Chân Dung "Người Việt Quốc Gia"

Và Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ

Nguyễn Mạnh Quang

http://sachhiem.net/NMQ/ChanDungVNCH/QMN10.php

bản in mục lục đăng ngày 08 tháng 8, 2008

Toàn tập: Dàn bài

Chương 10: 1  2 

CHƯƠNG 10

Di Lụy Của Chính Sách Ngu Dân
Đối Với Những Người Miền Nam

 

Đúng như lời Linh-mục Trần Tam Tình đã nói ở trên,  chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của Giáo Hội La Mã thực sự đã biến tín đồ Ki-tô và người dân dưới quyền là “những người Việt Nam hiền lành thành những tên sát nhân cuồng nhiệt”.

Một trong những điểm đặc của các tín đồ Ca-tô người Việt là, đối với những người Việt thuộc các tôn giáo khác, họ quả thật là “những tên sát nhân cuồng nhiệt” cực kỳ man rợ. Chúng có thể chưng ra hàng rừng bằng chứng về sự kiện này. Xin kể ra đây một vài trường hợp để độc giả có ý niệm về các đặc tính cực kỳ dã man của các ông tín đồ Ca-tô người Việt mang danh nghĩa là người Việt Quốc Gia:

1.- Chuyện các ông lính đạo Phát Diệm dưới quyền chi huy của Linh-mục Hoàng Quỳnh  bắt được ba người ở làng Lương gần bên đem về đồn tra tấn rồi giết chết  cả ba người này rồi cắt cổ lấy đầu xâu và cái sào tre rồi đem cắm ở đầu lằng để khủng bố tinh thần những người dân Lương. Man rợ nhất là một trong ban nạn nhân này, trước khi bị cắt cổ lấy đầu bêu trên cáo sào tre như vậy, đã bị chúng mổ bụng, phang ngực moi lấy mật hòa với rượng trắng, và mọc lấy gan đem nướng rồi cùng ngồi nhậu hả hê với nhau. Chuyện này xẩy ra và khoảng năm 1951 và được sách  Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng Hay Đến Bờ Ảo Vọng (San Diego, CA: Mẹ Việt Nam, 1996) kể lại ở nơi các trang 187-193. 

2.- Những hành động đốt nhà và giết người bên lương của các ông tín đồ Ca-tô Bùi Chu được người trong cái chăn Ca-tô Bùi Chu do học giả Charlie Nguyễn kể lại với nguyên văn như sau:

Nguyên nhân của sự “nổi loạn” của tôi là vào năm 1949, tôi đã chứng kiến thảm cảnh của những người “bên lương” bị cha tôi và các cha xứ cùng quê Ninh Cường hợp tác Tây tiêu diệt họ. Có người bị đốt cháy như con chó thui ở tiệm “Cầy Tơ” nhe răng ghê rợn. Có người bị trói thúc ké để chờ bị giao lên đồn Tây. Có người bị đốt nhà và bị bắn thả trôi sông…[1]

3.- Rất nhiều chuyện tra tấn và giết người tập thể một cách vô cùng dã man của các ông tín đồ Ca-tô nhân danh là người Việt Quốc Gia được sách Những Hoạt Động Của Bọn Phản Động Đội Lốt Thiên Chúa Giáo Trong Thời Kháng Chiến 1945-1954 (Hà Nội, Nhà Xuất Bản Khoa Học, 1965) kể lại nơi các trang 87-120. 

Thực ra, không phải chỉ có tín đồ Ca-tô người Việt mới bị Giáo Hội La Mã làm mê hoặc và biến họ thành “những tên sát nhân cuồng nhiệt”, mà hầu như tất cả những tín đồ Ca-tô ở bất kỳ nơi nào cũng đều bị Giáo Hội La Mã mê học và “những tên sát nhân cuồng nhiệt”. Đây là sự thật và đã được trình bày rõ ràng nơi Chương 7 trong cuốn "Người Việt Nam và Đạo  Giê Su" của hai tác giả Trần Chung Ngọc và Nguyễn Mạnh Quang. Tác phẩm này đã được lên saschhiem.net từ tháng 1/2008.

Có một điểm đặc biệt là đối với những người thuộc các tôn giáo khác thì tín đồ Ca-tô quả thật là “những tên sát nhân cuồng nhiệt”, nhưng đối với các đấng bề trên của chúng thì chúng lại khúm núm, xun xoe, ninh bợ, run sợ một cách vô cùng hèn hạ đến nỗi khi phải nói chuyện với các đáng bề trên để trình bày một vấn đề gì thì họ tở ra vô cùng “run sợ vì có thể bị coi như là vô lễ và phạm thượng”:

Vấn đề được nêu lên ở đây với tất cả mạo muội và run sợ vì có thể bị xem  như là vô lễ phạm thượng. Chúng tôi trông vào sự độ lượng của hàng giáo  phẩm cũng như hy vọng rằng sự trưởng thành của giáo dân ở thời đại này  sẽ giúp thật nhiều cho sự thể hiện lý tưởng Ki tô hữu”.[2].

