Màn một:
Giác Lượng khúm núm Liên Tôn
Màn hai: hung hăng
đấu tố thầy Nhất Hạnh
* * *
911 là số điện thoại cấp cứu trên toàn nước Mỹ. Một nhóm
19 không tặc thuộc tổ chức khủng bố Hồi Giáo quá khích đã chọn ngày 11
tháng 9, người Mỹ viết là 9-11 (tháng trước, ngày sau), để cướp 4 chiếc
máy bay chuyên chở hành khách đang bay trên không, và thực hiện một cuộc
khủng bố ngay trên đất Mỹ, làm rung động thế giới.
8 giờ 45 sáng, giờ New
York, quân khủng bố lái chiếc máy bay thứ nhất cướp được trên đó có 81
hành khách đâm thẳng vào tòa cao ốc 110 tầng phía Bắc của Trung Tâm Giao
Thương Thế Giới. (WTC: World Trade Center).
9 giờ 03 sáng, chiếc máy
bay bị cướp thứ hai trên đó có 58 hành khách đâm thẳng vào tòa cao ốc
phía Nam của WTC.
Khoảng 9 giờ 45 sáng,
chiếc máy bay bị cướp thứ ba đâm thẳng vào Ngũ Giác Đài, Cơ quan đầu não
quân sự Hoa Kỳ.
Vào lúc 10 giờ 10 sáng,
chiếc máy bay thứ tư rơi ở gần phi trường Somerset County, Pennsylvania,
cách Washington D.C. không xa, vì hành khách trên đó đã chống lại quân
không tặc. Mục tiêu của chiếc máy bay thứ tư này rất có thể là Tòa Bạch
Ốc hay Quốc Hội Hoa Kỳ.
10 giờ sáng, tòa cao ốc
phía Nam của WTC sụp đổ, và 10 giờ 30 sáng, tòa cao ốc phía Bắc của WTC
cũng sụp đổ theo. Sự sụp đổ của hai tòa cao ốc trên đã gây thêm chết
chóc cho hơn 100 nhân viên cứu hỏa đang cấp cứu của thành phố New
York.
Ảnh hưởng và sự thiệt hại
gây nên bởi cuộc khủng bố đại quy mô được sửa soạn và tính toán kỹ lưỡng
trên không thể tính ra bằng tiền. Về nhân mạng, có tất cả có trên dưới 6
ngàn người thiệt mạng.
God Bless America: Xin
Thiên Chúa Hãy Ban Phúc Lành Cho Nước Mỹ.
Lần đầu tiên người dân Mỹ
trực tiếp thấy cảnh tàn phá về vật chất và nhân mạng ngay trên đất nước
của mình vì cảnh máy bay đâm thẳng vào hai tòa cao ốc cũng như cảnh sụp
đổ của hai tòa nhà này đã được thu vào ống kính và chiếu đi chiếu lại
trên TV suốt ngày đêm, liên tiếp trong nhiều ngày.
Người dân Mỹ nói chung,
nhất là người dân New York, trở nên hoang mang, không thể nào hiểu nổi
cảnh tàn khốc như vậy lại có thể xảy ra trên đất Mỹ. Người Mỹ thông
thường tin rằng Mỹ là một nước văn minh tiến bộ nhất thế giới, đạo đức
nhất thế giới, hào hiệp nhất thế giới, là một thị trấn trên đỉnh đồi (A
city on the hill) mà cả thế giới đều phải ngước mắt lên nhìn ngưỡng mộ,
là cái đầu tầu kéo cả thế giới chạy theo, và lẽ dĩ nhiên, tin ở Thiên
Chúa (In God We Trust). Họ không biết đến thực chất những hoạt động của
chính phủ Mỹ trong cộng đồng thế giới.
Phản ứng của người dân rất
đa dạng. Có một số người đi tìm những người gốc Ả Rập để hành hung hoặc
giết để trả thù. Thị Trưởng New York cũng như Tổng Thống Bush đã phải
lên tiếng kêu gọi người dân hãy bình tĩnh, không nên "giận quá mất khôn"
mà đi làm những việc trái với pháp luật. Nhưng cho đến nay đã có trên
750 vụ như vậy.
Có nhiều người trở nên
nghi ngờ sự hiện hữu của Thiên Chúa và họ đã hỏi thẳng các linh mục, mục
sư ở nhà thờ những câu như sau: "Thiên Chúa có thật sự hiện hữu hay
không?" "Tại sao Thiên Chúa lại để cho vụ khủng bố xảy ra cho
nước Mỹ, một nước nổi tiếng là ngoan đạo, sùng tín Thiên Chúa?"
Nhiều linh mục và mục sư đã trả lời thật là "Tôi không biết" (I
don't know) vì sự lương thiện trí thức không cho phép họ trả lời trái
với lương tâm. Nhưng cũng có những vị vẫn giảng rằng đầu óc con người
không thể hiểu được những việc làm của Thiên Chúa, vậy hãy giữ vững niềm
tin vì đó là niềm an ủi chính mà con người có thể có. Và từ đó, một
chiến dịch giữ vững niềm tin với những bảng hiệu "God Bless America: Xin
Thiên Chúa Hãy Ban Phúc Lành Cho Nước Mỹ" và "Chúng Ta Đứng Vững Trong
Đoàn Kết" (United We Stand) đã tung ra trên khắp nước Mỹ.
Có nhiều người trẻ bỗng
nhiên nhận thức được rằng cuộc đời là vô thường và phát biểu: "Trước
đây tôi chỉ chăm chú làm sao kiếm cho nhiều tiền, ngày nay tôi cảm thấy
điều đó thật là vô nghĩa", thay đổi triết lý sống và nghĩ đến người
khác nhiều hơn.
Về phía chính quyền thì
trong cơn nóng giận Tổng thống Bush đã tuyên bố nhiều câu chỉ hợp trong
các phim "cao bồi bắn người da đỏ" (cowboys shooting Indians) thí
dụ như "hun khói để lùa chúng ra khỏi lỗ" (smoking them out of
their holes), "làm cho chúng phải chạy trốn và mang chúng ra trước
công lý" (getting them running and bringing them to justice), và đưa
ra motto "Sống Hay Là Chết" (Dead or Alive) để đối phó với Osama
Bin Laden, người mà Mỹ tin rằng chính là chủ mưu trong vụ khủng bố này.
David Greising viết trong
tờ Chicago Tribune ngày 30 tháng 9, 2001: "Công lý theo kiểu Tổng
Thống Bush nghe như là có vẻ muốn trả thù nhiều hơn" (Justice,
President Bush-style is sounding a lot like vengeance). Tổng Thống Bush
cũng dùng đến danh từ "Thánh Chiến" (Crusade) để chỉ sách lược
chiến tranh chống khủng bố (war against terrorists) của ông. Điều này
làm cho khối Hồi Giáo Ả Rập lên án ông là cố tình tạo nên cuộc chiến
tranh tôn giáo giữa Ki Tô Giáo và Hồi Giáo, lập lại lịch sử những cuộc
Thánh Chiến của Ca Tô Giáo Rô Ma để tiêu diệt Hồi Giáo khi xưa. Tổng
Thống Bush đã phải xin lỗi thế giới và không dùng đến danh từ này
nữa.
Trong tình trạng hoặc
hoang mang, hoặc thù hận, hoặc mất niềm tin v..v.. của chính quyền và
người dân Mỹ như trên, nhiều nhà lãnh đạo tinh thần thuộc các tôn giáo
đã được mời để nói lên tiếng nói của mình cho người Mỹ và nước Mỹ biết
quan điểm tôn giáo của họ về cuộc khủng bố. Một trong những bậc lãnh đạo
tinh thần này là một vị sư già Việt Nam, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh. Chúng
ta không thấy mặt những bậc gọi là lãnh đạo tinh thần khác của Việt Nam,
thí dụ như Hồng Y Nguyễn Văn Thuận hay Đức Ông Nguyễn Văn Tiến, Đức Ông
Trần Văn Hoài chẳng hạn, những người nổi tiếng chống Cộng để phục vụ
chân lý Ca-Tô. Chúng ta cũng không thấy mặt những bậc lãnh đạo tinh thần
của Phật Giáo rất nổi tiếng trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại, thí dụ
như Hòa Thượng tự phong và tự do ôm chân Giáo Hoàng, hay Hòa Thượng tự
phong và tự tung tự tác ở Cửa Như Lai (Như Lai Gate). Có lẽ ban tổ chức
đã biết rõ khả năng và bản chất của các quý vị này trong lãnh vực tôn
giáo.
