|
đăng 14 tháng 11, 2009
|
Tin giáo sư Trịnh Xuân Thuận, người Việt Nam đầu tiên được
trao giải thưởng cao quý Kalinga của UNESCO về Phổ biến khoa học năm
2009 đã như ngọn gió lành làm nức lòng giới khoa học và tất cả độc giả
đã từng yêu quý ông qua những tác phẩm viết về vũ trụ với cái nhìn tinh
tế, giàu mỹ cảm, thấm đẫm tư tưởng triết lý của đạo học Phương Đông.
Dù
vô cùng bận rộn, từ nước Mỹ xa xôi, ông đã dành hơn hai giờ đồng hồ để
trả lời thật cặn kẽ những câu hỏi của báo Sài Gòn Tiếp Thị qua điện
thoại. Giọng Hà Nội cổ trầm và ấm áp, lối nói khúc chiết, tình cảm, ông
diễn đạt những điều cao siêu và bí ẩn của vũ trụ với một ngôn ngữ thật
giản dị. Thỉnh thoảng ông dừng lại, hỏi han về Việt Nam như thể một
người thân xa nhà đã lâu. Có cảm giác như ông đang hiện diện, đôi mắt
trầm tư và hóm hỉnh, mở lòng chia sẻ với tất cả công chúng bình dị nhất
về những gì ông đam mê và day dứt…
- Thưa giáo sư, ông có thể cho cụ thể hơn về Giải thưởng cao quý
của UNESCO về Phổ biến khoa học năm 2009? Cảm xúc của riêng ông trong
những ngày này?
- Tôi rất hãnh diện, vui mừng, vì đây không chỉ là vinh quang của
riêng tôi mà là vinh quang của Việt Nam. Lần đầu tiên trên chính trường
quốc tế, người Việt Nam đoạt giải thưởng lớn này, cùng với giáo sư Yash
Pal người Ấn Độ. Viết sách, dạy học, khảo cứu là ba công việc mà tôi
theo đuổi suốt đời, và coi như lẽ sống của đời mình. Chúng ta đang sống
trong một thế giới bị vây bủa bởi kỹ thuật, ngạt thở vì bụi và khói, ít
người hiểu rằng chúng ta còn có một vũ trụ bao la, đẹp đẽ và thật hài
hòa. Với tư cách là một nhà khoa học, tiếp xúc hàng ngày với vũ trụ, tôi
muốn chia sẻ những cảm xúc tuyệt vời về những điều kỳ diệu của vũ trụ.
Giải thưởng về Phổ biến khoa học là phần thưởng ý nghĩa nhất cho những
tác phẩm mà tôi đã viết để gửi tặng cho tất cả mọi người
- Hầu hết các tác phẩm của ông đều được dịch sang tiếng Việt,
trong đó có Những con đường ánh sáng
(tác phẩm giúp ông đoạt giải Moron của Viện hàn lâm Pháp năm 2007), ông
đã suy nghĩ rất nhiều về ánh sáng và các khía cạnh tinh thần của ánh
sáng? Ông đánh giá như thế nào về các bản dịch của dịch giả Phạm Xuân
Thiều?
- Ánh sáng là người bạn tri kỉ của tôi, là phương tiện giúp tôi đối
thoại với vũ trụ. Thuyết Lượng tử và thuyết Tương đối của Albert
Einstein cũng nói về ánh sáng. Trong tất cả các tôn giáo, ánh sáng đẩy
lùi sự không hiểu biết, sự mù quáng. Ánh sáng từ những ngọn nến thắp lên
trên bàn thờ Phật đẩy lùi bóng tối, sự huyễn tưởng, tham muốn, đau khổ,
để đi đến niết bàn. Ánh sáng từ những cánh cửa nhà thờ chính là ánh sáng
của Chúa… Tôi ước ao thám hiểm không chỉ tầm vóc khoa học kỹ thuật, mà
còn về thẩm mỹ, nghệ thuật, khía cạnh siêu hình, triết lý tôn giáo của
ánh sáng. Ý định của tôi là biết được làm thế nào ánh sáng đã cho phép
chúng ta trở thành những con người.
