Mối Ác Cảm Của Nhân Dân Thế Giới

Đối Với Giáo Hội La Mã

Nguyễn Mạnh Quang

http://sachhiem.net/NMQ/MOIACCAM/NMQ_10.php

bản rời | toàn tập | 02 tháng 4, 2010

CHƯƠNG 12

NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HÀNH ĐỘNG VÀ NGÔN TỪ NGƯỢC NGẠO TRONG ĐẠO KI-TÔ

Cái tựa đề trên đây của chương sách này mới chỉ nói  lên được 3 trong rất nhiều sự kiện hay vấn đề cực kỳ ghê tởm trong Giáo Hội La Mã đạo Ki-tô La Mã: Những  sự kiện đó là:

1.- Kinh thánh Ki-tô

2.- Những thủ đoạn lươn lẹo, nhân vơ, nói láo, cưỡng từ đoạt lý

3.- Những thuật ngữ xảo trá và quái đản.

4.- Đới sống bê bối thói tha phi luân, loạn luân và lọan dâm của toàn bộ giới tu sĩ.

5.- Cấu kết với các cường quyền địa phương và các đế quốc xâm lược Âu Mỹ để duy trì, củng cố quyền lực và bành trướngh thế lực.

6.- Thi hành chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ để kìm hãm tín đồ và nhân dân dưới quyền mãi mãi ở trong ngục tù ngu dốt.

7.- Dùng miếng mồi vật chất, danh vọng, chức tước, chức vụ hay chỗ làm trong chính quyền và quyền lực để câu nhử những phường tham lợi háo danh và thèm khát quyền lực chạy theo bắt mồi rồi lọt vào cái tròng Ca-tô (Catholic loop) để cho giáo hội siết cố, làm nô lệ cho giáo hội.

8.- Biến tín đồ thành “những quân sát nhân cuồng nhiệt” rồi đoàn ngũ họ thành những đạo quân nằm tiềm phục trong các xóm đạo, chờ lệnh nổi lên đánh phá chính quyền địa phương nếu không chịu thuần phục Vatican hay không chịu thỏa mãn những yêu sách của giáo hội. Suốt trong chiều dài lịch sử từ cuối thế kỷ 18 cho đến ngày nay, Giáo Hội La Mã đã liên tục triệt để thi hành sách lược nàyđể đánh phá tất cả các chính quyền Việt Nam nào không chịu thuần phục Vatican. Những việc làm của Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, Cao Đình Thuyên và các linh mục Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Khởi Phụng, Nguyễn Văn Khải, Nguyễn Ngọc Nam Phong, Nguyễn Văn Thật, Nguyễn Hữu Vinh  trong các vu gây bạo loạn gần đây nhất tại số 42 Nhà Chung (Hà Nội), tại số 178 Đường Nguyễn Lương Bằng (Phường Đống Đa,  Hà Nội), tại xã An Bằng (Huế), Tại Nhà Thờ Tam Tòa (Huế), tại Đồng Chiêm (xã An Phú, huyện Mỹ Đức, Hà Nội), Cồng Dầu (Đà Nẵng) là những bằng chứng bất khả phủ bác cho sự kiện này.

9.- Tàn sát những người dân dưới quyền nếu họ tỏ ra bất khuất không chị theo đạo Ki-tô.

10.- Tiêu hủy tất cả các di sản văn hóa và các công trình kiến trúc của các tôn giáo hay nên văn hóa khác.

11.- Nắm độc quyền kiểm sóat tất cả mọi phạm vi sinh hoạt trong nhân dân đẻe tận tình với vét tài nguyên của đất nước, bóc lột nhân dân bằng trăm phương ngàn kế và tích lũy tài sản cho đầy túi tham.

Vân vân.

 Trong phạm vị hữu hạn của chương sách này, chúng tôi chỉ có thế trình bày 3 trong những sư kiện trên đây mà thôi. Các sự kiện khác đã được chúng tôi nêu lên ở (1) trong các  Chương 5 -17 (Phần II) và các Chương 18 -31 (Phần III), trong sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã, (2)  trong các  Chương 3 - 12 (phần II) và các Chương 13-20 (Phần III) trong sách Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam. Các chương sách này có thể đọc online trên sachhiem.net  

I.- NHỮNG QUÁI THAI TRONG KINH THÁNH

Nếu mở trang nhà sachhiem.net, quý vị sẽ thấy ở ngay dưới kế hàng tựa đề Sách Hiếm, có hàng  mấy dòng chữ  trích từ trong kinh thánh (Tân Ước) với nguyên văn như sau:

Phúc âm - "Luke 14, 26: Nếu kẻ nào đến với ta mà không "căm ghét" cha mẹ, vợ con, anh chị em,  và ngay cả đời sống của hắn, thì hắn không thể là môn đồ của Ta [If any man come to me, and hate not his father, and mother, and wife, and children, and brethren, and sisters, yea,

and his own life also, he cannot be my disciple.]"

Trên đây chỉ là mấy dòng nói về một sự kiện quái thai trong khu rừng quái thai trong kinh thánh Ki-tô mà thôi. Dưới là một vài quái thai khác trong khu rừng quái thai này:

1.- Sáng Thế Ký (19:30-38): “Lot ở Xoa thì sợ hãi, nên cùng hai con gái mình bỏ đó mà lên núi, ở trong một hang đá kia. 31.- Cô lớn nói cùng em rằng: Cha ta đã già, mà không còn ai trên đất đến sánh duyên cùng ta theo như thế thường thiên hạ. 32.- Hê! chúng ta hãy phục rượu cho cha, và lại nằm cùng người, để lưu truyền dòng giống cha lại. 33.- Đêm đó, hai nàng phục rượu cho cha mình; nàng lớn đến nằm cùng cha; nhưng người chẳng hay lúc nào nàng nằm, lúc nào nàng dậy hết. 34.- Qua ngày mai, chị nói cùng em rằng: Nầy đêm hôm qua  ta đã nằm cùng cha rồi; hôm nay chúng ta hãy phục rượu cho cha nữa, rồi em hãy lại nằm cùng người, để lưu truyền dòng-giống cha lại. 35.- Đêm đó hai nàng lại phục rượu cho cha mình, rồi nàng nhỏ lại nằm cùng cha; nhưng người chẳng hay lúc nào nàng nằm, lúc nào nàng dậy hết. 36.- Vậy, hai con gái của Lot do nơi của mình mà thọ thai, 37.- Nàng lớn sanh được một con trai, đặt tên là Mô-áp; ấy là tổ phụ dân Mô-áp đến bây giờ. 38.- Người em cũng sanh đặng một trai, đặt tên là Bên-Am-mi; ấy là tổ phụ của dân Am-môn đến bây giờ." (Sáng Thế Ký: 19:30-38). 

2.- Leviticus (26:14): "Nhưng nếu các người không nghe lời Ta, không tuân hành những lời răn dạy này.” (But if you do not obey Me, and do not observe all these commandements.) 26.15.- “và nếu các ngươi khinh thường những quy luật của Ta, hay nếu linh hồn của các ngươi khinh ghét những lời phán xét của Ta, cho nên các người không thực thi tất cả những lời răn dạy của Ta, và không tuân hành quy ước của Ta." ( and if you despise My statutes, or if your soul abhors My judgements, so that you do not perform all My commandements, but break My covenant.)". . 26.16.- "Ta sẽ gây ra những tai họa dưới đây cho các ngươi: Ta sẽ đem lại cho các ngươi những gì khủng khiếp nhất, những bệnh tật tàn phá các ngươi, dịch sốt rét sẽ hủy hoại những tròng mắt của các ngươi và nhiều cảnh đau buồn khác nữa. Những hạt giống mà các người gieo xuống đất sẽ không nẩy mầm được nữa vì rằng kẻ thù của các người sẽ ăn mất đi hết những hạt giống đó.” (I also will do this to you: I Will even appoint terror over you, wasting disease and fever which shall consume the eyes and cause sorrow of heart. And you shall sow your seed in vain, for your enemies shall eat it.)  26.17.- "Ta sẽ nhìn thẳng vào mặt các ngươi, và các ngươi sẽ bị thảm bại trước kẻ thù. Những người nào thù ghét các ngươi sẽ đè đầu cỡi cổ các ngươi, và các ngươi sẽ phải chạy trốn cả những khi không có người nào đuổi bắt các ngươi.” (I will set My face against you, and you shall be defeated by your enemies. Those who hate you shall reign over you, and you shall flee when no one pursue you.)  26.18.- ""Và sau hết, nếu các ngươi không nghe lời Ta, Ta sẽ trừng phạt các ngươi bẩy lần hơn về tội lỗi của các ngươi.” ( And after all this, if you do not obey Me, then I will punish you seven times more for your sins.)

