bản Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân Quyền của Liên
Hiệp Quốc là như thế nào? Chúng ta có thể đọc hai tài liệu sau đây:
Theo Mary E. Williams thì Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân
Quyền là một tài liệu mơ hồ không rõ ràng, không có tính cách bắt buộc pháp
lý (Mary E. Williams, Human Rights, p. 16: declarations are not legally
binding; và theo Robert W. Lee trong The United Nations Conspiracy,
p.101, thì cũng vậy: the UN later adopted its vague, non-binding Declaration of
Human Rights), nghĩa là các quốc gia không có bổn phận phải thi hành những điều
khoản trong Bản Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân Quyền.
Bởi vậy mà một số lãnh tụ Á Châu, như Thủ Tướng Mã Lai
Mahathir Mohamad, gần đây đã cho rằng Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền là sản
phẩm của những quốc gia Tây phương, không hiểu gì về các xã hội Đông phương, có
tính cách xâm lược văn hóa của chính sách đế quốc Tây phương (Some Asian
leaders, like Malaysian Prime Minister Mahathir Mohamad, denounce it (the
Declaration) as Western cultural imperialism), và đề nghị phải duyệt lại bản
Tuyên Ngôn Nhân Quyền này. Và Doug Cassel cho rằng: “Cho tới ngày nay, đường
đi tới sự thực hiện bản Tuyên Ngôn trên bình diện quốc tế vẫn còn xa lắc, xa
lơ?” (Doug Cassel: "The Universal Declaration still is a long way from
universal reality"). Doug Cassel là Giám Đốc Trung Tâm Nhân Quyền Quốc Tế
tại đại học Northwestern, Illinois.
Phân tích toàn bộ bản Nhân Quyền chúng ta thấy có nhiều
điều khoản mâu thuẫn nhau, không thể thực thi, và trên thực tế, 3 cường quốc có
quyền phủ quyết tại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, cầm đầu trong việc đưa ra bản Nhân
Quyền: Anh, Pháp, Mỹ, lại là những nước vi phạm nhân quyền nhiều nhất. Đây là
một bản văn dùng để ép những nước nhược tiểu phải theo những quy định về quan
niệm nhân quyền rất nhỏ hẹp của Tây phương mà bỏ qua vấn đề khác biệt của các
nền văn hóa khác nhau trong cộng đồng quốc tế với những quan niệm về nhân quyền
khác nhau..
Thật vậy, Walter J. Rockler, nguyên công tố viên tòa án
xử tội phạm chiến tranh Nuremberg, đã viết như sau về quan niệm nhân quyền của
Mỹ:
"Cái mà chúng ta gọi là quan tâm đến nhân quyền thật
là lố bịch. Chúng ta đã thả xuống Việt Nam một số lượng bom gấp đôi số lượng
bom mà các quốc gia liên hệ đến cuộc Đệ Nhị Thế Chiến thả lên đầu nhau. Trong
cuộc chiến này, chúng ta đã giết hàng trăm ngàn thường dân. Ngay gần đây, chúng
ta bảo trợ, huấn luyện và ủng hộ những đoàn quân địa phương của Guatamala, El
Salvadore, và Nicaragua Contras ở Trung Mỹ, trong sự tàn sát ít nhất là 200 ngàn
người..."
(Our alleged concern with human rights borders on the
ludicrous. We dropped twice as many bombs on Vietnam as all the countries
involved in World War II dropped on each other. We killed hundreds of thousands
of civilians in the course of that war. Very recently, in Central America, we
sponsored, trained, and endorsed the local armies - Guatemalan, Salvadoran, and
Nicaraguan Contras - in the killing of at least 200000 people.)
Và Robert Scheer cũng viết như sau trên tờ Times:
"Chẳng phải là chúng ta có một lịch sử "diệt chủng"
hay sao, mới đầu là thổ dân Mỹ, và sau là ở Việt Nam, khi quân đội Hoa Kỳ lùa
những dân làng trung thành, hầu hết là Công Giáo, vào sống an toàn trong những
Ấp Chiến Lược, trong khi biến những vùng Phật Giáo ở thôn quê Nam Việt Nam
thành những vùng tự do thả bom một cách toàn diện?"
(Don't we have our own history of "ethnic cleansing",
first of the Native American population and later in Vietnam, when U.S. troops
herded loyal, mostly Catholic villagers into so-called "strategic hammers" for
safety while turning the mostly Buddhist countryside of South Vietnam into a
saturation bombing zone?)
Tại sao các ông không chịu nghiên cứu cho cẩn thận mà cứ
hay viết bậy về những điều mình không hiểu rõ.
Bàn Về Lợi Ích Của Hòa Đồng Tôn Giáo
Tôi không có thì giờ để đi vào việc phân tích chi tiết từng
điểm một trong bài của ông Chu Tấn. Những hiểu biết của ông ta về các tôn giáo
Đông phương rất hời hợt và cứ luôn luôn nhập nhằng vào những điều hoang đường
trong Ki Tô Giáo. Sau đây tôi chỉ trích ra vài điểm và ghi bên cạnh một nhận
xét ngắn.
