|
19 tháng 6, 2010 |
Lời Nói Đầu:
“Lịch sử không thiên vị” [History doesn’t take
side], đó là câu người Mỹ thường nói. Người viết sử có thể thiên
vị, thiên vị trong cách diễn giải (interpret) những sự kiện lịch sử,
nhưng không thể thay đổi những sự kiện lịch sử theo ý mình. Thí
dụ, ngày 12 tháng 3 năm 2000, tại quảng trường Phê-rô, Giáo Hoàng John
Paul II cùng bộ tham mưu của ông lên tiếng xưng thú cùng thế giới 7 núi
tội ác của Ca-tô Rô-MaGiáo. Đó là một sự kiện. Còn diễn giải
sự kiện đó như là để “thanh tẩy ký ức” hay “thực hành đức ăn năn thống
hối” của Giáo hội, hay theo một diễn giải khác, đó chỉ là “những lời giả
dối trên đầu môi chót lưỡi” thì đó lại là chuyện khác. Một thí dụ
khác. Trong cuộc chiến Việt Nam thì Mỹ đã thua. Đó là một sự
kiện. Còn diễn giải sự kiện đó như là “Mỹ không muốn thắng” hay vì
“Bắc Việt được Trung Cộng giúp quân cụ, vũ khí” v..v.. thì đó là chuyện
khác. Cho nên, khi đọc về những sự kiện lịch sử, chúng ta cần phân
biệt sự kiện và những quan điểm về những sự kiện đó. Chúng ta có
thể không đồng ý với cách diễn giải nào đó nhưng không thể phủ nhận sự
kiện.
Lịch sử Ca-Tô Rô-MaGiáo là một lịch sử ô nhục, tàn bạo
dã man, đẫm máu. Đó là một sự kiện. Ô nhục vì có nhiều Giáo
hoàng, những đại diện của "Chúa lòng lành, can tội gian dâm, giết người,
loạn luân, ăn cắp v…v… {Xin đọc trên
http://giaodiemonline.com/2007/06/duccha.htm}, và ngày nay, thế giới
mới phanh phui ra vụ các linh mục loạn dâm, ấu dâm với sự đồng lõa bao
che, bảo vệ của tòa thánh Vatican, từ giáo hoàng trở xuống đến các hồng
y, tổng giám mục ở các địa phương, tuy rằng những chuyện này đã xảy ra
trong suốt giòng lịch sử của Ca-tô Rô-Ma Giáo. Tàn bạo dã man vì
đã sáng chế ra những hình cụ khủng khiếp nhất để tra tấn những người lạc
đạo hay dị giáo [Xin đọc
http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/CGchinhsu/CGCS3.php] khoan kể đến
các vụ tra tấn và thiêu sống phù thủy. Có người biện hộ rằng lịch
sử dã man tàn bạo của Giáo hội Ca-tô Rô-ma đã là chuyện xa xưa rồi, từ
thời Trung Cổ, còn chuyện linh mục loạn dâm chỉ là chuyện nhỏ thôi, và
ngày nay Giáo hội đã trở nên thánh thiện. John Remsburg đã nhận
định rất đúng trong cuốn False Claims, trang 24:
“Ngày nay Giáo hội không còn giết được nữa vì không
còn quyền lực để mà giết. Bó củi (để thiêu sống người) và thanh gươm (để
chém giết người) đã bị tước khỏi những bàn tay đẫm máu của giáo hội…“
Nhưng thực ra không hẳn như vậy, vì ngay trong thế kỷ 20, bất cứ nơi
nào mà chính quyền nằm trong tay Ca-tô Rô-MaGiáo thì nơi đó không ít thì
nhiều cũng xảy ra những vụ kỳ thị, tàn sát ngoại đạo, chủ trương độc
tôn, đặt giáo dục tôn giáo làm nền tảng giáo dục quốc gia v…v…
Những sự kiện lịch sử về những chính quyền Ca-tô Pavelic ở Croatia,
Franco ở Tây Ban Nha, Ngô Đình Diệm ở Nam Việt Nam đã chứng tỏ như vậy.
Bá Tước Avro Manhattan là một chuyên gia nghiên cứu về
Vatican. Những cuốn sách của ông như “The Vatican’s Holocaust”,
“Vietnam: Why Did We Go?”, “The Vatican Billions”, “The
Vatican in World Politics”, “Catholic Imperialism and World
Freedom” đều viết về những sự kiện lịch sử liên quan đến Vatican với
đầy đủ tài liệu. Những cuốn sách này đều có bán trên thị trường.
Độc giả có thể chuyển tải hai cuốn “The Vatican’s Holocaust” và “Vietnam:
Why Did We Go” từ trên Internet. Trong lịch sử của Ca-tô
Rô-maGiáo [Công giáo] “Những Sự Tàn Sát Khủng Khiếp Của Vatican”
[The Vatican’s Holocaust] trong đệ nhị Thế Chiến, thế kỷ 20, chỉ là
những sự kiện của một chương nhỏ trong 7 núi tội ác của Ca-tô Rô-maGiáo
mà Giáo hoàng John Paul II cùng Bộ Tham Mưu của ông đã xưng thú trước
thế giới tại Vatican ngày 12 tháng 3 năm 2000.
Cuốn “Những Sự Tàn Sát Khủng Khiếp Của Vatican” [The Vatican’s
Holocaust] viết về những tội ác khủng khiếp của Ca-tô Rô-maGiáo ở
Croatia trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, và những hoạt động vô đạo đức của
Vatican sau Đệ Nhị Thế Chiến mà báo chí và TV Âu Mỹ đã phanh phui ra.
