|
06 tháng 9, 2009
|
LTS: Bài viết sau đây đã được đăng trên website giaodiem.com (nay bị mất) và trên tạp chí Giao Điểm số 56 (tháng 2 năm 2005). Bài được đem ra thảo luận trên web
Đàn Chim Việt năm 2006 (tiểu
mục: Re: Tản mạn chuyện Bằng cấp - Phê bình (II) 2006-04-19 12:25:25 Bùi Xuân Phú, Australia). Gần đây, ngày 5 tháng 9, năm 2009, bài này lại được phổ biến trên các diễn đàn email. Sachhiem.net xin phép tác giả để được đăng lại cho các bạn đọc khác được có cơ hội chia sẻ. (SH)
Trước đây tôi có
đọc 3 bài của giáo sư Trần Chung Ngọc viết về
hiểm họa Tin Lành, có đề cập đến ba ông Mục sư:
Lê Anh Huy, Huỳnh Thiên Hồng và Nguyễn Huệ Nhật.
Và gần đây, nhân đọc bài “Linh vật rồng trong
truyền thuyết rồng tiên........” của ông Hoàng
Vũ ở trang cập nhật của tháng 1/2005. Tôi hoàn
toàn đồng ý tất cả những luận điểm của hai ông
đưa ra. Kể cả sự từ chối tranh luận với ông Lê
Anh Huy của giáo sư Trần Chung Ngọc. Duy chỉ có
một điều duy nhất, khi hai ông gọi mấy ông Mục
Sư này là cuồng tín thì tôi không đồng ý, nên
tôi viết bài này để góp ý cùng hai ông.
Theo tôi nghĩ thì
trước khi làm Mục Sư, có lẽ Lê Anh Huy, Huỳnh
Thiên Hồng và Nguyễn Huệ Nhật cũng đã đậu tú
tài. Riêng ông Lê Anh Huy, tôi không biết ông
đậu tiến sĩ về ngành nào? Nếu ông đậu tiến sĩ về
thần học thì tôi đồng ý với nhận xét của Charlie
Nguyễn “Những mảnh bằng tiến sĩ thần học chỉ là
những chứng chỉ xác nhận sự ngu dốt của người
đựơc cấp”. Như vậy thì sau khi học thần học có
thể họ đã trở nên ngớ ngẩn, u mê thêm. Có nghĩa
là sự hiểu biết của họ đi thụt lùi. Nhưng cho dù
có đi thụt lùi, chỉ còn ngang tầm ....tiểu học,
thì mấy ông Mục Sư này cũng thừa sức để hiểu
những điều bậy bạ trong thánh kinh. Mà họ đã
đọc, đã hiểu những điều bậy bạ đó thì không thể
nào tin. Không tin nhưng họ vẫn giảng, vẫn xúi
ngừơi khác tin. Vì vậy hai ông gọi họ là những
ngừơi đó là cuồng tín thì không đúng. Họ chỉ nói
càn, nói lấy đựợc để kiếm cơm. Chứ họ có bao giờ
tin Chúa đâu mà gọi là cuồng tín.
Còn ông tân tòng
Nguyễn Huệ Nhật, do làm nghề Mục sư, phải đi
giảng đạo mỗi ngày, tôi biết chắc chắn ông đã
đọc tất cả những điều bậy bạ trong thánh kinh.
Vậy mà ông vẫn tiếp tục giảng và tiếp tục bênh
vực ông Chúa trời tưởng tượng vừa tàn ác vừa dâm
dục trong huyền thoại của Babylon. Như vậy tôi
có thể kết luận mà không sợ sai lầm rằng, trứơc
đây ông vào chùa không phải để tu mà là để kiếm
cơm. Bây giờ nhìn lại thấy nghề thầy chùa cực
khổ quá, không có gái, cứ bắt thằng nhỏ nhịn
thèm, lại phải ăn chay nên ông nhảy qua Tin Lành
để tận hưởng đủ mùi đời, lại có tiền xài rủng
rỉnh. Có phải thế không ?