 Họ ngu xuẩn đến độ “làm cái gì cũng sợ tội, sợ Chúa (Giáo Hội của họ) trừng phạt” (như đã trình bày rõ ràng trong Chương 9 ở trên) và hèn hạ và khốn nạn “đến nỗi có những linh mục nói rằng, “Tòa Thánh đánh rắm cũng khen thơm.[3]

Cũng nên biết là cũng “những tên sát nhân cuồng nhiệt’, “hèn hạ và đê tiê tiện”  ấy, khi có một ít chữ nghĩa, làm được vài ba bài thơ con cóc, hay viết vài cuốn sách  tầm phào, láo khoét (rồi tự cho là trí thức), hoặc là có địa vị của một tu sĩ hay nắm giữ một  chức vụ nào đó trong Giáo Hội hay trong chính quyền, thì họ trở thành vô cùng hợm hĩnh và cực kỳ lưu manh.  Đứng đầu bọn người lưu manh này là các Ngài đại diện Chúa và bọn người có một chút chữ nghĩa hoặc là hoạt động trong ngành truyền thông, hoặc là những tên hoạt đầu lúc nào cũng băng xăng thậm thụt giữa nhà thờ và chính quyền để cầu cạnh kiếm chác danh và lợi hầu có thế vểnh mặt lên vênh váo với đời. Đây là  hạng  người đại lưu manh trong xã hội. Học giả Ca-tô Charlie Nguyễn nói rõ về hạng người này  rõ như sau:

Chúng ta  nên phân biệt hai loại người đối tượng: Loại người thứ nhất là các tu sĩ Công Giáo và tập thể chính trị gia, trí thức Công Giáo lưu manh, là bọn xưa nay chỉ vì tư lợi  mà gây ra rất nhiều tội ác chống lại nhân loại và dân tộc. Đối với loại người này, chúng ta phải xác định họ là kẻ thù nguy hiểm và chúng ta phải cần đấu tranh diệt trừ không thể khoan nhượng. Đứng đầu bọn này phải kể đến Hội Đồng Giám Mục, những dòng tu đang biến đức tin Công Giáo thành một món hàng béo bở để tận dụng khai thác làm giầu như dòng tu Đồng Công ở Missouiri. Kế đến là bọn chính trị lưu manh đang ẩn núp trong các đoàn thể ở nhà thờ như Hiệp Sĩ Đoàn. Vào một lúc nào đó thuận tiện, chúng sẽ mau chóng biến thành những đoàn quân võ trang hoặc những đoàn quân mật vụ hiếu sát như những đoàn thể của Linh-mục Hoàng Quỳnh, Lê Hữu Từ, Le Roy hoặc Trần Kim Tuyến. Loại người thứ hai là tuyệt đại đa số giáo dân, những người mải lo làm ăn, vô tư chất phác, họ chỉ vì thiếu hiểu biết đã bị các tu sĩ và trí thức lưu manh lừa gạt kích động, xô đẩy vào những hoạt động phá hoại đất nước mà họ vô tình không biết.”[4] 

 “Tuyệt đại đa số giáo dân trình độ tâm linh quá thấp đâu có ngờ khi họ xếp hàng đi xưng tội, chính họ còn ít tội hơn kẻ ngồi ở phía sau tòa giải tội.

Hầu hết các tu sĩ (Da-tô) là những kẻ đại gian đại ác ngụy trang dưới những lớp áo đen, áo đỏ, áo trắng đóng vai đạo đức giả để phỉnh gạt tín đồ. Bề ngoài, họ làm ra vẻ thuận thảo với nhau, thật sự bên trong nội bộ, họ ganh tị tranh đua nhau và sẵn sàng hạ thủ nhau để tranh quyền đoạt thế. Họ dùng đủ mọi thủ đoạn để bòn rút tiền bạc xương máu của giáo dân, để xây nhà thờ nguy nga đồ sộ chỉ cốt để họ được vênh vang với đời. Mái nhà thờ của họ càng rộng lớn bao nhiêu càng che khuất ánh sáng mặt trời chân lý bấy nhiêu. Các bức tường của nhà thờ càng cao bao nhiêu càng ngăn cách giữa con người với nhau bấy nhiêu. Giáo sĩ là những con ký sinh trùng vừa ăn bám, vừa phá hoại xã hội. Họ tội lỗi cùng mình lại nắm quyền tha tội cho đám tín đồ ít tội lỗi hơn họ. Họ thực sự là một bọn cướp nguy hiểm hơn bọn cướp thường vì những kẻ cướp thường đều bị luật pháp trừng trị. Trái lại, bọn cướp đội lốt giáo sĩ lại được giáo dân tôn kính, đi lại tự do vênh váo và được xã hội tâng bốc là “những vị lãnh đạo tinh thần.” Tất cả các tệ nạn này đều xuất phát từ sự thiếu hiểu biết của đại đa số giáo dân. Do vậy, việc giáo dục khai sáng tâm linh là vô cùng cần thiết để cứu nước  và bảo vệ nền văn hóa nhân bản rất cao đẹp của dân tộc ta mà tuyệt đại đa số giáo dân không hề biết tới.” [5]

Như đã nói ở trên, tất cả tín đồ và tu sĩ Ca-tô  trong cái tập thể của họ:

1.- Đều ngu xuẩn [vì chỉ biết nhắm mắt tuân phục Vatican mà đành lòng phản lại quyền lợi tối thượng của dân tộc và tổ quốc], dốt nát [vì không biết gì về lịch sử thế giới để thấu hiểu được những bước đường tiến hóa của nhân loại qua những công cuộc chiến đấu trường kỳ để khắc phục những trở ngại của thỉên nhiên và đập tan những gông cùm xiềng xích của các thế lực độc tài, phong kiến, phản động, phản tiến hóa (trong đó Giáo Hội La Mã là thế lực chủ chốt nguy hiểm nhất và dã man nhất)  với mục đích kìm hãm loài người mãi mãi ở trong tình trạng ngu dốt, chậm tiến và nghèo đói để cho chúng dễ bề quản lý đúng theo châm ngôn “dân ngu dễ trị.”], 

2.- Đều có thể làm ra vẻ hiền lành như đàn cừu vào khi họ chỉ có một sô ít người lẻ tẻ ở trong một quốc gia mà  chính quyền không nằm trong tay tín đồ Ki-tô và cũng không chịu  không thỏa mãn những yêu sách của Vatican.