Ngày 25 tháng 9 năm 2001,
Thầy Nhất Hạnh đã đến New York để cống hiến cho dân New York một bài
Pháp nhan đề "Ôm Lấy Sự Giận Dữ" (Embracing Anger), tại nhà thờ
Riverside ở New York. Theo bản loan tin về buổi thuyết Pháp này thì
thính giả được khuyến cáo là số ghế ngồi chỉ có hạn, 2500 ghế mà thôi.
Người ta ước tính số người đi nghe vào khoảng 4000.
God Bless America: Xin
Thiên Chúa hãy ban phúc lành cho nước Mỹ!
Bài thuyết Pháp dài của
Thầy Nhất Hạnh gồm có ba phần và đã được đưa lên trang nhà của Làng Mai.
Nội dung của phần đầu là trình bày phương pháp tu của Thầy để đối trị sự
tức giận ở trong lòng, từ những kinh nghiệm của chính Thầy trong cuộc
chiến ở Việt Nam. Thầy thuyết về Giáo Pháp Tỉnh Thức, một Giáo Pháp bắt
nguồn từ Kinh Hoa Nghiêm với những quan niệm như Tương Duyên, Tương Túc
v..v.. của nhà Phật. Thông điệp của Thầy là không nên hành động hấp tấp
khi nóng giận, bình tĩnh suy tư tìm hiểu căn nguyên vấn đề để tìm ra một
giải pháp thích đáng phù hợp với lòng từ bi của Phật Giáo.
Tuy nhiên, câu mở đầu bài
thuyết Pháp của Thầy Nhất Hạnh đã gây nên một cơn bão trong chén nước
lèo trong cộng đồng người Việt ở Nam Cali mà thủ đô chống Cộng là Quận
Cam, với phần lớn phương tiện truyền thông nằm trong tay những con chiên
của Vatican. Cơn bão trong chén nước lèo này đã chuyển thành một cảnh
đấu tố vắng mặt Thầy Nhất Hạnh trước tòa án nhân dân mà thành phần là
những người sống trong thế kỷ 21 nhưng hiểu biết và tâm cảnh thuộc thời
Trung Cổ. Nguyên văn đoạn mở đầu của Thầy Nhất Hạnh như sau:
My Dear friends, I
would like to tell you how I practice when I get angry. During the war
in Vietnam, there was a lot of injustice, and many thousands, including
friends of mine, many disciples of mine, were killed. I got very angry.
One time I learned that the city of Ben Tre, a city of three hundred
thousand people, was bombarded by American aviation just because some
guerillas came to the city and tried to shoot down American aircrafts.
The guerilla did not succeed, and after that they went away. And the
city was destroyed. And the military man who was responsible for that
declared later that he had to destroy the city of Ben Tre to save it. I
was very angry.
Tôi xin dịch đoạn trên như
sau:
Các bạn thân mến
của tôi, Tôi muốn nói cùng các bạn tôi đã thực hành như thế nào khi tôi
tức giận. Trong cuộc chiến ở Việt Nam, có rất nhiều bất công, và nhiều
ngàn người, trong đó có có những bạn bè, nhiều đệ tử của tôi bị giết.
Tôi rất giận. Một ngày nọ tôi nghe tin rằng tỉnh Bến Tre, một tỉnh có ba
trăm ngàn dân, bị máy bay Mỹ bỏ bom chỉ vì có vài du kích quân vào tỉnh
và định bắn hạ máy bay Mỹ. Quân du kích không thành công, và sau đó họ
bỏ đi. Và cả tỉnh bị phá hủy. Và sau đó viên chức quân sự trách nhiệm sự
tàn phá trên tuyên bố là ông ta phải hủy diệt tỉnh Bến Tre để cứu tỉnh
đó. Tôi rất giận.
Một người có đầu óc khi
đọc đoạn trên thì phải hiểu ngay rằng Thầy Nhất Hạnh muốn trình bày
phương pháp thực hành của Thầy để chế ngự sự tức giận ở trong lòng (câu
đầu) và kể ra một trường hợp đã khiến Thầy tức giận (câu cuối), câu
tuyên bố của viên chức quân sự phá hủy toàn tỉnh Bến Tre: "Chúng ta
phải hủy diệt toàn tỉnh để cứu tỉnh đó" (We had to destroy the town
to save it). Câu này đã để lại một vết đen trong quân sử Hoa Kỳ, và trở
thành đề tài đàm tiếu trên thế giới. Những chi tiết về con số và du kích
quân chỉ là phụ vì Thầy không phải là một chứng nhân của sự việc xảy ra
ở tỉnh Bến Tre mà Thầy chỉ "nghe tin" như vậy. Thật vậy, khi Thầy nghe
tin về vụ Bến Tre, năm 1968, thì Thầy đang bị Nhà Nước Việt Nam Cộng Hòa
của chúng ta đầy ở ngoại quốc. Hiển nhiên nguồn tin là của báo chí hay
đài truyền hình ngoại quốc. Nhưng vấn đề không phải là những chi tiết
trong nguồn tin mà là thông điệp của Thầy Nhất Hạnh trong bài thuyết
Pháp. Sau đoạn mở đầu, Thầy đã dẫn thính giả vào con đường tu tập "Phép
Lạ Của Sự Tỉnh Thức" trong một đoạn dài với nhiều chi tiết, và tất cả
chỉ có vậy.
Ngày 12 tháng 10, 2001,
tôi có mặt ở Quận Cam để dự cuộc họp mặt các bạn đồng khóa, kỷ niệm 50
năm ngày nhập trường Sĩ Quan Trừ Bị Khóa I Nam Định và Thủ Đức. Trong
cuộc họp, một người bạn cho tôi biết tin là: "Này, bọn nó đang tố khổ
Thầy Nhất Hạnh, gọi phone đến các Chùa ở đây hăm dọa bằng những ngôn từ
tục tĩu, và dự tính tổ chức biểu tình chống đối Thầy chủ nhật này
(14-10) đấy". Tôi hỏi: "Chống đối về cái gì?" Anh ta trả lời:
"Họ cho rằng trong bài thuyết Pháp ở New York, Thầy Nhất Hạnh đã bịa
đặt ra chuyện về vụ Mỹ ném bom ở Bến Tre với ý định can Mỹ đừng trả thù
quân khủng bố." Tôi cười và hỏi: "Toa đã đọc bài thuyết Pháp của
Thầy Nhất Hạnh chưa?" Anh ta trả lời: "Chưa, nhưng một số báo chí
bên này và đài phát thanh ở đây đều lập luận như vậy". Tôi chỉ thốt
ra hai tiếng "Vậy hả?" rồi chúng tôi nói sang chuyện khác. Tôi tự
nghĩ lấy làm lạ, vì suốt chiều qua ngồi chơi với Chị Chân Huyền, một đệ
tử của Thầy Nhất Hạnh, mà không thấy chị nhắc đến chuyện này. Có lẽ
những chuyện thị phi thuộc loại như vậy không đáng để chị bận tâm. Sau
đó tôi có đọc mục "Chiều Khác Của Một Vụ Tranh Cãi Về Thiền Sư Thích
Nhất Hạnh" đăng trên Nhật Báo Viễn Đông ngày 12 tháng 10,
trong đó có bài của Lê Văn Quang và phần đầu bài của Lý Hoàng Thái. Tôi
cũng đọc "Thư Ngỏ: Xin Đừng Chà Đạp Lên Tự Do Tín Ngưỡng Của Chúng
Tôi" của Gia Đình Phật Giáo Vùng Orange County gửi Truyền Thông, Báo
Chí Orange County, đăng trên vài báo Việt ngữ . Từ đó tôi đã hiểu phần
nào nội vụ. Và gần đây, nhân đọc bài VÀI Ý KIẾN VỀ BÀI
THUYẾT PHÁP CÔNG CỘNG CỦA THIỀN SƯ NHẤT HẠNH TẠI NHÀ THỜ RIVERSIDE, NY,
25.09.2001 của Bùi Kha trên trang nhà Giao
Điểm, tôi lại biết rõ thêm một số chi tiết.
Trước khi đi vào phần phê
bình phân tích những hành động ồn ào chống đối Thầy Nhất Hạnh, tôi nghĩ
có lẽ chúng ta cũng nên biết Thầy Nhất Hạnh là người như thế nào, những
hoạt động từ trước tới nay ra sao, từ đó chúng ta mới có thể nhận ra bộ
mặt thật của những hoạt động chống đối Thầy ngày nay.