Về dịch giả Phạm Văn Thiều, anh ấy cũng là một nhà vật lý, nên hiểu
chính xác các ngôn ngữ chuyên môn. Nhưng viết với tôi không chỉ nói về
khoa học, đó còn là một tác phẩm văn chương với cách nói đẹp đẽ, khiến
cho người đọc say mê. Anh Thiều đã thực sự cảm được chất triết lý, chất
thơ và dịch rất đúng với tinh thần của tôi. Anh cũng đang giúp tôi dịch
tác phẩm mới nhất Từ điển về những người yêu trời và ngôi sao
do NXB Tri thức xuất bản. Mặc dù sống ở Mỹ, nhưng sách của tôi xuất bản
ở Paris là chủ yếu, vì tôi viết bằng tiếng Pháp. Khi tác phẩm trở thành
best- seller ở Paris, người ta mới dịch sang tiếng Anh và 20 thứ tiếng
khác trên thế giới. Do vậy đối với tôi, chuyện dịch rất quan trọng,
ngoài tinh thần khoa học, phải có tinh thần thơ, tinh thần triết lý.
- Tác phẩm Nguồn gốc thể hiện
quan niệm của riêng ông khi trở lại với nguồn gốc của vũ trụ, của loài
người, để giúp con người thay đổi cách nhìn về cuộc sống, về thế giới?
- Tôi mong muốn giải đáp phần nào những câu hỏi mãi hiện hữu trong
tâm trí của nhân loại, đó là nguồn gốc hình thành vũ trụ. Vũ trụ đẻ ra
các ngôi sao, từ đó hình thành trái đất, hình thành tế bào đầu tiên của
sự sống, sinh ra con người. Tất cả chúng ta đều là con đẻ của các ngôi
sao, liên hệ mật thiết với các ngôi sao, đó là ông tổ của loài người.
Trái đất cũng được tạo thành bởi các nguyên tố sinh ra trong lòng các
ngôi sao. Trong hệ mặt trời, chỉ có trái đất mới có các biển nước bao la
để cho sự sống nảy nở. Hiểu như thế để thấy trái đất quý báu biết chừng
nào, phải bảo vệ và che chở nó. Nếu không chỉ mấy thế hệ nữa thôi con
cháu ta sẽ không còn chỗ để ở nữa, vì trái đất ngày càng nóng lên. Mỗi
100 năm trái đất nóng lên từ 1 đến 2 độ, băng ở Nam cực và Bắc cực đã
tan chảy, khiến lụt bão càng ngày càng nhiều, hoành hành ngày càng dữ
dội. Hiện giờ 25% cacbon dioxit (CO2) thải ra trong khí quyển trái đất
là từ nước Mỹ, 25% là từ Trung Quốc. Thời của Bush, nước Mỹ không chịu
ký hiệp định Kyoto năm 1997 về chống khí thải. Chính sách của ông Obama
có tiến bộ hơn, tháng 12 này Mỹ và các nước sẽ họp lại ở Copenhagen, Đan
Mach để tìm giải pháp giảm khí thải trên toàn thế giới. Với tư cách nhà
khoa học, tôi chỉ nói lên lời cảnh báo, còn người định đoạt là các nhà
chính trị. Tôi mong khi các cường quốc có trách nhiệm hơn, sẽ cải thiện
được tình hình, vì trái đất là của chung mọi người.
Biết rằng tất cả chúng ta chỉ là những hạt bụi, chia sẻ cùng một lịch
sử vũ trụ với loài linh dương và các đóa hồng, chúng ta được gắn kết với
nhau qua không gian và thời gian, sẽ giúp chúng ta ý thức được sự phụ
thuộc vào những người khác. Ý thức này sẽ sinh ra lòng trắc ẩn, giúp
chúng ta nhìn thế giới khác đi và hành động công bằng hơn.
- Với riêng Việt Nam, ông có nghiên cứu nhiều về thảm họa tàn phá
môi trường trong sự thái quá về phát triển kinh tế hiện nay hay không?