3.- Sẽ trở thành quỷ quyệt như bầy cáo già khi con số tín đồ và tu sĩ đã trở thành một con số khá đông mà Giáo Hội có thể đoàn ngũ họ thành những đạo quân thứ 5 nằm tiềm phục trong các họ đạo để sẵn sàng thi hành sách lược đánh phá gây rối tại quốc gia sở tại theo kế sách “quậy cho nược đục để thả câu” nếu chính quyền cương quyết không chịu thòa mãn những yêu sách ngược ngạo của Vatican.

4.- Sẽ trở thành hung dữ và ác độc giống những bày cọp đói khi hoàn cảnh thuận lợi, hay họ ở vào thế mạnh.

Dù là hiền lành ngu xuẩn như đàn cừu, hoặc quỷ quyệt như lũ cáo già, hay hung dữ như bầy cọp đói, thì cũng vẫn là loài thú đi bốn chân mà ta thường gọi là loài súc sinh. Loài súc sinh này đã bị Giáo Hội La Mã  dùng chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ để  kìm hãm trong tình trạng dốt nát và ngu xuẩn giống như những người vừa ngu xuẩn, vừa vô học của thời ông Moses và ông Jesus trong thời thượng cổ.

Giá như Giáo Hội chỉ kìm hãm họ trong tình trạng ngu xuẩn toàn diện như những người vô học trong thời thượng cổ và NÓI RÕ cho họ biết tình trạng ngu xuẩn của họ, thì có lẽ cũng đỡ tội nghiệp cho họ và cũng đỡ khổ cho loài người biết bao! Nhưng Giáo Hội lại làm những chuyện cực kỳ thâm độc, vừa kìm hãm họ ở trong tình trạng ngu dốt toàn diện, vừa  phỉnh gạt họ bằng những lời nói bịp bợm rằng “họ là dân được Chúa Chọn”, “họ là dân văn minh” và “họ  sẽ được cho lên Thiên đường hưởng nhan Chúa đời đời”.  Sướng lắm!

Song song với sách lược phỉnh gạt họ như vậy, Giáo Hội còn dạy dỗ họ rằng, “phải triệt để tuân hành lời dạy hay lệnh truyền Hội Thánh”  “để thi hành mạng lệnh cuối cùng của Đức Ki-tô  rằng “Các con hay ra đi dạy dỗ các dân tộc” và “mỗi khi hoàn cảnh cho phép, các con không ngần ngại dùng thế lực để tiêu diệt những tôn giáo khác, đập phá các đền thờ “tà thần”, đốt sách vở ngoại đạo và đốt luôn bọn người bị xem là “lạc đạo” nếu không chịu sửa sai.”[6]

Với những lời dạy ác độc mà họ triệt để  nghe theo và thi hành thì quả thật đã trở thành loài súc sinh.

Vì bị phỉnh gạt như trên, cho nên họ mới  trở nên cực kỳ hợm hĩnh, tự cho là “dân Chúa” có sứ mạng phải đi “dạy dỗ” những người ngoại đạo mà không biết rằng chính bản thân họ là những kẻ dốt nát và ngu xuẩn toàn diện hơn cả những người dốt nát nhất và ngu xuẩn nhất trong thời thượng cổ. Vì không biết chính bản thân là những kẻ dốt nát và ngu xuẩn toàn diện, cho nên họ thường có những ngôn tứ và hành động lối bịch, trịch thương, sống sượng, huênh  hoàng khoác lác, tự cao, tự đại. Tình trạng này đã khiến cho họ trở thành hạng người “ếch ngồi đáy giếng”, không biết gì đến lời dạy trong Nho Giáo rằng “sơn hữu ngoại sơn” hay “thiên hữu ngoại  thiên” hoặc “cao nhân tất hữu cao nhân trị”.

Cũng vì là hạng người ếch ngồi đáy giếng, không biết được sự giới hạn phạm vi kiến thức của họ  và  cũng không biết cả sự hữu hạn trong những cái mà họ cho rằng họ biết, cho nên, một khi có một chút học vấn (học hết bậc trung học) hay đã có bằng, cử nhân, cao học hay tiến sĩ về một ngành chuyên môn nào đó, hoặc là với danh nghĩa của một tu sĩ của Giáo Hội La Mã, hay đã từng được cho giữ  một chức vụ nào đó trong chính quyền là họ cũng hăm hở ti toe múa bút viết lách, cố gắng tỏ ra là người trí thức hay thông kim bác cổ để  lòe đời. Họ không biết được sự giới hạn phạm vi kiến thức của chính mình và cũng biết cả sự hữu hạn khả năng kiến thức trong giới hạn lãnh vực chuyên môn đã học hỏi được ở bậc đại học mà lại còn hăm hở ti toe múa bút để tỏ ra là thông kim bác cổ.  Tiêu biểu cho hạng người này ở miền Nam Việt Nam trước đây và ở hải ngoại ngày nay là ông Tôn Thất Thiện. Cũng như tất cả những người đồng lứa tuổi, ông Thiện không phải là người theo đuổi ngành sử học, không hề học hay đọc toàn bộ các bài học lịch sử thế giới từ A đến Z, cũng không hề học hết  toàn bộ các bài học quốc sử, nhất là trong thời cận và hiện đại. Ấy thế mà ông ta lại “hay viết báo, dạy cách viết “sử” hay phê bình “sử” theo lối tuyên truyền nhồi sọ xưa cũ.” Sự kiện này được nhà viết sử Vũ Ngự Chiêu dưới bút hiệu Chính Đạo ghi nhận trong sách “Mậu Thân 68 thắng hay bai?”như sau:

Tại hải ngoại, Thiện tiếp tục chính sách đánh bóng lại chế độ Ngô Đình Diệm và đả kích những tướng lãnh làm đảo chánh năm 1963. Thiện hay viết báo, dạy cách viết “sử” hay phê bình “sử” theo lối tuyên truyền nhồi sọ xưa cũ – dù Thiện có rất ít kiến thức sử học.”[7] 

Để biết thêm về căn bệnh hợm hĩnh, huênh hoang khác lác của ông Tôn Thất Thiện xin đọc  sách Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 2000, các trang 49-52 và 78-79.)

Một ông Ca-tô người Việt khác là Nguyễn Vy Khanh cũng không hề theo đuổi ngành sử học, không hề học hay đọc toàn bộ các bài học lịch sử thế giới từ A đến Z, cũng không hề học hết toàn bộ các bài học quốc sử, giống như ông Tô Thất Thiện đã nói ở trên,  và cũng hăm hở ti toe múa bút để tỏ ra là người thông kim bác cổ với mục đích duy nhất là gièm pha những tác phẩm sử trình bày những sự thật về những rặng núi tội ác của Giáo Hội La Mã chống lại nhân loại trong gần hai ngàn năm qua và những rặng núi tội ác các chính quyền đạo phiệt Ca-tô ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975. Dưới đây là một trong những đoạn văn của tên văn nô Ca-tô này viết:

“Nếu lướt qua những tài liệu chúng tôi đã tham-khảo về biến cố đảo-chánh 1-11, xin lược lại đây một số ý kiến: một số người (Nguyễn Mạnh Quang,...). không tham khảo nguyên bản, chỉ lập lại lời người khác, hoặc trích lời dịch từ những nguyên bản tiếng ngoại ngữ có thể bất khả tín. Người khác, như Trần Ngọc Ninh (40 Năm Sau (41)), một cựu ủy viên tương đương bộ-trưởng của miền Nam, 40 năm sau đảo-chánh mà không cập nhật tài liệu và khám phá mới, đọc ông cứ như mới viết sau đảo-chánh thời cao trào Phật giáo hoặc suýt gây thánh chiến với Công giáo… “ [8]

Muốn biết thêm về ông văn nô Ca-tô Nguyễn Vy Khanh, xin đọc tác phẩm Khi Nhà Văn Lạm Bàn Lịch Sử của Nguyễn Mạnh Quang, Mục Lá Thư Ngỏ, đoạn chót. Sách này đã được đưa lên sachhiem.net từ tháng 4/2007.   

Sau đó, ông văn nô Da-tô này còn đưa ra một loạt những tác phẩm của những người đồng đạo (người Việt và người nước ngoài) hay những người đã chịu ơn mưa móc của các chế độ đạo phiệt ở miền Nam trong những năm 1954-1975 và của một số văn nô khác mà ông ta cho là có thể giúp ích cho việc tìm hiểu lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại. Đồng thời, ông ta cũng  đưa ra rất nhiều tác phẩm mà ông ta cho là bất khả tín vì những tác phẩm này có nói đến  những rặng núi tội ác của Giáo Hội La Mã chống lại nhân loại trong gần hai ngàn năm qua và những rặng núi tội ác của các chính quyền đạo phiệt Ca-tô ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975.

Trên đây là nói về mấy ông văn nô Ca-tô dốt đặc cán mai táu về sử học, nhưng vì  muốn gièm pha các tác phẩm có nói đến bộ mặt thật ghê tởm của Giáo Hội La Mã và các chính quyền đạo phiệt Ca-tô miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 nên họ mới rơi vào tình trạng “người dốt hay nói chữ” và “múa rìu qua mắt thợ” mà hai ông văn nô Tôn Thất Thiện và Nguyễn Vy Khanh là tiêu biểu.

Dưới đây, chúng tôi xin nói về một số trường hợp khác của các ông dốt đặc cán mai táu về sử học nhưng lại lanh chanh thích viết sử hay nói chuyện lịch sử. Nhưng khốn nỗi:

Vì không được học toàn bộ những bài học lịch sử thế giới, cho nên họ không biết một chút gì về bước tiến của nhân loại từ thuở mới khai sinh lập địa cho đến thời văn minh tin học như ngày nay và cũng không biết gì về những rặng núi tội ác của Giáo Hội La Mã chống lại nhân loại trong gần hai ngàn năm qua. Cũng vì thế mà họ không biết TẠI SAO học giả Henri Guillemin lại gọi Giáo Hội La Mã là “cái  giáo hội khốn nạn” và văn hào Volaire lại gọi đạo Ca-tô là “cái tôn giáo ác ôn”?

