Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam

Nguyễn Mạnh Quang

http://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_14a.php

| bản in | ¿ trở ra mục lục | 17 tháng 2, 2010

PHẦN III

◎◎◎

CHƯƠNG 14

LÒNG BẤT MÃN VÀ CĂM THÙ

CỦA NHÂN DÂN THẾ GIỚI ĐỐI VỚI VATICAN

(tiếp theo)

III.- Lòng căm thù và ghê tởm của tất cả mọi tầng lớp khác trong nhân dân đối với Nhà Thờ Vatican: (tiếp theo)

A. Những Người Vô Thần Bị Giáo Hội Nguyền Rủa,

B. Giáo Hội La Mã Bị Thù Ghét Đến Mức Nào ?

IV.- Lòng khinh bỉ và ghê tởm của người Hoa Kỳ đối với nhóm người Việt dân Chúa.   

V. Kết luận:

 

A. Những Người Vô Thần Bị Giáo Hội Nguyền Rủa,

(Nhưng Những Người Đó Lại Không Bị Nhân Dân Thế Giới Thù Ghét)

Không những dối gạt về tín lý, mà Giáo Hội La Mã còn điêu ngoa trong các hoạt động văn hóa xã hội. Trong những bài giảng và những bản văn, các hàng giáo phẩm và các ông bà “cừu non” (con chiên) người Việt luôn luôn xem (1) những người thuộc các tôn giáo hay tín ngưỡng khác đều là “tà giáo”, là “man di”, là “mọi rợ”, (2) tất cả những người Cộng Sản đều là những người vô thần, (3) tất cả những người vô thần đều là những gì xấu xa nhất, tội ác nhất và ghê tởm nhất,và cho rằng những người này sẽ bị Chúa đày xuống hỏa ngục đời đời. Dưới đây là những sách đã có những bàn văn có nội dung như đã nói ở trên:

1.- Trong bộ sách Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo (Sàigòn: Chân Lý, 1972), từ “man dân”, “man rợ” và “dã man” được tác giả Linh-mục Bùi Đức Sinh dùng tới 26 lần trong 9 trang (200-208) để miệt thị và rủa sả những nhóm dân hay dân tộc thuộc các tôn giáo hay nền văn hóa khác, tạo lý do để biện minh hay bào chữa cho chính sách và hành động tấn công, đàn áp, bách hại các dân tộc thuộc các tôn giáo và nền văn hóa  khác ở Âu Châu và trong vùng ven Biển Địa Trung Hải trong thời Trung Cổ và nhiều thế kỷ tiếp theo.

2.- Trong cuốn Phép Giảng Tám Ngày (Sàigòn: Tinh Việt Đoàn, 1961), tác giả Linh-mục Alexandre de Rhodes dành hẳn Chương Bốn với tựa là “Ngày Thứ Bốn: Những Đạo Vạy” gồm 25 trang (từ trang  68 đến hết trang 93) để miệt thị,  đạo Phật, đạo Khổng, đạo thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt Nam nói riêng và các dân tộc Đông Phương nói chung. Thay vào đó, họ chuẩn bị cho việc cấy vào đầu óc những người nghèo khổ ít học những tín lý hoang đường của đạo Ki-tô nặng tính cách phi nhân, phi nghĩa, phản nhân luân, phản dân tộc, phản tổ quốc và dần dần làm mất hết tất cả nhân tính. Dưới đây là một trong những đoạn văn mà ông Linh-mục Rhodes đã sử dụng để miệt thị và chửi bới Đức Phật Thích Ca và đạo Phật.

Những sự dối trá của Thích Ca về linh hồn ta: Bởi tam giáo này, như bởi nguồn đục, có ra nhiều sự dối khác. Song le bắt mỗi sự dối ấy chẳng có làm chi, vì chưng biết là bởi đâu mà ra, cho hay tỏ tường là dối thì là vừa. Như thế có chém. cây nào đục cho ngã, các ngành cây ấy tự nhiên cũng ngã với. Vậy thì ta làm cho Thích Ca, là thằng hay dối người ta, ngã xuống, thì mọi truyện dối trong đạo bụt bởi Thích Ca mà ra, có ngã với thì tỏ.” [16]

Vì tính cách phạm thượng, du côn không thể tưởng tượng trong bài giảng trên, chính những người Phật tử lại không dám nhắc đến, cho nên cái gian ác của ông Rhodes lại được chính ta bao che thêm.

3.- Trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng (Crossing The Threshold Of Hope), tác giả Giáo Hoàng John Paul II cũng  tuyên bố công khai rằng “Phật Giáo là vô thần” để miệt thị đạo Phật và đề cao đạo Ca-tô:

 “Budhism is in large measure an “atheistic system.” (Tạm dịch là: ”Trên một bình diện rộng lớn, Phật Giáo là một hệ thống vô thần.” John Paul II, Crossing The Threshold Of Hope (New York: Alfred A. Knoff, 1994), p. 86.

Trong khi trên thực tế, "Vô Thần" chưa hề gây nên bất cứ điều gì xấu xa cho thế giới, nhưng Giáo Hội La Mã đã dùng kế sách "Tăng Sâm giết người", nói mãi thành ra thật, để đặt cho nó một cái tội kinh khủng, tội Vô Thần! Câu văn trên đây cho chúng ta thấy rõ Giáo Hoàng John Paul đã công khai tuyên bố trước bàn dân thiên hạ rằng “Phật Giáo là  những gì xấu xa nhất, và ghê tởm nhất.”.

Điều khôi hài là tuy các nhà truyền giáo hay tu sĩ của Giáo Hội đều quan niệm các tôn giáo hay nền văn hóa khác là “mọi rơ”, là “man di” là “tà đạo” là “dã man”, thì hầu hết những nạn nhân này của Giáo Hội lại có những đời sống lương thiện. Những người dân bị gọi là man di này biết phải biết trái, biết sống “sao cho vừa mắt ta ra mắt người” (kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân), biết dĩ hòa vi quý, chin bỏ làm mười, biết khoan dung và đô lượng, sẵn sàng chấp nhận và sống chúng với những người bất đồng chính kiến hay khác tôn giáo với họ, biết mở rộng lòng nhân đối với mọi người, coi mọi người trong thiên hạ như anh em trong một nhà (tứ hải giai huynh đệ).

Trong khi đó thì chính Giáo Hội La Mã, tất cả những người “mang chức thánh” được coi là “đại diện của Chúa", từ những người lãnh đạo cao cấp nhât là các giáo hoàng cho đến các hồng y, tổng giám mục, giám mục, linh mục, sư huynh và tất cả giáo dân được coi là ngoan đạo đều có những suy tư, thái độ và hành động cực kỳ mọi rợ, cực kỳ man di và cực kỳ dã man. Lịch sử cho thấy rõ như vậy, và kinh nghiệm sống hàng ngày cũng cho thấy rõ như vậy. Thử xem xét thêm những điểm sau đây:

Thứ nhất, Giáo Hoàng John Paul II nói rằng “Phật Giáo là vô thần” và Giáo Hội La Mã thường lớn tiếng nói rằng những người vô thần là xấu xa, là tội ác là đủ mọi thứ ghê tởm nhất ở trên cõi đời này. Thế nhưng lịch sử cũng như trong thực tế cho thấy rằng chính quyền của những người vô thần và của những tín đồ Phật Giáo chưa hề có một dấu vết gì (1) liên hệ đến chiến tranh tôn giáo, (2) liên hệ đến những việc bách hại các tôn giáo khác, (3) liên hệ đến việc thiết lập các tòa án để truy lùng, bắt bớ, giam cầm, tra tấn, hành hạ và tàn sát những người hữu thần như Giáo Hội La Mã và những người đạo Ki-tô đã làm trong gần hai ngàn năm qua. Như vậy thì giữa một bên là những người vô thần trong đó có cả những người cộng sản và một bên là những người hữu thần theo đạo Ki-tô hay tín đồ của Giáo Hội La Mã, ai là những người xấu xa?