Đại khái như Vatican đã dùng những cơ quan từ thiện như Caritas
International, Red Cross và một số tu viện làm những đường giây gọi là
"Giây chuột" (Ratlines) với những dịch vụ như cấp căn cước giả, thông
hành giả cho nhiều tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã và Croatia, những
chức sắc Ca-tô, ẩn náu trong các tu viện của Ca-tô Rô-maGiáo, chờ cơ hội
chuồn sang Nam Mỹ, phần lớn là sang Á Căn Đình (Argentina), trốn tránh
pháp luật.
Cuốn Vietnam: Why Did We Go? của Avro Manhattan đã có người đang
dịch và đăng trên giaodiemonline.com. Tôi thành khẩn mời gọi những người
quan tâm đến tương lai dân tộc, với hi vọng càng ngày càng có nhiều bạn
trẻ, với tinh thần vô úy của người dân Việt, hãy tham gia vào mặt trận
văn hóa, dịch và phổ biến những tác phẩm nghiên cứu về Ki Tô Giáo nói
chung, Ca-tô Rô-maGiáo nói riêng, và cũng hi vọng, vì tương lai xa của
dân tộc, những dịch phẩm này sẽ được phổ biến rộng rãi ở Việt Nam để mở
mang dân trí. Mở mang dân trí là con đường hữu hiệu nhất để ngăn ngừa
những hành động cuồng tín có phương hại đến xã hội, quốc gia.
Chúng ta phải hiểu rằng, những tác phẩm thuộc loại nghiên cứu này đã
được phổ biến công khai và rộng rãi trong các nước Âu Mỹ đa số theo Ki
Tô Giáo mà không hề có vấn đề gì. Vậy tại sao ở Việt Nam chỉ có
khoảng 5-7% theo Ki Tô Giáo mà chúng ta lại sợ có vấn đề? Những luận cứ
dùng để ngăn chận những thông tin thuộc loại nghiên cứu trên, như “tránh
gây xung đột tôn giáo”, “để đoàn kết dân tộc”, “tránh gây chia rẽ”
v..v.. thực ra chỉ là những lý do ngụy biện, không có tính cách thuyết
phục. Chẳng lẽ người dân Việt Nam ngày nay lại lạc hậu, cuồng tín đến độ
xung đột nhau, chia rẽ nhau, mất đi sự đoàn kết với nhau chỉ vì mấy tác
phẩm nghiên cứu đã được phổ biến rộng rãi trong thế giới Tây phương hay
sao? Về Việt Nam mấy chuyến tôi thấy bản dịch các tác phẩm ngoại quốc
tràn ngập trong xã hội, tại sao riêng về tôn giáo, một bộ môn cũng như
mọi bộ môn khác, lại bị cấm kỵ? Chẳng lẽ trong thời đại này mà chúng ta
lại sợ một thiểu số ở Việt Nam có quyền hành như Ca-tô Rô-maGiáo trong
thời Trung Cổ ở Âu Châu hay sao?
Vì quá bận tôi không có thì giờ dịch toàn cuốn The Vatican’s Holocaust.
Cho nên, để độc giả biết qua nội dung của cuốn sách này, tôi xin dịch
phần Lời Tựa và Lời Nói Đầu
của tác giả Avro Manhattan. Trong bài này, tôi dịch những đoạn đặc biệt
trong Chương 4 trong cuốn sách trên : “Cơn Ác Mộng Của Một Quốc Gia”
và sau đó tôi sẽ dịch những đoạn đặc biệt trong Chương 23 với đầu đề “Việt
Nam – Croatia ở Á Châu” [Vietnam—the Croatia of Asia] Tuy ở mức độ
khác nhau nhưng chúng ta cũng có thể thấy những nét tương đồng giữa
chính quyền Pavelic ở Croatia và chính quyền Ngô Đình Diệm ở Nam Việt
Nam qua tác phẩm The Vatican’s Holocaust của Bá Tước Avro
Manhattan.
LỜI TỰA CHO ẤN BẢN Ở MỸ:
Những
Sự Tàn Sát Khủng Khiếp Của Vatican không phải là một từ dùng sai, một lời
lên án, và hẳn nhiên không phải là một sự suy đoán.
Đó là một sự kiện lịch sử. Chủ nghĩa dân tộc điên dại và chủ nghĩa
giáo điều tôn giáo là hai nhân tố chính. Trong thời Croatia là một quốc gia
Ca-tô độc lập, hơn 700000 (7 trăm ngàn) người, đàn ông, đàn bà và trẻ con đã
bị bỏ mạng. Nhiều người bị hành quyết, tra tấn, để cho chết đói, chôn
sống, hay thiêu sống. Hàng trăm người bị cưỡng bách phải theo đạo
Ca-tô. Các linh mục Ca-tô làm trưởng trại tù tập trung; làm các sĩ quan
trong quân đội và phạm những tội ác như trên. 700000 người trên một dân số
vài triệu, theo tỷ lệ, giống như là một phần ba người dân Mỹ đã bị tận diệt
bởi dân quân Ca-tô. Những gì thâu thập được trong cuốn sách này sẽ chứng
minh cho những sự kiện đó. Ngày tháng, và nơi chốn, cũng như là những hình
ảnh trong đó để chứng minh những sự kiện này. Những sự kiện này cần phải cho
công chúng Mỹ biết, không phải để cổ vũ sự trả thù, mà để cảnh báo cho họ
mối nguy hiểm có thể đến với bất cứ quốc gia nào, ở Âu Châu hay ở Tân Thế
Giới, khi mà ở đó chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc và chủ nghĩa bè phái đồng minh
với sự bất khoan dung tôn giáo. Cần phải đánh giá tác phẩm này mà không có
thành kiến và như là một bài học; nhưng quan trọng hơn nữa, đó là một cảnh
báo cho tương lai của người Mỹ, bắt đầu với nước Mỹ.