Tôi không phải là đệ tử
của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Tôi cũng chưa bao giờ được gặp Thầy và lẽ
dĩ nhiên, chưa bao giờ có duyên nghe Thầy giảng đạo. Tuy không trực tiếp
biết Thầy nhưng tôi cũng biết phần nào những hoạt động cho dân tộc Việt
Nam và công cuộc truyền bá Đạo Pháp của Thầy trên thế giới. Lẽ dĩ nhiên,
sự hiểu biết của tôi về Thầy Nhất Hạnh còn thiếu sót rất nhiều. Tôi hi
vọng sẽ được những người biết rõ Thầy hơn bổ túc cho những thiếu sót
này. Phần viết này nói lên vài nét về những điều tôi biết về Thầy Nhất
Hạnh.
Đã từ lâu, "người ta",
người ta đây gồm cả "bạn" lẫn "thù", đã có những mánh mưu xuyên tạc với
mục đích hạ thấp bôi nhọ Thầy, với ảo tưởng là có thể làm giảm uy tín
của Thầy trong cộng đồng người Việt di cư. Ai là "bạn"? Điểm qua vài mặt
chúng ta thấy có "phản đồ" ăn lương của ngoại bang, ngồi ở Paris tranh
đấu cho "quyền làm người" (sic) của 77 triệu dân Việt Nam ở trong nước;
có nhóm chủ trương tờ Chánh Đạo, trang nhà TongVu (Khong) Hoang Phap,
chuyên dùng những lời lẽ vô đạo hoặc đăng bài của ngoại đạo để xuyên
tạc, đánh phá Phật Giáo và chụp mũ bất cứ ai không hùa theo chủ trương,
ý kiến thuộc loại dưới đáy giếng của hạng người vô tài vô đức. Và ai là
"thù"? Chẳng cần phải nói ai cũng biết đó là những nô lệ tinh thần của
thế lực đen quốc tế, cay cú vì mất đi quyền lực ở Việt Nam, cay cú vì
trong thế giới tiến bộ trí thức Tây Phương, ánh sáng của đạo trí tuệ đã
xua đi bóng tối của đức tin vào những mê tín hoang đường không còn thích
hợp với thời đại ngày nay, nên trút mọi giận hờn lên những bậc lãnh đạo
Phật Giáo trong đó có Thầy Nhất Hạnh, và chạy tội bất tài, tham nhũng
v..v.. của hai chế độ bù nhìn Ca-Tô Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu,
nguyên nhân chính đưa đến sự sụp đổ miền Nam, bằng cách vu cho mấy ông
Sư cái tội làm mất nước (sic) . Những cái mũ "cộng sản", "phản chiến"
v..v.. dù đã rách nát với thời gian, vẫn được mang ra nhai đi nhai lại
trong một thiểu thiểu số người Việt di cư làm nghề chống Cộng cho Chúa
toàn thời gian (full time) để chụp lên đầu một ông Sư chỉ vì đối với họ,
ông ta có cái tội duy nhất là nổi tiếng trên thế giới, có nhiều đệ tử từ
các tôn giáo khác ở khắp năm châu, và dám phê bình thẳng thắn giáo hoàng
Ca-Tô John Paul II trong cuốn Living Buddha, Living Christ.
Bài viết này không có mục
đích bênh vực Thầy Nhất Hạnh vì tôi biết chắc Thầy không cần đến sự bênh
vực của tôi. Tôi cũng biết chắc Thầy không bao giờ quan tâm đến những
tiếng ồn ào bâng quơ bên đường hướng lên mặt trăng với ảo tưởng là có
thể ngăn cản những bước chân vững chãi và thảnh thơi của Thầy cùng các
đệ tử đi trên con đường hoằng dương đạo Pháp. Đoàn lữ hành cứ thản nhiên
qua.
Đối với tôi, Thầy Nhất
Hạnh quả thật là một niềm hãnh diện cho Phật Giáo Việt Nam. Rất có thể
có một số Phật tử, tôi là một trong số này, đôi khi không đồng ý với
Thầy về một vài điểm nào đó, khi Thầy đưa ra những ý kiến hoặc thông tin
bên ngoài vấn đề thuyết giảng Phật Pháp. Nhưng xét về toàn thể những
đóng góp của Thầy cho cộng đồng thế giới, cho Phật Giáo nói chung, cho
Phật Giáo và dân tộc Việt Nam, và nhất là cho hòa bình của Việt Nam nói
riêng, chúng ta không thể phủ nhận sự kiện là, trong thời cận đại, hiếm
có một tăng ni Việt Nam nào có thể sánh ngang với Thầy.
Trong bài này tôi sẽ không
nhắc đến tiểu sử của Thầy Nhất Hạnh, nghĩa là những chi tiết về Thầy
xuất thân từ đâu, học trường nào, bằng cấp ra sao, đã giữ những chức vụ
gì v..v.. Đối với tôi, những chi tiết này không phải là những tiêu chuẩn
quyết định để đánh giá một Thiền sư. Trong lịch sử thế giới ngày nay
cũng như khi xưa, chúng ta thấy không thiếu gì những bậc được gọi là
"lãnh đạo tôn giáo" có bằng cấp, chức tước, địa vị thật cao, mũ mãng cân
đai, áo đỏ áo tím v..v.., nhưng thực chất chỉ là những nô lệ tâm linh,
đạo đức thấp kém.. như lịch sử các tôn giáo đã chứng minh.
Viết về Thầy Nhất Hạnh,
chúng ta không thể bỏ qua những hoạt động của Thầy trong thập niên 60,
khi mà chiến tranh đang tàn phá đất nước Việt Nam, cả về sinh mạng lẫn
vật chất, những hoạt động đã khiến cho cả thế giới biết đến Thầy, từ
Giáo Hoàng Paul VI của Ca Tô Giáo Rô Ma, cho tới những nhân vật lãnh đạo
quân sự, ngoại giao và tôn giáo của Hoa Kỳ và một số quốc gia trên thế
giới.
Trước hết chúng ta hãy trở
lại đầu thập niên 60, khi mà chính quyền Ngô Đình Diệm ở Nam Việt Nam
đang dung dưỡng cho những giám mục, linh mục Ca Tô Việt Nam thao túng
chính trường và thị trường, cùng xuống tay tiêu diệt mọi đảng phái đối
lập, bức hại các tôn giáo phi Ca-Tô trong đó có Phật Giáo.
Trong hoàn cảnh miền Nam
Việt Nam bị đắm chìm trong chiến tranh, và toàn dân miền Nam sống trong
bức màn đen tối dày đặc của ý thức hệ Rô-Ma (Dr. Barnado: In the thick
darkness of Romanism), một ý thức hệ tôn giáo trị của thời Trung Cổ mà
Phán Quan Ngô Đình Diệm cùng những nô lệ tâm linh của Vatican đang cố
gắng triệt để thi hành, thì ngày 11 tháng 6, 1963: Ngọn lửa từ bi bốc
lên từ nhục thân Bồ Tát Thích Quảng Đức đã có tác dụng soi sáng và thức
tỉnh lương tâm nhân loại, kết quả là xua đi bóng tối của vô minh và tàn
bạo không bao lâu sau đó. Stephen Batchelor tường thuật cuộc tự thiêu
trên trong cuốn Sự Thức Tỉnh Của Tây Phương (The Awakening of the
West, Parallax Press, CA 1994, pp.353-354) như sau:
11 tháng
6, 1963. Trên đường Phan Đình Phùng ở Saigon, một vị sư già tên là Thích
Quảng Đức ngồi tọa thiền theo tư thế kiết già. Dầu xăng được đổ lên
người Ngài, và Ngài bật một que diêm, rồi ngồi bình thản và bất động khi
thân thể bốc lửa. Trong khi cuộc chiến ở Việt Nam gia tăng, một số tăng
ni khác hành động theo gương người. Khi những hình ảnh tự thiêu này hiện
trên màn ảnh TV trên khắp thế giới, chúng gây cho khán giả sự kinh hoàng
và không thể hiểu nổi. Một vị sư ngồi như Đức Phật ngập trong đám lửa
trong một quốc gia bị tàn phá bởi chiến tranh đã xé rách tâm tư Tây
phương.
(11 June 1963. On
Phan-dinh-Phung street in Saigon an elderly Buddhist monk called Thich
Quang Duc sits down cross-legged in meditation. Petrol was poured over
his body and he lighted a match, then remains calm and immobile as his
body bursts into flames. As the Vietnamese war intensifies, other monks
and nuns follow his example. As these images appear on television
screens around the world, they provoke incomprehension and horror. A
monk seated like a Buddha being engulfed by fire in a country ravaged by
war sears itself into the Western mind.)