Thứ hai, ngọai trừ Giáo Hội La Mã, gồm các tu sĩ và giáo dân cuồng tín, nhân dân thế giới không hề thù ghét những người vô thần, và cũng không hề thù ghét những người cộmg sản. Bằng chứng là các nhà lãnh đạo các nước cộng sản của Liên Bang Xô Viết như ông Michael Gorbachev, các ông Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng và  nhà lãnh đạo Phật Giáo như Đức Lạt Lai Lạt Ma khi di chuyển đến các quốc gia được mời đến thăm viếng, họ không bao giờ cần phải dùng đến những chiếc xe chống đạn nào cả và cũng không cần phải có cả một binh đoàn cảnh sát và an ninh bao quanh, mà chỉ có những đòan người hộ tống theo đúng nghi thức quốc tế về việc tiếp đón các vị quốc khách mà thôi. Dưới đây là một số bằng cớ mà mọi người đều có thể kiểm chứng rất dễ dàng:

a.- Chuyện thứ nhất là Đức Lạt Lai Lạt Ma. Ông là vị lãnh tụ Phật Giáo được nhân dân thế giới vô cùng kính trọng, nhưng ông và những người tiền nhiệm của ông:

(1) không hề tự phong hay tự xưng là Đức Thánh Cha, không hề tự phong đạo Phật là “Hội Thánh duy nhất thánh thiện, công giáo và tông truyền”,  

(2) không hề tuyên bố rằng “đạo Phật của ông phải nắm quyền chỉ đạo các thế quyền”,

(3) không hề ban hành một quyết định nào với dã tâm vơ vét quyền lực chính trị vào trong tay các nhà lãnh đạo của đạo Phật như Giáo Hội La Mã đã ban hành Bản Tuyên Ngôn "Dictatus papae" gồm 27 điều gọi là nguyên tắc có hiệu lực như luật vào năm 1075 trong thời Giáo Hoàng Gregory VII (1073-1085),

(4) không hề ban hành hàng loạt các thánh lệnh hay sắc chỉ ăn cướp như Giáo Hội La Mã đã làm  trong thế kỷ 15,

(5) không hề cấu kết với các cường quyền,

(6) không hề phát động những cuộc chiến tôn giáo đem quân lính đi tàn sát các dân tộc thuộc các tôn giáo khác, hủy diệt nền hóa và văn minh của các dân tộc nạn nhân như Giáo Hội La Mã trong những năm 1095-1293,

(7) không hề thiết lập các tòa án đặc biệt để truy lùng, bắt giam, tra tấn, hành hạ và sát hại những người không tin vào thuyết lý đạo Phật,

(8) không hề cấu kết với các đế quốc thực dân xâm lược Âu Châu đem quân đi dánh chiếm các vùng đất ở ngoài lục địa Âu Châu làm thuộc địa để cướp đoạt tài nguyên và cưỡng bách các dân tộc nạn nhân làm nô lệ,

(9) không hề  gửi các đội ngũ gián điệp chuyên nghiệp giả danh là các nhà truyền giáo đến các quốc gia bị chiếu cố để phỉnh gạt và mua chuộc những người dân nghèo khổ và những phường tham lợi háo danh, rồi dụ khị họ theo đạo,

(10) không hề tổ chức (a) những đội ngũ điệp viên đi thâu thập tin tức tính báo chiến lược, và (b) những đạo quân thứ 5 nằm hờ chờ khi được lệnh nổi lên tiếp ứng cho đoàn quân xâm lăng.

Không những đã không hề làm 10 rặng núi tội ác trời không dung đất không tha trên đây, đạo Phật, đạo Khổng, đạo thờ cúng tổ tiên và các tôn giáo khác của các dân tộc Đông Phương còn  có chủ trương giáo dục rèn luyện con người thành những người biết sử dụng lý trí. Những bài dạy người đời của các tôn giáo này đều có chủ đích dạy cho học viên hsy người đời biết sử dụng lý trí để tìm hiểu sự vật (cách vật trì tri), không nhắm mắt tin vào những lời Đức Phật hay Đức Khổng tử hoặc các nhà tu hành rao truyền hay dạy bảo một cách vô điều kiện. Người dân được dạy phân biệt giữa đúng và sai, giữa thuận lý và nghịch lý, giữa thương yêu và thù hận, giữa thánh thiện và tội ác, giữa thực tế và hão huyền, giữa tự cao, tự đại và khiêm cung, khiêm nhường, giữa hiếu sát khát máu và hiếu hòa, nhẫn nhịn, v.v….

Vì những đặc tính cao quý trên đây,  cho nên:

a.- Phật giáo, Khổng Giáo và tất cả các tôn giáo khác ở Đông Phương (1) không bị gọi là “cái tôn giáo ác ôn” như văn hào Voltaire đã gọi đạo Ca-tô, (2) không bị gọi là “Cái Giáo Hội Khốn Nạn” như học giả Henri Guillemin đã gọi Giáo Hội La Mã, và (3) không bị gọi là “đạo máu”, “đạo bịp” như học giả Charlie Nguyễn đã gọi đạo Ki-tô La Mã,

b.- Các nhà lãnh đạo và các nhà chân tu Phật giáo cũng như các nhà tu hành của các tôn giáo ở Đông Phương không bị nhân dân thù ghét không hề bị gọi là “lũ quạ nâu” hay “quạ vàng” như nhân dân Âu Châu thù ghét giới tu sĩ Ki-tô La Mã và gọi họ là “lũ quạ đen” (les corbeaux noirs), 

c.- Các nhà lãnh đạo Phật giới như Đức Đạt Lai Lạt Ma  đến đâu cũng (1) để đầu trần, không cần phải đội mũ ba tầng, (2) hai tay luôn luôn ở thế sẵn sàng chắp lại vái vái để đáp lễ những người chào đón, chứ không cầm gậy trượng làm oai với thiên hạ, (3) không ngồi  trong một chiếc xe chống đạn đặc biệt để đề phòng bị những người dân thù ghét tấn công hay sát hại vì thực ra chẳng có ai thù ghét họ cả, và (4) cũng không có những đội ngũ cận vệ và những tóan quân cảnh sát, an ninh hộ tống để canh chừng và bảo vệ. Ấy thế mà vẫn không có một người nào nhào vô vừa tấn công vừa sỉ vả ngài là “quân đạo đức giả” cả.

Vì không chủ trương và không liên hệ với những việc làm bất chính, đại gian đại ác trên đây như Giáo Hội La Mã đã làm trong gần hai ngàn năm qua, cho nên ngày 15/7/2009 vừa qua, Phật Giáo được Hội Liên Minh Quốc Tế Tiến Bộ Tôn Giáo Và Tâm Linh (ICARUS) tại Geneve bình chọn  “Giải Thưởng Tôn Giáo Tốt Nhất Thế Giới”. Sự kiện này được bản tìn trong tờ Tribune de Geneve số ra ngày 15/7/2009 loan truyền với nguyên văn như sau:

“Ngày 15 tháng 7 năm 2009, Tribune de Geneve (Diễn Đàn Geneve) Hội Liên Minh Quốc Tế Tiến Bộ Tôn Giáo Và Tâm Linh (ICARUS) tại Geneve đã ban tặng Cộng Đồng Phật Giáo năm nay “Giải Thưởng Tôn Giáo Tốt Nhất Thế Giới”.

Giải thưởng đặc biệt này đã được bầu chọn bởi bàn tròn quốc tế gồm hơn 200 vị lãnh đạo của các tôn giáo khác nhau.  Điều thú vị là các vị lãnh đạo tôn giáo đã chọn Phật Giáo thay vì tôn giáo của họ mặc dầu các thành viên Phật tử chỉ là một thiểu số rất nhỏ của ICARUS.  

Sau đây là những lời bình luận của 4 thành viên đã bỏ phiếu:

Jonna Hult, Giám đốc Nghiên Cứu cho ICARUS nói: “Tôi không ngạc nhiên khi Phật Giáo được bầu chọn “Giải Thưởng Tôn Giáo Tốt Nhất Thế Giới”, bởi vì chúng ta có thể tìm ra từng chữ  rằng không có đến một trường hợp nào chiến tranh gây ra mà nhân danh Phật Giáo, trái với những tôn giáo khác hình như luôn thủ sẵn một khẩu súng trong tủ để phòng hờ trường hợp Chúa quyết định sai lầm.. Ngay chúng ta khó tìm thấy một Phật tử trong quân đội. Họ tu tập theo giáo pháp đến độ chúng ta không thể viện dẫn  bằng các truyền thống tâm linh khác.  