Đến đây tôi biết
các ông Linh Mục, Mục Sư và đám cừu của các ông
ông sẽ hỏi: “Căn cứ vào đâu mà tôi dám quả quyết
rằng các ông không tin mà vẫn giảng?” Xin thưa!
Do đọc thánh kinh nên tôi biết.
Từ trước đến giờ,
tôi thường nghe nói Thánh Kinh Cựu Ước là những
lời của Đức Chúa Cha do ông Moise chép lại, và
Kinh Tân Ước là những lời dạy của Đức Chúa Con
Jesus , do bốn ông tông đồ chép lại, chắc là
phải hay lắm, triết lý cao siêu lắm. Nếu không
hay sao lại có hàng tỷ tín đồ trên thế giới nghe
theo.
Cho đến sau này,
đọc đựơc nhiều bài trên Giao Điểm, Tôi thấy
những lời dạy trong thánh kinh sao kỳ cục quá.
Tôi ngờ rằng họ viết bậy nên mới tìm mượn cho
được hai cuốn kinh trên để tìm hiểu. Thì ra tất
cả những gì họ viết đều đúng cả. Sau khi đọc
những phần họ trích dẫn, tôi cố ý đọc hết những
phần khác. Nhưng thú thật là không thể nào đọc
nổi. Văn chương thì luộm thuộm khó hiểu, ý tứ
thì tiền hậu bất nhất, câu sau chưởi cha câu
trước. Từ đó tôi mới hiểu tại sao những người
theo đạo Thiên Chúa ít có ai đọc Thánh Kinh. Họ
chỉ theo vì truyền thống gia đình, cha mẹ theo
thì con cái theo vậy thôi. Những người theo đạo
vì truyền thống gia đình, bị nhồi sọ từ nhỏ thì
có thể cuồng tín. Còn đám tân tòng thì chỉ theo
đóm ăn tàn. Nhưng khi gặp những người theo đạo
Phật hay đạo thờ cúng ông bà thì họ thường đem
thánh kinh ra nói, và khoe những cái hay, cái
tốt của Ki Tô Giáo. Họ muốn phân bua với mọi
người rằng: “Đạo Công Giáo (hoặc Tin Lành) nó
hay như vậy đó cho nên tôi mới bỏ đạo Phật để
theo”. Làm cho nhiều người lầm tưởng là họ cuồng
tín. Nhưng thật sự, họ biết mọi người coi thường
họ, cho nên họ cố nói để khỏa lấp cái mặc cảm
theo voi hít bã mía của họ đó mà thôi. Thành
thật mà nói, nếu có ai mướn tôi, cứ mỗi lần đọc
qua một lượt hai cuốn Thánh Kinh họ sẽ trả cho
tôi một ngàn Mỹ kim. Tôi cũng xin chịu thua, thà
đi làm mướn, hái nho, hái táo kiếm tiền chứ
không thèm đọc để lấy 1.000 đô la. Chán lắm.
Nếu các bạn không
tin lời tôi nói, xin các bạn hãy lật thánh kinh
ra xem những điều tôi trích dẫn dứơi đây thì
biết họ có thể tin đựơc hay không? (*)
MA-THI-Ơ: 10:
34-Chớ tưởng rằng ta đến để đem bình an cho thế
gian; ta đến, không phải đem sự bình an, mà là
đem gươm dáo. 35-Ta đến để phân rẽ con trai với
cha, con gái với mẹ, dâu với bà gia; 36-và người
ta sẽ có kẻ thù nghịch, là người nhà mình. 37-Ai
yêu cha mẹ hơn ta thì không đáng cho ta; ai yêu
con trai hay là con gái hơn ta thì cũng không
đáng cho ta;
Cũng những ý này,
nhưng Lucas thì chép với lối hành văn khác:
LU-CA: 12: 51: Các
ngươi tưởng ta đến đem sự bình an cho thế gian
sao? Ta nói cùng các ngươi, không, nhưng thà đem
sự phân rẽ. 52-Vì từ nay về sau, nếu năm người ở
chung một nhà, thì sẽ phân li nhau, ba người
nghịch cũng hai, hai người nghịch cùng ba; 53-
cha nghịch cùng con trai, con trai nghịch cùng
cha; mẹ nghịch cùng con gái, con gái nghịch cùng
mẹ; bà gia nghịch cùng dâu, dâu nghịch cùng bà
gia.