5 tháng sau, chế độ Ngô
Đình Diệm Ca Tô độc tài, tôn giáo trị, gia đình trị, phi tự do, phi dân
chủ, một chế độ mà tuyệt đại đa số người dân miền Nam oán ghét đã sụp
đổ. Trong giai đoạn lịch sử này, Thầy Thích Nhất Hạnh đang làm công tác
nghiên cứu và giảng dạy tại đại học Columbia, Hoa Kỳ. Sau khi chế độ nhà
Ngô sụp đổ, đầu năm 1964 Thầy Nhất Hạnh được Thượng Tọa Thích Trí Quang
mời về giúp đất nước.
Về tới nước, Thầy Nhất
Hạnh bắt tay ngay vào việc trong đường hướng "Phật Giáo Dấn Thân" hay
"Phật Giáo Đi Vào Cuộc Đời", một đường hướng đáng lẽ Phật Giáo Việt Nam
đã phải thực hành từ lâu. Thầy là một trong những sáng lập viên của Viện
Đại Học Vạn Hạnh với tiêu chỉ "Duy Tuệ Thị Nghiệp" của Phật Giáo. Thầy
cũng là người sáng lập Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội năm 1965 để
huấn luyện thanh niên thiện nguyện Việt Nam trong chiều hướng phục vụ
các làng xã bằng những kiến thức chuyên môn, sửa soạn cho việc xây dựng
và hàn gắn đất nước khi chiến tranh chấm dứt. Những công tác cho vui cứu
khổ (từ bi) của Trường lúc đầu khá thành công và được mọi người đón nhận
với thiện cảm, kể cả trong những vùng xôi đậu, vì những hoạt động này
mang lợi ích trực tiếp đến với người dân mà không vướng mắc vào những
ràng buộc chính trị phe phái. Bất hạnh thay, sự hoạt động của Trường
không phát triển nổi vì Trường, với mục đích phụng sự xã hội thuần túy,
đã tự đặt mình giữa hai lằn đạn của hai thế lực cuồng tín ngoại lai.
Đầu năm 1967, một toán mặc
quân phục và đeo mặt nạ đã ném lựu đạn vào hai lớp học, giết chết một
giáo sư và một sinh viên, làm bị thương 21 sinh viên khác. Một nữ sinh
viên bị phá nát chân, sau đó được đưa đi Nhật để chỉnh phẫu (remedial
surgery). Sau đó, năm thành viên trong đó có hai tăng sĩ Phật Giáo, nửa
đêm đang ngủ bị bắt đưa ra bờ sông hành quyết, nhưng một tăng sĩ đã sống
sót sau khi bị quân khủng bố tưởng ông ta đã chết ở bờ sông. Rồi một
toán 8 hoạt động viên của Trường bị bắt cóc mất tích không có tin tức.
Tất cả những cuộc khủng bố trên đều được chính quyền miền Nam nói là của
Việt Cộng làm. Nhưng những sinh viên hiểu biết và nhiều người khác ở
Saigon cho rằng rất có thể là do phía chính quyền làm. (Alfred Hassler,
Saigon, U.S.A., Richard W. Baron, New York, 1970, p. 55: All
incidents were attributed by the Government to the Vietcong, but
knowlegeable students and others in Saigon suspected that the attackers
could just as reasonably have been from the Government side) Rồi sinh
viên của Trường bị chính phủ bắt nhập ngũ rồi gửi ra tiền tuyến. Trong
hoàn cảnh như vậy Trường đã bắt buộc phải bỏ những lớp học chính thức
nhưng vẫn tích cực trong việc tuyển mộ các thanh niên nam nữ tình nguyện
và huấn luyện họ trong đường hướng phụng sự xã hội vô vị lợi.
Ngoài ra, Thầy Nhất Hạnh
cũng còn làm chủ bút của tuần báo Thiện Mỹ của Phật Giáo. Nhà
xuất bản Lá Bối ra đời và phổ biến những tác phẩm, thơ văn của
Thầy, và những tác phẩm Phật Giáo. Đặc biệt là, Thầy cùng một số tăng
trẻ đã cùng với một số linh mục và giáo dân cấp tiến tạo nên phong trào
Sống Đạo và cho ra tờ báo Sống Đạo. Đây là một thành quả có tầm
vóc lịch sử nếu chúng ta xét đến sự thù nghịch lịch sử giữa hai tôn giáo
lớn ở Việt Nam.
Chiến tranh Việt Nam càng
ngày càng khốc liệt, nhất là sau khi Mỹ đổ quân vào Việt Nam năm 1965.
Sự chết chóc về nhân mạng và hủy diệt về vật chất càng ngày càng nhiều.
Trong hoàn cảnh như vậy, Phật Giáo, tôn giáo của hòa bình, không thể ủng
hộ chiến tranh. Thầy Nhất Hạnh đã tuyên bố: "Cộng sản và Chống Cộng
(theo kiểu Mỹ. TCN) đều bắt nguồn từ sự cuồng tín của Tây phương,
và Phật Giáo là kẻ thù của mọi hình thức cuồng tín." (Alfred
Hassler, Ibid., p. 113: Both Communism and anti-Communism, declared Nhat
Hanh, are Western fanaticisms, and Buddhism is the enemy of fanaticism
of all forms.) Đứng giữa hai thế lực cuồng tín gây chết chóc cho hàng
ngàn dân Việt vô tội, năm 1966, Phật Giáo ý thức được rằng phải tìm đồng
minh ở ngoài nước, và nhất là phải cho người Mỹ biết đến những sự đau
khổ và khát khao hòa bình của đại đa số người dân Việt. Khi đó, người
duy nhất trong Phật Giáo Việt Nam có uy tín, khả năng, kinh nghiệm với
người Mỹ, để hoàn thành nhiệm vụ khai sáng thế giới về cuộc chiến tranh
ở Việt Nam, không có ai khác ngoài Thầy Nhất Hạnh.
Một cơ hội đã tới. Do lời
mời của đại học Cornell, Thầy Nhất Hạnh đã được phép xuất ngoại. Chuyến
đi sang Mỹ của Thầy đã trở thành chuyến du thuyết cho hòa bình trên khắp
thế giới, nhưng buồn thay, đó cũng là chuyến đi mở đầu cho cuộc đời lưu
vong của Thầy. Stephen Batchelor tóm tắt chuyến xuất ngoại trở thành lưu
vong của Thầy như sau, Ibid. p. 353:
..Vào tháng năm, 1966, một
vị tăng Việt Nam 39 tuổi, Thích Nhất Hạnh, tới Hoa Kỳ, bề ngoài có vẻ là
để giảng về "Sự phục sinh của Phật Giáo Việt Nam" tại đại học Cornell.
Mục đích thực sự của chuyến đi sang thăm viếng Hoa Kỳ là nói cho người
dân Mỹ biết về những sự đau khổ của đồng bào ông. Hội Ái Hữu Hòa Giải
gốc Ki Tô đã tổ chức một chuyến xuất ngoại 3 tuần lễ cho ông. Nhưng
những thư mời ông tiếp tục gửi đến, và chuyến xuất ngoại kéo dài 3
tháng, sang cả Âu Châu, không chỉ ở Mỹ. Ở Mỹ, ông đã gặp nhiều lãnh tụ
tôn giáo và chính trị... Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara đã kéo dài
cuộc tiếp kiến để nghe kỹ hơn những điều mà ông muốn nói. Trong một cuộc
họp báo chung, Martin Luther King đánh đồng sự tranh đấu của người da
đen với sự tranh đấu của các Phật tử ở Việt Nam, và năm sau đã đề nghị
trao giải Nobel về hòa bình cho Thầy Nhất Hạnh. Cuộc du thuyết ở Âu Châu
cuối cùng đã dẫn đến cuộc hội kiến với Giáo Hoàng Paul VI ngày 16 tháng
7 trong đó vị tăng sĩ Phật Giáo đã thúc giục Giáo Hoàng khuyến khích các
tín đồ Ca Tô Giáo ở Việt Nam hãy cùng với các Phật tử tranh đấu cho hòa
bình. Đi đến đâu , nơi đó cử tọa cũng cảm thấy mình tầm thường và mủi
lòng trước một vị sư mảnh dẻ, từ ái, nói lên tiếng nói của quần chúng
không nói lên được tiếng nói của mình, trong đất nước đau khổ của ông
ta.