Cha Ted O'Shaughnessy, một nhà tu Công Giáo nói từ Belfast “Chừng nào tôi còn yêu Giáo hội Công Giáo, tôi luôn luôn cảm thấy khó chịu vì chúng ta thường rao giảng lòng bác ái trong kinh Thánh, tuy nhiên lại tuyên bố là ý Chúa khi cần giết những người khác. Chính vì thế mà tôi phải bỏ phiếu cho Phật Giáo”.  

Giáo sĩ Đạo Hồi  Tal Bin Wassad, nói từ Pakistan qua một thông dịch viên: “Trong khi tôi là một người tôn sùng đạo Hồi, tôi có thể thấy biết bao sự giận dữ và máu đổ được đưa vào trong diễn đàn tôn giáo thay vì ở mức độ cá nhân. Người Phật tử đã thấy rõ điều đó”. Ông Bin Wassad, một thành viên ICARUS bỏ phiếu đại diện Cộng đồng Hồi giáo Pakistan nói tiếp: “ Thật thế, một số trong những bạn tốt của tôi là những Phật tử”.  

Và Rabbi Shmuel Wasserstein nói từ Jerusalem: “Lẽ dĩ nhiên, tôi yêu đạo Do Thái và theo tôi đó là một tôn giáo vĩ đại nhất thế giới. Nhưng nói thật, tôi thực tập thiền định mỗi ngày trước khi cầu nguyện theo nghi lễ Do Thái giáo hằng ngày kể từ năm 1993. Vậy là tôi hiểu rồi”.  

Tuy nhiên có một trở ngại. ICARUS không thể tìm được người nào để trao giải thưởng. Tất cả những Phật tử mà họ đã gọi đều trả lời rằng họ không cần giải thưởng.  

Khi hỏi tại sao cộng đồng Phật giáo Miến Điện từ chối giải thưởng, tu sĩ Phật giáo Bhante Ghurata Hanta trả lời từ Miến Điện : “Chúng tôi cám ơn quý vị đã công nhận, nhưng chúng tôi sẽ tặng giải thưởng này cho toàn thể nhân loại, bởi vì Phật tính có sẵn trong mỗi chúng tôi”. Ông Groehlichen nói tiếp: “ Chúng tôi sẽ tiếp tục gọi khắp nơi cho đến khi chúng tôi tìm được một Phật tử nhận giải thưởng này. Chúng tôi sẽ cho quý vị biết khi nào chúng tôi tìm ra”. -Chánh Minh chuyển dịch - USA, 31-07-2009  [17]

b.- Chuyện thứ hai là chuyện nước Liên Xô và ông Tổng Bí Thư Cộng Đảng Liên Xô Michael Gorbachev (1931- ) đến thăm nước Mỹ. Liên Bang Xô Viết gọi tắt là Liên Xô, là một siêu cường lãnh đạo khối  cộng sản đối đầu với siêu cương Hoa Kỳ suốt trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh (1947-1991), nghĩa là Liên Xô là kẻ thù số 1 của nước Mỹ.  

Ông Michael Gorbachev vốn là một người vô thần, không tin có thượng đế hay Chúa gì cả, và là một đảng viên của Cộng Đảng Liên Xô. Vì thế ông mới bị Tòa Thánh Vatican và tất cả tín đồ ngoan đạo của Giáo Hội La Mã gọi là quỷ Satan hay tên đại ác quỷ. Năm 1985 ông được Đảng Cộng Sản Nga đưa lên nắm giữ chức Tổng Bí Thư Đảng. Sau đó ít năm, có lẽ vào cuối thập niên 1980 hay đầu thập niên 1990, với tư cách là Tổng Bí Thư Cộng Đảng Liên Xô và là nhà lãnh đạo cao cấp nhất của chính quyền Liên Xô, ông đến viếng thăm Hoa Kỳ. Trong chuyến viếng thăm này, có một bữa, ông tự ý một mình (không có cận vệ và cũng không có đoàn hộ tống bảo vệ an ninh) đi bộ xăm xăm ra ngoài đường xá đông người trong trung tâm thành phố New York. Người dân trong khu phố bất chợt thấy ông, xúm lại vây quanh ông, chào mừng ông,  chen chúc đến gần bên ông để được bắt tay ông. Thấy vậy, nhân viên an ninh ào ào nhào tới để bảo vệ ông, nhưng ông vẫn không hề quan tâm đến chuyện an ninh cho cá nhân ông, ông vẫn xăm xăm xông xáo đi hết khu phố này đến khu phố khác mà không tỏ ra một chút sợ hãi nào cả, vẫn hồn nhiên, niềm nở vui cười, vươn cao tay vẫy chào mọi người,  và nhân dân ở đây cũng không có một người nào có ý định ám hại ông, dù rằng lúc đó Hoa Kỳ và Liên Xô đang kình chống  nhau mãnh liệt, cùng coi nhau như thù địch bất cộng đái thiên.

c.- Chuyện thứ ba là chuyện ông Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Minh Triết thăm viếng Hoa Kỳ và Tòa Thánh Vatican: Giống như trường hợp ông Michael Gorbachev khi đi viếng thăm Hoa Kỳ, trong chuyến đi thăm viếng Hoa Kỳ và Tổng Thống George Bush ngày 22/6/2007 cũng như khi đí thăm viếng quốc gia Vatican và Giáo Hoàng Benedịct XVI  vào ngày 11/12/2009, ông Chủ Tịch Nước Việt Nam Nguyễn Minh Triết cũng không hề sử dụng một chiếc xe đặc biệt chống đạn nào cả, và cũng không có một đạo quân cảnh sát và an ninh vô cùng hùng hậu để che chở và bảo vệ như  các Giáo Hoàng John Paul II (1978-2005) và Giáo Hoàng Benedict XVI đã làm mỗi lần đi ra khỏi kinh thành Rome trong mấy chục năm gần đây. 

d.- Chuyện thứ tư là chuyện ông Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng thăm viếng Hoa Kỳ và Tòa Thánh Vatican:

Tương tự như hai ông Michael Gorbachev và Nguyễn Minh Triết, khi còn là Phó Thủ Tướng Việt Nam, ông Nguyễn Tấn Dũng đến thăm viếng Hoa Kỳ và làm việc tại đây  trong thời gian ngày từ ngày 9 đến ngày 14/12/2001, rồi khi được đưa nắm giữ chức vụ Thủ Tướng Việt Nam, ông lại đến viếng thăm Hoa Kỳ và Tổng Thống George W. Bush  khởi đầu vào ngày 16/6 kéo dài đến hết ngày 23/6/2008 cũng như chuyến đi thăm viếng Vatican và Giáo Hoàng Benedict XVI vào ngày 25/1/2007, tất cả, ông đều không sử dụng một chiếc xe đặc biệt chống đạn nào cả, và cũng không có một binh đoàn cảnh sát và an ninh rất hùng hậu để che chở và bảo vệ an cho sinh mạng của ông.

Những sự kiện trình bày  trên đây cho chúng ta thấy rõ rằng, trong khi Tòa Thánh Vatican và tín đồ ngoan đạo khinh rẻ và thù ghét những người Cộng Sản như muốn khử diệt họ bằng tất cả khả năng của Giáo Hội như Giáo Hội đã tùng khử diệt những người vô thần trong gần hai ngàn năm qua, thì trái lại,  họ lại được nhân dân thế giới vô cùng kính trọng. Không hề có một cá nhân hay tổ chức hoặc tập thể nào nghĩ đến việc mựu hại họ, ngọai trừ những tín đò Ca-tô thuộc lọai siêu cuồng tín hay nhừng người  mà chính bản thân hay ông cha họ đã từng được hưởng những đặc quyền đặc lợi của các chính quyền đạo phiệt của Giáo Hội La Mã.