  

3.-  Luật Sợ Chúa.- “Dùng danh nghĩa thiên-chúa Giê-hô-va, bọn giáo-sĩ chế (bịa) ra các luật ở bảng thứ nhất để bắt dân phải cung phụng họ, chỉ được thờ vị thần do họ đưa ra, phải diệt (hết) các đạo khác, phải giết nhưng người thay đổi đạo mà họ đã đặt ra, phải giết vợ con, bạn hữu nếu những người này tuyên truyền cho các đạo khác, phải không có lòng thương xót khi giết người.” [68]

4.- Luật Quy Định Vịệc Cung Phụng Thiên Chúa.- Môi-se ra lệnh cho đám dân Do Thái giặc cướp phải giết hết người nam, giết hết đàn bà, con gái đã ăn nằm với đàn ông, chỉ giữ lại con gái trinh thôi (Dân số 31:17-18). Giê-ho-va đòi dân đi ăn cướp về phải chia của cướp được cho mình. Của này phải giao cho các giáo sĩ giữ từ cừu, bò cho tới những người con gái (Dân số 31:28 và 31:40). Thân hình thiên chúa Giê-hô-va và thân hình người đàn ông (Sáng Thế 1:26) giống nhau nên vị thiên chúa đó đòi dâng con gái của loài người không có gì là lạ. Cha sao, con vậy. Thảo nào các con của vị thần đó cũng ham (Sáng Thế 6:4) con gái loài người. Vị thần ăn cướp gọi là Thiên-chúa Giê-hô-va đòi tín đồ chỉ được thờ có một mình mình thôi, cho nên vị thần ấy đòi tín đồ thẳng tay tiêu diệt quyền tự do tôn giáo, đòi như sau:

Phải dứt khoát giết những người đi lễ (bất kỳ) vị thần nào khác ngoài Giê-hô-va (Xuất Hành 22:20)

Phải giết những kẻ tiên tri nào dám nhân danh các vị thần khác mà nói (Phục Luật 18:20)

Chớ theo những vị thần của các dân tộc ở chung quanh các ngươi (Phục Luật 6:14).

Dân Do Thái phải dâng con đầu lòng cho Giê-hô-va (Xuất Hành 13:12).

Dân Do Thái hay dân khác sống trên đất Do Thái mà dâng con cho thần Mo-lóc thì phải bị xử tử (Lê-vi: 20:2).

Không được tha mạng sống cho các thầy phù thủy (Xuất Hành 22:18).

Những người đi hỏi thầy phù thủy hay hỏi thầy bói cũng phải dứt khoát bị trừng trị. Giê-hô-va nói: “Ta sẽ đối mặt kẻ đó và sẽ cắt phăng kẻ đó khỏi dân chúng (Lê-vi 20:6).

Giê-hô-va tự nhận là thần Ganh-ghét, không tiếc lời căn dặn tín đồ mọi chi tiết về việc phá các đạo khác: Phàm những dân tộc nào mà các ngươi đuổi đi được, các ngươi phải:*Phá sạch những nơi thờ thần của họ (Thánh Kinh Tin Lành dùng cụm từ “chúng nó” thay cho “họ") trên núi cao, trên đồi, dưới bóng cây xanh,  đập tan bàn thờ, đâp vụn cột đền, lấy lửa đốt rụi hết các tượng của họ, * đục khoét cho mất hết mọi hình chạm trổ các tượng thần của họ,* và xóa tên những thần ấy ở những nơi đó (Phục Luật 12:2-3). Một nhóm dân Do Thái thờ thần Ba-an Pê-o khiến cho Giê-hô-va nổi giận lôi đình rồi ra lệnh cho Môi-se:“Hãy đem hết các thủ lãnh của đám dân này ra treo cổ ở ngoài nắng trước mặt Gia-vê để cơn giận của Gia-vê không chĩa vào dân Do Thái (Dân Số 25:3-5). [69]

5.- Luke (19: 27): Hãy mang những kẻ thù của Ta ra đây, những người không muốn Ta ngự trị trên họ, và giết chúng ngay trước mặt Ta." (Bring here those enemies of mine who did not want me to reign over them and slay them before me.)

Câu văn (số 5)  trên đây  này chứng  tỏ rằng ông Chúa Con Jesus cũng bạo ngược và dã man không kém gì ông Thiên Chúa Cha Jehovah.

6.- Luke (14:26): Kẻ nào đến với Ta mà không căm ghét cha me, vợ cọ, an hem, chị em mình và chính sự sống của mình nữa thì không thể là môn đệ của ta.”

7.- Matthew (10: 34-36): “Đừng tưởng rằng Ta xuống trần để mang lại hòa bình trên trái đất. Ta không xuống đây để mang lại hòa bình mà là gươm giáo. Vì Ta xuống đây để làm cho con chống lại cha, con gái chống lại mẹ, con dâu chống lại mẹ chồng, và kẻ thù của con người ở ngay trong nhà hắn."(Do not think that I came to bring peace on earth. I did not come to bring peace but a sword. For I have come to set a man against his father, a daughter against her mother, and a daughter-in-law against her mother-in-law. And a man's foes will be those of his own household.”

Trên đây chỉ là một vài những phán lời dạy quái đản vừa ngược ngạo, vừa gian tham tàn bạo, vừa lọan luân, vừa  phi luân, vừa bất nhân trích từ trong Cựu Ước và Tân Ước. Nếu  đọc tiếp trong  các sách như  các sách Deuteronomy (19:21), Exodus (21: 23-25), Dân Số (25:3-5,31:1-54), Leviticus 24:19-20, 26: 1-43), Phục Luật (6:14, 7:1, 2 và 16, 12: 2-3, 13:6-9. 18: 4 và 20, 20:14-16, 22: 13-21 và 23), Xuất Hành (13:12, 20 11, 22: 20), thì quý vị sẽ thấy kinh thánh Ki-tô quả thật là cẩm nang của những hạng  người lục lâm thảo khấu của thời đại bán khai, chẳng có chút gì là nhân ái, đạo đưc, công bằng, bác ái như Giáo Hội La Mã thường lớn tiếng rao giảng ở trong các nhà thờ cũng như khi họ truyền giáo.

Đọc  kinh thánh Ki-tô rồi chúng ta sẽ thấy trong đó có đầy dẫy những chuyện loạn luân, phi luân và Thiên Chúa của Giáo Hội La Mã  là một thứ siêu bạo chúa,  vô cùng bạo ngược, cực kỳ độc ác, hết sức gian tham và dã man đến  cùng độ của dã man. Đặc biệt là đoạn văn 6 và 7 cho chúng ta thấy rõ ông Chúa Con Jesus nếu không phải là thứ người điên điên khùng, thì chắc chắn là hạng người phi luân, bất nhân, bất nghĩa với tâm địa man rợ còn tệ hơn cả loài súc sinh, chuyên môn xúi giục người đời làm những chuyện thương luân bại lý, đại nghịch bất đạo. Như vậy, ông ta bị ông Thống Đốc La Mã Pilate (Pontius) xử tội đóng đinh trên thập tự giá rồi đem phơi  xác ở Núi Sọ Người (Mount of Golgotha) cho quạ rỉa là đáng tội lắm, chứ còn oan cái nỗi gì? 