Thích Nhất
Hạnh và những hoạt động viên Phật Giáo cùng tranh đấu với ông không về
phe Cộng Sản ở miền Bắc, cũng không về phe chống Cộng ở miền Nam. Họ
cũng không nuôi dưỡng một tham vọng nào về quyền lực chính trị cho chính
họ. Họ tìm kiếm sự hiểu biết thay vì sự xung đột. Nhưng nhất là họ nói
thay cho hàng triệu nông dân mà những sự khác biệt về ý thức hệ thật là
vô nghĩa, đối với những người này chiến tranh chỉ mang lại tàn phá,
khủng khiếp và chết chóc.
(...In May 1966, a
39-year-old Vietnamese monk, Thich Nhat Hanh, arrives in America,
ostensibly to lecture on "The Renaissance of Vietnamese Buddhism" at
Cornell University. The true purpose of his visit is to tell the
American people of the sufferings of his fellow countrymen and women.
The Christian-based Fellowship of Reconciliation has organized a
three-week tour for him. But invitations keep coming, and the tour
continues for three montshs, extending beyond the United States to
Europe. In America he meets with leading religious figures and
politicians... The Secretary of Defense Robert McNamara extends his
appointment to listen more carefully to what he has to say. In a joint
press conference, Martin Luther King identifies the struggle of blacks
in America with that of the Buddhists in Vietnam, and the following year
nominates Nhat Hanh for the Nobel Peace Prize. The visit to Europe
culminates, on 16 July, in an audience with Pope Paul VI in which the
Buddhist monk urges the Supreme Pontiff to encourage Catholics in
Vietnam to join hands with Buddhists to end the war. Wherever he goes,
audiences are humbled and moved by this slight, gentle monk who gives
voice to the silenced mass of his tormented land.
Thich Nhat Hanh and
his fellow Buddhist activists sided neither with the Communist north nor
the anti-Communist south. Nor did they harbour any desire for political
power themselves. They sought understanding instead of conflict. Above
all they spoke for millions of peasants for whom the ideological
differences were meaningless, for whom the war meant nothing but
destruction, terror and death.)
Hành trình du thuyết cho
Hòa Bình của Thầy Nhất Hạnh ở ngoại quốc được trình bày đầy đủ hơn trong
cuốn Saigon, U.S.A., pp. 10-15, của Alfred Hassler, Giám Đốc Hội
Ái Hữu Hòa Giải ở Hoa Kỳ:
Những cuộc hành trình
sau đó của ông (Nhất Hạnh) trên khắp nước Mỹ, rồi qua Tây Âu và tới Úc,
Tân Tây Lan, Phi Luật Tân và Nhật Bản, và rồi lại trở lại Mỹ là do sự đỡ
đầu của Ủy Ban Quốc Tế về Lương Tâm Đối Với Việt Nam ... Bản Tuyên Bố
của Ủy Ban, "Họ là anh em của chúng ta mà chúng ta giết", đã được sự ủng
hộ của 10 ngàn (10,000) chữ ký của các lãnh đạo tôn giáo của mọi tín
ngưỡng từ trên bốn mươi quốc gia khi bản này được đăng trên hai trang
báo trong tờ New York Time ngày 23 tháng 1, 1966. Một trong những chữ ký
trên ghi giản dị là "Một nhà sư Việt Nam" là của Thích Nhất Hạnh; sự ẩn
danh là do chúng tôi quyết định, không phải là ý định của ông. (Vào
thời điểm này, Thầy Nhất Hạnh còn ở Việt Nam cho nên Ủy Ban Lương Tâm đã
quyết định tránh cho Thầy Nhất Hạnh những nguy hiểm về sinh mạng có thể
xảy ra ở miền Nam. TCN)...
Ở Mỹ, vị sư mảnh dẻ nhiệt
tình này được đón tiếp nồng hậu và chiều đãi khiến cho ông ta ngạc nhiên
và tin tưỡng hơn là người Mỹ chắc chắn sẽ chấm dứt chiến tranh nếu họ
biết được những sự đau khổ của đồng bào ông lên tới mức độ nào. Mới đầu
ông ta thu hẹp những bài thuyết trình trong chủ đề này. Những cử tọa của
ông xúc động đến rơi nước mắt khi ông nói thay cho "những nông dân không
có tiếng nói của mình" và lòng khao khát chấm dứt cái chiến tranh đã phá
nát đời sống của họ, và kể đến chuyện những thiếu nữ phải bán thân cho
lính Mỹ để nuôi gia đình...
Hội Ái Hữu thu xếp lộ
trình và những buổi nói chuyện của Nhất Hạnh, với sự giúp đỡ của Ủy Ban
Lương Tâm Quốc Gia trong 19 quốc gia, và tôi đã đi cùng với ông trong
phần lớn nước Mỹ và Tây Âu. Một mình hay cùng với tôi ông ta đã gặp
nhiều viên chức cao cấp.. Ở Hoa Thịnh Đốn, Thượng Nghị Sĩ và Dân Biểu,
cá nhân hoặc nhóm, đã đàm luận cùng ông, và Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert
S. McNamara đã tăng gấp đôi thời giờ dành cho ông để tham khảo kỹ càng ý
kiến của ông. Thượng Nghị Sĩ Eugene J. McCarthy, ngày trước ngày tuyên
bố ứng cử Tổng Thống, đã đóng cửa văn phòng riêng của mình để tránh
tiếng ồn ào của bộ tham mưu, và nhã nhặn chăm chú nghe sự trình bày của
ông, hỏi nhiều câu hỏi đã được tìm hiểu và suy nghĩ kỹ, và khi được biếu
một thi phẩm của Nhất Hạnh, đã biếu lại ông Sư một thi phẩm Hi Lạp. Sau
đó, ở New Hampshire (nơi tổ chức bầu cử chọn ứng cử viên Tổng Thống.
TCN) Thượng Nghị Sĩ của bang Minnesota đã trích dẫn những câu thơ của
nhà thi sĩ Việt Nam.
Ở Luân Đôn, Nhất Hạnh đã
gặp những thành viên của Hạ Nghị Viện Anh; ở Stockholm với thành viên
Quốc Hội Thụy Điển và Ngoại Trưởng; ở Rô-ma với Giáo Hoàng Paul VI mà
ông đề nghị một cuộc thăm viếng Việt Nam, "đến Hà Nội trước, vì Mỹ sẽ
ngưng bỏ bom Hà Nội, rồi tới Saigon để khuyến khích con cái của giáo
hoàng (con chiên) ở đó đừng có thù ghét Phật Giáo, hãy tiếp tay với họ
để tranh đấu cho một hòa bình chung".. (Không bao lâu sau đó, theo phóng
viên của tờ The National Catholic Reporter ở Rô-ma, cuộc viếng thăm Giáo
Hoàng của Nhất Hạnh đã đẩy nhanh sự kiện một phái đoàn của Giáo Hoàng
cầm đầu bởi Đức Ông Sergio Pignedoli, bạn thân của Giáo Hoàng, đã tới
Saigon khẩn thiết yêu cầu hợp chung nỗ lực của Ca-Tô - Phật Giáo để
tranh đấu cho hòa bình).
Mùa Xuân năm 1966, Nhất
Hạnh viết một cuốn sách nhắm vào độc giả Mỹ. Cuốn sách này được phổ biến
khá tốt trong nước Mỹ, nhưng cuốn sách cũng được xuất bản bằng 8 thứ
tiếng khác và trong 9 quốc gia khác. Điều đáng chú ý là, sự thành công
ngoạn mục nhất của cuốn sách lại ở ngay trong Nam Việt Nam, một bản
tiếng Việt đã được bí mật đưa vào in chui trong nước và bán hơn 100000
cuốn (trong một nước mà cuốn sách nào bán được 30000 cuốn được coi như
là bán chạy nhất).
(His subsequent travels,
back and forth across the United States, then through Western Europe and
to Australia, New Zealand, the Philippines, Japan, and once again
through the United States were under the auspices of the International
Committee of Conscience on Vietnam... The Committee statement, "They Are
Our Brothers Whom We Kill", had won the signatures of 10,000 religious
leaders of all faiths from more than forty countries when it appeared as
a two-page advertisement in the New York Times on January 23, 1966. One
of those signatures, identified in the ad as simply "A Vietnamese
Buddhist Monk", was that of Thich Nhat Hanh; the anonymity had been our
decision, not his...