B. Giáo Hội La Mã Bị Thù Ghét Đến Mức Nào ?

Giáo Hoàng John Paul II (1978-2005), Giáo Hoàng Benedict XVI (2005-) và nhiều vị giáo hoàng tiền nhiệm khác luôn luôn huênh hoang khóac lác tự phong Đức Thánh Cha, là “đại diện của Chúa Toàn Năng, Toàn Thiện” và “lòng lành vô cùng", nhưng lúc nào cũng lo sợ bị ám sát vì họ biết rõ rằng ngoại trừ bọn "cừu non” đã bị điều kiện hóa bới chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của Giáo Hội La Mã,  toàn thể nhân dân thế giời đều căm hận và thù ghét các ngài đến tận xương tận tủy. Vì lo sợ như vậy, cho nên mỗi lần  di chuyển loanh quanh khỏi phòng ngủ, các ngài cũng đều phải sử dụng cả một đạo quân cận vệ và lính an ninh vô cùng hùng hậu để canh chừng và bảo vệ. Cũng vì thế mà mỗi lần các ngài di chuyển ra khỏi Điện Lateran đến thăm viếng một quốc gia nào, cả Vatican (lo việc an ninh khi các ngài di chuyển từ Điện Lateran tới khi lên phi cơ và trên đường đến quốc gia viếng thăm) và chính quyền liên hệ (chủ) phải sử dụng cả một binh đoàn cảnh sát, an ninh và cận vệ chuyên nghiệp được thiết bị bằng những vũ khí và các máy móc dò mìn và chất nổ tối tân nhất, hiện đại nhất để canh chừng và bảo vệ mà cũng vẫn không đủ làm giảm bớt nỗi lo sợ của các ngài. Vì lo sợ như vậy, cho nên các ngài mới cần phải sử dụng chiếc xe Popemobile, loai xe chống đạn đặc biệt để phòng thân.

Có một điều hết sức khôi hài là Giáo Hoàng John Paul II lo sợ bị  ám sát như vậy, nhưng ông lại bảo các con chiên của ông đừng sợ

Một sự thật khác nữa là các ngài thường luôn luôn cao giọng dạy dỗ tín đồ rằng, “mọi sự ở trên đời này đều có sự an bài của Chúa Toàn Năng”, rằng “mọi người đều là con Chúa đều được Chúa che chở”,  rằng “mọi người đều được Chúa quan phòng”, vậy thì TẠI SAO các ngài lại không trông cậy vào sự che chở hay bảo vệ hay "sự quan phòng" của “Chúa Tòan Năng, Tòan Thiện” của các ngaỉ?

Như vậy có phải các Ngài chỉ là những tên tổ sư nói láo, những tên đại bịp không?

Từ những sự kiện đã được trình bày như trên, chúng ta có thể đi đến kết luận rằng, những gì Giáo Hội La Mã hay Vatican cho là thánh thiện, tốt đẹp, tuyệt vời, cao cả, toàn năng, toàn thiện, v.v.., thì thực tế những thứ đó chỉ là tội ác, xấu xa, ti tiện, tầm thường, bất lực, toàn ác, và những gì Giáo Hội La Mã hay Tòa Thánh Vatican cho là quỷ satan, là xấu xa và tội ác, thì thực tế những thứ đó là các bậc đại thánh, tốt đẹp và thánh thiện. Tóm lại, (1) tất những gì Giáo Hội La Mã hay Tòa Thánh Vatican nói đều là gian dối, là phỉnh gạt, là lừa bịp, (2) tất cả những gì Giáo Hội La Mã hay Tòa Thánh Vatican làm đều là  những hành động tàn ác, tham tàn, bạo ngược, dã man, và (3) tất cả những gì Giáo Hội hay Tòa Thánh Vatican lớn tiếng cao rao là những việc làm từ thiện giúp cho người đời như xây nhà thương, mở trường học, giúp đờ trẻ em mô côi và những người nghèo khổ đều có dã tâm làm ra để làm bức bình phong che đậy cho những rặng núi tội ác của Giáo Hội chống lại nhân loại trong gần hai ngàn năm qua. Đây là sự thật lịch sử. Cũng vì sự thật này mà các nhà sử học đã gọi Giáo Hội La Mã là “tập đoàn của những tên lưu manh đạo đức giả khoác áo tu hành, mượn danh tôn giáo, muợn danh thượng đế, tiếm đọat quyền lực chính trị  lừa bịp người đời, hà hiếp, bóc lột nhân dân, kìm hãm người đời đời mãi mãi ở trong vòng ngu dốt để được yên vị ngồi trên bàn độc tiếp tục tác oai tác quái gây nguy hại cho nhân loại.”

Bộ mặt thật của Giáo Hội La Mã là như vậy. Sự thật  này đã được các nhà sử học chân chính và các dân tộc có kinh nghiệm máu với Giáo Hội La Mã như các dân tộc các quốc gia nạn nhân của Giáo Hộia đều có nhận xét như vậy. Các dân tộc nạn nhân này là các dân tộc của các quốc gia  Âu Châu và các dân tộc tại các cựu thuộc địa của các đế quốc thực dân xâm lược Âu Châu có liên kết với Vatican (như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp và Bỉ). Cũng vì thế mà người dân ở các quốc gia này đều chất chứa trong lòng những mối căm hờn, phẫn uất và thù ghét đối với Giáo Hội La Mã. Lòng thù ghét này của họ lúc nào cũng sôi sục như hỏa diệm sơn.

Nội dung của bức thư đề ngày 26/12/2009 dưới đây của một độc giả có địa chỉ E-mail là huynhhuong2129@gmail.com nói lên thực trạng căm hờn này:

Thân gởi anh em,

Tôi đọc được tin tên Giáo hoàng Benedict XVI bị xô ngã tại nhà thờ Saint Peter vào đêm Giáng sinh - mùa chó chết hôm qua, trong lòng tôi vui mừng không tả! => http://sachhiem.net/TONGIAO/tgS/SH09.php

Cuối cùng rồi thế giới này cũng đã có người dám đánh thẳng vào Benedict XVI - khuôn mặt đứng đầu của đám Thiên Chúa Giáo La Mã. Điều khôi hài và xỉ nhục cho bọn Thiên Chúa Giáo ở đây - người đó chính là một người đàn bà. Tôi vô cùng kính phục cô Susanna Maiolo đã dám nói thay cho vô số con người trên thế giới này trước một tôn giáo đầy gian ác, khát máu, bạo ngược và tham vọng... mà trên quê hương Việt Nam chúng tôi nhiều kẻ tự xưng cái tôn giáo ấy là “Công Giáo”!

Giặc ngoại bang đã núp dưới những chiếc áo chùn đen Thiên Chúa Giáo, núp dưới chiêu bài “truyền giáo” để xâm lược quê hương Việt Nam... những trang sử đau thương đầy máu và nước mắt còn lưu lại ngàn đời trên quê hương Việt Nam.

Cái thể chế gia đình trị Ngô Đình Diệm – còn gọi bằng mỹ từ là Đệ Nhất Cộng Hoà – mãi đến ngày nay còn bốc mùi xú uế... cũng là sản phẩm của tham vọng Va-ti-căn...

... Và đến ngày nay, sau gần 35 năm quê hương được hoàn toàn giải phóng, đời sống của dân chúng ngày một nâng cao - bọn giặc Thiên Chúa Giáo vẫn tiếp tục âm mưu nhuộm đen quê hương Việt Nam bằng những thủ đoạn gian manh và xảo quyệt nhất.

Là một người Việt đến Hoa Kỳ tỵ nạn theo diện H.O., lâu nay tôi đã quá bất mãn với đám H.O. vô văn hoá đang sinh sống tại xứ sở văn minh này. Một đám cuồng vong chỉ biết chửi bới, moi móc những chuyện trên quê hương, mà quên tự hỏi lại mình đã làm gì cho quê hương, dân tộc Việt Nam. Rõ là một lũ “nô lệ Việt Nam da vàng”. Và quê hương Việt Nam không thể chấp nhận chúng - đám H.O. làm chính trị bằng mồm, bọn quỷ áo chùn đen - như là gia tài đất nước “một bọn lưu vong... một lũ bội tình”...