Ấy thế mà Giáo Hội La Mã lại bảo rằng Thiên Chúa “Toàn năng, Toàn Thiện…” và “Lòng lành vô cùng”. Rõ ràng là lươn lẹo, ăn nói ngang ngược.

Ghê thay miệng lưỡi Da-tô!

Lươn lẹo, ngang ngược như đồ lưu manh.

II.- NHỮNG HÀNH ĐỘNG NGƯỢC NGẠO

Hành động ngược ngạo của Giáo Hội La Mã  tức là nói đến thái độ cũng như việc làm trịch thượng, ngạo mạn và ngang ngược không cần biết đến lẽ phải, không cần biết đến công bằng và  cũng không  cần biết đến công lý hay luật pháp gì nữa. Nếu muốn nói cho hết những thái độ và hành động như vậy của Giáo Hội La Mã trong suốt chiều dài lịch sử từ thế kỷ 4 cho đến ngày nay, thì phải dùng cả một cuốn sách hàng ngàn trang cũng không đủ. Vì vậy chúng tôi chỉ xin nói một cách vắn tắt như thế này: “Nếu các nhà  sử học đã từng nói đến hàng chục rặng núi tội ác của Giáo Hội La Mã chống lại nhân loại trong gần hai ngàn năm qua, thì cũng có thể nói những thái độ và hành động ngang ngược của giáo hội còn nhiều hơn cả hàng chục rặng núi tội ác của giáo hội chống lại nhân loại cao chất ngất như đỉunh núi Thái Sơn và trùng trùng như sóng Thái Bình Dương..” Trong Chương 3 ở trên, chúng tôi có liệt kê ra 12 rặng núi tội ác của Giáo Hội La Mã chống lại nhân loại trong gần hai ngàn năm qua. Xét cho kỹ thì 12 rặng núi tội ác này cũng  chỉ là con đường nối dài của 12 rặng núi thái độ và hành động ngang ngược của Giáo Hội La Mã mà thôi. Ấy là chưa kể đến những hành động ngang ngược như:

1.- Đến các nước Á Châu truyền đạo mà các nhà truyền giáo không cần biết câu nói “nhập gia tùy tục, đáo giang tùy khúc”. Họ ngang nhiên khinh rẻ các truyền thống văn hóa cổ truyền của các dân tộc địa phương trong đó có đòi nếp sống văn hóa thờ cúng tổ tiên cũng như tôn vinh và thờ cúng các vị anh hùng dân tộc của đất nước. Họ gọi các tôn giáo bản địa là “tà giáo” và dân bản địa là dân man di, mọi  rợ.

2.- Trong mấy năm gần đây ở Việt Nam, đại diện Tòa Thánh Vatican ở Ha Nôi là  Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt đã đứng ra phát động và trực tiếp chỉ huy và ra lệnh cho các tu sĩ dưới quyền phát động nhiều vụ tập trung giáo dân cầu nguyện trái phép ở ngoài khuôn viên nhà thờ cùng với những hành động trái phép khác như sử dụng búa, kìm, xà beng để phá hoại tải sản quốc gia (đập tường, phá công) tại các cơ sở cúa nhà nước và cơ sở thương mại của nhân dân ở Hà Nội, tràn vào trong sân dựng tượng bà già xề Maria (mà họ gọi là Đức Mẹ Đồng Trinh), cắm thập tự giá bừa bãi , không cần biết đến luật pháp quốc gia là gì? Sau đó, họ tiếp tục làm như vậy ở nhiều nơi khác như (1)  An Bằng, Huế, (2) Tam Tòa (Hà Tĩnh), (3) Đồng Chiêm (Hà Nội), (4) Cồn Dầu (Đà Nẵng).

Ấy là chưa nói đến những hành động ngang ngược khác trong việc giải quyết những vụ ô nhục ấu dâm, loạn dâm làm tan nát đời hoa của thanh thiếu niên trong các họ đạo và phá hoại hạnh phúc gia đình của các giáo dân mà trường hợp ông Linh-mục Trịnh Thế H. ở Chicago (Hoa Kỳ) cách đây trên dưới 10 năm chỉ là một trong hàng trăm ngàn vụ tương tự như vậy.

III.- ĐẶC TÍNH PHỈNH GẠT, LỪA BỊP,  QUÁI ĐẢN VÀ NGƯỢC NGẠO TRONG ĐẠO CA-TÔ ROMA

Nếu dùng lý trí để phân tách những lời dạy cũng như ngôn từ và các danh xưng mà Catô Roma giáo thường sử dụng để dạy dỗ tín đồ hay truyền đạo hoặc là để nói về những gì của hay thuộc về  Giáo Hội La Mã cũng như để nói về các tôn giáo hay nền văn hóa khác, chúng ta sẽ thấy rằng, tất cả đều hàm chứa một thâm ý nếu không nhằm để phỉnh gạt và lừa bịp người đời, thì cũng rất là lưu manh, ngược ngạo và quái đản. Dưới đây là một số những bằng chứng cho sự kiện này:

A.- Đặc tính phỉnh gạt và lừa bịp trong những lời dạy tín đồ cũng như trong lời rao giảng truyền đạo của Ca-tô Rôma giáo: 

”Niềm tin tôn giáo không cần đến lý trí”.

"Phúc cho ai không thấy mà tin",

“Chỉ cần có một niềm tin bằng hạt cải thì có thể bê cả trái núi quăng xuống biển.”

“Phải tuyệt đối tin tưởng và trung thành với Tòa Thánh Vatican.”

“Phải triệt để vâng lời và tuân hành lệnh truyền của các đấng bề trên.”

“Vâng lời quý hơn của lễ.”

“Phải giấu kín những chuyện tội  lỗi, dù có thật, xẩy ra trong giáo xứ, không nên để cho người ngoại đạo được biết.” [70]

“Cha (linh mục) là đại diện của Chúa”. “Phải coi Cha như Chúa”. Những gì Cha nói và hành động là nói và hành động theo ý Chúa, hay nói theo ý Chúa và hành động theo ý Chúa.”

“Nếu các Cha có làm gì sai trái, thì đã có Chúa phán xét”, là giáo dân ngoan đạo, không được bàn tán và nói hành nói tỏi các Cha.

“Bàn tán, nói hành nói tỏi hay nói xấu các Cha, tức là bàn tán, nói hành nói tỏi hay nói xấu Chúa và sẽ Chúâ trừng phạt đàng xuống gỏa ngục đời đời”.

Chỉ công nhận quyền lực của Tòa Thánh Vatican, chỉ công nhận các chính quyền Liên Minh với Tòa Thánh Vatican và các chính quyền bù nhìn làm tay sai cho Vatican hay các thế lực liên minh với Vatican.” Cũng vì thế mà trong lá thư viết vào tháng 12 năm 1859, con chiênn Petrus Trương Vĩnh Ký mới nói khơi khơi rằng: “Ngoài ra không một người Việt Nam nào theo Ki-tô giáo lại ngần ngại xin gia nhập làm lính dưới cờ Pháp, ông vua Việt Nam không theo đạo, không phải là vua của họ. (...Du reste, pas un Vietnamien catholique n’hésita à demander à s’enrôler comme soldat sous le drapeau francais, le roi payen du Vietnam n’était point leur roi.) (Depêche de l’Amiral Page, du 14-12 et 25-12-1859. Archives Nationales, Fonds Marine BB4-777).”  [71]“Hiệp thông cầu nguyện.”

“Tranh đấu đòi công lý và hòa bình.”

“Tranh đấu cho tự do tôn giáo, tự do và dân chủ ở Việt Nam.”