[Lẽ dĩ nhiên, cũng là một cảnh báo cho tương lai của người Việt Nam]
(a)
Lời Nói Đầu: Cùng Các Độc Giả Ấn Bản Anh Ngữ:
Cuốn sách này đã bị đả kích, lên án, bị cấm, chà đạp, phá hủy và ngay cả bị
đốt bỏ nhiều lần, cũng nhiều lần như nó đã được trích dẫn, giới thiệu, in
lại và khen ngợi ở nhiều nơi trên thế giới, vì những biến cố và những khám
phá mà cuốn sách đã trình bày. Một cá nhân thông thường không thể chấp
nhận những sự kiện sửng sốt đã phát hiện, rằng, thí dụ, chỉ vài năm trước
đây Giáo hội Ca-tô đã chủ trương phải cưỡng bách người khác vào đạo, lập nên
những trại tù, và chịu trách nhiệm về những sự đau khổ, tra tấn và hành
quyết hàng trăm ngàn người phi-Catô. Những hành động trên đã gây ra
một cách lạnh lùng bởi giáo dân và giới giáo sĩ. Hơn nữa, nhiều
hành động tàn bạo như trên lại do chính một số linh mục và ngay cả các vị
trong các dòng tu Ca-tô thi hành. Một trong những mục đích chính của cuốn
sách này là kể lại ở đâu, khi nào và những ai đã phạm những tội ác tàn bạo
như trên. Tác giả đã để ra nửa thập niên để điều tra trước khi chấp
nhận những chuyện có vẻ không thể tin được.
Kết quả của công cuộc nghiên cứu này, thu thập từ những nguồn tài liệu có
thẩm quyền và khác nhau. Trong đó có những người mà về sau tác giả
quen biết. Một số người trong họ là những người sùng tín, kể lại ở đây
những biến cố quân sự và chính trị . Một số người khác là những nhân
chứng. Một số không phải là nạn nhân của những sự tàn bạo khó tin mà
Giáo hội Ca-tô đã chấp thuận và đẩy mạnh. Tên của những nhân vật trong
cuốn sách, giáo dân Ca-tô, quân nhân, linh mục, giám mục, tổng giám mục và
hồng y, cùng những nạn nhân phi- Ca-tô của họ, đàn ông, đàn bà, trẻ con, kể
cả những người trong giới giáo sĩ, đều là có thực như tên của các địa danh,
làng mạc và thị trấn nơi xảy ra những vụ tàn sát tàn bạo. Bất cứ người
nào cũng có thể kiểm chứng tính xác thực của những tài liệu nếu họ muốn.
Hồ sơ và hình ảnh về những trại tù tập trung của Ca-tô Rô-maGiáo, về những
cuộc tàn sát hàng loạt, về những cuộc cưỡng bách cải đạo, một số được nêu
trong cuốn sách này, được giữ trong văn khố của chính quyền Nam Tư, của Giáo
hội Chính Thống, của Liên Hiệp Quốc và của những cơ quan chính quyền khác.
Cuộc cách mạng hòa hợp hòa giải tôn
giáo để thống nhất Ki Tô Giáo [của Ca-tô Rô-maGiáo], tuy có vẻ hấp
dẫn, nhưng đã cho thấy không gì hơn là một “Con Ngựa Thành Troy” [một
thủ đoạn lừa đảo ngụy trang để cho đối thủ, vì sự thiếu hiểu biết nên đã mời
kẻ thù vào trong pháo đài kiên cố của mình] qua đó quyền lực Ca-tô, khoác
bộ áo đương thời hiện đại, tiếp tục tự quảng cáo hữu hiệu như tự bao giờ.
Những thí dụ đáng chú ý về sự khủng bố của Ca-tô Rô-maGiáo ở Malta và Việt
Nam, nhiều vụ xảy ra dưới triều đại của “Giáo hoàng già tốt bụng John” và
dưới triều đại của Giáo hoàng Paul VI, không cần phải giải thích gì hơn.
Đó là những chứng cớ rằng Giáo hội Ca-tô, tuy với tất cả những chiêu bài về
giải phóng, tình huynh đệ và sự tiến bộ cập nhật, căn bản không hề thay đổi
một mảy may. Ý nghĩa báo gở về những gì trình bày ở đây cần phải
nghiên cứu cẩn thận. Nếu không quá khứ sẽ lại tái diễn. Thật
vậy, ngay lúc này. Trong thời này.
Sau đây xin mời độc giả đọc bản dịch những đoạn chính trong
Chương 4: The Nightmare of a Nation trong cuốn “The Vatican’s Holocaust” của
Bá Tước Avro Manhattan:
CƠN ÁC MỘNG CỦA MỘT QUỐC GIA
Vương quốc độc lập Croatia, vừa mới chính thức hiện hữu, đưa ra sự hăng say
nồng nhiệt để hoàn thành những ước vọng ngoan cố bởi những kẻ chủ trương nền
tảng tôn giáo và chính trị của quốc gia: Vatican và Phát-Xít. Lấy
nguồn cảm hứng từ ông Vua từ ái xa xưa, Vua Yomislav II, dưới quyền bổ nhiệm
của Vatican, bảo vệ bởi Hitler, canh chừng bởi Mussolini, thống trị bởi
những tên khủng bố Ca-tô [Catholic terrorists], cảnh sát trị bởi những lưỡi
lê Ca-tô [Catholic bayonets], tân quốc gia Croatia bắt đầu tự biến đổi thành
một cộng đồng lý tưởng của giáo lý Ca-tô.