- Tôi cũng rất lo sợ. Tôi hiểu Việt Nam muốn phát triển kinh tế, tạo
công ăn việc làm cho nhiều người, không còn cách nào khác là phải phát
triển du lịch, vì Việt Nam có một thiên nhiên rất đẹp, có núi, có biển,
có rừng. Nhưng phát triển du lịch phải nghĩ đến bảo vệ môi trường xung
quanh, chứ kiểu phá rừng bừa bãi, giết chết thú vật và tất cả những sinh
vật thiên nhiên như chim chóc,muông thú như hiện nay vô cùng nguy hiểm.
Rừng của chúng ta có rất nhiều loài chim lạ mà các nhà khoa học quan tâm
và đã đến khảo cứu, nhưng đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Những nhà
lãnh đạo đất nước phải quan tâm đến việc phát triển kinh tế trong sự tôn
trọng môi trường
- Từng học tại Thụy Sĩ, lý do gì khiến ông chọn nước Mỹ là nơi
dừng chân? Ấn tượng nhất với ông về cách dạy, cách học của hệ thống đại
học đỉnh cao của Mỹ?
- Đậu tú tài năm 1966, tôi định đến Pháp để học vật lý, nhưng bài
diễn văn của tướng De Gaulle ở Phnom Penh đòi Mỹ rút quân ngay lập tức
khỏi Đông Nam Á đã làm thay đổi mọi kế hoạch của tôi. Việt Nam cắt đứt
liên hệ ngoại giao với Pháp nên tôi không thể sang Paris học nữa. Sau
một năm học ở Lausanne, Thụy Sĩ, tôi sang Mỹ học tại Caltech (viện Công
nghệ Califonia ), "thánh địa" của các nhà vật lý thiên văn. Caltech có
kính thiên văn lớn nhất thế giới vào lúc đó, có thể nhìn về quá khứ hàng
tỉ năm, một nơi lý tưởng để nảy sinh thiên hướng cho một thanh niên 19
tuổi đang khát khao tìm hiểu mọi thứ như tôi. Xúc động lắm khi được
những giáo sư dạy những công trình của chính họ.
Lớp không quá mười lăm người nên được tiếp xúc thật gần với từng giáo
sư, cả những vị nổi danh nhất từng đoạt giải Nobel. Giáo dục quan trọng
nhất là dạy cách nghĩ khác biệt trước một vấn đề, giúp cho người học đi
xa hơn chính người thầy của mình trong quá khứ. Thế là tôi đổi thay. Tôi
hoàn toàn ngạc nhiên khi thấy Richard Feynman, một trong những đỉnh cao
của ngành Vật lý hiện đại, trả lời một cách kiên nhẫn từng câu hỏi của
những cậu bé mười chín tuổi như tôi. Ông tranh luận và pha trò với chúng
tôi. Ông luôn nhìn thiên nhiên bằng đôi mắt mới lạ, ngây thơ, diễn dịch
lại theo cách của riêng ông. Ông không hề đi theo con đường mòn và luôn
đặt lại câu hỏi cho những ý tưởng đã được công nhận. Ðó là chưa kể sự tự
do lạ thường mà chúng tôi có được. Tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy sinh
viên đi chân trần, ăn mặc lôi thôi đến dự giờ do một Nobel giảng dạy!
Sau chấn động đó, tôi bắt đầu thích môi trường quá phong phú cho sự nảy
nở tài năng của mỗi người, bất kể hình thức hay tầng lớp xã hội. Đặc ân
tối cao là chúng tôi có thể gõ bất cứ cửa nào và bất cứ lúc nào, tất cả
những đầu óc vĩ đại đó sẽ thong thả trả lời cho chúng tôi từng câu hỏi.
- Trong sự chọn lựa của ông đối với thiên văn học, ông đã phải
trả giá cho những mất mát, khó khăn như thế nào của đời sống thường
ngày? Theo ông, vì sao lớp trẻ ngày nay ít người dám theo đuổi những
khát vọng lớn như thế hệ ông?