Trong phần II, viết về 10 Ích Lợi Chính Của Hòa Đồng Tôn
Giáo, ông Chu Tấn viết:
7. -Tạo nên sức mạnh chung để cùng tranh đấu chống lại các chế
độ độc tài dù là độc tài trắng (như độc tài quân phiệt Miến Điện) hay độc tài Đỏ
(Cộng Sản) [Thế còn độc tài Đen, ông vứt đi đâu?. TCN]
9. -Theo đúng Thiên ý (Luật Trời) Theo đúng Pháp Tánh ( Dharma
của Phật) và đẹp lòng Thiên Chúa [Thiên ý là cái gì, ai biết được Thiên ý? Nếu
là luật trời, phải chăng đó là luật vạn vật hấp dẫn? Ông biết gì về “Pháp
Tánh”? Dharma là Pháp Tánh? Làm sao ông biết là hòa đồng tôn giáo sẽ làm đẹp
lòng Thiên Chúa. Ông có đọc Thánh Kinh chưa? TCN]
Trong phần III, viết về Nền Tảng Để Tạo Hòa Đồng Tôn
Giáo, ông Chu Tấn viết:
Tuy đa phần các tôn giáo đều có vị Giáo Chủ riêng, tín
lý riêng, cách thờ phụng riêng, cách hành đạo và truyền đạo riêng, phong tục tập
quán cũng thường khác nhau… Nhưng xuyên qua những khác biệt về giáo lý hay nghi
thức, vẫn có những điểm chung. Chính vì có các điểm chung này mà chúng ta có thể
coi đó là nền tảng của sự nghiệp Hòa Đồng Tôn Giáo” như sau:
1. -Tôn giáo nào cũng dạy cho con người trở nên tốt lành:
Đây là ý kiến của đa số người bình dân khi bàn đến tôn
giáo này hay tôn giáo kia đã nói lên mục đích ý hướng của tất cả các tôn giáo là
đều khuyên con người ăn hiền ở lành, làm lành lánh dữ, lánh xa việc xấu ác!
Nếu Tôn giáo nào cũng dạy cho con người trở nên tốt lành
thì ông Chu Tấn hãy trả lời cho tôi câu hỏi tôi đã nêu trên: (câu hơi dài, muốn ngắn gọn, xin nối các đoạn chữ màu đỏ sau đây)
Tại sao Giáo hội Công giáo La Mã thường tự nhận là do chính Chúa thành
lập, thường tự xưng là "thánh thiện", “tông truyền”, “duy nhất”, là "ánh sáng
của nhân loại", quán quân về "công bằng và bác ái", được "thánh linh luôn luôn
hướng dẫn" v…v… lại có một lịch sử ô nhục đẫm máu nhất trên thế
gian, mang trên bờ vai trên dưới 200 triệu sinh mạng vô tội gồm già trẻ lớn bé
qua những tội ác vô tiền khoáng hậu trong suốt 2000 năm nay đối với nhân loại như những cuộc Thập Ác Chinh, những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo, những cuộc săn lùng
và thiêu sống phù thủy, sử dụng những hình cụ tra tấn man rợ nhất trong lịch sử
loài người, với chính sách bách hại người Do Thái, kỳ thị phái nữ, làm tiên
phong hay theo gót thực dân để truyền đạo v.. v.. đến nỗi chính giáo hoàng John
Paul II đã phải xưng thú trước thế giới 7 núi tội ác của Công Giáo La Mã đối với
nhân loại, trong khi các tôn giáo Đông Phương như Thích, Nho, Lão, ra đời trước
Công Giáo cả 5,6 trăm năm nhưng không hề làm đổ một giọt máu trong suốt lịch sử
truyền đạo của mình ??
Vậy thì có cái gì trục trặc trong cái mà ông cho là, như
mọi tôn giáo khác, Công giáo cũng dạy cho con người trở nên tốt lành.
Thật ra, dạy cho con người trở nên tốt lành không
phải là điểm đặc thù của bất cứ tôn giáo nào mà là điểm chung trong dân gian.