Một quốc gia, theo sự độc tài của giáo hoàng, phải được cai trị không những
bởi quyền hành dân sự mà cũng còn phải dưới quyền hành của tôn giáo. Do đó,
Pavelic, quyết định rằng một người sùng tín tôn giáo như hắn, phải nhận lãnh
quyền hành và bổn phận cai trị, và rằng người đứng đầu của hệ thống Giáo sĩ
Ca-tô đương nhiên phải là người cai trị tân quốc Croatia. Tổng giám mục
Stepinac, tổng giám mục ở Zagreb, Croatia, và những người khác, thành viên
của hệ thống giáo sĩ, tương đương với tổ chức tôn giáo Utashi, được bầu làm
những thành viên của Sabor (Totalitarian Parliament = Quốc Hội toàn trị). [Ustashi
là một tổ chức khủng bố do một số trong hàng giáo phẩm Công giáo ở Croatia
cầm đầu, gồm có cả Hồng Y, Giám mục, Linh mục. Tổ chức này đã tàn sát hơn
700.000 dân Serb
(theo Chính Thống Giáo), dân Do Thái và Gypsies, và Vatican có liên hệ
mật thiết với tổ chức này. (Chicago Tribune, July 23, 1997,
Associated Press: "Ustashas who controlled Croatia during the war
exterminated hundreds of thousands of Serbs, Jews and Gypsies and
historians have denounced the Vatican for maintaining ties to the regime led
by Ante Pavelic)].
Kiến trúc quân sự, chính trị, và tôn giáo của tân quốc Croatia được thiết
lập, Pavelic và Stepinac đưa ra chính sách để biến đổi toàn thể kiến trúc
này thành một quốc gia thực sự Ca-tô – Phát-xít đúng như nó phải như vậy.
Những phong trào, viện giáo dục, con người, và mọi thứ khác phải theo đúng
từng chữ một và tinh thần của chủ thuyết Ca-tô. [Movements,
institutions, men, and everything else were made to conform to the letter
and spirit of Catholicism] Mọi đối lập có khả năng – Cộng sản, những
nhà theo chủ thuyết xã hội, tự do – đều bị cấm hay cầm tù. Các nghiệp đoàn
thương vụ đều bị dẹp bỏ, nhưng tổ chức công nhân trở thành những biếm họa
[caricatures] đáng thương của dĩ vãng, báo chí bị tê liệt nếu không phải là
đều bị bịt miệng, tự do ngôn luận, tự do bày tỏ ý kiến và tư tưởng trở thành
những ký ức của quá khứ. Mọi nỗ lực được thi hành để bức hiếp (dragoon)
giới trẻ vào những tổ chức bán quân sự Ca-tô [Catholic semi-military
formations]; những đứa trẻ được đặt dưới quyền của các linh mục và nữ
tu. Giáo dục Ca-tô, giáo lý Ca-tô, tín lý Ca-tô đều bắt buộc trong các
trường học, trong mọi phòng sở, mọi hãng xưởng, và khắp nơi đều ở dưới gót
sắt của một quốc gia mới. [Catholic teaching, Catholic tenets, Catholic
dogma became compulsory in all schools, in all offices, in all factories,
and everywhere the iron heel of the new State was felt] Ca-tô giáo được
tuyên dương là tôn giáo chính của quốc gia. Những tôn giáo khác và các tín
đồ đều bị loại, khai trừ, nhất là Chính Thống Giáo; trong khi người Do Thái
bị bắt buộc phải mang dấu ngôi sao của David trên áo, mọi thành viên của
Giáo hội Chính Thống đều sống trong sự sợ hãi là tài sản bị tịch thu và sự
bất an của bản thân và gia đình. Tín đồ Chính Thống Giáo đột nhiên trở
thành nạn nhân. Không bao lâu, trong mọi công viên và trên các phương tiện
giao thông công cộng, đều có những tấm bảng ghi: “Cấm vào: mọi người
Serbs (Chính Thống), người Do Thái, Gypsies, và chó.” Bộ trưởng Bộ Nội
Vụ, Andrija Artukovic, ra sắc lệnh: “Mọi người Serbs và Do Thái cư ngụ ở
Zagreb, thủ đô của Croatia, phải ra khỏi thành phố trong vòng 12 tiếng đồng
hồ. Công dân nào bị bắt gặp chứa chấp họ sẽ bị hành quyết ngay lập tức tại
chỗ.”
Ante Pavelic và Alojzije Stepinac
Trong khi Ante Pavelic biến đổi Croatia bằng bàn tay bọc giáp, đồng nghiệp
tôn giáo tương đương của ông ta, tổng giám mục Stepinac làm cho cuộc cách
mạng dễ dàng hơn bằng cách động viên giáo hội Ca-tô trên toàn quốc. Không
một cơ hội nào được phép thông qua mà không có những lời tán tụng trước quần
chúng, ban phúc lành hoặc rảy nước thánh, cho tân quốc Ca-tô Croatia, cho
lãnh tụ vĩ đại Pavelic, người trị vì, và cho Fuehrer (Hitler) vĩ đại.