- Sống ở Mỹ từ năm 19 tuổi đến giờ đã hơn 42 năm, nhưng do học tiếng
Pháp từ bé nên tiếng Pháp đối với tôi là tiếng của thơ ca, còn những gì
thuộc về khoa học tôi viết bằng tiếng Anh. Những năm đầu sống trên đất
Mỹ rất khó khăn, vì lúc ấy chiến tranh Việt Nam đang vào thời kỳ ác liệt
nhất, nhiều người bạn Mỹ của tôi ở trong trường đã phải vào quân ngũ để
sang Việt Nam. Không biết tiếng Anh, những ngày đầu tiên thầy giáo vật
lý giảng bài tôi chẳng hiểu gì, chỉ nhận ra mấy cái phương trình. Mấy
tháng sau mới tiếp thu được tiếng Anh nhanh hơn. Thực sự tôi phải trả
giá rất nhiều cho việc học, khó nhất là làm thế nào để hòa mình vào môi
trường khoa học trình độ cao. Lúc đầu bị cắt hết liên lạc gia đình, đâu
có tiền mà về thăm nhà. Lúc đó chưa có e-mail hoặc internet. Xa gia
đình, xa đất nước mình, thiếu chỗ nương tựa tinh thần, văn hóa lại khác
hẳn nên rất gian nan. Phải có ý chí, đam mê nhiều lắm, nhất là sự ham
thích tìm hiểu, nghĩ ngợi, hân hoan với mỗi phát hiện mới của riêng
mình, chứ nếu chỉ nghĩ đến tiền và làm giàu thì không thể làm khoa học
được.
Thế hệ chúng tôi già rồi, nên rất mong có những thế hệ kế tiếp, nhưng
hình như các bạn trẻ ngày nay theo đuổi những nghề nghiệp giúp họ kiếm
tiền nhanh như kinh doanh, bác sĩ, luật sư… hơn là về khoa học. Trách
nhiệm của những nhà giáo dục là phải truyền đạt tới lớp trẻ tình yêu
khoa học. Chính vì vậy mà tôi đẻ ra môn Thiên văn học dành cho các nhà
thơ, để dành cho những sinh viên học các môn học khác như kinh tế học,
triết học, văn học…Tôi rất thú vị khi thấy các em rất say mê môn học
này, và thích thú nhìn lên bầu trời, quan sát các ngôi sao.
- Sau ngày miền Nam được giải phóng, cha ông (Trịnh Xuân Ngạn-
KY) phải đi học tập cải tạo vì là chủ tịch Tối cao Pháp viện chế độ Sài
Gòn, nghe nói ông đã viết thư cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng để xin cho cha
được về?
- Khi ấy, tôi tưởng không thể gặp lại bố được nữa. Lúc ấy Mỹ không có
bang giao với Việt Nam. Không biết làm gì để cứu bố, tôi sang Pháp gặp
một đồng nghiệp về vật lý thiên văn, rất may ông là bạn thân của Thủ
tướng Phạm Văn Đồng. Ông ấy đã viết một bức thư gửi Thủ tướng xin tự do
cho cha tôi, nhưng tôi cũng không dám hy vọng gì nhiều. Không ngờ Thủ
tướng đã tác động ngay cho bố tôi được sang Pháp sinh sống cùng gia
đình.
- Đối diện với vũ trụ bao la, có bao giờ ông rơi vào cảm giác quá
bé nhỏ, tuyệt vọng, cô đơn…?