Vậy mà các Linh Mục
và Mục Sư giảng rằng Chúa trời thương yêu mọi
người, thương đến nỗi có đứa con trai độc nhất
Ngài cũng phái xuống trần, chịu chết trên thập
giá để chuộc tội cho nhân loại. Nó còn thậm vô
lý ở chỗ là Chúa con cũng là Chúa Cha (ba ngôi).
Như vậy thì chính Chúa Cha chịu sỉ nhục, chịu để
cho loài người đóng đinh để rửa tội cho loài
người. Mà loài người mắc tội với ai? Thưa, Với
Chúa Cha. Như vậy chính Ngài đi chịu tôi để
chuộc cái tội do Ngài buộc?
Xin quý vị đọc
tiếp:
LU-CA: 14: 26- Có
đoàn dân đông cùng đi với Đức Chúa Giê-su; ngài
xây lại cùng họ mà phán rằng: Nếu có ai đến theo
ta mà không căm ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị
em mình, và chính sự sống mình nữa, thì không
được làm môn đồ ta.
Nói rõ ra, muốn
theo Chúa thì điều kiện đầu tiên và bắt buộc là
phải căm ghét cha mẹ, vợ con, anh em và ngay cả
đời sống của mình nữa, thì Chúa mới chấp nhận
cho theo Chúa.
LU-CA: 19: 26- Hãy
đem kẻ thù của ta ra đây. Những kẻ không chịu
thờ kính ta trên họ, và chém đi trước mặt ta.
(Ai không theo
Chúa, thờ Chúa thì phải giết hết. Chính vì vậy
Vatican đã tổ chức 7 cuộc thập tự chinh trong
thời trung cổ để tiêu diệt tất cả những ai không
thờ Chúa. Làm cho khoảng 3 triệu người bị chết
oan-BTĐ)
Những đoạn trên
đây, tôi chép từ Thánh Kinh ra. Xin các Linh Mục
và Mục Sư giảng dùm Chúa thương yêu mọi người ở
chỗ nào?
Xin quý vị cứ bình
tĩnh đọc tiếp về đức độ của Chúa trời mới kinh
khiếp hơn nữa.
XUẤT Ê-DÍP-TÔ KÝ:
22: 20- Kẻ nào tế các thần khác hơn một mình Đức
Giê-Hô-Va sẽ bị diệt
DÂN SỐ KÝ:
Chương 31: 1-Đức
Giê-Hô-Va lại phán cùng Môi-Se rằng: 2-Hãy báo
thù dân Ma-đi-an cho dân Y-sơ-ra-ên; rồi ngươi
sẽ được về cùng tổ phụ. 3-Vậy, Môi-se truyền cho
dân sự rằng: Trong các ngươi hãy sắm sửa binh
khí mà ra trận hãm đánh dân Ma-đi-an đặng báo
thù dân đó cho đức Giê-hô-va. 4-về mỗi chi phái
Y-sơ-ra-ên, các ngươi phải sai một ngàn lính ra
trận.