Trong những ngày lễ tưởng niệm chủ nghĩa Phát-xít đẫm máu lên cầm quyền ở Ý
hay ở Nazi Đức, Stepinac, tuy ở Croatia, cũng hồ hởi ăn mừng. Cho nên hắn
tổ chức ăn mừng vào ngày 28 tháng 10, ngày mà trong năm 1922, chủ nghĩa
Phát-xít được thiết lập ở Ý. Hàng năm trong ngày trên, trong khi Mussolini
tổ chức cuộc diễn hành của những tiểu đoàn áo đen ở Rô-ma thì hàng năm
Stepinac cũng tổ chức cuộc diễn hành với những bài diễn văn, cầu nguyện, và
tán tụng Hitler vào ngày sinh nhật của hắn vào tháng Tư tới. Về quốc gia
phát xít mới [new fascist State] của hắn, những lời tán tụng của hắn đã trở
thành những điều đề nghị mạnh mẽ cho tất cả những gì thi hành bởi tân quốc
gia Croatia. Sau khi Quốc hội được triệu tập vào tháng hai, 1942, Stepinac,
với tất cả quyền hành thiêng liêng của cột trụ chính của Giáo hội Mẹ, cầu
cho con Thánh Ma ngự xuống những lưỡi dao sắc của Utashi, và tụ trên trán
của Pavelic, ít ra là trong thời gian Quốc hội họp. [asked the Holy Ghost
to descend upon the sharp edged knives of the Ustashi, and to settle, at
least while the parliamentary session lasted, upon the brow of Pavelic.]
Nhiều
lời cầu nguyện đặc biệt và thắp thêm nhiều nến ở trong các nhà thờ Ca-tô
trong ngày sinh nhật của Pavelic.
[1]
Sự biến đổi hệ thống quyền hành Ca-tô (Catholic Hierarchy) thành hệ
thống quyền hành Utashi trên thực tế (de facto Utashi hierarchy) có
một ý nghĩa rất đáng sợ. Nó có nghĩa là toàn thể guồng máy của Giáo hội
Ca-tô ở Croatia đã được đặt trong tay của những kẻ tàn nhẫn đã quyết định
làm cho tân quốc gia Croatia thành một đơn vị chính trị và quân sự thu hẹp,
được gắn liền với nhau bởi những bảo đảm về sự bền vững của quốc gia. Chính
sách đó có nghĩa là, không chỉ biến đổi cơ cấu xã hội, văn hóa của Croatia,
mà còn chủ trương tiêu diệt hoàn toàn (extirpation) bất cứ những gì
“xa lạ” (alien) đối với dân Croat và quốc giáo của Croatia. Điều này đòi
hỏi sự tiêu diệt hoàn toàn bất cứ người nào không phải là người Ca-tô Croat
[This required the total elimination of whoever was not a Catholic Croat].
Đây không phải là chuyện dễ dàng vì phần lớn tân quốc gia này gồm những nhóm
đông tôn giáo hoàn toàn xa lạ với chủ thuyết Ca-tô của Utashi. Trên một dân
số 6,700,000 người, chỉ có 3,300,00 là Ca-tô Croat. Phần còn lại gồm
700,000 theo Hồi giáo, 45,00 là Do Thái, những nhóm tôn giáo thiểu số khác,
và 2,00,000 người Serb theo Chính Thống Giáo. Sự hiện hữu của những nhóm
tôn giáo phi-Ca-tô này tự động trở thành chướng ngại lớn nhất trong chính
sách Ca-tô hóa tân quốc gia Croatia. Để giải quyết vấn đề, một chính sách
chủ trương tiêu diệt nhanh chóng những người không phải là dân Croat, không
phải là dân Ca-tô, được sử dụng và thi hành ngay lập tức. Chính sách này
được nhắc đi nhắc lại nhiều lần bởi những viên chức trong chính quyền Utashi
– thí dụ - ngày 2 tháng 6, 1942, ở Nova Grarfiska, Dr. Milovan Zanitch, Bộ
trưởng Tư Pháp, tuyên bố:
“Quốc gia này, quốc gia của chúng ta, chỉ để cho dân Croat, và không để
cho bất cứ ai khác. Không có biện pháp nào mà người Croat chúng ta sẽ không
dùng để làm cho quốc gia này thực sự là của chúng ta, và quét sạch những
người Serb Chính Thống. Tất cả những sắc dân khác đến quốc gia này từ 300
năm trước đều phải biến mất. Chúng ta không che dấu ý định của chúng ta.
Đây là chính sách quốc gia, và trong khi thực hiện chính sách này chúng ta
không làm gì khác là theo đúng những nguyên tắc của Utashi”.
Dr. Mile Budak, bộ trưởng giáo dục và thờ cúng, ngay lập tức khai sáng đám
thính giả của ông ta về bản chất những nguyên tắc trên. Trong cuộc
phỏng vấn đầu tiên của báo chí sau khi ông ta lên làm Bộ trưởng, báo
chí hỏi ông ta về chính sách của Croatia đối với những sắc dân không phải là
Croat và những nhóm tôn giáo thiểu số, ông ta đã trả lời một cách rất đơn
giản: “Đối với chúng (các nhóm thiểu số) chúng tôi có 3 triệu viên
đạn.” ["For them" (the minorities), he said, "we have three million
bullets."] Đây không phải là lời huênh hoang của một cá nhân cuồng
tín. Đó là hình ảnh thu nhỏ của một chính sách [the epitomization
of a policy], lạnh lùng đặt kế hoạch bởi Pavelic cùng với hệ thống giáo
quyền Ca-tô, một kế hoạch đã được khởi sự ngay sau khi Nazis xâm lăng Nam
Tư. Dr. Milovan Zanich, Dr. Mirko Puk, Dr. Victor Gutich, những bộ trưởng
của Utashi, không ngần ngại tuyên bố rằng tân quốc gia Croatia sẽ loại trừ
mọi dân Serb ở trong nước, để Croatia trở thành 100% Ca-tô trong vòng 10
năm. Ngày 22 tháng 7, 1941, kế hoạch trên được chính thức khẳng định
lại bởi Dr. Mile Budak nguyên văn như sau: “Chúng tôi sẽ giết một phần
dân Serb, chúng tôi sẽ chuyển một phần đi nơi khác, phần còn lại sẽ
bắt buộc phải theo Ca-tô Rô-MaGiáo, ["We shall kill one part of the
Serbs," were his words, "we shall transport another, and the rest of them
will be forced to embrace the Roman Catholic religion.”] Phần này
sẽ được hòa nhập vào khối người Croat.” Những biện pháp quá khích
nhất và tàn nhẫn nhất để thực hiện chính sách trên đã được thi hành ngay.