- Tôi luôn cảm thấy hài hòa một cách tự nhiên với vũ trụ, nên không
bao giờ cảm thấy cô đơn. Vả lại tôi luôn có những người thân yêu ở bên
cạnh nâng đỡ, động viên. Cha tôi giờ đã mất, nhưng ông là một tấm gương
lớn cho tôi về tinh thần học hỏi không ngừng. Ông luôn khuyến khích tôi
trên con đường khoa học, dạy tôi trước tiên phải trở thành người lương
thiện, biết thương người khác. Tôi may mắn có người vợ hết lòng, cô ấy
cũng dạy học như tôi, nhưng biết lo lắng chuyện nhà chuyện cửa để tôi
yên tâm nghiên cứu. Trong gia đình lớn của tôi, sự gắn bó từ đời này
sang đời khác rất được coi trọng, gìn giữ. Dòng họ nhà tôi nhiều người
đỗ đạt tiến sĩ, làm quan lớn trong triều. Học hỏi, khảo cứu và giúp
người là truyền thống quý báu nhất của dòng họ. Tôi viết sách, dạy học,
khảo cứu cũng là để tiếp nối truyền thống đó.
Trong chuyến trở về Việt Nam cùng phái đoàn của Tổng thống Pháp
Mitterrand năm 1993, đến Văn Miếu ở Hà Nội, tôi rất hãnh diện khi thấy
ông tổ của mình cũng có tên trong đó. Lúc đó, mức sống ở miền Bắc còn
quá thấp so với miền Nam, nhiều chỗ không có điện nước. Năm 2004, trở
lại ngôi làng thời ấu thơ bên kia sông Đuống, thăm lại mồ mả cha ông,
tôi vô cùng xúc động khi thấy tất cả sức lực của đất nước được dồn cho
xây dựng, mức sống của người dân quê tôi đã được nâng lên đáng kể…Tất cả
những điều đó níu giữ mình, giúp mình cảm thấy không cô đơn, thấy có
trách nhiệm hơn với cuộc đời và xã hội..
- Là nhà khoa học, có bao giờ ông tin vào trực giác, sự mách bảo
của tâm linh?
- Thường khi nghĩ nhiều về một vấn đề nào đó của vũ trụ, trực giác
luôn đến với tôi đầu tiên, sau đó mới là những luận cứ khoa học. Cũng có
khi trực giác và luận cứ khoa học đến cùng một lúc. Điều kỳ diệu đâu
phải tự nhiên mà có, mình phải đeo đuổi nó nhiều lắm, tìm hiểu nhiều lắm
qua kính thiên văn và suy nghĩ, rồi mới phát hiện ra. Lúc ấy thấy hân
hoan lắm.
- Là người rất quan tâm đến đời sống xã hội, ông nghĩ gì về sự đổ
vỡ trong đời sống tinh thần của con người hiện đại, khi lao theo những
ham muốn bất tận về đời sống vật chất đến mức không dừng lại được?
- Khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua là bằng chứng rõ nhất về
chuyện con người quá lao theo vật chất, mà quên đi những giá trị tinh
thần. Con người cần phải nghĩ nhiều hơn về hạnh phúc. Làm giàu là cần
thiết, nhưng đến một mức độ nào thôi cũng phải biết hướng tới những giá
trị truyền thống của đời sống nhân văn, biểu hiện qua tôn giáo. Toàn thế
giới đang chạy theo chỉ số GDP, nhưng ở Bhutan, đất nước theo đạo Phật,
chỉ số hạnh phúc lại cao nhất thế giới. Họ có nền an ninh sung sướng mặc
dù nghèo hơn rất nhiều nước khác. Giàu đến một mức nào đó thôi cũng phải
nghĩ cách giúp đỡ người khác, như Bill Gates, người đã tạo ra hãng
Microsoft chẳng hạn. Chứ sống một mình sung sướng trên một biển toàn
người đau khổ thì đâu có hạnh phúc gì. Chúng ta phụ thuộc vào nhau, điều
cụ thể nhất mà mỗi gia đình có thể làm được là các bậc cha mẹ hãy giáo
dục cho con cái mình đừng nên chạy theo vật chất, biết nghĩ nhiều hơn
cho người khác thì cuộc sống của mình sẽ ý nghĩa hơn
- Để tồn tại, cạnh tranh và sống sót trong một thế giới đầy bất
an như hiện nay, theo ông, con người phải thay đổi điều gì trong tư duy
và lối sống của chính mình?
-Tôi sống ở đất Mỹ, nơi lúc nào cũng nói đến chữ cạnh tranh. Nhưng
chữ cạnh tranh mà ông Obama dùng khác hẳn chữ cạnh tranh của ông Bush.