“Nguời có niềm tin hạnh phúc hơn người hoài nghi.”, vân vân

Độc giả thử suy nghiệm hay phân tách những lời phán dạy trên đây của giáo hội thì sẽ thấy rõ cái thâm ý của giáo hội trong trong đó.  Riêng về lời nói: ““Nguời có niềm tin hạnh phúc hơn người hoài nghi.”  Tiểu thuyết kiêm kịch gia George Bernard Shaw (1856-1950) người Ái Nhĩ Lan, phản bác như sau: “Nói rằng nguời có niềm tin hạnh phúc hơn người hoài nghi cũng không khác gì nói một người say luôn cảm thấy sung sướng hơn một người tĩnh. Niềm hạnh phúc của sự "nhẹ dạ, cả tin" có phẩm chất rẻ tiền và nguy hiểm.”

B.-Đặc tính quái đản, ngược ngạo, phỉnh gạt và lừa bịp trong cung cách sử dụng ngôn từ trong Ca-tô Rôma giáo: 

Đây là việc cố ý sử dụng tất cả những mỹ từ và danh xưng tốt đẹp nhất để nói về những cái gì thuộc về hay của  hay thuộc về Giáo Hội, nhưng nhiều khi lại sử dụng một cách hết sức ngược ngạo, hoàn toàn trái với lẽ thường, trái với công đạo và công lý (common sense). Những mỹ từ và danh xưng tốt đẹp này đều hàm chứa một cái gì thánh thiện, cao cả, tuyệt vời với chủ tâm là phỉnh gạt tín đồ và lừa bịp người đời. Tình trạng này phơi bày ra cho mọi người thấy cái bản chất lố bịch, trịch thượng, cao ngạo, hợm hĩnh, phản ảnh một tâm hồn của hạng người bất chính, thiển cận, hẹp hòi của loại người “ếch đáy giếng”.

Về việc những “từ” dùng để xưng hô, chúng ta biết rằng,  trong ngôn ngữ Việt Nam, "ông" là bố  của "cha" tức là người đẻ ra "cha". Do đó, những người mang tước hiệu "Đức Ông" phải có địa vị cao hơn hay lớn hơn của những người mang tước hiệu "Đức Cha". Ấy thế mà trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội La Mã, những người mang tước hiệu "Đức Ông"  lại có địa vị và quyền lực nhỏ hơn địa vị và quyền lực của những người mang tước hiệu "Đức Cha". Khôi hài hơn nữa, trong ngôn ngữ loài người, "Đức Cha" tương ứng với "Đức Mẹ". Từ đó, người ta có thể nghĩ rằng "Đức Mẹ" là vợ của "Đức Cha" và là "con dâu" hay con gái của "Đức Ông". Nhưng trong đạo Da-tô, những từ ngữ được sử dụng để xưng hô trên đây hoàn toàn không thuận lý, khiến cho người ta có cảm tưởng là luân thường bị đảo lộn.

Đối với những người có trình độ thông  minh trung bình, hành sử theo lương tâm và lương tri, việc sử dụng ngôn ngữ như vậy trong đạo Da-tô là một hành động “cưỡng từ đoạt lý" và ngược đời.

Đặc tính "cưỡng từ đoạt lý" trong Giáo Hội La Mã được thể hiện rõ rệt nhất qua những ngôn từ trang xã hội con chiên người Việt ở hải ngọai khi họ sử dụng những từ ngữ như "nhà ái quốc", "chí sĩ yêu nước" "mất nước" và "phản quốc". Cung cách họ sử dụng những từ này giống y hệt như họ thường sử dụng những từ ngữ "công giáo”, "trở lại đạo", "Đức Ông", "Đức Cha", v.v... Những tên  Việt gian cuồng nô vô tổ quốc như Trần Lục, Nguyễn Bá Tòng, Ngô Đình Khả, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Khôi, Hồn Ngọc Cẩn,  Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi, v.v... suỗt cả đời bán nước và làm tay sai cho quân cướp ngoại  thù là Đế Quốc Vatican và Đế Quốc Pháp thì được họ gọi là các "nhà ái quốc" và "chí sĩ yêu nước".

Trong khi đó  những người yêu nước chân chính của dân tộc đã hy sinh cả đời vào cuộc chiến đánh đuổi quân cướp xâm lăng Vatican và Pháp trong suốt chiều dài lịch sử từ năm 1858 cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975  lại bị họ gọi là những tên "Việt gian", những "tên phản lọan". Tiếu lâm hơn nữa là Việt Nam ngày nay đã hoàn toàn độc lập, đã được cả thế giới công nhận và có chỗ ngồi, có thế đứng, có tiếng nói  ở trong tổ chức Liên Hiệp Quốc, ấy thế mà họ  vẫn kêu là "mất nước". (Thật ra,  nước tổ Vatican của họ đã mất  thế đứng ở Việt Nam). Tình trạng thê thảm này là do hậu quả của chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ do Giáo Hội La Mã chủ trương đã được triệt để thi hành ở miền Nam từ năm 1862 cho đến ngày 30/4/1975.

Trong ngôn ngữ Việt Nam, chữ (từ) "đức" được sử dụng đì kèm với từ "vua" là trường hợp độc nhất để nói về những người còn sống. Đó là thời quân chủ phong kiến. Thông thường, từ "đức" chỉ được sử dụng đi kèm theo với tước hiệu hay danh tánh những người được nhân dân hay dân tộc kính trọng và đã qua đời. Đây là trường hợp của Đức Trần Hưng Đạo, Đức Khổng Tử, Đức Phật, v.v...   Những người còn sống sờ sờ mà sử dụng từ (chữ) "đức"  kèm theo với tước hiệu hay chức vụ hoặc danh tánh của người đó thì quả thật là hết sức lố bịch và hết sức ngạo mạn. Hãy tưởng tượng, nếu  đem chữ "đức" ghép với những chữ "tổng thống", "thống đốc", "thị trưởng" để rồi gọi hay xưng hô "Đức Tổng Thống", "Đức Thống Đốc", "Đức Thị Trưởng" thì chúng ta sẽ thấy nó "bất bình thường" và  "dị hợm" không giống ai cả.

Tương tự như vậy, ngọai trừ những quốc gia theo chế độ quân chủ phong kiến, không có quốc gia nào lại  dùng tên những người còn sống sờ sờ để đặt tên cho  các đường phố, công thự hay các cơ sở công cộng của quốc gia, dù người đó là cha già của dân tộc như các nhân vật Tôn Dật Tiên của Trung Hoa, Washington của Hoa Kỳ, Mustafa Kemal của Thổ Nhĩ Kỳ,  Nasser của Ai Cập, v.v... Ấy thế mà những chuyện này lại rất thịnh hành ở trong đạo Ca-tô và hiện tại vẫn còn như vậy. Trong những năm 1954-1963, ở Vĩnh Long có Đại Lộ Ngô Đình Thục (chạy ngang qua trường Sư Phạm Vĩnh Long), dù rằng ông Giám-mục Ngô Đình Thục, chẳng có công trạng gì cho dân tộc Việt Nam, (nếu không muốn nói là Việt gian bán nước cho Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp -Thập Ác Vatican) và lúc đó ông ta vẫn còn sống sờ sờ ở Vĩnh Long. Năm 1960 thì  ông ta được Tòa Thánh Vatican thuyên chuyển ra Huế, và tới tháng 9 năm 1963, ông ta xuất ngoại đi Ý, rồi cuối cùng sang Hoa Kỳ dưỡng lão và chết ở Missouri vào giữa thập niên 1980.