5-Vậy, trong dân
Y-sơ-ra-ên người ta cứ mỗi chi phái chọn một
ngàn lính, là mười hai ngàn người sắm sửa binh
khí đặng ra trận. 6-Môi se sai mười hai ngàn
người đó ra trận, tức là sai một ngàn người về
mỗi chi phái, với Phi-nê-a, con trai của
Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, đem đi theo mình những
khí giới thánh cùng kèn có tiếng vang. 7-Vậy,
chúng giao chiến cùng dân Ma-đi-an, y như Đức
Giê-Hô-Va đã phán dặn Môi-se, và giết hết thảy
nam đinh. 8-Trong các người bị giết chúng cũng
giết năm vua Ma-đi-an, là: Ê-vi, Rê-kem, Xu-rơ,
Hu-rơ, và Rê-ba; cũng lấy gươm giết Ba-la-am,
con trai của Bê-ô. 9-Dân Y-sơ-ra-ên bắt đờn bà
và con nít Ma-đi-an dẫn theo, cướp hết thảy súc
vật, bầy chiên và của cải họ. 10-đốt hết những
thành, nhà ở, và hương thôn chúng nó, 11-cũng
lấy đem theo hết thảy của đoạt được, bất kỳ
người hay vật. 12-chúng dẫn những kẻ bị bắt và
những của đoạt được đến cho Moi-se, cho
Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, và cho hội dân Y-sơ-ra-ên
đương đóng trại tại đồng bằng Mô-áp, gần sông
Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô.
13-Bãy giờ, Môi-se,
Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, và hết thảy hội trưởng đi
ra đón rước chúng binh ngoài trại quân.
14-Môi-se nổi giận cùng các quân trưởng, tức là
quan tướng một ngàn quân và quan tướng một trăm
quân đi đánh giặc này trở về. 15-Môi-se nói cùng
họ rằng; các ngươi để hết thảy người nữ còn sống
sao? 16-Kìa, ấy là chúng nó theo mưu kế của
Ba-la-am mà dụ dỗ dân Y-sơ-ra-ên cúng thờ
Phê-rô, và phạm một tội trọng cùng Đức
Giê-hô-va; và tội đó xui cho hội chúng của Đức
Giê-hô-va bị tai vạ. 17-Vậy bây giờ, hãy giết
hết thảy nam đinh trong bọn con trẻ, và giết
người nữ nào đã kết bạn cùng một người nam;
18-nhưng hãy để sống cho các ngươi hết thảy con
gái chưa hề kết bạn cùng người nam. 19-Còn về
phần các ngươi, hãy đóng trại ngoài trại quân
trong bảy ngày. Ai có giết một người và có đụng
đến một xác chết, thì ai đó cùng kẻ bị bắt, phải
dọn cho mình được sạch ngày thứ ba và ngày thứ
bảy. 20-Cũng phải làm cho sạch hết thảy áo xống,
mọi vật bằng da, mọi vật bằng lông dê, và mọi đồ
vật bằng cây.
21-Ê-lê-sa, thầy tế
lễ, nói cùng những lính đi trận về, mà rằng: Nầy
là đều luật pháp dạy mà Đức Giê-hô-va đã truyền
cho Môi-se: 22-vàng, bạc, đồng, sắt, thiếc, chì,
23-tức là mọi vật đưa vào lửa được, thì các
ngươi phải đưa ngang qua lửa đặng luyện nó;
nhưng người ta cũng phải dùng nước tẩy uế mà làm
cho nó được sạch nữa. Còn mọi vật chi không đưa
qua lửa được, thì phải ngâm nó trong nước.
24-Ngày thứ bảy các ngươi phải giặt áo xống
mình, thì sẽ được sạch; đoạn mới được vào trại
quân.
25-Đức Giê-hô-va
lại phán cùng Môi-se rằng: 26-Ngươi, Ê-lê-a-sa,
thầy tế lễ, và các quan trưởng của những tông
tộc, hãy dựng sổ về của giặc mà người ta đã đoạt
được, nào người, nào vật, 27-rồi chia của đó cho
các người đã ra trận và cho cả hội chúng.
28-Trong phần thuộc về quân binh đã ra trận,
hoặc người, hoặc bò, hoặc lừa hay chiên, ngươi
phải cứ thâu một phần trong năm trăm mà đóng
thuế cho Đức Giê-hô-va, 29-tức phải thâu thuế đó
trong phân nửa thuộc về quân binh và giao cho
Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, làm lễ vật dâng cho Đức
Giê-hô-va. 30-Còn trong phân nửa kia thuộc về
dân Y-sơ-ra-ên, hoặc người, hoặc bò, hay lừa hay
chiên, tức các súc vật, ngươi phải cứ mỗi năm
chục mà để riêng ra một, và giao cho người Lê-vi
có chức phận coi sóc đền tạm của Đức Giê-hô-va.