Cạnh tranh với Obama là để chung sống hòa bình, chứ không phải gây chiến
như Bush. Có lẽ nhờ thế ông đã đoạt giải Nobel Hòa bình 2009 dù chưa làm
được gì, nhưng đã thay đổi hoàn toàn trong cách nghĩ, để mong giúp đỡ
con người. Toàn cầu hóa hòa bình là mục đích của cạnh tranh lành mạnh,
để cùng phát triển, chứ không phải bám vào việc đào bới thiên nhiên, hủy
hoại đất mẹ. Sự sụp đổ hàng loạt các tập đoàn tài chính Mỹ đang bị siết
lại bằng luật, nhưng điều cốt lõi là phải thay đổi là cách nghĩ, thay
đổi trong tâm,. Chính vì thế phải có tôn giáo. Đạo Phật dạy tiền bạc,
vật chất là ảo hết, tình thương yêu, giúp đỡ người khác mới là sự thật,
đó mới là sức mạnh của con người.
- Mối tương đồng giữa vật lý hiện đại với đạo học phương Đông,
nhất là Phật giáo đã mở cho ông những cánh cửa như thế nào để thấy được
bộ mặt thật của vật chất?
- Tôi chiêm nghiệm thế giới theo triết lý Phật giáo nhưng với cái
nhìn của nhà khoa học vật lý hiện đại và đạo học phương Đông là hai cách
nhìn về cùng một sự vật, đó là vũ trụ. Hai lối nghĩ tả về một cái thì
phải gặp gỡ nhau thôi. Nếu như tôn giáo giúp mình nhìn ra sự thật về vũ
trụ để sống, để nhìn đời hoàn hảo hơn thì vật lý hiện đại giúp mình dùng
thiên nhiên để chế tạo ra những công trình kỹ thuật, khoa học. Phật giáo
rất vững vàng để đương đầu với khoa học. Nhà khoa học làm những cuộc
quan sát, thí nghiệm. Trong Phật giáo, con người tự thí nghiệm lấy chính
mình. Họ tự tìm lấy con đường của họ. Trong đạo Phật, người ta tìm thấy
khái niệm vô thường: tất cả đều chuyển động, tất cả đều thay đổi, tất cả
đều tiến hóa, thì đó cũng là thông điệp chính của khoa học. Các ngôi sao
đều có lịch sử riêng của chúng: chúng sinh ra, sống và chết. Vũ trụ có
một sự khai nguyên, một hiện tại và một tương lai. Tất cả đều thay đổi,
tất cả đều chuyển động.
Tôi cũng đang tìm hiểu thêm về Lão tử để soi rọi nó với đạo Phật,
phát hiện thêm những chiều sâu mà mình chưa biết đến. Đó là cuộc tìm
kiếm vô cùng. Cho đến nay, con người có thể nhìn thấy chỉ chiếm 4% trong
tổng số vật chất trong vũ trụ. Như vậy, rõ ràng, còn quá nhiều thứ, đến
96%, để chúng ta học hỏi và khám phá. Tôi tin rằng ý thức con người đủ
sức mạnh để khám phá phần còn lại mênh mông và huyền bí đó
- Theo ông, sự gặp gỡ giữa nhận thức luận phương Tây và triết lý
phương Đông có giúp con người thoát khỏi những khủng hoảng cá nhân?
- Tôi nghĩ triết lý phương Tây để ý đến cá nhân nhiều hơn, trong khi
phương Đông lại có lối nhìn toàn vẹn hơn. Khi những luồng tư tưởng khác
biệt gặp nhau, tác động lên nhau, có thể giúp con người vượt thoát khỏi
sự khủng hoảng trong đời sống tinh thần, tìm đến một chủ nghĩa nhân văn
phổ quát, để vừa thúc đẩy tính sáng tạo trong mỗi cá nhân, vừa giúp mỗi
cá nhân hài hòa hơn với xã hội, gìn giữ mối quan hệ gia đình. Hiện có
rất nhiều người Âu châu để ý đến đạo Phật vì tinh thần gần gũi, rộng rãi
của nó.