Cưỡng bách cải đạo và hủy diệt nói lên một điều: hoàn toàn tiêu diệt giáo
hội Chính Thống. Đây thực sự là chính sách chính thức (official
policy) của tân quốc gia Ca-tô Croatia. Chính sách đó được chính
thức đệ trình quốc hội bởi một số thành viên, đặc biệt là Dr. Mirko Puk, Bộ
trưởng Tư Pháp và Tôn Giáo của Utashi. Ông ta nói: “Tôi cũng xin
nói về cái gọi là Giáo hội Chính Thống Serbia (the so-called Serbian
Orthodox Church). Về Giáo hội này tôi quyết định tuyên bố rằng quốc
gia độc lập Croatia không thể và sẽ không công nhận Giáo hội Chính Thống
Serbia”
[2]
Chương trình ba phần của Pavelic được thực hiện cùng lúc ở khắp nơi.
Từ những sắc lệnh cấp bách – thí dụ như nghị định của Bộ trưởng Giáo dục
công cộng chỉ 4 ngày sau khi Hitler tấn công Nam Tư (10 tháng 4, 1941), cấm
mọi người theo Chính Thống giáo không được vào học đại học trừ phi đã từ bỏ
Giáo hội Chính thống trước ngày 10 tháng 4, 1941 – cho đến trục xuất tập thể
người Chính thống phải rời xứ, thí dụ như các vụ trục xuất tập thể trong
những ngày 4 và 5, 1941 ở Zagreb (thủ đô Croatia), cho đến những vụ tàn sát
đàn ông, đàn bà, trẻ con như ở Kljuch những ngày 31 tháng 7, 31 tháng 8, 1
và 2 tháng 9, 1941, khi Utashi hành quyết khoảng 2000 dân Serb.
[3]
Trong một quốc gia điên dại ngả về một chính sách tiêu diệt chủng tộc và tôn
giáo, luật pháp và sự hợp pháp, khi được thi hành, không gì ngoài những trò
hề thê thảm. Thí dụ, các tòa án bao giờ cũng kết tội mà không cần bằng
chứng, không cho phép kháng cáo, và tội chết được thi hành trong vòng ba
tiếng đồng hồ sau khi tòa phán quyết. Do đó, những tòa án này đã xử tội chết
cho vô số người mà không cho các nạn nhân cơ hội để cãi, và tội chết được
thi hành không khoan nhượng. Một phiên tòa ở Zagreb, trong vòng 2
ngày, 4 và 5 tháng 8, 1941, đã xử tử hình 185 người; tòa án ở Stem, từ 3 đến
25 tháng 8, 1942, xử tử hình 217 người; tòa án lưu động tới Ruma ngày 3
tháng 8, 1942, trong 2 tiếng rưỡi đồng hồ, đã xử tử hình 26 người. Ở Stara
Pazova, ngày 8 tháng 8, 1942, tòa án lưu động họp có nửa tiếng đồng hồ, và
18 người lãnh tội chết. Tại Ruma ngày 10 tháng 8, 1042, một luật sư
biện hộ cho bị cáo được Utashi chỉ định để biện hộ cho 25 người mà ông ta
gặp lần đầu tiên trong tòa. Ông chánh án cho phép ông luật sư này biện
hộ cho mỗi bị cáo là 2 phút đồng hồ. Nhưng tòa án, những trò hề thê
thảm của công lý, là đích thực những công cụ để thi hành chính sách tận diệt
những đối tượng Utashi nhằm tới. Điều này thấy rõ trong sự kiện là,
trong vòng 4 năm, một tòa án lưu động ở Zagreb, dưới quyền chánh án Ivan
Vidnjenic, đã xử tội chết cho 2500 người.
Trong khi các tòa án ít ra là có vẻ hợp pháp thì tổ chức Utashi đã tìm ra
cách tiêu diệt nhiều ngàn người bằng một phương pháp nhanh hơn, đó là, đưa
họ đi những trại tập trung rồi thanh toán họ tại chỗ. Định chế và sự
giám sát các trại tập trung nằm trong tay của Pavelic, đích thân quản trị.
Utashi phụ trách bắt giữ và đưa đi đày đến các trại. Utashi có thể gửi
đến các trại bất cứ người nào mà chúng cho rằng không đáng tin cậy (unreliable
person), và có quyền tuyệt đối (absolute authority) để giết ngay
lập tức bất cứ ai gửi đến trại.