31-Môi-se và
Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, làm y như Đức Giê-hô-va
đã phán dặn Môi-se. 32-Vả, của giặc còn lại mà
quân binh cướp lấy được, là sáu trăm bảy mươi
lăm ngàn con chiên cái; 33-bảy mươi hai ngàn con
bò, 34-sáu mươi mốt ngàn con lừa đực. 35-Người
nữ chưa kết bạn cùng người nam nào, hết thảy
được ba mươi hai ngàn người. 36-Phân nửa thuộc
về kẻ đã đi trận, là ba trăm ba mươi bảy ngàn
năm trăm con chiên cái, 37-đóng thuế cho Đức
Giê-hô-va là sáu trăm bảy mươi lăm con; 38-ba
mươi sáu ngàn con bò, đóng thuế cho Đức
Giê-hô-va là bảy mươi hai con; 39-ba mươi ngàn
năm trăm con lừa đực, và đóng thuế cho Đức
Giê-hô-va sáu mươi mốt con; 40-mười sáu ngàn
người, và đóng thuế cho Đức Giê-hô-va là ba mươi
hai người. 41-Môi se giao cho Ê-lê-a-sa, thầy tế
lễ, của thuế làm lễ vật dâng cho Đức Giê-hô-va,
y như Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se.
42-Phân nửa kia
thuộc về dân Y-sơ-ra-ên, tức là phân nửa mà
Môi-se chia ra với phân nửa của quân binh đã đi
trận, 43-phân nửa nầy thuộc về hội chúng, số là
ba trăm ba mươi bảy ngàn năm trăm con chiên cái,
44-ba mươi sáu ngàn con bò, 45-ba mươi ngàn năm
trăm con lừa, 46-Và mười sáu ngàn người.
47-Trong phân nửa nầy thuộc về dân Y-sơ-ra-ên,
Môi-se cứ mỗi năm chục thì để riêng ra một. Bất
luận người hay vật, và giao cho người Lê-vi có
chức phận coi sóc đền tạm của Đức Giê-hô-va, y
như Đức Giê-hô-va đã phán dặn mình.
48-Những quân
trưởng, tức là quan tướng một ngàn quân và quan
tướng một trăm quân, đến gần Môi-se 49-mà rằng:
Những kẻ tôi tớ ông đã dựng sổ chiến sĩ, là
người ở dưới quyền chúng tôi, và không thiếu một
tên. 50-Mỗi người trong chúng tôi có đem đến đồ
bằng vàng mình đã được, hoặc dây chuyền, hoặc
vòng, hoặc cà rá, hoặc hoa tai, hoặc kiềng, làm
lễ vật dâng cho Đức Giê-hô-va đặng chuộc tội cho
mình trước mặt ngài. 51-Môi-se và Ê-lê-a-sa,
thầy tế lễ, bèn nhận vàng, và hết thảy đồ trang
sức làm công kỹ. 52-Hết thảy vàng và lễ vật mà
những quan tướng một ngàn quân và quan tướng một
trăm quân dâng cho Đức Giê-hô-va, cọng là mười
sáu ngàn bảy trăm năm mươi siếc-lơ. 53-Vả, mỗi
người trong quân binh đều có cướp lấy vật cho
mình. 54-Vậy, Môi-se và Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ,,
nhận lãnh vàng của quan tướng ngàn quân và quan
tướng trăm quân, rồi đem vào hội mạc làm kỷ niệm
về dân Y-sơ-ra-ên trước mặt Đức Giê-hô-va”.
Họ tôn thờ một ông
thần dâm dục và ham chuộng vật chất như vậy, thì
trách gì mấy ông Linh Mục hiếp dâm con nít!