Còn nữa, từ năm 1975 đến nay, chúng ta thấy Vatican cũng như giới sĩ sĩ áo đen và con chiên người Việt thường sử dụng những cụm từ như  “Hợp thông cầu nguyện”, “Tranh đấu cho tự do tôn giáo, tự do và dân chủ ở Việt Nam”, “Cầu nguyện cho công lý, hòa bình và công chính”. Đây là những thuật ngữ hàm chứa những thủ đọan nhằm đánh lạc hướng nhân dân làm cho người ta không còn để ý đếni cái bản chất chế độ giáo hoàng độc tôn tôn giáo, siêu  chuyên chính, siêu phong kiến và cực kỳ bạo ngược, đã gây nên hàng chục  rặng núi tội ác làm thiệt hại đế cái chết thảm thương của hơn 250 triệu nạn nhân mà sách sử đã ghi lại rành rành. Lloyd M. Graham, Myths of the Bible (New York:Bell Publishing Company, 1979), tr 463.     

Có người cho rằng phương cách sử dụng thuật ngữ nặng tính cách ngược ngạo và  cưỡng đoạt lý như vậy của Giáo Hội La Mã là “hiếp dâm ngôn ngữ”.

Tình trạng "hiếp dâm ngôn ngữ" trong đạo Kitô quá phổ quát như vậy đã đưa đến tình trạng lộn xộn về  lối ăn nói, cách xưng  hô trong xã hội Kitô La Mã. Tình trạng lộn xộn này khiến cho những người không có kinh nghiệm với xã hội quái đản nàyô cứ ngỡ là "Đức Cha" là chồng của "Đức Mẹ" và "Đức Ông" là  chồng của "Đức Bà". Còn nữa, trong những gia đình có con học nghề làm linh mục, sau khi được thụ phong linh mục thì việc xưng hô giữa cha mẹ và người con linh mục này cũng trở thành một vấn đề. Khi cha mẹ nói chuyện với người con linh mục này thì phải một điều "thưa cha", hai điều "thưa cha" và xưng là "con", nghe thật là chướng tai và phản nhân luân. Có lẽ chỉ  ở trong đạo Kitô La Mã mới có cái lối xưng hô quái đản như vậy. Ngoài ra, lại còn có những tục lệ quái đản khác nữa là các ông linh mục bản địa mỗi khi đến thăm các nhà truyền giáo Âu Châu thì phải quỳ mọp xuống sụp lạy họ, rồi ôm giầy của  họ mà hôn hít để tỏ lòng tôn kính đối với họ. Sự kiện này được Linh-mục Trần Tam Tỉnh ghi lại như sau:

"Tại Bùi Chu, ngày lễ Thánh Đa Minh, tất cả các linh mục người Việt, bất kể hạng tuổi nào, phải tới sụp lạy trước mặt các thừa sai, kể cả đối với một người còn trẻ măng, hoặc chỉ là thày phó tế thôi, và phải hôn kính giầy các thừa sai đó, để giúp mình nhớ lại lời thánh Phao-lồ: "Phúc đức thay bàn chân của các nhà truyền giáo!"[72].

IV.- VẤN ĐỀ LIÊM SỈ TRONG ĐẠO CA TÔ RÔMA HAY GIÁO HỘI LA MÃ

Theo Việt Nam Tự Điển của học giả Lê Văn Đức thì liêm sỉ là “trong sạch và biết xấu hổ.”  Theo Hán Việt Từ Điển của học giả Đào Duy Anh thì liêm sỉ là “liêm khiết, biết điều sỉ nhục.”

Theo định nghĩa của  hai chữ “liêm sỉ” trên đây và căn cứ vào tất cả những điều mà chúng tôi đã trình bày trong các chương sách từ Chương 3 cho đến hết Chương 17 (Phần I và Phần II), sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác, và trong các chương sách từ Chương 1 cho đến hết Chương 15, sách Mối Ác Cảm Của Nhân Dân Thế Giới Đối Với Giáo Hội La Mã, thì toàn bộ các thành phần trong Ca-tô Roma Giáo đều không có một chút tối thiểu của liêm sỉ. Nói cho rõ hơn là tất cả  mọi người từ các tác giả viết Cựu Ước và Tân Ước, các nhà thần học biên soạn những tín lý Ki-tô, những giáo luật, các tác giả và những người làm nhiệm vụ rao truyền, những lời dạy dỗ tín đồ (như đã nói trong Mục III ở trên) cho đến các giáo hoàng, hồng y, tổng giám mục, giám mục, linh mục, sư huynh và tất cả những giáo dân cầm bút viết những lời biện minh cho sự hiện diện của các tôn giáo này đều là những người cực kỳ vô liêm sỉ và mất hết nhân tính.

Căn cứ vào đâu mà lại nói như vây?

Sở dĩ chúng tôi nói như vậy là vì:

Thứ nhất,  bản chất của những điều ghi trong kinh thánh cũng như  tất cả giáo luật và tất cả lời dạy của Giáo Hội La Mã đều là  phản tiến hóa và là  tội ác chống lại nhân lọai. Thủ phạm gây nên tội ác này là những tác giả viết kinh thánh, tác giả biên soạn giáo luật, và tác giả biên soạn những lời phán day tín đồ (như đã nói ở trên).

Thứ hai, tất cả mọi thành phần mà chúng tôi nêu lên ở trên đều là  những trí thức, có dư thừa khả năng đọc và hiểu biết  kinh thánh, giáo luật, lời dạy và lịch sử nói về những hành động tội ác của Giáo Hội La Mã. Hiểu biết có nghĩa là nhìn thấy rõ những lời nói trong kinh thánh, trong giáo luật và trong lời dạy của Giáo Hội La Mã đều là hoang đường, huyễn hoặc, loạn luân, phi luân, phi nhân, vô cùng gian tham, hết sức tàn ngược và cực kỳ  dã man. Hiểu biết như vậy mà vẫn nhắm mắt làm theo và dùng quyền lực để cưỡng bách nhân dân dưới quyền phải làm theo. Cụ thể là họ đã biến những giáo dân hiền lành dưới quyền thành những “tên sát nhân cuồng nhiệt” (Trần Tam Tình, Sđd., tr.104),  rồi đoàn ngũ hóa họ thành những đạo quân thư 5, những lực lược xung kính trong đạo quân thập ác nằm tiềm phục trong các xóm đạo, chờ lệnh nổi lên đánh phá chính quyền địa phương nếu không chịu thuần phục giáo hội và tàn sát những người khác tôn giáo nếu hoàn cảnh cho phép. Chính vì vậy mà  trong gần hai ngàn năm qua, Giáo Hội La Mã đã rồi gây ra những rặng núi tội ác chống lại nhân loại và tàn sát tới hơn 250 triệu nạn nhân. Như vậy thì họ quả thật không những là hạng người vô liêm sỉ đến cùng độ vô liêm sỉ và còn man rợ đến tột cùng của man rợ.

Con người hơn cầm thú là có liêm sỉ tức là biết xấu hổ khi đã làm những việc trái với luân thường đạo lý, trái  với đạo công bằng, trái với đạo lý và công lý.  Nếu không biết như vậy thì  đâu có khác gì là loài súc sinh. Chính vì lẽ này mà học giả Henri Guillemin  mới gọi là Giáo Hội La Mã là “cái Giáo Hội Khốn Nạn”, văn hào Voltaire mới gọi Ca-tô Roma Giáo là  “cái tôn giáo ác ôn”, ông Charlie Nguyễn mới gọi là “đạo máu”,  “đạo bịp”,  và nhà báo Long Ân mói nó rằng “cái tôn giáo ác ôn” này đã biết con người thành hạng người súc sinh:

Con người đã nhân danh tôn giáo để làm những chuyện điên cuồng nhất, đã nhân danh tôn giáo để biện minh cho quyền lực phi nhân áp đặt lên đầu kẻ khác. Con người đã phản lại tôn giáo, đã chặt đứt cây cầu đưa đến cuộc tìm kiếm chính mình, đã cúi đầu đi trên bốn chân để từ con người trở về với nguồn gốc của con người súc sinh.” [73]

Cũng chính vì thế mà lòng căm thù của nhân dân thế giới mới bốc lên ngun ngút tới tận trời xanh.