- Ông có thể kể một chút về tình bạn với Ricard Matthieu, người
đã ảnh hưởng rất lớn đến ông trên con đường trở thành một Phật tử tự do,
và viết chung tác phẩm Cái vô tận trong lòng bàn tay?
- Matthieu Ricard vốn là một tiến sĩ sinh học người Pháp đã bỏ hết sự
nghiệp đi tu, vì cho rằng việc khảo cứu không làm cho đời mình hạnh
phúc. Ông trở thành một thiền sư Phật giáo Tây Tạng, và là người rất
thân cận với Đức Đạt Lai Lạt Ma. Khi Đạt Lai Lạt Ma sang Pháp luôn có
ông bên cạnh. Ông nổi tiếng ở châu Âu về truyền bá đạo Phật, cách tu
tâm, thiền. Ông sống rất đúng theo triết lý của đạo Phật, luôn đỡ người
khác, bao nhiều tiến viết sách ông dành để xây làng cho trẻ mồ côi ở Tây
Tạng, và làm từ thiện. Mùa hè năm 1997, tôi và nhà sư Matthieu tình cờ
gặp nhau tại một hội thảo ở nước Andorra, nhỏ nhất thế giới. Trong
chuyến du hành lên núi Pyrenee ở nước đó, chúng tôi đã trở thành bạn
thân, thảo luận với nhau về những vấn đề cốt tử của khoa học và tôn
giáo. Tôi đã lớn lên hơn với triết lý cho rằng con người không hiện hữu
trong cô đơn và cô lập. Tất cả đều là một thành phần của tổng thể.
- Ông nghĩ gì về vai trò của người trí thức trong sự phát triển
của đất nước? Theo ông làm thế nào để có được những chuyên gia hàng đầu
trong các lĩnh vực khoa học, thiên văn, nhất là khoa học xã hội nhân
văn? Nỗi đau nào ám ảnh ông khi về thăm lại quê hương?
- Với riêng tôi, cách giúp đỡ tốt nhất là mang những tác phẩm của
mình đến với công chúng Việt Nam, để gầy dựng tình yêu khoa học cho
những thế hệ sinh viên trẻ, và tham gia giảng dạy cho những sinh viên ưu
tú của đại học Việt Nam. Còn chuyện khảo cứu thì quá thiếu phương tiện.
Tôi mong khi đất nước phát triển, Việt Nam sẽ thu hút được chất xám của
những chuyên gia người Việt đã được đào tạo tại Mỹ và châu Âu về giảng
dạy như Trung Quốc bây giờ. Hệ thống đại học đỉnh cao của Trung Quốc
hiện nay chất lượng đào tạo ngang hàng với Mỹ chính vì đã biết đầu tư để
thu hút chất xám về nước, nhờ vậy họ tiến rất nhanh. Muốn vậy, phải có
một chính sách đúng từ chính phủ. Chỉ lo đầu tư cho đường sá, cầu cống,
để tham nhũng hoành hành như hiện nay rất nguy hiểm. Các nhà lãnh đạo
phải hiểu đầu tư cho giáo dục, khảo cứu là đầu tư cho tương lai của đất
nước. Điều tôi mong muốn nhất của tôi là một ngày kia nước mình sẽ có
đài thiên văn, có người làm thiên văn. Khoa học phát triển mới có thể
phát triển căn cơ về kinh tế
- Cho đến bây giờ, ông đã thực sự tìm thấy sự bình yên?
- Cũng nhờ Trời Phật phù hộ mà ngay từ nhỏ tôi đã biết mình muốn gì,
đó là theo đuổi đam mê làm khoa học, chứ không bị lang bang sang các ham
muốn khác. Biết làm điều mình thích nên không bị khổ. Giây phút hạnh
phúc nhất với tôi là khi khám phá ra một điều mới lạ. Đạo Phật lúc nào
cũng ở trong tôi, giúp tôi sống thanh thản hơn.