In the United States, the
slight, fervent monk was greeted with a warmth and hospitality that
surprised him and led him to feel even more strongly that the Americans
would surely stop the war if they knew how terrible were the sufferings
of his people. At first his speeches were confined to that subject. His
audiences were moved to tears as he spoke for the "voiceless peasants"
and their longing for an end to the war that had torn their lives apart,
and told of the young girls who sold their bodies to American soldiers
in order to buy rice that would keep their families alive...
The Fellowship arranged
Nhat Hanh's itinerary and engagements, with the help of the National
Committee of Conscience that had sprung up in nineteen countries, and I
traveled with him through much of the United States and Western Europe.
Alone or with me he met with many dignitaries. In Washington, members of
the Senate and the House, singly or in groups, talked with him, and
Secretary of Defense Robert S. McNamara doubled the time he had allotted
to question the Vietnamese monk closely. Senator Eugene J. McCarthy, the
day before he announced his candidacy for the presidency, closed the
door of his private office against the hubbub of his staff and listened
attentively and courteously to Nhat Hanh presentation, asked thoughful
and informed questions, and when presented with a small collection of
Nhat Hanh's poetry, in turn gave a book of contemporary Greek poetry to
the monk. Later, in New Hampshire, the Minnesota Senator was to quote
from the Vietnamese poet's works.
In London,
Nhat Hanh met with forty members of the House of Commons; in Stockholm
with members of the Swedish Parliament and the Foreign Minister; in Rome
with Pope Paul VI, to whom, he suggested a visit to Vietnam, "first to
Hanoi, because then the Americans woild stop bombing Hanoi, but also to
Saigon, to urge your children there not to hate the Buddhists but to
work with them for a common peace."...(Shortly therafter a papal mission
headed by Monsignor Sergio Pignedoli, a personal friend of the Pope, did
go to Saigon to plead for joint Catholic-Buddhist effort for peace,
precipitated, according to the Rome correspondent of The National
Catholic Reporter, by Nhat Hanh's visit)...
In the Spring of 1966,
Nhat Hanh wrote a book intended for the American people. It had a fairly
good distribution in this country, but it was published as well in eight
other languages and nine other countries. Interestingly, its most
spectacular success was in South Vietnam itself, where a smuggled-in
version was printed illegally and sold more than 100,000 copies (this in
a country where a 3,000 sale constitutes a
best-seller).
Cuốn sách trên chính là
cuốn Hoa Sen Trong Biển Lửa mà bản tiếng Anh: Lotus In A Sea
Of Fire đã được linh mục Thomas Merton, một nhà thần học Ca-Tô nổi
tiếng trên đất Mỹ, viết lời mở đầu, và Alfred Hassler viết lời cuối.
Trong lời mở đầu của Thomas Merton có đoạn như sau:
Những
trang sách phê bình thẳng thắn và khôn khéo mà Nhất Hạnh viết về lịch sử
trong quá khứ của đạo Ca-Tô ở Việt Nam rất là quan trọng, chúng ta phải
công nhận như vậy. Những nhà bảo thủ Ca-Tô có thể sẽ không ưa thích gì
những trang này. Họ sẽ toan tính gạt bỏ chúng như là chống Ca-Tô và do
thành kiến thù nghịch. Tôi rất sẵn sàng thông cảm với nỗi sầu khổ thành
thực của họ, nhưng tôi tiếc phải nói rằng tôi không thể đồng ý với họ.
Thích Nhất Hạnh không hề thù nghịch đạo Ca-Tô hay giáo hội Ca-Tô. Chắc
chắn là những trang sách trên sẽ làm cho một tín đồ Ca-Tô bực bội hổ
thẹn. Họ cần phải như vậy. Công đồng Vatican II đã thừa nhận rõ ràng
rằng không có chỗ đứng nào để cho sự chiến thắng trống rỗng trong lịch
sử truyền giáo Ca-Tô. Giáo hội đã phạm phải những sai lầm nghiêm trọng,
và chúng đã mang lại sự mất tín nhiệm to lớn cho thông điệp Ki Tô. Những
sai lầm đó không phải vì do đức tin hay do Phúc Âm, mà do những thành
kiến về văn hóa và quốc gia, sự bám chặt vào khuôn mẫu tổ chức cứng rắn,
hoặc bị ám ảnh bởi mặt mũi của định chế và uy tín chính trị.
(Là một linh mục Ca-Tô,
Thomas Merton đã cố gắng bào chữa cho Ca-Tô Giáo, làm nhẹ bớt tội lỗi
của giáo hội, trong khi các học giả ngày nay, ở trong cũng như ở ngoài
giáo hội, đã đồng thuận là những sai lầm của các nhà truyền giáo bắt
nguồn từ chính đức tin Ca-Tô vào những điều trong Phúc Âm. TCN)
(The outspoken and
shrewdly critical pages which Nhat Hanh devotes to the past history of
Catholicism in Vietnam are, let us admit it, very important. Catholic
conservatives are probably not going to like these pages. They will
perhaps attempt to dismiss them as mere anti-Catholicism and hostile
prejudice. I am perfectly prepared to sympathize with sincere grief of
these people, but I regret that I cannot agree with them. Thich Nhat
Hanh is not hostile to Catholicism or to the Church. Certainly these
pages make a Catholic squirm with embarrassment. They should do so. The
Second Vatican Council has clearly admitted that there is no place for
empty triumphalism in the Catholic estimate of missionary history.
Serious errors have been made, and they have brought great discredit on
the Christian message. These errors were due not to the faith and to the
Gospel, but to nationalistic and cultural prejudices, attachment to
rigid organizational patterns, or obsession with institutional facades
and political prestige.)
Những hoạt động vận động
cho hòa bình ở Việt Nam của Thầy Nhất Hạnh đã khiến cho Thầy trở thành
đối tượng chống đối và vu khống của cả hai phe Cộng và chống Cộng. Thầy
đã bị báo chí và đài phát thanh Saigon chụp cho Thầy cái mũ "Cộng sản"
và không cho Thầy trở về nước. Trong khi đó thì đài phát thanh Hà Nội
lại gán cho thầy cái danh hiệu "Công cụ của Ngũ Giác Đài" (Tool of the
Pentagon). Những kẻ hiếu chiến và chủ trương giết Việt Cộng cho Chúa
(Kill a gook for God) ở miền Nam thì lên án Thầy là "phản chiến ". Chỉ
có những kẻ "hiếu chiến" mới lên án những người chủ trương hòa bình để
tiết kiệm xương máu người dân là "phản chiến". Nhưng mà những ai phản
chiến?
Đó là giáo hoàng Paul VI,
người đã tuyên bố ở giữa hội trường Liên Hiệp Quốc:
Hãy ngưng ngay cuộc chiến
(ở Việt Nam). Đừng có chiến tranh nữa, không bao giờ có chiến tranh nữa
(Stop the war. No more war, never again war)
Đó cũng là Tổng Thư Ký
Liên Hiệp Quốc U Thant, sau khi quan sát tình hình, đã tuyên
bố:
- Cuộc chiến chênh lệch giữa kỹ thuật
Hoa Kỳ và một nước nhỏ kém mở mang (VN) là một trong những cuộc chiến
"man rợ nhất" của lịch sử.
(The Secretary of the
United Nations, U Thant, was driven by his observations to call this
mismatch between the United States and a small underdeveloped nation one
of the "most barbarous" wars in history)
Đó cũng là 2700 mục sư,
linh mục, mục sư Do Thái (Rabbi) đã ký tên dưới một bức thư gửi Tổng
Thống Johnson, đăng trên tờ The New York Times ngày 4 tháng 4 năm
1965 kêu gọi: "Nhân danh Thiên Chúa, Hãy ngưng ngay chiến tranh"
(In the Name of God, STOP IT).
Đó cũng là 65 giáo sư đại
học Saigon, ngày 16 tháng 1, 1968, với bản tuyên ngôn kêu gọi "Các
phe hiếu chiến hãy kéo dài vô thời hạn cuộc ngưng chiến vào dịp Tết và
đàm phán với nhau ngay để có một dàn xếp hòa bình." (We appeal to
all the belligerent parties to extend indefinitely the Tet cease fire
and to negotiate immediately a peaceful settlement).
Và còn những bậc trí thức
vang danh thế giới như Bertrand Russell, Jean Paul Sartre, hàng trăm
giáo sư đại học trên khắp thế giới, hai anh em cùng là linh mục Ca-Tô
Daniel và Philip Berrigan, chưa kể đến hàng trăm ngàn sinh viên đại học
Mỹ đã thường xuyên xuống đường "phản chiến". Vậy "phản chiến" thì sao?