Sau ngày ra khỏi trại cải tạo, tôi tìm mọi cách để đến Mỹ. Giấc mơ đó được thực hiện, một phần là nhờ chính phủ Hoa Kỳ và phần khác là nhờ sự giúp đỡ tận tình của các viên chức chính quyền Việt Nam. Tôi tri ân hai chính phủ về điều đó! Tôi đã đến nước Mỹ, làm lại từ đầu bằng tất cả nỗ lực của mình...và thực sự an phận và bằng lòng với những gì mình đang có: “được no cơm ấm áo”... Dù thỉnh thoảng tôi vẫn gặp lại những kẻ tình nghi tôi là “ăn-ten” trong những năm tháng trong trại cải tạo.

Tôi về quê hương Quảng Ngãi mấy tháng nay, tôi tận mắt chứng kiến sự giúp đỡ tận tình của chính quyền Việt Nam với người dân quê tôi trong những lúc khó khăn nhất; hình ảnh những anh bộ đội giúp dân dựng lại nhà của ruộng vườn sau những cơn bão, những trận lũ.... Chứ tôi có thấy thằng H.O., tên linh mục áo đen nào vác mặt về giúp những người dân nghèo quê tôi đâu?

Một điều nữa cần nói ở đây để thấy bản chất man rợ, dơ bẩn của bọn linh mục áo chùng đen... khi đã cố tình tạo ra những sản phẩm cặn bã đáp ứng phần nào thị hiếu của lũ chính trị xu thời. Tên linh mục Nguyễn H. Lễ là một bằng chứng. Tôi không phải là người tôn thờ Hồ Chí Minh, nhưng tôi xem HCM như một vĩ nhân của đất nước. Ngày nay, hơn 86 triệu đồng bào kính trọng Hồ Chí Minh như là vị Cha Già Dân Tộc, thì tên linh mục quỷ quyệt lại cố tình làm ra sản phẩm ba xu để móc túi đồng bào hải ngoại...

Tôi mong rằng, các anh tìm cách vạch mặt bọn Gia-Tô càng nhiều càng tốt, nhất là dịp tên giáo hoàng Benedict XVI vừa có dịp “đội quần”. Hy vọng các anh sẽ viết những bài viết giá trị để tô bóng câu chuyện “thần tượng Thiên Chúa Giáo bị đánh ngã” như là món quà cho nhân dân đón mừng năm 2010.

Khi nào các anh có dịp về Atlanta, kính mời ghé đến gia đình nghỉ ngơi!

Gởi đến anh em lời cầu chúc sức khoẻ!

Thân,

HUỲNH HƯƠNG - Cựu Cảnh Sát Quốc Gia VNCH.” [18]

Mong rằng phần trình bày trên đây có thể giúp cho mọi người nhìn thấy rõ cao độ của lòng căm hận và thù ghét của nhân dân thế giới đối với đạo Ca-tô và Giáo Hội La Mã  mà tín tín đồ người Việt của cái tôn giáo quái đản này gọi là “Đạo Công Giáo” và “Hội Thánh duy nhất, thánh thiện công giáo và tông truyền.

của chúng.

IV.- Lòng khinh bỉ và ghê tởm của người Hoa Kỳ đối với nhóm người Việt dân Chúa.   

Vấn đề Giáo Hội La Mã vi phạm các quyền tự do tôn giáo, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận của những người dân thuộc các nền văn hóa khác đã được trình bày đầy đủ trong Chương 13. Theo các nhà sử học, vấn đề vi phạm này bắt nguồn từ trong thánh kinh, từ giáo luật, và từ những lời dạy của Giáo Hội La Mã mà ra.

Đức Giáo Hoàng Grégore XVI (1831-1846) đã gọi tự do báo chí là “thứ tự do tai hại nhứt, đáng ghét nhứt, kinh tởm nhứt mà một số người dám đòi hỏi một cách ồn ào cuồng nhiệt và quảng bá khắp nơi…”[19].

Đây là chủ trương của Giáo Hội La Mã. Chủ trương này được triệt để thi hành qua chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ ở các họ đạo và ở các quốc gia bị áp đặt phải sống dưới chế độ đạo phiệt Ca-tô, tay sai của Giáo Hội tại các quốc gia địa phương.

Tại miền Nam Việt Nam, chính quyền đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm (1954-1953) và chính quyền quân phiệt Ca-tô Nguyễn Văn Thiệu (1967-1975) là các chính quyền tay sai cho cả Giáo Hội La Mã và Hoa Kỳ. Vì thế mà hai chính quyền này đã thi hành triệt để chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ do Giáo Hội La Mã chủ trương như đã nói ở trên. Hậu quả là những người Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu nặng của chính sách ngu dân này không biết gì về những bước tiến hóa của nhân lọai từ thuở hồng hoang cho tới thời văn minh tin học như ngày nay, không biết gì những bài học quốc sử trong thời cận và hiện đại, không biết gì về những rặng núi tội ác của Giáo Hội La Mã chống lại nhân loại trong gần hai ngàn năm qua, và đặc biệt là họ trở thành La Mã hơn cả La Mã.

Một trong những hậu quả của chính ngu dân này là người Việt Ca-tô  luôn luôn có thái độ và hành động không cần biết đến các quyền tự do tôn giáo, tự do tư tưởng và tự do ngôn luận của những người thuộc các tôn giáo hay nền văn hóa khác với họ. Cái đặc tính này đã trở thành bản chất của tất cả những giáo dân Ca-tô người Việt, ngọai trừ những người đã thức tỉnh. Giang sơn dễ đổi, bản chất khó chừa.  Dù đã định cư Bắc Mỹ hay Úc Đại Lợi cả mấy chục năm rồi, họ cũng vẫn chứng nào tật ấy, ngựa quen đường cũ, không hề biết tôn trọng các quyền tự do tôn giáo, tự do tư tưởng và tự do ngôn luận của những người khác. Những hành đông xấc xược ngược ngạo này đã làm cho người dân bản địa Hoa Kỳ ghê tởm, khinh bỉ họ vô cùng. Những câu chuyện dưới đây cho chúng ta thấy rõ sự kiện này:

Chuyện thứ nhất là phản ứng về những hành động thiếu giáo dục của bọn “Giặc Cờ Vàng” hoạt động trong ngành báo chí đưa nhau ra tòa án trong phiên xử ngày 8/10//1998, trong đó cả nguyên cáo và bị cáo đều được mệnh danh là “người Việt Quốc Gia” thuộc loại “trí thức” thường hay trương cao lá cờ vàng ba sọc đỏ, hướng dẫn dư luận cộng đồng người Việt tị nạn trong công cuộc tranh đấu giữ vững “lằn ranh Quốc Cộng”. Các ông trí thức “Giặc cờ Vàng” này được ông Chánh Án Robert Gardner tại Superior Court ở Santa Ana (Los Angeles, California) dạy cho một bài học về cái đạo của người làm báo và chủ báo. Nội dung của bài học này được ông Tú Gàn ghi lại trong bài viết có tựa đề là “Bôi Nhọ Chính Nghĩa Quốc Gia” đăng trên tờ báo Sàigòn Nhỏ số 97, phát hành ngày 23/10/1998, trong đó có mấy đoạn chính có nguyên văn như sau:

Khi kết thúc cuộc tranh chấp Việt Nam (the Vietnam conflict), dân chúng Mỹ đã mở rộng cánh tay đón nhận những người Việt Nam sống sót qua cuộc tranh chấp đó và tìm đến tỵ nạn tại quốc gia này. Để đổi lại, dân chúng Hoa Kỳ ít có hy vọng rằng người Việt Nam trên mọi sinh hoạt của cuộc sống, biết sống tối thiểu theo những tiêu chuẩn về trách nhiệm, về lịch sử và về sự tự trọng. Không một bài nào của các bài viết bị khiếu nại của những người được gọi là các chủ bút của báo chí trong vụ này đã đáp ứng được tiêu chuẩn đó. Mỗi người, như là một chủ bút, có một trách nhiệm nặng nề. Trách nhiệm của một người chủ bút là trông coi bài viết của các ký giả cho các tờ báo riêng của mình và những người chủ bút phải chính mình duy trì một tiêu chuẩn trách nhiệm về sự đứng đắn (decency) trong bài viết của mình. Những gì xuất phát từ bốn tờ báo liên hệ trong vụ này sặc mùi công kích vô trách nhiệm (reeks with irresponsible diatribes). Mỗi một người trong họ, với tư cách là chủ bút của một tờ báo, là một sự bối rối nghiêm trọng cho giới báo chí có trách nhiệm. Bài viết của họ phản ảnh trong vụ này đã hạ cấp nó xuống tình trạng của sự thô lỗ buồn nản (dismal vulgarity. [20]