CHƯƠNG 13

NHỮNG THỦ ĐOẠN XẢO QUYỆT VỀ TRUYỀN THÔNG TRONG ĐẠO KI-TÔ

Người Việt Nam ta thường nói, “có ở trong chăn mới biết chăn có rận”. Do đó, về những thủ đoạn lươn lẹo, nhân vơ và nói láo trong đạo Kitô hay Giáo Hội La Mã, thiết tưởng rằng không ai biết rõ hơn là chính những người ở trong Giáo Hội La Mã. Bản văn dưới đây do một học giả vốn là một tín đồ Kitô kỳ cựu thuộc loại đạo gốc nhiều đời từ giữa thế kỷ 16 là ông Charlie Nguyễn tức Bùi Văn Chấn, quê quán ở Ninh Cường, Bùi Chu nói cho chúng ta biệt sự thật về vấn đề này trong Giáo Hội như sau:

Muốn biết nghệ thuật giải thích lươn lẹo rất tài tình của bộ tham mưu thần học Vatican ra sao, xin quý vị hãy tìm đọc cuốn "Giáo Lý Mới Thời Đại Mới", 517 trang, do Đất Mẹ phát hành tại Houston – Texas 1996. Thí dụ: Thánh Kinh dạy rằng Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong 7 ngày. Sách Giáo Lý Mới giải thích nên hiểu chữ "ngày" ở đây là "thời đại" và mỗi thời đại có thể kéo dài qua nhiều triệu năm! [Nhưng không có ai đưa ra phản luận rằng nếu ngày có nghĩa là thời đại thì làm sao cây cỏ, thảo mộc sống được vì theo Thánh Kinh, Chúa sinh cây cỏ trước mặt trời.]

Về trường hợp thánh tổ Abraham lấy em gái làm vợ và toan giết con để tế thần, sách Giáo Lý Mới giải thích: "Chúng ta không được mời gọi để bắt chước những việc Abraham làm, nhưng cốt để chú ý đến thái độ trung thành của ông đối với Thiên Chúa (tr.54)." [74]

Thành tích của đạo Ki-tô về tội lươn lẹo nhận vơ, nói láo, đạo văn và đạo tư tưởng để lừa bịp người đời phải nói là nhiều lắm, nhiều đến nỗi khổng thể nào nói ra cho hết được. Điểm đặc biệt là những đặc tính nhận vơ, nói láo, đạo văn và đạo tư tưởng của cái tôn giáo này đã trở thành bản chất mà hầu như tất cả mọi thành phần trong tôn giáo này coi đó như là chuyện tự nhiên, không còn cho đó là một việc làm vô liêm sỉ. Tìm đọc những tài liệu lịch sử và theo dõi những lời nói cũng như những việc làm của các giáo hoàng, giới tu sĩ và giáo dân trong Giáo Hội La Mã, chúng ta sẽ thấy họ đều là những người chuyên môn nói láo và dạy bảo nhau phải nói láo. Nhà văn con chiên Nguyễn Ngọc Ngạn ghi lại chuyện họ dạy và dặn dò nhau phải nói láo như sau:

“Phải giấu kín những chuyện tội lỗi, dù có thật, xẩy ra trong giáo xứ, không nên để cho người ngoại đạo được biết.”[75]

Ngôn ngữ Việt Nam có thành ngữ “có tật giật mình”. Chữ tật ở trong thành ngữ này là tội ác hay lỗi lẫm hoặc những việc làm sai quấy. Giáo Hội La Mã là một tổ chức tội ác lừng danh trong lịch sử. Các nhà lãnh đạo cũng như giới tu sĩ và tín đồ của cái tôn giáo quái thai này đều biết rõ như vậy, cho nên họ mới bảo nhau rằng “không nên để cho người ngoại đạo được biết.” Câu nói bảo nhau rằng “không để cho người ngoại đạo được biết về tội ác của Giáo Hội La Mã” có nghĩa là phải bưng bít những tội ác của Giáo Hội (trong đó có cả những tội ác chống lại nhân lọai, chống lại tổ quốc, chống lại dân tộc) bằng bất cứ cách nào. Như thế có nghĩa là phải nói láo để bảo mật những tội ác của giáo hội.

Những người bình thường, nếu có nói láo thì họ còn cố gắng tìm cách làm cho người nghe khó có thể nhìn ra cái đuôi nói láo của họ. Trái lại, các ông chức sắc và tu sĩ cũng như tín đồ của đạo Ki-tô thì bất cần, cứ nói láo khơi khơi một cách hết sức trắng trợn mà không biết nngượng và cũng không cần biết những người khác tôn giáo khinh bỉ họ đến cùng độc khinh bỉ.

Ngoài những hành động mạo hóa hay nói láo một cách hết sức trâng tráo và trơ trẽn, Giáo Hội La Mã còn có thói quen “đạo”, “thuổng” hay “nhận vơ” những tư tưởng cao cả và những lời hay ý đẹp của thiên hạ về làm của giáo hội và “nhận vơ’ luôn cả những danh nhân và các bậc vĩ nhân của nhân loại đem về làm của giáo hội để tự đánh bóng và đánh bóng cho bọn tín đồ đại gian đại ác làm tay sai bán nước cho giáo hội. Đồng thời, giáo hội lại còn có thói quen tiếm quyền (cầm nhầm quyền lực) nữa. Dưới đây là một số trong khu rừng thành tích nói láo, nhân vơ hay lộn sòng, tiếm quyền mà chính giáo hội đã và đang làm:

1.- Giáo hội và các nhà truyền giáo của giáo hội thường lớn tiếng rao giảng rằng “Thiên Chúa của giáo hội, tức là Chúa Cha Jehovah là “đấng toàn năng, toàn thiện,….” và “lòng lành vô cùng”. Nhưng đọc những lời phán và những việc làm của ông thiên chúa này của giáo hội ghi trong các sách (trong Cựu Ước) như Deuteronomy (19:21), Exodus (21: 23-25), Dân Số (25:3-5,31:1-54), Leviticus 24:19-20, 26: 1-43), Phục Luật (6:14, 7:1, 2 và 16, 12: 2-3, 13:6-9. 18: 4 và 20, 20:14-16, 22: 13-21 và 23), Xuất Hành (13:12, 20 11, 22: 20), chúng ta sẽ thấy ông ta quả thật là một tên siêu bạo chúa ác độc nhất trong lịch sử nhân loại. Rõ ràng là giáo hội đã nói láo.

2.- Giáo hội và các nhà truyền giáo của giáo hội thường lớn tiếng rao giảng rằng ông Chúa Con Jesus cũng là Chúa Cha Jehovah toàn thiện và lòng lành vô cùng. Nhưng nếu đọc những lời phán và những việc làm của ông ta trong các sách trong Tân Ước, chúng ta thấy ông ta quả thật là một tên vô lại, đại nghịch bất đạo. Chỉ riêng những lời phán của ông ta ghi trong sách Matthew (10: 34-36) và Luke (19:27) cũng đủ cho chúng ta thấy ông ta qủa thật là một tên vô lại và ác độc không kém gì Chúa Bố Jehovah cúa ông ta. Rõ ràng là giáo hội nói láo.