Vì không được học toàn bộ những bài học lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại, cho nên  họ không biết gì về những rặng núi hành động tội ác của Giáo Hội La Mã và của tín đồ Ki-tô người Việt chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam trong suốt chiều lịch sử từ giữa thập niên 1780 (khi Giám-muc Pigneau de Béhaine cấu kế với tên cõng rắng cắn gà nhà Nguyễn Phúc Ánh) cho đến ngày nay. 

Vì không được học toàn thể những bài học quốc sừ từ ngày lập quốc cho đến ngày nay, cho nên họ mới không biết gì về những công nghiệp dựng nước, mở nước và giữ nước của tiền nhân ta với không biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và xương máu mới có được giải giang sơn chạy dài từ Ải Nam Quan cho đến Mũi Cà Mâu như hiện nay. Vì thế, cho nên họ không có một chút là  lòng yêu nước, không biết những ai là các nhà ái quốc, và cúng không biết những ai là lũ Việt gian đã từng bán nước cho Vatican, cho Pháp, cho Nhật và cho Mỹ.

Cũng vì thế mà họ mới hết lời miệt thị các nhà ái quốc chiến đấu trong hai cuộc chiến đấnh đuổi Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược  Pháp – Vatican và Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican bằng những ngôn từ vô giáo dục mà họ thường sử dụng đối với những nhóm dân tộc thuôc các tôn giáo hay văn hóa khác. Đọc cuốn Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo (Sàigòn, Chân Lý, 1972 của Linh-mục Bùi Đức Sinh (Phần II nói về Thái Độ Của Giáo Hội Đối Với Man Dân) cuốn Thập Giá và Lưỡi Gươm (Paris, Sudestasie, 1978) của Linh-muc Trần Tam Tỉnh nơi trang 14 và 15  nói về Sắc Chỉ Romanus Pontifex, cuốn Đạo Thiên Chúa Và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam (Los Angeles, CA., Hương Quê, 1988) của Tiến-sĩ Cao Huy Thuần, Phần Vào Đề (các trang 3-42)) và Kế Hoạch Puginier (các trang 397-414), chúng ta sẽ thấy những lời lẽ thiếu giáo dục, thiếu văn hóa của các ông tu sĩ Ca-tô và các vị chức sắc cao cấp trong Giáo Hội La Mã đối với các dân tộc thuộc các tôn giáo và nền văn hóa khác.

Cũng vì thế họ mới có những tiền quan niệm như sau:

1.- Goi quân đội miền Bắc  tiến vào miền Nam làm nghĩa vụ giải phóng miền Nam  thoát khỏi ách  thống trị cúa Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican để thống nhất đất nước là quân xâm lăng.

2.- Gọi những  đảng viên đảng Cộng Sản Việt Nam, những thành viên của Mặt Trận Việt Minh và những người đi theo đảng Cộng Sản Việt Nam và Mặt Trận Việt Minh  trong hai cuộc chiến đánh đuổi Liên  Minh Xâm Lược Pháp- Vatican (1945-1954) và Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican (1954-1975) để giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước là “Việt gian”.

3.- Tôn vinh thằng bạo chúa phản thần tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm là “chí sĩ  yêu nước” và “nhà ái quốc đã chết vì nước”.

4.- Bảo nhau rằng “thà mất nước, chứ không thà mất Chúa”, rằng “Tòa Thánh đánh rắm cũng khen thơm”.

5.- Họ chỉ  biết nhắm mắt tuân lệnh các đấng bề trên của họ để chống lại tổ quốc và dân tộc ta với mục đích duy nhất là phục vụ cho quyền lợi của Vatican.

TẠI SAO họ lại rơi vào thảm trạng như vây?

Lời giải đáp đúng nhất và thích đáng nhất là do chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của Giáo Hội La Mã tạo nên thảm trạng này. Chính  sách ngu dân dã man này đã làm cho họ:

1.- Không biết dùng lý trí để tìm hiểu sự vật.

2.- Không biết phân biệt sự khác nhau giữa sự kiện và ý kiến.

3.- Không biết rằng khi đưa ra một lập luận nào thì phải viết theo phương pháp khoa học,  nói phải có sách, mách phải có chứng, và bằng chứng phải là một nguồn tài liệu có giá trị thuyết phục, chứ không phải là loại bằng chứng “gà nhà” hay bịa đặt, hoặc trích dẫn từ trong thánh kinh lếu láo của họ  hay những lời dạy của Giáo Hội La Mã. Lý do là vì đạo Ki-tô đã bị các bậc trí giả và các nhà viết sử chân chính khẳng định là “cái tôn giáo ác ôn”, là “cái giáo hội khốn nạn”, là “đạo máu” và “đạo bịp”.

Tất cả những cái không biết trên đây đã làm cho họ mỗi khi viết một đề tài nào mà phải đưa ra một hay nhiều lập luận, thì họ bị ra rơi vào tình trạng loang quạng, không biết viết làm sao cho thuận lý và cũng không biết phải trưng ra bằng chứng để thuyết phục người đọc. Thường thường, họ chỉ biết dùng hoa ngôn và xảo ngữ, phóng bút viết quàng xiên, phóng ngôn đưa ra toàn những lời bịa đặt và những lời võ đoán theo ý kiến riêng của họ hay  theo những lời lẽ mà các đấng bề trên của họ đã mớm cho họ cùng với những lời bịa đặt nghe ra thật là nghich lý mà cứ tưởng là tuyệt vời và tuyệt hảo. Cũng vì thế mà trong những tác phẩm của họ, có rất nhiều điều nghich lý, nghe chẳng thuận tai chút  nào, và nhiều khi lại rơi vào tình trạng câu sau đã ngược câu trước hay đoạn văn sau chửi cha đoạn văn trước. Điển hình cho tình trạng này là trường hợp  ông Linh Mục Trần Quý Thiệu viết báo ca tụng thằng linh mục Việt gian Trần Lục và  trường hợp Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận (sau đó được thăng chức hồng y) viết cuốn Chứng Nhân Hy Vọng (Garden Grove, CA: Công Đoàn Đức Mẹ La Vang, 2000). Tình trạng  viết lách quàng xiên, ẩu tả của hai ông trí thức (sic) tu sĩ Ca-tô này nói riêng và của một số đông đồng đạo của họ được cô Nguyễn Thúy Loan ghi lại với nguyên văn như sau:

 “Vùng Nam Cali có một số sách báo có giá tri. Tờ Thế Kỷ 21, không những đăng các bài của phe ta, nhưng còn đăng các bài của phe người làm cho tờ tạp chí này có một chỗ đứng trong báo giới và văn học. Tờ Viễn Đông Thời Báo cũng “chịu chơi” không khiếp nhược và run sợ, dám đăng bài nẩy lửa để nói lên sự thật. Tờ Nhật Báo Người Việt cũng thuộc loại trí thức. Nhưng đặc biệt là mấy cuốn sách của nhóm Giao Điểm. Họ đem ra các chuyện thâm cung bí sử, các chuyện động trời có facts nên không ai bắt bẻ họ nổi dù có bực tức cay đắng.

Vài tờ báo lá cải khác đăng các tin thất thiệt có hại cho đạo Công Giáo. Thí dụ ngày 26/7/1999, một tờ báo lá cải tại quận Cam (Orange County), Cali, đăng bài của Linh Mục Trần Quý Thiệu viết rằng Linh Mục Trần Lục là “bậc vĩ nhân của lịch sử hiện đại” (Một trong những trường hợp phóng bút viết quàng xiên hay bóp méo lịch sử - NMQ) Trong sử liệu cho thấy ông linh mục này dẫn 5 ngàn giáo dân đi giúp Pháp đánh phá chiến lũy Ba Đình của anh hùng Đinh Công Tráng và Linh-mục Lục lại được Pháp tặng cho Đệ Ngũ Đẳng và Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, đó là facts. Dưới con mắt của người Việt bình thường như tụi cháu thì Linh-mục Trần Lục là Việt gian, nên che giấu đi, đừng nhắc lại nếu không muốn lên án. Trái lại, lúc ca tụng thiếu facts như vậy sẽ bị dư luận phê phán… Linh-mục gián điệp Alexandre de Rhodes, các ông Việt gian Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Bá Tòng cũng được các báo lá cải ca  tụng thiếu chứng cớ (fact).

Một thí dụ khác gần đây, Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận được Giáo Hoàng Pháo Lồ II phong chức hồng y, vài tờ báo lá cải lại loan tin quá đáng để làm hại cho vị hồng y này. Thay vì giấu đi, báo lá cải lại loan tin “việc phong chức hồng y cho Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận không những là điều hãnh diện cho người Công Giáo Việt Nam, mà còn cho cả dân tộc Việt Nam nữa (Một trong những trường hợp phóng bút viết quàng xiên – NMQ). Vì ca tụng quá đáng như vậy nên bạn cháu, một người đang theo học chương trình Cao Học Sử Đông Nam Á, phát biểu rằng Hồng Y Nguyễn Văn Thuận là cháu cụ Ngô Đình Diệm, nghĩa là Hồng Y Thuận thuộc vào gia đình “ba đời làm Việt gian”. Cụ Ngô Đình Khả, các con của cụ (là Ngồ Đình Khôi, Ngô Đình Thục và Ngô Đình Diệm), và cháu của cụ là Ngô Đình Huân đều là những người chạy theo Pháp từ lúc Pháp mới xâm lăng Việt Nam. Đó là fact rõ ràng do chính Giám Mục Ngô Đình Thục kể ra trong lá thư viết cho Toàn Quyền De Coux năm 1944. Hơn nữa, việc Pháp đánh chiếm và đô hộ Việt Nam là do các Linh-mục Pháp và Giáo Hoàng Innocent X (1644-1655) vận động và cổ võ. Đó là facts từ các tài liệu mật trong thư khố Pháp được công bố. Do đó, đối với người Việt, dưới mắt họ, Vatican là kẻ có tội. Vì thế nên cố gắng lờ bớt đi, đừng nhắc đến tên Vatican bổ nhiệm Hồng Y Nguyễn Văn Thuận  mà có hại cho Hồng Y Nguyễn Văn Thuận.

Hồng Y Nguyễn Văn Thuận còn có nhiều việc đáng phiền trách nữa.   Im lặng trong vụ bà xơ Lê Thị Tríu biển thủ gần 2 triệu USD.  Có thư khiếu nại và kêu cứu của nhiều người, nhất là thư của ông Thanh Nghị, Houston, Texas, nhưng Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận đã không lên tiếng cho sự thật, không biết có lấn cấn cái gì không?