Chuyện thứ hai là phản ứng  của người Hoa Kỳ đối với các ông “cừu non” (con chiên) Xóm Đạo Bolsa mang danh nghĩa là “Người Việt Quốc Gia” về hành động ngăn cản những người đến thưởng ngoạn cuộc triển lãm nghệ thuật ở Viện Bảo Tàng Bowers (California) trong thời gian từ tháng 6 cho đến ngày 3 tháng 10 năm 1999. Điểm đặc biệt là, trong khi hành động ngang ngược và phóng ra những lời lẽ thiếu văn hóa đối với những người đến thưởng ngoạn các tác phẩm nghệ thuật mang từ Việt Nam đến triển lãm ở trong viện bảo tảng này, thì chúng lại trương cao lá cờ vàng ba sọc đỏ và “giữ vững lằn ranh Quốc Cộng, tranh đấu cho chính nghĩa Quốc Gia.”

Hành động thiếu giáo dục này đã làm cho rất nhiều người Hoa Kỳ đến thưởng lãm nghệ thuật Việt Nam ở đây rất bực mình và ném ra những cái nhìn "khinh bỉ” vào bọn người lạc hậu vô văn hóa này. Một trong những người Hoa Kỳ bực mình này có tên là Anneke Mendiola đã phải  viết mấy đoạn văn về Công Dân Giáo Dục để dạy dỗ họ với nội dung như sau:

Chúng nó có hiểu hay không? Chúng nó đến đây để tìm tự do, nhưng (tại sao) lại không cho tôi hành xử quyền tự do của tôi? (Don’t they get it? They came here for freedom, but won’t allow me to exercise mine?)” [21]

Chuyện thứ ba là phản ứng về vụ các ông bà “Dân Chúa Giặc Cờ Vàng” nhân danh cộng động người Mỹ gốc Việt đến Trường Đại Học Southern California University đòi họ phải hạ lá cờ đỏ sao vàng (mà họ đã treo từ trước) xuống để thay thế vào đó bằng lá cờ vàng ba sọc đỏ. Hành động ngang ngược này khiến cho người dân Hoa Kỳ địa phương phản ứng chống lại mãnh liệt. Chuyện này được Giáo-sư Trần Chung Ngọc ghi nhận trong bài viết  “Thắc Mắc Cần Được Giải Đáp” (Mục nói về lá cờ vàng ba sọc đỏ) đăng trên sachhiem.net ngày 7/5/2008, trong đó có mấy đoạn như sau:

Chúng ta có cảm thấy xấu hổ không khi đọc những dòng chữ này trên tờ OCregister.com:

“Bạn có biết không. Ngu xuẩn là chính danh. Pháp và sau đó là Mỹ đã huấn luyện những người ngu dốt để phục vụ cho chúng. Công việc của họ là đánh hơi ra những kẻ nào chống chủ của họ, cộng sản hay không. Họ gọi bất cứ người nào chống lại sự thống trị của ngoại bang là “cộng sản” và cầm tù và giết người đó. Đó là tại sao họ không được sự ủng hộ của dân chúng. Đó là tại sao khi Mỹ tháo chạy thì họ cũng phải tháo chạy. Chế độ Sàigòn không có ngay cả sự ủng hộ của binh sĩ của mình, đó là tại sao mà chỉ có trong vòng 55 ngày mà quân đội miền Bắc có thể kiểm soát hoàn toàn Nam Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975. Một điều mà cái guồng máy chiến tranh lớn nhất trên thế giới không thể làm nổi dù rằng đã làm cả mười năm, đã giết cả triệu người, đã thả 8 triệu tấn bom và đã trải 70 triệu lít chất khai quang màu cam.

Cho đến ngày nay, suốt cuộc đời của họ dính cứng vào cái trạng thái tâm lý đó. Họ nghĩ rằng nếu họ cứ kiên trì hô to những khẩu hiệu trống rỗng như vậy thì họ sẽ được sự ủng hộ để họ đi hiếp đáp những người khác ở trên đất Mỹ này, và lạ lùng thay họ đã thành công. Điều này chứng tỏ một điều. Còn rất nhiều người ngu trên đất Mỹ.

Những người biểu tình chống đối có biết rằng trong thế giới ngày nay mà lên án một người nào là cộng sản thì thật là ngu xuẩn không? Nó đã quá lỗi thời và chứng tỏ là các người thiếu giáo dục.

1000 sinh viên Mỹ gốc Việt học ở USC đúng khi nói rằng lá cờ đỏ sao vàng không đại diện cho họ. Đó là vì lá cờ ba màu đỏ, trắng, và xanh (cờ Mỹ) đã đại diện cho họ ở mọi cơ sở liên bang, tiểu bang, quận, và các công sự trong thị trấn.

Các người không có quyền bảo USC hay bất cứ ai về vấn đề lá cờ nào mà họ muốn treo. Đó không phải là một đặc quyền mà là quyền đã tranh đấu để có được. Nếu những người chống đối muốn lá cờ cũ của Nam Việt Nam được treo thì các người phải ở lại trong nước và chiến đấu [nếu thắng thì đương nhiên lá cờ đó là cờ của quốc gia Việt Nam]. Miền Bắc đã ở lại và chiến đấu và họ đã được cái họ muốn. Sự kiện là điều này không xẩy ra cho miền Nam và ngày nay chúng ta đang ở năm 2008.

Các người muốn gì nữa từ nước Mỹ? Các người muốn chúng tôi gây một cuộc chiến khác với Việt Nam? [22]

Chuyện thứ tư là phản ứng về những hành động đánh phá và khủng bố các nghệ sĩ VAALA. Chuyện này được tờ Việt Weekly liên lạc nói chuyện trực tiếp với ông Burr để được biết rõ nguyên nhân TẠI SAO ông lại có những hành động chống lại bọn người này. Dưới đây là nguyên văn bản tường trình của báo Việt Weekly về vấn đề này:

“Việt Weekly : Tại sao ông mặc áo đỏ sao vàng đến tham dự buổi triển lãm?

MB (Micheal Burr): Vì tôi muốn bày tỏ sự ủng hộ của tôi đối với một đồng nghiệp mà đồng thời cũng là một người bạn, anh Brian Đoàn. Tôi tin vào tự do ngôn luận. Tôi không tin vào sự kiểm duyệt thông tin hay ý kiến. Tôi không có kiên nhẫn với sự dốt nát và ngu ngốc. Những người biểu tình và người phá hoại tác phẩm nghệ thuật cần phải đi học để được giáo dục thêm, thay vì tiếp tục sống trong vũng lầy của 35 năm thù hận.

VW: Nếu ông mặc chiếc áo này vào khu phố Việt Nam, ăn phở, ông nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra?