Thật ra, theo Ljubo Milos, trưởng trại tập trung ở Jasenovac, có chính sách
là “mọi người bị kết án 3 năm, hay không bị kết án, đều bị thanh toán ngay”
[that all sentenced to three years, or not sentenced at all, were to be
liquidated at once]. Vì vậy, những tù nhân, cá nhân hay tập thể,
bị giết vô tội vạ (were murdered indiscriminately) mà không cần lý
do. Do đó, vào tháng 3, 1943, những tù nhân ở trại Djakovo, cố ý làm
cho bị sốt phát ban (typhus), làm cho 576 người chết; vào ngày 15 tháng 9,
1941, tất cả nhửng tù nhân nào ở trại Jasenovac mà không còn đủ sức lao
động, vào khoảng từ 600 đến 700 người, đều bị giết; trong trại ở Stara
Gradiska, 100 phụ nữ bị giết. Trong số 5000 người Serb theo Chính
Thống Giáo bị đưa đến trại Jasenovac vào cuối tháng 8, 1942, 2000 bị giết
trên dọc đường, số còn lại được chuyển đến trại ở Gradina, nơi đây, ngày 28
tháng 8, họ bị giết bằng búa tạ [where on August 28 they were put to
death with hammers].
Trong trại Krapje, vào tháng 10, 1941, 4000 tù nhân bị tàn sát; ở trại
Brocice, vào tháng 11, 1941, 8000 tù nhân bị giết. Từ tháng 12, 1941,
đến tháng 2, 1942, tại Velika Kosutarica, ở Jasenovac, trên 40,000 người
Chính Thống Serb bị tàn sát, trong khi ở trại Jasenovac, vào mùa hè 1942,
vào khoảng 66,000 người chính thống Serb, đưa tới từ những làng ở vùng
Marches, Bosnia, bị giết trong đó có 2000 trẻ em.
Trẻ con cũng không được ngoại lệ, và những trại tập trung đặc biệt đã được
dựng lên cho chúng. 9 trại như vậy ở Lobor, Jablanac, gần Jasenovac;
Mlaka; Brocice; IJstici; Stara Gradiska; Sisak; Jastrebarsko; và Ciornja
Rijeka. Những cuộc tàn sát trẻ em ở các trại này này thật khó mà tin
được nếu không được kể lại bởi các nhân chứng. Một nhân chứng đã làm
chứng [testified]:
Vào thời đó những phụ nữ và trẻ em hàng ngày được gửi đến trại ở Stara
Gradiska. Vào khoảng 14 ngày sau, Vrban, viên trưởng trại, ra lệnh cho
tách rời những đứa trẻ khỏi mẹ chúng và cho vào một phòng. 10 người
chúng tôi được lệnh mang chúng vào phòng đó trong những tấm mền. Những
đứa trẻ bò lê bò càng ở trong phòng, và một đứa thò một tay và một chân ra
ngoài cửa cho nên cửa không đóng được. Vrban hét lên: “đóng cửa lại”.
Khi tôi không làm thì hắn ta rập cánh cửa nghiền nát chân đứa bé. Rồi
Vrban kéo chân đứa bé và quật nó vào tường cho đến chết. [Trong Thánh
Kinh Gót cũng ra lệnh cho quật trẻ em vào đá. TCN] Sau đó chúng
tôi tiếp tục mang trẻ con vào trong phòng. Khi phòng đầy rồi, Vrban
giết hết chúng bằng hơi độc (When the room was full, Vrban brought poison
gas and killed them all.)
[4]
Trong cuộc xử án (sau cuộc chiến), Ante Vrban phản đối tòa là hắn không có
đích thân giết nhiều trăm đứa trẻ mà chỉ giết có 63 đứa [At his trial,
Ante Vrban protested that he had not killed hundreds of children personally,
"but only sixty-three”]
[5]
Trong năm 1942 có khoảng 24000 đứa trẻ trong trại tập trung ở Jasenovac,
12000 trong số trên bị tàn sát một cách lạnh lùng nhẫn tâm [12,000 of
whom were cold-bloodedly murdered]. Phần lớn những đứa sống sót ở
trại, sau này được thả vì áp lực của Hội Hồng Thập Tự Quốc tế, rồi cũng chết
vì bị suy nhược trầm trọng. Một trăm đứa trong số này, tuổi chỉ mới có
12 tháng, sau khi được thả cũng chết vì thức ăn của chúng được cố ý cho vào
chất độc ăn mòn da (caustic soda).
Dr. Katicic, Chủ tịch Hội HỒng Thập Tự, bị sốc trước những cảnh tàn sát tập
thể đó, cực lực phản đối, đe dọa sẽ tố cáo cùng thế giới sự tàn sát tập thể
các trẻ nít. Pavelic bèn tống ông ta vào trại tập trung ở Stara
Gradiska.
Đó không phải là tất cả. Còn có những sự khủng khiếp, không thể nào
khủng khiếp hơn, ở trong những trại tập trung của Pavelic. Có những
trường hợp tù nhân bị thiêu sống, ở Jasenovac vào mùa Xuân 1942. Chúng
phỏng theo những lò sát sinh trong những trại của Đức Quốc Xã (Nazi) ở Đức
và Ba Lan, và Picilli đã thành công lấy những viên gạch của 14 cái lò để xây
một lò thiêu sống người.. Có một quyết định là thiêu sống người, đơn
giản là mở cái cánh cửa sắt lớn rồi đẩy các nạn nhân đang sống vào trong
ngọn lửa đang cháy trong lò. Những vụ này gây nên phản ứng của những
người sắp bị mang đi thiêu sống. Họ la hét và chống lại. Để
tránh những cảnh này, chúng quyết định là giết trước rồi thiêu sau [People
shrieked, shouted and defended themselves. To avoid such scenes, it was
resolved first to kill them and then to burn them.]