3.- Giáo hội và các nhà truyền giáo của Giáo Hội thường lớn tiếng rao giảng rằng giáo hội là “Hội Thánh duy nhất thánh thiện, công giáo và tông truyền”, là “Hiền Thê của Thiên Chúa làm người”, là “Giáo Hội của tình thương và bác ái”. Thế nhưng, lịch sử cho thấy rằng giáo hội đã từng (1) ban hành tuyên cáo “Dictatus papae” gồm 27 điều có hiệu luật (đã nói ở trên), (2) phát động các cuộc thập tự chiến đem quân đi chém giết, tàn sát tới hơn 20 triệu người thuộc các tôn giáo cũng như văn hóa khác, hủy diệt hết tất cả các di sản văn hóa vàg các công trình văn minh của họ, (3) thiết lập các Tòa Án Di Giáo (Inquistions) với nhiệm vụ truy lùng, bắt giam tra tấn và sát hại những người bị giáo hội tình nghi là tà giáo hay phù thủy; con số nạn nhân bị các tòa án này sát hại lên cả mấy chục triệu người, (4) ban hành hành loạt sắc lênh hay thánh chỉ trong thế kỷ 15, cho phép hai nước Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đem quân đi đánh chiếm các vùng đất ở ngoài lục địa Âu Châu để tàn sát dân bản địa, cưỡng bách những người sống sót phải theo đạo làm nô lệ phục dịch trong các đồn điền sản xuất nông phẩm và công trường xây cất nhà thờ, chủng viện, tu viện, các cơ sở kinh tài của giáo hội và các dinh thự của các đế quốc thực dân xâm lược này, (5) cấu kết với các cường quyền địa phương và các đế quốc thực dân xâm lược Âu Mỹ để củng cố quyền lực và bành trướng ảnh hưởng của giáo hội. Rõ ràng là Giáo Hội nói láo.

4.- Giáo hội và các nhà truyền giáo của Giáo Hội thường lớn tiếng rao giảng rằng Chúa của giáo hội tạo dựng nên vũ trụ và tất cả moi người đều do bàn tay của Chúa tạo nên, có nghĩa là tất cả mọi người đều là sản phẩm hay con cái của Chúa. Thế nhưng, trong lịch sử cũng như trong thực tế, giáo hội cũng như các ông giáo sĩ hay tu sĩ và giáo dân lại bảo rằng chỉ có tín đồ của giáo hội mới là “con cái của Chúa” và được gọi là “dân Chúa”. Còn những người thuộc các tôn giáo hay nền văn hóa khác thì giáo hội lại bảo là không phải là con cái của Chúa, mà là những quân tà giáo, những quân man di, những quân mọi rợ, giáo hội và tín đồ của giáo hội có quyền tàn sát họ, cướp đoạt tài sản của họ và bắt họ làm nô lệ. Trần Tam Tình, Thập Giá và Lưỡi Gươm (Paris: Nhà Xuất Bản Tuổi Tre, 1978), tr. 14-15. Rõ ràng là giáo hội vừa nói láo, vừa ngang ngược.

5.- Giáo Hội La Mã cũng như bộ máy tuyên truyền và bọn văn nô cừu non người Việt thường lớn tiếng cao rao là họ tranh đấu cho quyền tự do tôn giáo của nhân dân Việt Nam. Đây cũng là một hành động nói láo để lừa bịp những người dốt nát, ít học hay nhẹ dạ cả tin. Thủ đọan đại lưu manh này của Giáo Hội La Mã đã được trình bày đầy đủ ở trên. Xin xem lại Chương 10 ở trên nói về “Về bài viết hiện tượng chia rẽ tôn giáo trên diễn đàn đỉện tử của Chú Tất Tiến”.

6.- Giáo hội cũng như bộ máy tuyên truyền và bọn văn nô cừu non người Việt thường lớn tiếng cao rao rằng “những tín đồ Ki-tô ngoan đạo cũng là những công dân yêu nước.” Thế nhưng, kinh nghiệm lịch sử cũng như trong thực tế cho thấy rằng tín đồ Kitô ngoan đạo người Pháp cũng như người Việt hay là bất cứ ở đâu cũng đều phải tuyệt đối trung thành với Vatican và đương nhiên họ trở thành những hạng người vong bản, phản dân tộc và phản quốc. Đây là sự thực lịch sử và sự thực này đã được sách sử ghi lại rõ ràng. Sách Cách Mạng và Hành Động nói về những hành động phản quốc và phản dân tộc của tín đồ Ki-tô ngoan đạo người Pháp như sau:

Sau cuộc lẩn trốn của nhà vua tới Varennes, các nước Âu Châu lại sôi nổi. Lần này, Louis XVI cam tâm chấp nhận những điều kiện can thiệp của các nước Âu Châu. Do đó nước Áo và Phổ bắt đầu động binh tới biên giới Pháp - Ở trong nước, nhiều địa phương trung thành với Giáo Hội và nhà vua, cũng bắt đầu nổi loạn. Nhất là miền Bretagne, Normandie và Vendée vốn là những miền sùng đạo, cũng võ tráng bênh vực các tu sĩ không chịu tuyên thệ với cách mạng. – Tình trạng Pháp quốc lúc đó thực hết sức lung lay.”[76]

Cái đặc tính vong phản, phản dân tộc và phản quốc trong con người tu sĩ và tín đồ Ki-tô ngoan đạo người Việt lại càng rõ nét hơn nữa. Vấn đề này đã được sách sử đã ghi lại rõ ràng. Bằng chứng là những khẩu hiệu của họ bảo nhau rằng “Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa”, “Giữ đạo, chứ không giữ nước”, “Nhất Chúa, nhì Cha, thứ ba Ngô Tổng Thống” và những hành động của các ông qụa đen người Việt xúi giục đàn cừu non của họ đem thập tự giá và tượng bà già xề Maria dựng bừa bãi ở những nơi nào họ định cướp đoạt cho Vatican như (1) vụ gây rối phá họai an ninh và trật tự công cộng tại Tòa Khâm Sứ cũ ở số 42 Phố Nhà Chung, Hà Nội khởi đầu từ ngày 18/12/2007 kéo dài cho đến ngày 30/1/2008, khi nhận được lệnh của Vatican bảo phải chấm dứt họ mới rút lui, (2) vụ gây rối tại Công Ty May Chiến Thắng tại sơ 178 Đường Nguyễn Lương Bằng, Hà Nội từ ngày 16/8/2008 … cho đến vụ nổi loạn ở Núi Chẻ, Đồng Chiêm trong tháng 1/2010 vừa rồi là những bằng chứng nói lên cái bản chất vong bản phản dân tộc và phản quốc của bọn quạ đen và cừu non ngoan đạo người Việt. Rõ ràng là Giáo Hội La Mã đã nói láo. Đúng là đại bịp.

7.- Giáo Hội La Mã cũng như bộ máy tuyên truyền và bọn văn nô cừu non người Việt thường lớn tiếng cao rao là họ tranh đấu cho quyền tự do dân chủ ở Việt Nam. Thế nhưng, hiện tại, chính bản thân giáo hội lại theo một thể chế chính trị tăng lữ quân chủ trung ương tập quyền cực kỳ chuyên chế và siêu phong kiến (monarchical –sacerdotal): Giáo hội (1) không hề có một bản hiến pháp do đại diện giáo dân bầu lên để sọan thảo, (2) không hề có cơ quan lập pháp do đại diện tín đồ bầu lên để làm luật điều hành các công việc quản trị tín đồ trong giáo hội. Ghê gớm hơn nữa, trong lịch sử, ở bất cứ nơi nào mà có tín đồ của giáo hội nhẩy lên bàn độc nắm quyền chính trị thì chính quyền đó biến thành một chế độ đạo phiệt Ca-tô cực kỳ tham tàn, phóng tay cướp đọat tài sản quốc gia, tận tình bóc lột nhân, tích cực vơ vét cho đầy túi tham và hăng say mở những chiến dịch “làm sáng danh Chúa” bách hại các tôn giáo hay nền văn hóa khác một cách vô cùng man rợ. Cũng vì thế mà khoảng trên dưới 70% những tên bạo chúa độc ác nhất từ thời Trung Cổ trong lịch sử nhân lọai được ghi nhận trong cuốn Tyrants History Evil Despots & Dictators (London: Arcturus, 2004) của nhà viết sử Nigel Cawthorne là bọn cừu non của Giáo Hội. Ngoài ra, trong các cộng đồng người Việt ở hải ngoaị, bọn cừu non người Việt không bao giờ tôn trọng quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng của những người đồng hương của họ. Ai có chính kiến khác với bọn chúng đều bị chúng vu khống cho là Cộng Sản, Cộng Sản nằm vùng hay thân Cộng Sản hoặc chia rẽ tôn giáo như ông văn nô cừu non họ Chu n đã làm mà chúng tôi đã nêu lên trong bài viết này, rồi chúng khủng bố người ta và dùng những lời thiếu văn hóa để hạ giá và sỉ nhục nạn nhân của chúng.