MB: Tôi nghĩ, tôi sẽ bị gặp nhiều rắc rối (cười). Đôi khi tôi mặc chiếc áo này và đội chiếc mũ này, nó làm người ta ngỡ ngàng. Tôi là một cựu chiến binh Mỹ tham chiến ở Việt Nam. Tôi là một nhiếp ảnh gia, và đã từng đi xem triển lãm nhiều lần ở Little Saigon, nhưng tôi không cho rằng, những người biểu tình có quyền đóng cửa cuộc triển lãm nhiếp ảnh, hay bất cứ cuộc triển lãm nào khác. Đây là quốc gia, mà những người tới đây sinh sống được hưởng quyền tự do ngôn luận, quyền tự do hội họp mà không phải sợ hãi một điều gì. Những người biểu tình không hiểu những điều này. Họ đang áp đặt những gì cũng giống như đang xảy ra ở Việt Nam: kiểm duyệt những gì họ không muốn nhìn thấy, hoặc không muốn quần chúng nhìn thấy. Họ nói rằng, họ đang chiến đấu cho dân chủ, trên thực tế, miền Nam Việt Nam chưa bao giờ có dân chủ. Ngô Đình Diệm là một nhà độc tài, thắng cử năm 1955 với tỷ lệ 95% phiếu. Đó là một chuyện nực cười, bởi vì ở Mỹ, cuộc thắng cử lớn nhất của Lyndon Johnson chỉ có 60%. Sau Diệm, là Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu, mấy người này chỉ lo truy diệt những đối thủ chính trị, cho nên Nam Việt Nam chưa bao giờ có nền dân chủ.

VW: Những người chống cộng so sánh hình ảnh Hồ Chí Minh với Hitler trong cộng đồng Do Thái, ông nghĩ như thế nào?

 MB: Hitler là một con quỷ, chịu trách nhiệm giết hại 6 triệu người. Hồ Chí Minh, trước hết, là một người quốc gia. Những người biểu tình phải đọc lại lịch sử. Sau đệ nhị thế chiến, Hồ Chí Minh viết 7 lá thư, gần như là van xin, tổng thống Truman công nhận Việt Nam, và không để Pháp quay lại Việt Nam. Bởi vì khuynh hướng thân Âu châu của Bộ Ngoại Giao lúc bấy giờ, Á châu không được ưu tiên như Âu châu trong việc tái xây dựng. Một thỏa thuận giữa Pháp và Mỹ đã xảy ra. Pháp giúp Mỹ thực hiện kế hoạch Marshall, ngược lại Mỹ để cho Pháp quay trở lại Việt Nam. Một lỗi lầm to lớn. Dẫn tới cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Pháp thua ở trận Điện Biên Phủ năm 1954. Hiệp định Geneve chia đôi đất nước. Không may, Mỹ đã không ký vào văn bản hiệp định đó. Mỹ muốn chận đứng làn sóng cộng sản được cho là đang lan rộng, và nơi được chọn là Việt Nam.

 VW: Là một cựu quân nhân Mỹ chiến đấu cho tự do tại Việt Nam, ông có so sánh gì về thời điểm đó và bây giờ?

MB: Trước hết, tôi đã không chiến đấu cho tự do. Đó chỉ là một chiêu bài do chính phủ tung ra cho quần chúng Mỹ. Tôi không phải là quân nhân tham chiến, tôi đến Việt Nam trong vai trò dạy tiếng Anh cho không quân Việt Nam. Lúc đó, tôi không biết gì về Việt Nam. Tôi không biết Việt Nam ở đâu. Tôi không biết tại sao chúng tôi lại phải đến đó. Và khi tôi ở đó, tôi biết thêm được nhiều điều. Trong đó, tôi biết được rằng Việt Nam là một lỗi lầm đối ngoại lớn nhất của Mỹ trong thế kỷ 20. Tôi nghĩ lẽ ra chúng ta nên để người Việt Nam tự giải quyết vấn đề của họ. Và kết quả có thể đã là ok. Tôi không phải là người cộng sản hay ủng hộ cộng sản. Tôi tin rằng, cộng sản là một chủ nghĩa sẽ tự nó phải đào thải. Tôi nghĩ rằng nếu để Việt Nam có được khoảng 30 năm phát triển kinh tế thay vì chiến tranh, Việt Nam đã tương đương với Thái Lan, Singapore, Malaysia, hay Nam Hàn của ngày hôm nay. Người Việt rất tháo vát, siêng năng và cần cù. Tôi trở lại Việt Nam 3 lần trong vòng 5 năm qua, và nhìn thấy cộng sản đang bị tan rã dần. Mỗi lần tôi trở lại đều thấy kinh tế phát triển, người dân vui tươi hơn. Dĩ nhiên, là họ chưa được thỏa mãn hoàn toàn. Tôi không đồng ý với những giới hạn tự do ngôn luận, hội họp dưới chế độ cộng sản. Nhưng mà như tôi đã nói, tôi tin rằng chế độ cộng sản sẽ tự đào thải. Đi du lịch ở Việt Nam ngày hôm nay, tôi không có cảm giác là đang ở trong một chế độ cộng sản. Sự hiện diện của cảnh sát, quân đội rất ít. Cảnh tượng buôn bán sầm uất khắp nơi.

 VW: Theo ông, tại sao sau ba mươi năm, người tỵ nạn Việt Nam vẫn có phản ứng mạnh mẽ với lá cờ đỏ sao vàng, hoặc bất cứ biểu tượng nào có tính cách áp đặt sự hiện diện của chính quyền cộng sản tại hải ngoại?

 MB: Tôi nghĩ họ phải bỏ qua đi. Chiến tranh đã chấm dứt 34 năm rồi. Tôi hiểu về nỗi đau của người tỵ nạn hơn hầu hết những người Mỹ khác, nhưng sau 34 năm, họ phải bỏ qua để đi tới. Tôi đi ra Hội chợ Tết cuối tuần vừa rồi, người ta đứng dậy, chào cờ và hát bài quốc ca đã không còn hiện hữu nữa của 34 năm về trước. Tôi cho rằng, những người biểu tình đã đầu tư quá nhiều vào nỗi cay đắng, thù hận của chính họ, cho nên họ không thể cởi bỏ được, để tham gia vào một mục tiêu chung là biến Việt Nam trở thành một quốc gia tốt đẹp hơn.” [23]

V. KẾT LUẬN:

Tất cả nhân dân các quốc gia đã có kinh nghiệm máu với Nhà Thờ Vatican đều ghê tởm và căm thù Giáo Hội La Mã cùng bọn giáo sĩ của cái “Giáo Hội Khốn Nạn” này. Họ mong loại nó ra khỏi  lãnh thổ (như nước Nga và các quốc gia Hồi Giáo), hoặc là loại nó ra khỏi chính quyền (như các quốc gia theo chế độ  dân chủ tự do như ở Bắc Mỹ, ở Âu Châu), hoặc là lánh xa nó như lánh xa nguồn bệnh dịch nguy hiểm (như nhân dân các quốc gia trên lục địa Á Châu.)

Khi mà tất cả mọi tầng lớp nhân dân ở tất cả các quốc gia đều cảm thấy bất mãn và căm thù Nhà Thờ Vatican như vậy, thì tất nhiên là chuyện họ vùng lên đạp đổ và hủy diệt “cái tôn giáo ác ôn” này chỉ là vấn đề thời gian mà thôi.

Đây là sự thực lịch sử đã xẩy ra ở tất cả các quốc gia chẳng may bị cưỡng bách phải nằm dưới ách thống trị của Nhà Thờ Vatican, chứ không riêng gì ở nước Pháp. Cũng vì thế mà bất kỳ nơi nào có bàn tay quyền lực của Nhà Thờ vươn tới, thì nhân dân nơi đó đều ghê tởm và căm thù cái "đạo máu" này đến tận xương tận tủy. Họ chỉ chờ có cơ hội là vùng lên đập nát nos cho hả giận, [Nhiều tác giả, Vatican Thú Tội Và Xin Lỗi? (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2000), tr. 92.] và lôi cổ “bọn quạ đen” ra xử, như nhân dân miền Nam Việt Nam đã đập chết anh em tên bạo chúa phản thần tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm vào lúc gần 7 giờ sáng ngày 2/11/1963.

Riêng về các ông bà “cừu non” (con chiên) Bolsa và những người đồng minh của họ ở Bắc Mỹ, ở Úc Châu, Âu Châu tự phong hay tự xưng là “người Việt Quốc Gia”, thường tụ tập với nhau, thường trương cao là “cờ vàng ba sọc đỏ”, thường lớn tiếng cao rao rằng, họ “cương quyết giữ vững lằn ranh Quốc Cộng”, “cương quyết tranh đấu cho lý tưởng Quốc Gia”,  thực sự những người này là những người hoặc là chính bản thân  họ, hoặc là ông cha của họ đã phạm tội “rước con voi Vatican về giày mà tổ Việt Nam.”