[6] (Thiêu sống cũng là ý định của Giê-su trong Tân Ước đối với
những người không tin ông ta: Phải gom lại như các cành cây khô rồi mang đi
đốt. TCN)
Những đại diện của “giáo hội chân thực duy nhất” [The representatives of
the "only true Church"] đã biết rõ những sự khủng khiếp đó: một số không
nhỏ là những viên chức cai quản những trại tập trung đó, và được gắn huy
chương bởi Ante Pavelic (lãnh tụ Utashi). Thí dụ như Linh mục Zvonko
Brekalo ở trại Jasenovac, năm 1944 được chính Pavelic gắn huy chương danh dự
của Vua Zvonimir [decorated with the “Order of King Zvonimir”]; Linh
mục Grga Blazevitch, Phụ Tá Trưởng trại tập trung Bosanki-Novi; Huynh Trưởng
Tugomire Soldo, người tổ chức cuộc tàn sát lớn dân Serbs vào năm 1941; và
nhiều người khác. Không có những sự ghê tởm nào, dù đến đâu, có thể
vượt qua được những hành động của những cá nhân này, những kẻ đê hèn nhất,
phản bội nền văn minh của nhân loại.
Footnotes:
I. Katolicki List, June 11, 1942.
2. Speech by Dr. Mirko Puk, Minister of Justice and Religion. Excerpt
from stenographic record of the proceedings of a regular session of the
Croatian State Assembly, held in Zagreb, February 25, 1942.
3. All the crimes described in this book are authentic. For further
atrocities of this kind, see the Memorandum sent to the General Assembly
of UNO in 1950 by A. Pribicevic, President of the Independent Democratic
Party of Yugoslavia, and by Dr. V. Belaicic, former Justice of the
Supreme Court of Yugoslavia. Also Dokumenti, compiled by Joza
Horvat and Zdenko Stambuk, Zagreb, 1946.
4. Statement made by witness Cijordana Friedlender, from the shorthand
notes of the Ljubo Milos case, pp. 292-3.
5. From shorthand notes of the Ljubo Milos case.
6. Idem. See also official indictment of Ante Pavelic.
__________________________
(a) [PREFACE TO THE AMERICAN EDITIONS: THE VATICAN'S
HOLOCAUST is not a misnomer, an accusation, and even less a speculation.
It is an historical fact. Rabid nationalism and religious dogmatism were
its two main ingredients. During the existence of Croatia as an
independent Catholic State, over 700,000 men, women and children
perished. Many were executed, tortured, died of starvation, buried
alive, or were burned to death. Hundreds were forced to become Catholic.
Catholic padres ran concentration camps; Catholic priests were officers
of the military corps which committed such atrocities. 700,000 in a
total population of a few million, proportionally, would be as if
one-third of the USA population had been exterminated by a Catholic
militia. What has been gathered in this book will vindicate the veracity
of these facts. Dates, names, and places, as well as photos are there to
prove them. They should become known to the American public, not to
foster vindictiveness, but to warn them of the danger, which racialism
and sectarianism, when allied with religious intolerance can bring to
any contemporary nation, whether in Europe or in the New World. This
work should be assessed without prejudice and as a lesson; but even more
vital, as a warning for the future of the Americans, beginning with that
of the USA.
Avro Manhattan, 1986
(b) Foreword: To the readers of the British
editions:
This book has been criticized, condemned, banned, mutilated,
destroyed and even burned as frequently as it has been quoted,
recommended, reproduced and praised in many parts of the world, because
of the events and revelations it describes. The ordinary individual
cannot accept as yet the startling facts that only a few years back, for
instance, the Catholic Church advocated forcible conversions, helped to
erect concentration camps, and was responsible for the sufferings,
torturing and execution of hundreds of thousands of non-Catholics. Deeds
coolly perpetrated by her lay and ecclesiastic members. Furthermore,
that many of such atrocities were carried out personally by some of her
Catholic priests and even monks. One of the main purposes of this book
is to relate where, when and by whom such atrocities were committed. It
took the author almost half a decade of painstaking investigation before
he accepted what seemed unbelievable. The result is this account,
documented from as authoritative and as varied sources as possible.
Among them, people with whom the present writer became personally
acquainted. Some of these played no mean role in the religious,
political and military events herein narrated. Others were
eye-witnesses. Indeed, not a few even victims of the incredible
atrocities sanctioned and promoted by the Catholic Church. The names of
most of the participants, Catholic laymen, military, priests, friars,
bishops, archbishops and cardinals, as well as those of their
non-Catholic victims, men, women and children, including clergymen, are
as genuine as the names of the localities, villages and cities where the
atrocities took place. Their authenticity can be verified by anyone
willing to do so. Documents and photographs of Catholic concentration
camps, Catholic mass executions and Catholic forced conversions, some of
which are in this book, are kept in the archives of the Yugoslav
Government, of the Orthodox Church, of the United Nations and of other
official institutions.
The Ecumenical revolution, although seemingly alluring, has shown itself
to be nothing more than a Trojan Horse via which Catholic power, apparelled
in contemporary garb, continues to assert itself as effectively active as
ever. The striking samples of contemporary Catholic terrorization which
occurred in Malta and Vietnam, many of which took place during the days of
"good old Pope John" and, indeed, under the pontificate of Pope Paul VI,
need no elucidation. They are the most damning proof that the Catholic
Church, notwithstanding all her alleged liberalization, fraternization and
up-to-dateness, basically, has not changed an iota. The portentous
significance of what is here described, therefore, should be carefully
scrutinized. Lest the past be repeated in the future. Indeed, now. In the
present.
Avro Manhattan, London.