Trong cuốn Chứng Nhân HY Vọng (California, 2000), có một số bài giảng hay nhưng  có nhiều điều bịa đặt thiếu sử liệu và thiếu loigic Trong trang 169, Giám Mục Thuận kể rằng “Ông cố nội tôi khi mới 15 tuổi mỗi ngày đã phải đi bộ 30 cây số  để tiếp tế cho cha (bố của ông nội - NMQ) một ít cơm và ít nuối…”

Một thanh niên mạnh khỏe đi bộ giờ đầu là 5 cây số, giờ kế tiếp chỉ còn 4 cây số. Còn trẻ em 15 tuổi chỉ đi bộ trung bình 3 cây số một giờ. Với ba chục cây số, ông cố nội Giám-mục Nguyễn Văn Thuận phải đi bộ mất khoảng 10 giờ đi và 10 giờ về. Tổng cộng là 20 giờ, còn 4 giờ (để cho) cho chú bé 15 tuổi (ông cố  nội của Giám Mục Nguyễn Văn Thuận – NMQ) ngủ và ăn... Và mỗi ngày như vậy, làm sao chú bé 15 tuổi có thể sống được? Viết như vậy là thiếu logic, chứng tỏ câu chuyện không có thực.

Cũng nơi trang 169,  Giám-mục Nguyễn Văn Thuận cho biết trong 350 năm tại Việt Nam, giáo dân tử đạo là 350 ngàn người (trang 169), facts? Từ lúc tiến vào Việt Nam đến lúc Pháp cai trị toàn nước vào khoảng năm 1880, dân  số Việt Nam bao nhiêu? Tổng số con chiên bao nhiêu mà tử đạo đến 150 ngàn người? Và phong thánh chỉ có 117 người có bất công không?

Trang 170, Giám-mục Nguyễn Văn Thuận  viết: “Phía ông ngoại tôi còn thê thảm hơn nữa. Vào năm 1885, giáo dân toàn xứ bị thiêu sống trong nhà thờ….”

Ông ngoại tôi (Giám-mục Thuận) tức là Ngô Đình Khả (?), tỉnh Quảng Bình và năm 1885 tức là triều vua Đồng Khánh là một ông vua Việt gian, Pháp cho lên vua. Trong cơ mật viện thì có Linh-mục Nguyễn Hoằng và cựu giáo sinh Pétrus Trương Vĩnh Ký bám sát ông vua này, làm gì có giáo dân bị bách hại kiểu đó? Sử cho thấy chỉ có thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức mới có việc cấm đạo. Còn thời Đồng Khánh thì guồng máy cai trị của Pháp đã tỏa ra khắp cả Đông Dương, làm gì có việc giáo dân toàn xứ bị thiêu sống?

Thưa Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, cháu phải nhận lỗi hỗn hào để phê bình rằng ngài nói không có chứng cớ, fact đâu? Cuốn sách Chúng Nhân Hy Vọng của ngài có vô số điều bịa đặt, rất hại cho uy tín của ngài. Trên đây cháu mới nhân xét chỉ có hai trang trong sách của ngài.

Cách đây mấy tuần, một tờ báo Việt lá cải ở vùng Orange County tiên đoán xem ai có thể được bầu tân giáo hoàng. Tờ báo đoán Hồng Y Nguyễn Văn Thuận có thể được bầu vì lúc ở tù Cộng Sản 13 năm, ông kiếm giấy vụn trong tù mà  viết được cuốn Thánh Kinh (Một trong những trường hợp phóng bút viết láo - NMQ). Đó là một kỳ tài hiếm có. Tụi cháu mổ xẻ, luận bàn rằng trong nhà tù Cộng Sản mà cũng kiếm được giấy vụn để viết được cuốn Thánh Kinh? Nay cuốn Thánh Kinh này đâu rồi? Đây là cuốn Thánh Kinh do Giám-mục Nguyễn Văn Thuận sáng chế? Hay ngài nhớ thuộc lòng cuốn Thánh Kinh đã có mà chép ra? Nếu ngài sao chép cuốn TK đã có từ trước để làm gì?. Bản đó đâu rồi? Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước chữ nhỏ có hơn một  ngàn trang).  13 năm tù mà chỉ làm được có thế thôi? Các vị làm báo cố gắng đánh bóng một ông quan Vatican mà thiếu logic, sơ hở quá!”[9]

Chúng ta biết rằng cùng một loại hàng hóa được sản xuất ở trong cùng một nhà máy kỹ nghệ đều có những đặc tính giống nhau. Tương tự như vậy, tất cả những tác phẩm của những người tiếp nhận sở học qua chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của Giáo Hội La Mã  ở các bậc  tiểu, trung và đại học ở  Việt Nam trong thời Bảo Hộ 1885-1945 và ở miền Nam trong những năm 1954-1975 cũng đều chứa đựng những nhược điểm giống như nhuiwhc điểm trong những bài viết hay tác phẩm của Linh-mục Trần Quý Thiệu và Hồng Y Nguyễn Văn Thuận như đã nói ở trên.

Nói cho rõ hơn,  tất cả những người Việt Nam tiếp nhận sở học  qua chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của Vatican mà không chịu mở rộng tâm hồn tìm đọc các sách sử trong các thư viện và đón nhận những tư tưởng cao đẹp của các nền văn hóa khác, thì cũng rơi vào tình trạng viết lách loạng quạng, phóng bút viết quàng  xiên, viết ẩu tả, giống y hệt như trường hợp Linh-mục Trần Quý Thiệu và Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, và tác phẩm của họ cũng chứa một mớ ngôn từ ba hoa và những lập thuyết nghich lý  với những chuyện bịa đặt kệch cỡm giống y như cuốn Chứng Nhân Hy Vọng như đã nói ở trên. Người viết xin kể ra đây trường hợp Nhóm Nghiên Cứu Lịch Sử Việt Nam Cận Và Hiện Đại ở Santa Clara, California, gồm các ông Dương Diên Nghị, Nguyễn Châu, Lương Văn Toàn, Lế Hữu Phú và  Hoàng Đức Phương viết cuốn Việt Nam Cuộc Chiến Tranh Quốc Gia – Cộng Sản, Tập I (San Jose, CA: TXB, 2002), và trường hợp ông trí thức Lê Xuân Khoa viết cuốn Việt Nam 1945-1995 – Tập I (Bethesda, MD: Tiên Rồng, 2004.)