Từ khi chưa đọc
Thánh Kinh, tôi đã không có mấy thiện cảm với
người Công Giáo và Tin Lành. Lý do đơn giản là
trong đời sống họ thường tỏ ra trịch thượng,
ngạo mạn. Họ thường gọi những người tân tòng là
những người “trở lại đạo”. Nếu có ai hỏi: “Họ đã
theo bao giờ đâu mà gọi là trở lại?” thì họ sẽ
trả lời “Tất cả mọi người đều là con của Chúa,
nhưng lâu nay nghe lời quỷ satan bỏ Chúa, bây
giờ biết ăn năn hối cải, trở về với Chúa nên gọi
là trở lại”. Như vậy họ ám chỉ rằng những người
không theo đạo như họ là những đứa con hư, theo
quỷ Satan. Nhưng thử hỏi những kẻ tôn thờ một
ông thần dâm dục và ác ôn như vậy thì họ là thứ
gì? Ai là quỷ Satan?Họ thường coi những người
không cùng đạo với họ là những người thiếu đạo
đức. Nhưng nhìn chung, đa số họ là những người
không hiền lành gì. Tôi thấy phần đông họ tranh
giành những của cải thế gian nhiều hơn là lo về
đời sống tâm linh. Cứ nhìn vào cách xử thế của
họ đối với mọi người trong những xóm đạo thì rõ.
Đồng ý rằng, trong
niềm tin tôn giáo có những điều khó giải thích.
Chẳng hạn đạo Phật tin có luật nhân quả, luân
hồi. Anh có quyền tin hay không tin, tùy anh. Ki
Tô Giáo cho rằng tất cả mọi thứ trên thế gian
này đều do một tay Chúa tạo dựng. Tin hay không
tin, là quyền của anh! Tuy nhiên, tôn giáo phải
phù hợp, không phản lại những điều mà khoa học
đã chứng minh. Về đạo đức phải có tính hướng
thiện để dạy con người ăn hiền, ở lành và cái vị
thần mà mỗi tôn giáo thờ phụng, phải là một tấm
gương hiền đức, tốt lành để mọi tín đồ noi theo.
Thử hỏi một ông thần dâm dục, lại tàn ác như
Chúa trời có đáng cho chúng ta tôn thờ hay
không? Xin nhắc lại cho các bạn đừng quên là,
những điều này hiện đang nằm chình ình trong
thánh kinh. Chứ không phải cái thằng tôi ngoại
đạo, chống báng rồi xuyên tạc bậy bạ đâu nhé!
Trong thánh kinh
Chúa có nói: “Ta nói cho các ngươi biết, mọi sự
tốt lành hay tai họa trên đời này, đều do một
tay ta làm ra chứ không có Chúa nào khác” Và các
ông Linh Mục và Mục Sư cũng thường lấy lời Chúa
trong thánh kinh mà hăm he con chiên rằng: “Một
sợi tóc trên đầu của chúng ta rụng xuống cũng là
do ý của Chúa”. Như vậy thì trận động đất vừa
rồi ở Nam Á, nếu hiểu theo thánh kinh và những
lời giảng của các ông thì chắc chắn phải là do
Chúa làm chứ còn ai vô đây nữa, phải không các
cha? Hay vì lần này Thiên Chúa giết gần ba trăm
ngàn sinh mạng, khiếp quá nên các cha đổ vấy cho
Satan.
Còn ông Lê Anh Huy,
thuyết tiến hóa chỉ là một phần nhỏ trong những
bài viết của giáo sư Trần Chung Ngọc. Trong phần
lớn những bài của GS Ngọc, ông công kích những
điều mê tín, phản khoa học và những sự xấu ác
của Chúa Trời trong thánh kinh (như cuốn Công
Giáo Chính Sử chẳng hạn) hoàn toàn ngược lại
những gì các ông giảng trong nhà thờ. Như vậy
nếu muốn tranh luận, thì ông phải chọn những đề
tài mà GS Ngọc thường đả phá và ông thường giảng
cho con chiên như những câu thánh kinh tôi đã
trích dẫn trên kia thì mới đúng chớ. Tại sao ông
lại đòi tranh luận với GS Trần Chung Ngọc về
thuyết tiến hóa? Có phải những điều trong thánh
kinh mà GS Trần Chung Ngọc thường đề cập đến, đã
làm cho ông nghẹn họng, tịt ngòi? Hơn nữa thuyết
tiến hóa đã được mọi người công nhận, kể cả Giáo
Hoàng và hàng giáo phẩm cao cấp của các ông
(ngoại trừ những kẻ có đầu mà không có óc). Ai
dại gì đi làm cái chuyện tầm phào, vô ích như
vậy? Giáo Sư Ngọc không chấp nhận tranh luận là
hoàn toàn đúng.