- Phương châm sống của riêng ông?
- Làm gì cũng ráng làm
hết sức, sinh sống không làm hại người khác, giúp được ai thì giúp
hết lòng.
Kim Yến
nguồn
http://www.sgtt.com.vn/
Ý kiến về Trịnh Xuân Thuận
- Tiến sĩ
Nguyễn Xuân Xanh:
"Chúng tôi xin nhiệt liệt chúc mừng anh Thuận. Tin này làm phấn chấn
cộng đồng Việt Nam nói chung, và giới khoa học Việt Nam trong và ngoài
nước nói riêng. Khoa học tại VN chắc chắn sẽ nhận được một "cú hích" tốt
cho sự phát triển. Thanh niên và cộng đồng sẽ hướng nhiều hơn nữa về
khoa học, điều cần thiết để phát triển trí tuệ. Câu nói của Voltaire về
Galilei: “"Triết lý đích thực đã không bắt đầu khai sáng con người cho
đến khi cuối thế kỷ mười sáu. Galilei là người đầu tiên đã làm cho vật
lý học nói lên được ngôn ngữ của sự thật và lý tính", cho thấy vai trò
lớn lao của khoa học trong đóng góp phát triển trí tuệ, lý tính của con
người, đặc biệt trong một nước có những đặc thù khó khăn như VN. Cuốn
Kỷ yếu thiên văn và Darwin
năm nay ra đời đúng lúc anh đón nhận tin vui. Xin cám ơn những đóng góp
rất có ý nghĩa của anh Thuận.
- Trần
Tiễn Cao Đăng:
“Những cuốn sách của Trịnh Xuân Thuận cho thấy một bộ phận tinh hoa các
nhà khoa học trên thế giới không còn hài lòng với việc làm nhà khoa học
"thuần tuý". Họ vươn lên một thứ "bản thể luận về khoa học và tri thức",
mà trong đó mọi ngành khoa học, cả tự nhiên lẫn nhân văn, và cả nghệ
thuật, đều là những thành tố không thể tách rời của một cái toàn thể bất
phân. Đó cũng lại là hậu hiện đại: Không còn sự chia cắt đầy võ đoán
giữa một đằng là khoa học, một đằng là nghệ thuật, một đằng là tôn giáo.
Không thấy sự phân chia giữa những thứ đó, mà cảm nhận nó như một toàn
thể. Văn chương cũng có thể vậy, cần phải vậy.
- Dịch
giả, nhà vật lý Phạm Văn Thiều:
“
Ấn tượng mạnh nhất của tôi là trước khi khép lại
Nguồn gốc,
tác giả đã dụng ý đặt bức ảnh lớn về một nhà sư ngồi thiền trước một
vườn cát mênh mông Daisen-in, xây dựng đầu thế kỷ XVI, trong quần thể
các đền Daitoku-ji ở Kyoto, Nhật Bản. Khu vườn dành cho nhà sư thiền
định nhìn vào một khoảng trống ngang dọc những chuyển động sâu xa, mà
chỉ những gợn sóng trên bề mặt của cát gợi ra. Cát trắng được cào hằng
ngày và được vun thành 3 đống, trong đó một đống không bao giờ nhìn thấy
được, bất kể vị trí của người ngồi chiêm nghiệm.
Cuộc sống hiện đại với rất nhiều sức ép của nó đã khiến đa số chúng ta
mải mê theo đuổi những tham vọng trần tục, chẳng còn thì giờ đâu để suy
ngẫm về chính bản thân mình cũng như nguồn gốc của mình. Bức ảnh đó
dường như nhắc nhở chúng ta nên nhớ rằng con người là báu vật mà tự
nhiên đã biết bao khó nhọc mới tạo được ra nhưng cũng rất nhỏ nhoi trong
khoảng mênh mông vô tận của vũ trụ. Hãy dành thời gian để suy ngẫm, để
sống nhân ái và bao dung với đồng loại để xứng đáng với ân huệ to lớn mà
tự nhiên đã ban tặng chúng ta”.