Trường hợp cuốn Việt Nam Cuộc Chiến Tranh Quốc Gia – Cộng Sản, Tập I (San Jose, CA: TXB, 2002) của các ông Dương Diên Nghị, Nguyễn Châu, Lương Văn Toàn, Lế Hữu Phú và  Hoàng Đức Phương trong Nhóm Nghiên Cứu Lịch Sử Việt Nam Cận Và Hiện Đại ở Santa Clara, California: 

Điểm đặc biệt là 5 ông trí thức này đều không theo học ngành sử học dù rằng họ đều là những người tốt nghiệp đại học ở Hoa Kỳ. Điểm đặc biết quan trọng hơn nữa là họ đều đã tiếp nhận sở học ở bậc trung học ở Việt Nam qua chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ, cho nên họ có tất cả những cái “không biết” như đã trình bày ở trên do bốn kế sách trong chính sách sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của Giáo Hội (như đã trình bày trong Chương 8 trước đây) gây ra. Ngoài những cái không biết này, họ lại còn không biết khả năng kiến thức về môn sử học  của chính bản thân họ. Không những thế, họh còn mang chứng bệnh huênh hoang, khoác lác, hợm hĩnh. Tất cả những yêu tố nhày đã khiến cho họ hăm hở nhẩy rào vào lãnh vực việt sử. Với tình trạng như vậy, rõ ràng là họ ở vào tình trạng “một người mù xem voi”. Cũng vì thế họ mới lạng quạng viết láo, viết ẩu tả, viết bừa bãi. Tình trạng này được phơi bày ra ở ngay trong tác phẩm “Việt Nam Cuộc Chiến Tranh Quốc Gia – Cộng Sản” của họ.

Điểm đáng nói nhất là cuốn sách này không hề đề cập đến vai trò của Vatican chủ động đánh chiếm Việt Nam theo tinh thần Sắc Chỉ Romanus Pontifex được ban hành vào ngày 8/1/1454 trong thời Giáo Hoang Nicholas V (1447-1455), rồi cho người sang Paris  vận động Pháp  liên kết với Giáo Hội thành một liên minh thánh (a holy alliance) gọi là Liên Minh Pháp – Vatican (một liên minh chính trị bất thành văn) xuất quân đánh chiếm Đông Dương làm thuộc địa vào năm 1858 để cùng thống trị, cùng khai thác tài nguyền và cùng nô lệ hóa dân ta cho đến tháng 3 năm 1945 thì bị Nhật hất cảng. Sau đó, Vatican lại cùng Pháp bổ nhậm cựu Linh-mục Thierry d’ Argenlieu nắm giữ chức vụ Cao Ủy Đông Dương kể từ ngày 17/8/1945 (cho đến ngày 15/3/1947). Cuốn sách này cũng không hề nói đến vai trò của  Vatican trong chủ trương thi hành chính sách chia để trị bằng cách:

1.- Xé đất nước Việt Nam ta ra làm nhiều tiểu quốc (a) theo  biên giới đia lý (tách rời Nam Kỳ ra khỏi nước Việt Nam và thành lập nước Cộng Hòa Nam Kỳ), (b) theo biên giới sắc tộc (thành lập nước Tây Nguyền và Liên Bang Thái tự trị) và (c) theo biên giới tôn giáo (thành lập hai giáo khu Phát Diệm và Bùi Chu tự trị).

2.- Đưa ra Giải Pháp Bảo Đại dùng người Việt đánh người Việt và dùng tín đồ Da-tô cai trị đại khối người Việt thuộc các tôn giáo khác. Vấn đề này đã được trình bày đầy đủ trong Mục XV (Chính Sách Chia Để Trị của Vatican tại Viet Nam) Phần IV  trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác cua Giáo Hội La Mã.

(xem tiếp) ==>

Chú Thích


[1] Charlie  Nguyễn, Công Giáo Huyền Thoại và Tội Ác (Garden Grove, CA: Giao Điêm, 2001), tr. 325.

[2]   Nguyễn Mậu: "Thời Sự Trong Tuần"  Chính Nghĩa - Bộ Mới Số 251 [San Jose, California] ngày  03/12/1994.

[3] Nhiều tác giả, Tại Sao Không Theo Đạo Chúa  Tuyển Tập 2 (Spring, TX: Ban Nghiên Cứu Đạo Giáo, 1998), tr. 116.

[4]Charlie Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001), tr. 29-30.

[5] Charlie Nguyễn, Sđd., tr. 63-64.

[6] Lý Chánh Trung, Tôn Giáo và Dân Tộc (Sàigòn: Lửa Thiêng, 1973) tr. 75. 

[7] Chính Đạo, Mậu Thân 68 thắng hay bai?” (Houston, TX: Văn Hóa, 1998), tr.296.

[8] Nguyễn Vy Khanh. “40 năm sau một cuộc bội phản.” motgoctroi.com Ngày 2/11/2005.  

 


Trang Nguyễn Mạnh Quang