Sau khi đọc những
“lời Chúa” trên đây. Tôi thấy câu nói của Đại
Văn Hào Émile Zola thật là chí lý: “Nền văn minh
của nhân loại sẽ không đi đến tột đỉnh. Cho
đến khi nào cái phiến đá cuối cùng từ cái nhà
thờ cuối cùng rơi trúng đầu ông Linh Mục cuối
cùng”. Đốt nhà thờ thì tôi không dám đốt,
đốt sẽ bị tù, ngu sao đốt! Nhưng nếu tôi có dịp
đi ngang qua một cái nhà thờ, gặp lúc nó đang
phát hỏa thì tôi sẽ lẳng lặng đi luôn, không gọi
cho Cảnh Sát, cũng không gọi xe chữa lửa. Và nếu
lúc đó tôi có mắc đái, tôi cũng sẽ đái ra ngoài
chứ không đái vào ngọn lửa.
Tuy nhiên, đối với
những con chiên thường, chúng ta nên thông cảm
và tội nghiệp cho họ, hãy giúp họ thoát khỏi cái
vòng kim cô La Mã chứ không nên ghét họ, họ chỉ
là nạn nhân bị lừa bịp, vì họ không bao giờ đọc
Thánh Kinh nên không biết. Chỉ đáng trách là
những ông tu sĩ, vì nhu cầu giảng đạo hàng ngày
nên các ông Linh Mục và Mục Sư đọc Thánh Kinh
rất kỹ. Vì đọc kỹ nên họ biết tất cả những điều
bậy bạ trong Thánh Kinh. Đã đọc, đã biết, và với
trình độ biết đọc, biết viết như họ, chắc chắn
họ không tin, nhưng vì miếng cơm, manh áo họ vẫn
giảng. Tôi nhớ câu nói của Thomas Paine “Bất
lương không phải là tin hay không tin. Mà bất
lương là xác nhận rằng mình tin vào một điều, mà
thực sự mình không tin”. Họ là những người
trọn đời sống bằng nghề bịp. Vì vậy, trong tất
cả các nghề trên thế gian gian này, hai cái nghề
mà tôi khinh bỉ nhất là nghề Linh Mục và nghề
Mục Sư. Những người bình thường, nếu có bịp cũng
chỉ bịp vài lần trong cuộc đời. Còn giới Linh
Mục và Mục Sư, họ bịp từng ngày, từng giờ trong
suốt cả cuộc đời của họ.
Hỡi các ông Linh
Mục và Mục Sư! Xin các ông giảng giùm những câu
Thánh Kinh trên đây. Qua mấy câu kinh này, nếu
các ông chứng minh được Chúa nhân lành, muôn
ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương, thì các ông
hãy tiếp tục làm Linh Mục và Mục Sư. Còn nếu
không bào chữa cho Chúa được và nếu các ông còn
chút liêm sỉ thì nên cởi áo dòng trả lại cho nhà
thờ. Đừng bịp thiên hạ nữa. Nên tìm một nghề
khác mà sống. Đời một con người ngắn ngủi, phù
du lắm. Hãy sống làm sao trước khi nhắm mắt,
nhìn lại cuộc đời đã qua, không thấy hổ thẹn với
chính lương tâm mình.
Bùi Thúc Định
(*) Trích:
Kinh Thánh cựu ước và Tân ước do Hồng Kông Bible
Society ấn hành.