Trên đây là 7 trường hợp điển hình mà ai cũng biết. Nếu kể ra cho hết thì phải sử dụng tới cả ngàn trang giấy cũng không nói hết. Xin tạm ngưng ở đây và ghi nhận phần kết thúc bài viết này bằng mấy đọan văn của Giáo-sư Trần Chung Ngọc nhận xét về đạo Ki-tô với nguyên văn như sau:

Toàn thể cấu trúc của Giáo hội Công giáo La-mã được xây dựng trên những ngụy tạo, những lá thư tông đồ giả mạo, những bài giảng giả mạo, những phép lạ giả mạo, những di tích giả mạo (của các Thánh), những công đồng giả mạo, và những sắc lệnh giả mạo của các giáo hoàng. “ Nguồn: http://giaodiemonline.com/2010/02/tinlanh.htm

“Đọc lịch sử Giáo hội Công giáo chúng ta thấy Giáo hội có cả một trường phái ngụy tạo (school of forgeries), chuyên ngụy tạo những văn kiện có lợi cho Giáo hội, hay sửa lại các tài liệu mà Giáo hội thấy rằng có hại cho uy tín và những thuộc tính tự tạo để tăng uy tín của Giáo hội, hoặc diễn giải Thánh Kinh theo chiều hướng lành mạnh hóa những điều xâu xa trong Thánh Kinh. Những văn kiện ngụy tạo nổi tiếng nhất mà nay chính Giáo hội hoặc các nhà thần học trong Công giáo cũng phải thừa nhận là ba bằng chứng ngụy tạo sau đây:

Bản văn hiến dâng của Constantine (The Donation of Constantine); mục đích là chứng minh chắc chắn rằng Giáo Hoàng là người kế thừa Phê-rô và Constantine, do đó có toàn quyền trên trái đất, và đàng sau hậu trường là sự hậu thuẫn của quyền lực từ trên trời.

Ngụy tạo Tân Ước, rằng Giáo hội Công Giáo là do Chúa Giê-su thành lập, trao quyền cho Phê-rô, và các giáo hoàng đều là những người kế vị Phê-rô để chăn dắt đạo Chúa.

Ngụy tạo lời Giê-su, sau khi đã chết hiện ra dạy các tông đồ phải đi truyền đạo trên khắp thế giới.”

Quý độc giả có thể đọc chi tiết chứng minh ba sự ngụy tạo chính này trên trang nhà sachhiem.net: http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/Giesu/Giesulaai3.php .”

Quý độc giả cũng có thể đọc bài “Những Tài liệu Ngụy Tạo và Quyền Lực Giáo Hoàng” [Forged Documents and Papal Power] của Nữ Tu Công Giáo Mary Ann Collins trên www.CatholicConcerns.com , hoặc bài “Ảnh hưởng lịch sử và sự sử dụng những tài liệu ngụy tạo để đẩy mạnh giáo lý về chế độ Giáo hoàng” [The Historical Influence and Use of Forgeries in Promotion of the Doctrine of the Papacy] của William Webster trên trang nhà: http://www.christiantruth.com/articles/forgeries.html để thấy rằng Giáo hội Công giáo đã ngụy tạo ra, không phải là một vài, hay một vài chục, mà hàng trăm các văn kiện để tạo quyền lực cho chế độ Giáo hoàng và Giáo hội.” [77]

Phần trình bày trên đây cho chúng thấy rõ ràng, Giáo Hội La Ma là một tổ chức tội ác tham tàn, bạo ngược và dã man nhất trong lịch sử nhân loại, và cũng là một tập đoàn của những tay tổ đại bịp và nói láo chuyên nghiệp, luôn luôn sử dụng danh xưng tôn giáo bằng những danh xưng tốt đẹp nhất với những phẩm tự thánh thiện nhất, nhân từ nhất, bác ái nhất, cao cả nhất khiến cho những người ít học thiếu kinh nghiệm lầm tưởng rằng giáo hội quả thật là “Hội Thánh duy nhất thánh thiện, công giáo và tông truyền” đúng như giáo hội thường rao truyền. Thế nhưng, thức lâu mới biết đêm dài. Có ở trong chăn mới biết chăn có rận. Tài nghệ nói láo siêu việt của giáo hội được chính người trong Giáo Hội là ông Phan Đình Diệm, Hội Trưởng Học Hội Đức Ki-tô Phục Sinh ghi nhận như sau:

Hàng ngàn năm, để bưng bít và che dấu 7 chương tội đối ngọai và 1 chương tội đối nội là tám, nghệ thuật tuyên truyền của Giáo Hội Roma phải đạt đến chő cực kỳ ảo diệu, thiên biến vạn hóa, một nghệ thuật tuyên truyền thần thánh, một nghệ thuật tuyên truyền nhồi sọ tuyệt vời: Giáo Hội là Thánh, Giáo Hội là Mầu Nhiệm, Giáo Hội là Bí Tích, Giáo Hội là Hiền Thê của Đức Giê-su, Giáo Hội là Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền, Giáo Hội là Vương Quốc của Thiên Chúa... Giáo Hội tự nhận cho mình hết tất cả những khái niệm cao cả thánh thiện, vừa linh thiêng siêu hình, vừa hữu hình thế tục, chẳng bỏ sót một phạm trù nào! Ngòai nghệ thuật tuyên truyền, Giáo Hội vẫn phải xây "vạn lý trường thành đức tin" và buông bức "màn sắt thần học" lên đầu đoàn chiên. Mỗi tòa giảng là một cái loa tuyên truyền, dựa vào khoa thần học phù phép, ảo thuật "núi tội thành con chuột" , "kẻ cướp mặc áo thày tu" và "quỷ Satan có diện mạo ông thánh." [78]



[68] Trần Quý, Lòng Tin Âu Mỹ Đấy! (Wextminster: Văn Nghệ, 1996), tr. 124.  

[69] Trần Quý, Sđd., tr. 125-126.

[70] Nguyễn Ngọc Ngạn, Xóm Đạo (Đông Kinh, Nhật Bản: Tân Văn, 2003), tr. 320.

[71] Thiên Lôi. “Tiễn Chân Bác Tổng Kiệt Sớm Hưởng Nhan Thánh… Vaicano.” Ngày 21/5/2010. http://sachhiem.net/TONGIAO/tgTH/ThienLoi006.php. Ngày 22/5/2010.

[72] Trần Tam Tỉnh, Sđd., tr.53

[73] Nguyễn Mạnh Quang, Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1953 (Houston, TX: Văn Hóa, 2000), tr. 340.

[74] Charlie Nguyễn.http:/www.giaodiem.com Ngày 23/4/2001 "Góp Ý Với Quý Vị Trí Thức Ngòai Công Giáo." Ngày 2 tháng 7 nam 2004.

[75] Nguyễn Ngọc Ngạn, Xóm Đạo (Đông Kinh, Nhật Bản: Tân Văn, 2003), tr.320.

[76] Nghiêm Xuân Hồng, Cách Mạng Và Hành Động (Sàigòn: Quan Điểm, 1964), tr. 46.

[77] Trần Chung Ngọc. “Ki-tô Rô Ma Giáo: Bản Chất & Thực Chất.” www.nhandanvietnam.org/view.php?storyid=964 - Ngày 8/2/2010

[78] Phan Đinh Diệm. "Mea Culpa Bài 3 – Giáo Hội Công Giáo Roma La Tinh Cáo Thú Tội Lỗi Ngàn Năm" http:// www.kotohoc.com/Bai/Net066.html. Ngày 19/9/2000.