Không có bậc cha mẹ nào, dù là vô thần hay hữu thần, lại dạy con cái mình “làm
ác tránh lành”. Không cứ trong các tôn giáo, mà trong dân gian cũng có một số
điểm về phương diện đạo đức xã hội tương đồng với một số điểm trong bất cứ một
tôn giáo nào. Vậy có một số điểm giống nhau trong các tôn giáo không phải là
điều lạ. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta có thể mang vài điều tương
đồng vụn vặt giữa Phật Giáo và một tôn giáo nào khác để mà đi đến kết luận là
hai tôn giáo có chung những điểm hội tụ và đó chính là nền tảng hòa đồng tôn
giáo. Chúng ta hãy lấy một thí dụ về những điều mà các tín đồ Ki-tô Giáo thường
ca tụng là tuyệt vời của Chúa Giê-su về xã hội, về đạo đức, gọi chung là giáo
pháp của Giê-su mà không hề để ý đến những mâu thuẫn trong đó. Đối với những
người đã đọc kỹ Kinh Thánh và biết đôi chút về các nền văn hóa khác nhau trên
thế giới thì khó có ai có thể phủ bác nhận định sau đây của Joseph L. Daleiden,
một học giả Công giáo, trong cuốn The Final Superstition, trg. 174:
"Có rất ít, nếu có, điều sáng tác độc đáo trong giáo
pháp mà người ta cho là của Giê-su. Giống như chính huyền thoại về
Giê-su, những quan điểm mà Giê-su diễn đạt chỉ là một mớ hổ lốn những ngụ
ngôn và luân lý mà chúng ta có thể thấy trong những đạo cổ xưa của Ai Cập,
Babylon, Ba Tư, Hi Lạp, Phật, Khổng, Ấn Độ... Một điều rõ ràng: Ki Tô
Giáo, một tôn giáo sinh sau đẻ muộn trong lịch sử các tôn giáo, chỉ cóp nhặt
những quan điểm, ý kiến của Do Thái Giáo và các tôn giáo gọi là dân gian. Trong
cuốn Nguồn Gốc Luân Lý Trong các Phúc Âm, Joseph McCabe (Một Linh Mục
Công giáo. TCN) đã trích dẫn những quan điểm luân lý trong Phúc Âm mà người
ta cho là của Giê-su song song với những quan điểm luân lý tương đương và y hệt
của các tác giả Do Thái và dân gian"
(There is very little, if anything, that is original in
the teaching attributed to Jesus. Like the myth of Jesus itself, the sentiments
he expresses are a hodgepodge of aphorisms and moral convictions that can be
found in the ancient Egyptian, Babylonian, Persian, Greek, Buddhist, Confucian,
Hindu religions...One thing is certain: Christianity, a late-comer in the
history of religion, merely plagiarized sentiments from Judaism and the
so-called pagan religions. In his book Sources of Morality in the Gospels,
Joseph McCabe quoted the moral views attributed to Jesus in the gospels and in
parallel columns gave exact moral equivalents from Jewish and pagan writers.)
Như vậy, nếu chúng ta chỉ nhặt ra vài điều trong
Tân Ước, thấy chúng có vẻ tương đồng với một vài ý kiến trong Phật Giáo, rồi đưa
ra kết luận là hai tôn giáo có những điểm chung v..v.., bắt nguồn từ cùng một
trình độ trí tuệ, thì tôi cho là kết luận này khá phiến diện.
Bởi vì khi xét đến một tôn giáo, chúng ta phải xét đến nền
tảng tín ngưỡng của tôn giáo đó là gì. Ngoài ra chúng ta còn phải xét đến lịch
sử của tôn giáo đó, từ tư cách của Giáo chủ, toàn bộ giáo lý, nếu có, đến các
phương pháp hành trì và nhất là, tôn giáo đó đã mang đến những gì cho nhân loại.
Nếu chúng ta không hiểu được điều này, chỉ so sánh vài điều vụn vặt, và tổng
quát hóa cho rằng bản chất các tôn giáo đều giống nhau, tôn giáo nào cũng dạy
con người làm lành tránh ác, thì mọi đối thoại thực chất chỉ là vụn vặt, hời
hợt, vô nghĩa, và có tính cách mị dân.
Thật vậy, chính Đức Đạt Lai Lạt Ma là
người cổ súy tinh thần đối thoại tôn giáo vì Ngài cho rằng sự đối thoại sẽ giúp
chúng ta hiểu sâu sắc hơn về bản chất tôn giáo. Nhưng Ngài cũng khuyến cáo cùng
thính chúng rằng: “Những toan tính đánh đồng những nét đặc thù của các
tôn giáo thì luôn luôn vu vơ, vô nghĩa” (Jean-Francois Revel and
Matthieu Ricard, The Monk and the Philosopher, p. 154: He also warned his
audience of the temptations of syncretism, which is always pointess).
Một số học giả Ki Tô Giáo, kể cả những nhà Thần học Ki Tô,
trước những giáo lý nhân bản, hòa bình, từ bi v..v.. và những triết thuyết cao
siêu vượt trội của Phật Giáo, càng ngày càng được biết đến nhiều hơn ở Tây
phương, đã tìm đọc kinh điển Phật Giáo. Và họ đã thấy trong Kinh điển Phật Giáo
có những câu có vẻ giống như những câu Giê-su nói trong Kinh Thánh. Vì chưa
thoát ra khỏi ý thức hệ Ki Tô Giáo, vì không hiểu Phật Giáo một cách đứng đắn,
và với tâm cảnh của một tín đồ Ki Tô Giáo, họ chỉ có thể so sánh một cách phiến
diện, hời hợt, trên mặt thuần túy văn tự, và nhất là dùng những câu vụn vặt,
ngoài toàn bộ vấn đề (out of context) trong Kinh Thánh để chứng minh sự tương
đồng giữa giáo lý của Đức Phật và giáo lý, nếu có, của Giê-su.
(xem tiếp: Điểm thứ hai
)