Ai có quyền "kết tội" những người "phản chiến"? "Phản chiến" là một
quyền căn bản của con người, ít ra cũng là quyền của những người Việt
Nam yêu nước, yêu dân tộc, yêu hòa bình, không chấp nhận bạo lực, nhất
là những bạo lực này lại từ những thế lực ngoại quốc mang
đến.
Với vài nét về Thầy Nhất
Hạnh như trên, tôi nghĩ cũng đủ để cho chúng ta thấy Thầy Nhất Hạnh là
mẫu người như thế nào. Ở đây, tôi không nói đến những đóng góp của Thầy
cho Phật Giáo nói chung, Phật Giáo Việt Nam nói riêng, kể từ 1975 đến
nay, những đóng góp văn hóa qua hàng trăm tác phẩm, cũng như những đóng
góp thiết thực trong vấn đề tu tập, qua các khóa tu trong nhiều quốc gia
trên thế giới. Những đóng góp này đã được thế giới và người Việt Nam, ở
trong nước cũng như ở hải ngoại, biết đến nhiều.
Bây giờ tôi xin trở lại
hiện tượng chống đối Thầy Nhất Hạnh một cách quái gở ở quận Cam. Như
trên đã nói, trong mục "Chiều Khác Của Một Vụ Tranh Cãi Về Thiền Sư
Thích Nhất Hạnh" đăng trên Nhật Báo Viễn Đông ngày 12 tháng
10, có bài của Lê Văn Quang và phần đầu bài của Lý Hoàng
Thái.
Sau khi phân tích đoạn
tiếng Anh trích dẫn ở trên trong bài thuyết Pháp của Thầy Nhất Hạnh ở
New York, ông Lê Văn Quang cho rằng "Chúng ta không thể kết tội (sic)
HT Nhất Hạnh vì người phê bình không đọc kỹ và nhiều người chưa bao giờ
đọc bản tiếng Anh, chỉ nghe người khác nói rồi nói theo".
Còn ông Lý
Hoàng Thái viết: "Một số người đứng trên quan điểm một người lính,
một người chiến đấu, hoặc một người thích súng đạn bắn giết để luận xét
quan điểm của một người tu hành. Một nhà sư Phật Giáo thì không thể hô
hào chiến tranh cho dù cuộc chiến đó là cuộc chiến có chính
nghĩa."
Theo tôi, chẳng phải là họ
không đọc kỹ mà là họ đã cố tình xuyên tạc để gây thù hận trong đám
người cuồng tín, đám người đã quen thuộc với sự nô lệ tâm linh nên đánh
đồng Thầy Nhất Hạnh với Phật Giáo. Tôi xin chứng minh qua bức thư ngỏ
sau đây của Gia Đình Phật Tử Vùng Orange County chiếm trọn một trang báo
trên vài tờ nhật báo tại Orange County:
THƯ
NGỎ
XIN ĐỪNG CHÀ
ĐẠP LÊN TỰ DO TÍN NGƯỠNG CỦA CHÚNG TÔI
KÍNH GỞI:
TRUYỀN THÔNG, BÁO CHÍ ORANGE COUNTY
- Trong nhiều tuần lễ vừa
qua, một vài làn sóng phát thanh tại Orange County với đề tài nói về
Thiền Sư Thích Nhất Hạnh đã liên tiếp bàn luận cho thính giả gọi vào
đã tạo sự kích động, gây ra một cái nhình lầm lẫn, bôi lọ Phật
Giáo.
- Việc Thầy Nhất Hạnh đã
phát biểu trên tờ báo New York Times là ý kiến riêng của Thầy và chỉ
có Thầy mới là người sáng tỏ điều này, chứ không liên quan gì đến Phật
Giáo và Đồng Bào Phật Tử.
- Kết quả hiện nay là:
Một số Chùa trong vùng quận Cam đã bị gọi điện thoại chửi bới, hăm dọa
dùng những lời lẽ thô tục với những Sư Cô hầu hết đều từ lứa tuổi 70
đến trên 80 tuổi. Chuông điện thoại gọi đến liên tục gây trở ngại rất
nhiều trong công việc tu tập.
- Kính xin quý vị truyền
thông, báo chí ngưng ngay lập tức những lời kêu gọi, phỉ báng, nhục mạ
tôn giáo của chúng tôi…
- Đừng lợi dụng bôi nhọ
tôn giáo của chúng tôi…
- Nam Mô A Di Đà
Phật
Chúng ta thấy ngay rằng
những hành động trên là những hành động chủ ý đánh phá Phật Giáo chứ
không chỉ nhắm riêng Thầy Nhất Hạnh. Có phương tiện truyền thanh và báo
chí trong tay, họ đã xuyên tạc sự việc, như tôi sẽ chứng minh trong một
phần sau, lạc dẫn dư luận quần chúng và từ đó họ đã dựa vào những thông
tin ngụy tạo để chống đối Thầy Nhất Hạnh và Phật Giáo. Họ thừa biết rằng
Thầy Nhất Hạnh không phải là Giáo Hoàng của Phật Giáo. Họ cũng thừa biết
rằng Phật tử không có bổn phận phải "quên mình trong vâng phục", một
giáo lý căn bản trong Ca-Tô giáo Rô-Ma, và không có bổn phận phải nghe
theo hoặc tin theo bất cứ những gì Thầy Nhất Hạnh nói. Người Phật tử
dùng đầu óc và sự hiểu biết của chính mình để xét đoán sự việc, chỉ tin
theo những gì mình thấy là đúng, là không sai giáo lý, là có lợi cho
mình cho người trong con đường tu tập. Kinh Phật thuyết cho dân Kalama
đã dạy như vậy. Cho nên, bất cứ Phật tử nào cũng phải hiểu rằng, tiếng
nói của Thầy Nhất Hạnh không phải là tiếng nói của Phật Giáo. Tất cả chỉ
là quan điểm cá nhân của Thầy, không dính dáng gì tới các bậc tu hành
khác trong Phật Giáo. Nhưng họ, với hành động càn rỡ vô liêm sỉ, phi lý,
đã chủ tâm"gọi điện thoại đến các Chùa ở vùng quận Cam để chửi bới,
hăm dọa dùng những lời lẽ thô tục với những Sư Cô hầu hết đều từ lứa
tuổi 70 đến trên 80 tuổi." bất kể đến đạo lý, bất kể đến bản chất
man rợ trí thức của những hành động phi lý trên. Tư cách của họ thuộc
hạng người nào? nếu không phải là tư cách của những kẻ cuồng tín, đầu óc
thiển cận, hẹp hòi, đố kỵ?? Tôi cho rằng nhóm người này không phải là
các Phật tử, vì không có Phật tử nào lại đi hành động một cách đần độn
vô lối như vậy. Tôi đề nghị mỗi Chùa nên trang bị một cái ID phone để
ghi xuất xứ nơi gọi, và nếu biết rõ, có thể đưa những kẻ sách nhiễu, hăm
dọa ra tòa. Báo Giao Điểm trước đây bị một người vu khống là Cộng Sản,
Giao Điểm đã đưa người đó ra Tòa và Tòa đã phạt người đó 70 ngàn đô la
về tội vu khống, và người đó đã phải bỏ trốn biệt tích.
Qua những bài viết của các
ông Lê Văn Quang và Lý Hoàng Thái trong tờ Viễn Đông Thời Báo ngày 12
tháng 10, 2001, và bài VÀI Ý KIẾN VỀ BÀI THUYẾT PHÁP CÔNG
CỘNG CỦA THIỀN SƯ NHẤT HẠNH TẠI NHÀ THỜ RIVERSIDE, NY, 25.09.2001 của Bùi Kha trên Trang Nhà Giao Điểm, tôi có
thể biết rằng ông Đỗ Sơn, chủ đài VOV, sau khi kích động quần chúng trên
đài VOV bằng những thông tin sai lạc, từ đó có những cò mồi gọi phone
vào đài VOV để nói hỗn với Thầy Nhất Hạnh, ngày 14 tháng 10, 2001 đã tổ
chức một cuộc "Hội Luận" của cái gọi là "Hội Ký Giả Việt Nam Hải Ngoại"
mà ông làm chủ tịch để tố khổ Thầy Nhất Hạnh. Bùi Kha đã trích báo Người
Việt ra ngày 16 tháng 10, 2001 và tóm tắt luận cứ của cuộc "Hội Luận"
gồm ba điểm sau đây để tố Thầy Nhất Hạnh:
Tôi xin có vài ý kiến về
những điểm trên.