Trong quá khứ, họ đã từng là những người có liên hệ khắng khít và chìm nổi với  Giáo Hội La Mã tại Việt Nam từ cuối thế kỷ 18 (khi Nguyễn Ánh sử dụng Giám-mục Pigneau de Béhaine tức Bá Đa Lộc làm cố vấn chính trị và quân sự cho phe đảng của ông ta), chìm nổi với Liên Minh Xâm Lược Pháp  - Vatican cho đến năm 1954, và chìm nổi Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican để chống lại tất cả các phong trào hay lực lượng nghĩa quân kháng chiến của nhân dân ta trong suốt chiều dài lịch sử từ giữa thế kỷ 19  cho đến ngày 30/4/1975.

Điểm quan trọng hơn nữa là chính bản thân họ cũng như ông cha của họ đều là những người sinh ra, lớn lên và tiếp nhận sở học qua chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ (do Giáo Hội La Mã ngồi ở hậu trường sân khấu chính trị chủ trương) ở Đông Dường trong những năm 1885-1954 và ở miền miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975. Chính sách ngu dân này có chủ trương biến thanh thiếu niên Việt Nam thành những người vong bản phản dân tộc mà Giáo Hội La Mã cao rao là “đào tạo thanh thiếu niên theo tinh thần công giáo.” Có như vậy thì họ mới có thể hành xử “theo lương tâm Cộng Giáo”, nghĩa là họ phải tuyệt đối vâng lời Tòa Thánh Vatican và  phải triệt để tuân hành những lệnh truyền của các đấng bề trên của họ trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội La Mã.

Hậu quả là họ đã trở thành những người “La Mã hơn cả La Mã” với những đặc tính lạc hậu, chậm tiến, không biết sử dụng lý trí để tìm hiểu sự vật, ngu dốt đặc cán mai về lịch sử. Đối với Quốc sử Việt Nam thì "lơ tơ mơ", nhất là trong thời cận và hiện đại, còn nói chi đến lịch sử thế giới, nhất là lịch sử Giáo Hội La Mã. Vì ngu dốt như vậy, cho nên  họ mới không biết gì về những việc Giáo Hội chống lại nhân loại trong gần hai ngàn năm qua, và cũng không biết gì về những bước tiến của nhân loại từ cái thuở “hốn mang chi sơ” cho đên thời đại tin học như ngày nay. Chính vì thế mà họ không thể nào thích nghi với nếp sống dân chủ tự do ở Bắc Mỹ này. Hậu quả của tình trạng tệ hại đó đưa đến chuyện ông Tòa tại một tòa án Hoa Kỳ mắng nhiếc, chuyện họ bị những người dân Hoa Kỳ khinh bỉ và dạy cho những bài học “Công Dân Giáo Dục” như đã nói ở trên.

 

CHÚ THÍCH


[16] Nguyễn Khắc Xuyên và Phạm Đình Khiêm, Giáo Sĩ Đắc Lộ và Tác Phẩm Quốc Ngữ Đầu Tiên (Sàigòn: Tinh Việt Văn Đoàn, 1961), tr. 83.

[17] Nguồn: www.thaivisa.com/.../Buddhism-Wins-Religion-World-Awa-t280783.html.

Nguyên văn: Buddhism won “The Best Religion In The World” award (15 Jul 2009, Tribune de Geneve.)

The Geneva-based International Coalition for the Advancement of Religious and Spirituality (ICARUS) has bestowed "The Best Religion In the World" award this year on the Buddhist Community.

This special award was voted on by an international round table of more than 200 religious leaders from every part of the spiritual spectrum. It was fascinating to note that many religious leaders voted for Buddhism rather than their own religion although Buddhists actually make up a tiny minority of ICARUS membership. Here are the comments by four voting members:

Jonna Hult, Director of Research for ICARUS said "It wasn't a surprise to me that Buddhism won Best Religion in the World, because we could find literally not one single instance of a war fought in the name of Buddhism, in contrast to every other religion that seems to keep a gun in the closet just in case God makes a mistake. We were hard pressed to even find a Buddhist that had ever been in an army. These people practice what they preach to an extent we simply could not document with any other spiritual tradition."

A Catholic Priest, Father Ted O'Shaughnessy said from Belfast, "As much as I love the Catholic Church, it has always bothered me to no end that we preach love in our scripture yet then claim to know God's will when it comes to killing other humans. For that reason, I did have to cast my vote for the Buddhists."

A Muslim Cleric Tal Bin Wassad agreed from Pakistan via his translator. "While I am a devout Muslim, I can see how much anger and bloodshed is channeled into religious expression rather than dealt with on a personal level. The Buddhists have that figured out." Bin Wassad, the ICARUS voting member for Pakistan 's Muslim community continued, "In fact, some of my best friends are Buddhist."

And Rabbi Shmuel Wasserstein said from Jerusalem, "Of course, I love Judaism, and I think it's the greatest religion in the world. But to be honest, I've been practicing Vipassana meditation every day before minyan (daily Jewish prayer) since 1993. So I get it."

However, there was one snag - ICARUS couldn't find anyone to give the award to. All the Buddhists they called kept saying they didn't want the award.

When asked why the Burmese Buddhist community refused the award, Buddhist monk Bhante Ghurata Hanta said from Burma, "We are grateful for the acknowledgement, but we give this award to all humanity, for Buddha nature lies within each of us." Groehlichen went on to say "We're going to keep calling around until we find a Buddhist who will accept it.. We'll let you know when we do."

[18] Thư của tác giả Huong Huynh <huynhhuong2129@ gmail.com>gửi toasoan@sachhiem. net ngày 26/12/2009 có tự đề là “Suy nghĩ vê tin Giáo Hoàng Benedict XVI bị xô ngã.”

[19] Lý Chánh Trung, Tôn Giáo Và Dân Tộc (Sàigòn: Lửa Thiêng, 1973)  tr. 76

[20] Tú Gàn. “Bôi Nhọ Chính Nghĩa Quốc Gia.” Sàigòn Nhỏ số 97. Ngày 23/10/1998.

[21] Anneke Mendiola, “Attempts to Ban Vietnamese Art.” Latetimes.com Orange County, Sunday, July 4, 1999.

[22] Trần Chung Ngọc “Thắc Mắc Cần Được Giải Đáp.” Sachhiem.net Ngày 7/5/2008.

Nguyên văn: “You got it. Ignorant is the word. France and later the US had trained these ignorant people to serve them. Their job is sniffing out their people who is against their masters, communist or not. They would call anyone opposes foreign domiation “communist” and jail and kill them. That’s why they didn’t have any support from the population. That’s why when the US run, they had to run too. The Saigon regime didn’t even have the support of its own soldiers, that’s why it took only 55 days for the North Army to take total control of South Vietnam in the Ho Chi Minh Campaign in 1975. Something that the biggest war machine this world has ever seen couldn’t do in ten years despite killing millions of people, dropping 8 million tons of bombs anf 70 million liters of Agent Orange.

All their lives until this day, they’re stuck in that mentality. They think if they chant those empty slogans often enough they will get the support they need to bully others here in the US, and surprisingly they did succeed. That proves one thing. There’re a lot of ignorant people in the US ‘ population too.

Do you protestors realize how ignorant it sound to utilize and accuse someone of being a communist in today’s world? It’s outdated and clearly demonstrates your lack of education.

The 1000 USC American Vietnamese students are correct to state that the Red flag with the star doesn’t represent them. It is because the red, white, and blue represents them in every federal, state, county, and city building.

You have no right to tell USC or anyone of that matter to fly what flag they want to. It is neither a privilege but a right that was given and fought for. If you protestors wanted to the old South Viet Nam flag to fly you should have stayed and fought. The North stayed and fought and they got what they wanted. The facts remains for the South that didn’t occur and we are here now in 2008. What else do you want more from the US? Do ou want us to wage another war against Vietnam?”

[23] Nguồn: “Cuộc Phỏng Vấn của Việt Weekly với Michael Burr.” Sachhiem.net, ngày 7/2/2009

Trang Nguyễn Mạnh Quang