Về điểm 1, như trên tôi đã
nói, năm 1968, Thầy Nhất Hạnh đang ở ngoại quốc, và cái tin về con số
300000 ngàn dân mà Thầy nghe được không chính xác. Đúng. Tỉnh Bến Tre
chỉ có khoảng 75000 dân. Nhưng 33 năm qua rồi, con số Thầy nhớ có đúng
hay không? Điều này không quan trọng vì vụ ném bom tỉnh Bến Tre Thầy đưa
ra chỉ nêu lên một thí dụ về một trường hợp đã khiến Thầy nổi giận.
Thông điệp chính của Thầy trong bài thuyết Pháp là phương pháp tu hành
Thầy theo để chế ngự được sự nóng giận, và quan niệm bạo lực chống bạo
lực sẽ không giải quyết được cỗi rễ của sự phát sinh ra bạo lực của
Thầy. Vậy khi ông Đỗ Sơn trích dẫn một câu ngoài toàn bộ vấn đề (out of
context) và dựa vào một tiểu tiết không quan trọng trong đó để đưa đến
kết luận trong điểm 2 là một việc làm thiếu sự lương thiện trí thức, nếu
ông được coi là một nhà trí thức.
Đức Giáo Hoàng cũng không
hề hô hào Hoa Kỳ phải trừng phạt khủng bố. Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng
khuyên không nên lấy bạo lực chống trả bạo lực, vì bạo lực chỉ gây thêm
bạo lực. Họ cũng phản chiến cả đấy, ông hãy tổ chức "Hội Luận" chống họ
đi. Và còn hàng ngàn người đang tiếp tục xuống đường trên khắp nước Mỹ
để chống chiến tranh. Ông tính sao với họ? Tại sao ông chỉ đi tố khổ một
ông Sư và tố khổ lan sang cả Phật Giáo? Vậy ông hãy nói rõ ý đồ của ông
lên xem sao. Chẳng cần phải nói tôi cũng biết ông thuộc hạng người nào
và ý đồ ra sao.
Không phải chỉ có Giáo
Hoàng, Đức Đạt Lai Lạt Ma, và Thầy Nhất Hạnh là có chủ trương không
khuyến khích chiến tranh mà còn có nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo khác cũng
như một số người dân thường. Họ đã tổ chức biểu tình chống chiến tranh
tại Washington D.C., San Francisco, Chicago và vài nơi khác.
Mike Dorning, viết về
những cuộc biểu tỉnh chống chiến tranh ở Chicago, đã tường thuật trên tờ
Chicago Tribune ngày 30 tháng 9, 2001 như sau:
Lance Wilcox viết trong tờ
Chicago Tribune ngày 21 tháng 10, 2001 như sau:
(In the use of
force, the line between enough and too much is very hard to see, and
excess is dreadful. We need the critics of our policy to be loud and
clear in their opinions because, as happened in the 1960s, at some point
they could prove to be right. They alone will be able to call us back
from the brink before we plunge over.)
Đây là quyền phát biểu ý
kiến tự do trên đất Mỹ, một quyền được tuyệt đối tôn trọng. Ông Đỗ Sơn
và đồng bọn hãy văn minh lên một chút, đừng làm xấu lây đến cả cộng đồng
người Việt Nam tị nạn phải mang tiếng là cộng đồng của những người chậm
tiến của thời Trung Cổ. Các ông phải nhớ rằng các ông đang sống trên đất
Mỹ, không phải ở trong những ốc đảo ngu dốt ở Việt Nam (từ của Linh Mục
Trần Tam Tĩnh), và người dân Việt di cư có quyền hành động, phát biểu ý
kiến riêng với điều kiện là không vi phạm luật pháp, không gian dối,
không xuyên tạc sự thật.
Định nghĩa sau đây về tội ác chiến tranh đã được Đại Hội Đồng
Liên Hiệp Quốc chấp thuận: "giết hay hành hạ tù binh chiến tranh, giết
con tin, hủy diệt thị trấn, tỉnh lỵ, làng mạc hoặc những tàn phá khác."
Hiển nhiên là Mỹ Lai và Bến Tre vi phạm định nghĩa trên của luật quốc
tế, nhưng cả hai trường hợp trên và nhiều trường hợp tương tự khác đã
được sự thỏa thuận chính thức của Bộ Quốc Phòng."
The following definition
of war crimes has been adopted by the General Assembly of the United
Nations: "..murder or ill-treatment of prisoners of wars, killing of
hostages, wanton destruction of cities, towns, or villages or other
devastation." Obviously My Lai and Ben Tre violate this definition of
international law, yet both events as well as many similar ones have had
the official sanction of the Department of Defense.)
(George C. Herring,
America's Longest War, The U.S and Vietnam, 1950-1975, John Wiley
& Sons, New York, 1979, p. 189: The offhand remark of a U.S. Army
Officer who had participated in the liberation of the delta village of
Ben Tre - "We had to destroy the town to save it" - seemed to epitomize
(coi là mẫu mực) the purposeless destruction of the war.)
(James P. Harrison, The
Endless War: Vietnam's Struggle For Independence, Columbia
University Press, New York, p. 172: Then in 1968, the province Kien Hoa
was bizarrely immortalized by the statement of an American officer who
stated of Ben Tre City in March 1968, we had "to destroy the town to
save it" after his forces had killed an estimated 550 and wounded
another 1,200 of its 75,000 inhabitants..)
Vậy thì, thưa với ông Đỗ
Sơn và Hội Ký Giả Việt Nam Hải Ngoại: Có hay không có vụ hủy diệt tỉnh
Bến Tre? Các ông đã dựa vào mớ kiến thức ăn đong của các ông về một sự
kiện lịch sử đã quá rõ ràng để đánh phá một tu sĩ Phật Giáo và luôn cả
Phật Giáo. Có thể các ông cũng đã biết rõ sự thật về vụ Bến Tre nhưng
vẫn cố tình phủ nhận để có cớ đánh phá Phật Giáo một cách vô liêm sỉ.
Các ông thật là chủ quan, coi cộng đồng Việt Nam hải ngoại gồm toàn
những kẻ ngu si, không biết gì về lịch sử và âm mưu của các ông hay
sao?
Qua phần trình bày trên,
tôi đã chứng minh rằng những hoạt động chống đối của ông Đỗ Sơn, người
đọc tiếng Anh mà không hiểu, và một số người chỉ nghe mà không đọc, đối
với Thầy Nhất Hạnh và Phật Giáo là những hành động cố ý, càn rỡ, qua thủ
đoạn xuyên tạc, bóp méo lịch sử, bất kể đến lý lẽ, đến sự thật, đến liêm
sỉ và đến sự lương thiện trí thức như tôi tóm tắt sau đây.
Để kết luận tôi xin có vài
lời về lời tuyên bố của ông giáo sư Lưu Trung Khảo mà Bùi Kha đã trích
dẫn từ báo Người Việt:
Mang danh là một giáo sư
mà ông cũng đi theo con đường "theo đóm ăn tàn", tuyên bố lăng nhăng.
Ông phải biết, Phật Giáo không phải là đạo thờ Thần nên không làm gì có
Thần quyền. Thần quyền tự phong chỉ có trong các đạo thờ Thần. Bài
thuyết Pháp của Thầy Nhất Hạnh không có một đoạn nào nói về chính trị.
Nội dung của bài là chế ngự sự nóng giận, tránh những hành động hấp tấp,
suy nghĩ tìm ra nguyên nhân sự việc, và khước từ bạo lực theo tinh thần
Phật Giáo. Đức Giáo Hoàng cũng khuyên không nên dùng bạo lực, có phải là
chính trị không? và ông phán xét nhà tu hành đó với tư cách là một công
dân của nước nào? Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng vậy. Ông phán xét ngài với tư
cách của một công dân nước nào? Thầy Nhất Hạnh đến nước Mỹ với tư cách
là khách của nước Mỹ, cũng như bất cứ người nào từ ngoại quốc đến nước
Mỹ một cách hợp pháp. Vậy ông phán xét Thầy với tư cách là một công dân
của nước nào? Nước Bolsa? Nhưng vấn đề chính là trình độ hiểu biết cỡ
ông và của những người như Đỗ Sơn, những người gọi điện thoại đến các
Chùa hăm dọa bằng những ngôn từ thô lỗ, tục tĩu v..v... có đủ tư cách để
phán xét những bậc như Giáo Hoàng, Đức Đạt Lai Lạt Ma, và Thầy Nhất Hạnh
về chuyện này hay sao? Các ông tự nghĩ thì sẽ thấy câu trả
lời.